Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Xây dựng quy chuẩn kỹ thuật về hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt may

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 167 trang )


BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN DỆT MAY







BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI CẤP BỘ

XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN KỸ THUẬT
VỀ HÀM LƯỢNG FORMALDEHYT
TRÊN SẢN PHẨM DỆT MAY

Chủ nhiệm đề tài : ThS. HOÀNG THU HÀ
Cơ quan chủ trì đề tài : VIỆN DỆT MAY









7673
05/02/2010



HÀ NỘI, THÁNG 12 – 2009



1
MỤC LỤC

Nội dung Trang
Lời nói đầu ………………………………………………………………… 2
I. Tóm tắt tài liệu về phơi nhiễm với formaldehyt từ sản phẩm dệt may ……. 3
II. Sự cần thiết xây dựng “Quy chuẩn kỹ thuật về hàm lượng formaldehyt
trên sản phẩm dệt may” ……………………………………………………
5
II.1 Sự cần thiết ……………………………………………………………… 5
II.2 Tổng hợp, đánh giá hiện trạng của các văn bản luật có liên quan …… 6
III. Xây dựng quy chuẩn kỹ thuật …………………………………………… 6
III.1 Tóm tắt các yêu cầu của luậ
t và một số tiêu chuẩn tự nguyện khác trên
thế giới về hàm lượng formadehyt trên vật liệu dệt ………………………….
6
III.2 Đề xuất các giá trị giới hạn tối đa của hàm lượng formaldehyt trên sản
phẩm dệt may ………………………………………………………………
9
III.3 Tiếp thu góp ý cho dự thảo “Quy chuẩn kỹ thuật đối với hàm lượng
formaldehyt trên sản phẩm dệt may” ……………………………………….
11
III.4 Bố cục của Quy chuẩn kỹ thuật ……………………………………… 15
Phụ lục ……………………………………………………………………… 16
Tài liệu tham khảo 27

















2
LỜI NÓI ĐẦU

Formaldehyt là một trong mười hóa chất dùng trong xử lý dệt gây dị ứng cho da.
Tỷ lệ người mắc bệnh viêm da tiếp xúc dị ứng do nhựa xử lý hoàn tất dệt có
formaldehyt được báo cáo là từ 0,2% đến 4,2% sau năm 1990[1]. Formaldehyt có mặt
trong các sản phẩm hóa chất xử lý hoàn tất nhựa cho vật liệu dệt từ xenlulo và các hỗn
hợp của xenlulo với xơ tổng hợp, trong các chất tạo màng cho quá trình in hoa bằng
pigment, trong các chấ
t xử lý hoàn tất chống cháy cho vật liệu dệt và dung dịch
formaldehyt còn được sử dụng trọng quá trình nhuộm len để bảo vệ len dưới tác dụng
của nhiệt độ cao. Có thể nói formaldehyt có mặt trong hầu hết các loại vật liệu dệt
được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của người tiêu dùng. Nhưng formaldehyt
trong vật liệu dệt lại gây dị ứng cho những cá nhân bị mẫn cảm, tức là formaldehyt ảnh
h

ướng trực tiếp đến an toàn và sức khỏe của người tiêu dùng.
Dự thảo “Quy chuẩn kỹ thuật về hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt
may” nhằm đưa ra các giá trị giới hạn về hàm lượng formaldehyt trên vật liệu dệt để
bảo vệ an toàn cho người tiêu dùng. Quy chuẩn được xây dựng hài hòa với các quy
chuẩn/tiêu chuẩn về hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt may hiện đang được
thực thi trên thế gi
ới để tránh tạo thành rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với mậu
dịch dệt may. Ngoài ra, quy chuẩn kỹ thuật này còn là một rào cản kỹ thuật hợp pháp
theo “Hiệp định về rào cản Kỹ thuật đối với thương mại” của Tổ chức Thương mại Thế
giới, nhằm bảo vệ thị trường và ngành dệt nội địa trước các làn sóng nhập khẩu hàng
dệt may tiềm ẩn các hóa chất nguy hại, tức là gây ảnh hướng xấu đến sản xuất, thị phần
và an toàn của người tiêu dùng Việt Nam.













3
I. Tóm tắt tài liệu về phơi nhiễm với formaldehyt từ sản phẩm dệt may
Bệnh viêm da tiếp xúc dị ứng liên quan đến formaldehyt trong sản phẩm dệt
may lần đầu tiên được chuẩn đoán ở các nước thuộc bán đảo Scandinavi và Mỹ vào
những năm 1930[2]. Vào năm 1959 nhà nghiên cứu Marcusen (Đan Mạch) đã báo cáo

rằng trong giai đoạn 1934-1958 có 26 trường hợp (11% số ca được nghiên cứu) mắc
bệnh viêm da do formaldehyt trong quần áo. Ông cũ
ng báo cáo kết quả nghiên cứu tiến
hành từ 1938-1955 cho thấy 1-3% trong 36.000 bệnh nhân mắc bệnh eczema là mẫn
cảm với formaldehyt[3]. Một tài liệu đã tổng kết lại tỷ lệ người mắc bệnh viêm da do
formaldehyt trên sản phẩm dệt may là từ 8,6% tới 65% các bệnh nhân mẫn cảm với
formaldehyt (dữ liệu từ năm 1959 tới 1982)

[4].
Sự mẫn cảm với formaldehyt xảy ra ở tất cả các lứa tuổi. Phần lớn các trường
hợp mẫn cảm với formaldehyt ở trong lứa tuổi 30-60. Phụ nữ có xu hướng dễ mắc bệnh
viêm da do formaldehyt trong quần áo gây ra hơn là nam giới, có lẽ là do phụ nữ
thường mặc quần áo sát người hơn nam. Tỷ lệ mắc bệnh theo giới tính (nữ/nam) được
ước tính từ 5: 1 tới 3: 14.
Bệ
nh thường gặp ở những vị trí quần áo tiếp xúc với da, nhất là vùng da ẩm.
Vùng nách, hai bên cổ và gáy, cánh tay trên là những vị trí phổ biến. Ngực, lưng và các
bề mặt cơ gấp của khủyu tay là những vị trí thường xuyên bị bệnh. Trong một số
trường hợp thấy phát ban trên mặt, tay và bộ phận sinh dục. Khi quần được may từ vải
có chứa formaldehyt thì bệnh thường phát ở mặt trong của đùi, n
ếp gấp ở mông, và
vùng khoeo chân bị ảnh hưởng nặng nề[4].
Người ta thấy việc chuyển formaldehyt từ vải vào da mạnh hơn nhiều trong tiếp
xúc trực tiếp của da với dung dịch (ví dụ thông qua mồ hôi) hơn là tiếp xúc gián tiếp
thông qua lớp không khí[5]. Trong một nghiên cứu con tem (patch test) về việc chuyển
formaldehyt từ vải bông và vải bông/polyeste được xử lý bằng DMDHEU có chứa
formaldehyt được đánh dấu bằng cacbon phóng xạ C14 vào da thỏ đ
ã được cạo lông
trong ba điều kiện thử nghiệm khác nhau mô phỏng các điều kiện mặc quần áo thông
thường và ngặt nghèo hơn, người ta thấy tổng lượng cacbon phóng xạ được chuyển từ

vải vào da thỏ là chưa đến 3% của lượng formaldehyt có trong miếng dán. Hầu hết thấy
cacbon phóng xạ được chuyển vào da là trực tiếp ở dưới ngay miếng dán. Và cũng thấy
thêm rằng từ 0,1 % đến 10% formaldehyt đượ
c đánh dấu bằng cacbon phóng xạ C14
được da hấp thụ[4].
Cho đến nay, vẫn chưa biết được mức ngưỡng formaldehyt trên quần áo sẽ gây
ra bệnh viêm da mãn tính sau khi phơi nhiễm với formaldehyt[2,6], hoặc mức gây ra
phản ứng trên những người mẫn cảm với formaldehyt[2]. Hàm lượng hiện nay của

4
formaldehyt trên quần áo không đủ để gây ra kích thích sơ cấp hoặc bệnh viêm da kích
thích tích lũy, nhưng có thể đủ để gây ra bệnh viêm da tiếp xúc dị ứng cho những cá
nhân mẫn cảm với formaldehyt. Fisher đã ước tính rằng hàm lượng formaldehyt trên
quần áo là 750 ppm (µg/g) đã gây ra bệnh viêm da tiếp xúc dị ứng trên những bệnh
nhân mẫn cảm với formaldehyt. Berrens thấy rằng các bệnh nhân quá mẫn cảm sẽ phản
ứng với hàm lượng thấp xuống tới 300 ppm (µg/g). Nh
ưng các tài liệu trên không nói
rõ phương pháp xác định hàm lượng formađêhyt trên quần áo[2]. Hiện nay vẫn chưa
nhất trí về các thử nghiệm thích hợp nhất để xác định ngưỡng này[6].
Công nhân làm việc trong nhà máy xử lý hoàn tất vải bằng nhựa dựa trên
formaldehyt và trong các nhà máy gia công hàng may mặc từ các vật liệu như vậy đều
phơi nhiễm nghề nghiệp với formaldehyt giải phóng ra từ vải.
Các khảo sát tại Mỹ cho thấy rằng: công nhân làm việc trong các công ty sả
n
xuất quần áo từ vải được xử lý bằng nhựa formaldehyt với mức phơi nhiễm với
formaldehyt từ 1 tới 11 ppm bị kích thích đường hô hấp. Khảo sát tám nhà máy sử
dụng nhựa formaldehyt để xử lý chống nhàu với mức phơi nhiễm trung bình với
formaldheyt là 0,8 ppm, các ảnh hưởng tới sức khỏe là kích thích đường hô hấp, khát
nước nhiều và rối loạn giấc ngủ. Khảo sát các công nhân gia công vật liệu dệt đượ
c xử

lý bằng nhựa ure formaldehyt và melamin formaldehyt với mức phơi nhiễm tới 5
mg/m
3
, 72% số công nhân bị kích thích màng kết, 28% số công nhân bị viêm mũi, da
đỏ và khô ở 11% số công nhân và 22% bị viêm phế quản mãn tính. Thanh tra một nhà
máy may quần áo từ vải được xử lý chống nhàu ở Caliphoocnia (Mỹ) đã thấy mức phơi
nhiễm với formaldehyt từ 0,9 tới 2,7 ppm, và công nhân bị chảy nước mắt, kích thích
họng và đường thở qua mũi[7].
Năm 2004, dựa trên các dữ liệu thu thập được về phơi nhiễm của 11.030 công
nhân ba nhà máy may vớ
i formaldehyt từ vải xử lý chống nhàu, Viện Quốc gia Mỹ về
An toàn và Sức khỏe nghề nghiệp (NIOSH) tiến hành nghiên cứu đã đưa ra kết luận
nguyên nhân gây tử vong của các công nhân may phơi nhiễm với formaldehyt: rủi ro
mắc bệnh ung thư bạch cầu dạng tủy tăng gấp 1,5 lần so với ước tính, còn các công
nhân đã làm việc ở các nhà máy trên 10 năm hoặc phơi nhiễm với formaldehyt từ 20
năm trước, rủ
i ro mắc bệnh ung thư bạch cầu dạng tủy tăng gấp 2 lần[3].
Dữ liệu nghiên cứu tại Đan Mạch cho thấy rằng hàm lượng formaldehyt trên vải
trong khoảng 435-855 µg/g có thể dẫn tới mức formaldehyt trong không khí từ 0,5-0,9
mg/m
3
trong phân xưởng là hơi – là mức gây kích thích nhẹ đường hô hấp trên. Một
nghiên cứu trước đó của Đan Mạch cũng nói rằng hàm lượng formaldehyt trên vật liệu
dệt không được vượt quá 200 µg/g (theo phương pháp thử theo Law 112 của Nhật Bản)

5
để giữ mức formaldehyt trong phòng dưới mức phơi nhiễm nghề nghiệp là 1,2 mg/m
3

(1 ppm) khi các điều kiện không thuận lợi (thông gió kém, độ ẩm tương đối cao, diện

tích vải được xử lý lớn)[2].
Một đường phơi nhiễm nữa là phơi nhiễm với hơi formaldehyt từ vật liệu
dệt/quần áo được xử lý bằng nhựa dựa trên formaldehyt bốc ra trong quá trình bảo
quản trong kho hoặc cửa hàng.
Vào năm 1959, khi mà nhựa formaldehyt ure và melamin formaldehyt đang
được sử dụng rộng rãi với lượng formaldehyt t
ự do trên vải là 1000-1500 ppm, nhân
viên cửa hàng bán quần áo phụ nữ được may từ vải xử lý hoàn tất chống nhàu và khách
hàng đã phàn nàn bị bỏng mắt, đau đầu, mũi và họng bị kích thích. Lượng formadehyt
tự do trên vải đo được là 5-8 mg cho mẫu vật liệu dệt nặng 10 g từ rayon và 3,4 mg/10
g vật liệu dệt từ xơ bông, trong khi các mẫu không khí trong cửa hàng được thử nghiệm
có chứa 0,13-0,45 ppm formaldehyt[2].
II. Sự cần thiết xây dựng “Quy chuẩ
n kỹ thuật về hàm lượng formmaldehyt trên
sản phẩm dệt may”
II.1 Sự cần thiết
Việc sử dụng một số chế phẩm hóa chất có chứa formaldehyt để hoàn tất sản
phẩm dệt may đem lại tính thẩm mỹ và nâng cao công năng của sản phẩm dệt, nhưng
đồng thời việc giải phóng ra formaldehyt từ những sản phẩm dệt may ấy lại chứa rủi ro
ti
ềm ẩn gây dị ứng cho người tiêu dùng và những người tham gia vào quá trình sản
xuất và phân phối sản phẩm (đề nghị xem thêm phần phụ lục để có thêm thông tin về
đánh giá ảnh hưởng sức khỏe do formaldehyt gây ra), nhất là formaldehyt lại được
phân loại là chất gây dị ứng mạnh. Vì những lý do này mà một số nước phát triển trên
thế giới – đều là các thị trường xuất khẩu chính cho hàng dệt may Việt Nam như EU,
Nhật Bả
n - đã ban hành luật quy định hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt may.
Vào năm 2010, theo đạo luật cải thiện tính an toàn của sản phẩm tiêu dùng (CPSIA),
Ủy ban an toàn hàng tiêu dùng Mỹ (CPSC) sẽ có cuộc khảo sát về formaldehyt trên sản
phẩm dệt may và sẽ đưa ra quyết định dựa trên kết quả của khảo sát đó. Một số nhà

phân phối lớn hàng đầu thế giới về hàng dệt may như Mark&Spencer, Gap, H&M,
Oliver v.v đều hạn chế hàm lượng formaldehyt trên các nhãn hàng d
ệt may của họ.
Trong xu thế hội nhập với mậu dịch dệt may thế giới, chúng ta không thể đứng ngoài
dòng chảy nói trên, khi Việt Nam là một trong những nước trong 10 nước xuất khẩu
hàng đầu về dệt may, đồng thời là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn. Việc xây dựng
“Quy chuẩn kỹ thuật về hàm lượng formmaldehyt trên sản phẩm dệt may” tuân theo

6
Hiệp định rào cản kỹ thuật với thương mại của Tổ chức Thương mại Thế giới là cần
thiết nhằm:
+ Đảm bảo sức khỏe và an toàn cho người tiêu dùng, ngăn ngừa người tiêu dùng
phơi nhiễm với các hàm lượng formaldehyt gây dị ứng da;
+ Gián tiếp phòng ngừa cho công nhân trong ngành tránh phải phơi nhiễm với
hàm lượng formaldehyt cao có thể gây mắc một số bệnh nghề nghiệp;
+ Đi tiên phong trong vi
ệc tuân thủ với quy định về hàm lượng formaldehyt trên
sản phẩm dệt may tại các thị trường xuất khẩu là một trong các điều kiện để xây dựng
được chuỗi cung cấp dệt bền vững, theo đúng chiến lược phát triển ngành dệt may là
tăng hàm lượng nội địa trong sản phẩm dệt may xuất khẩu;
+ Bảo vệ thị trường và ngành dệt may nội địa trước sự xâm l
ấn của hàng dệt
may nhập khẩu có chứa các hóa chất độc hại với dư lượng cao.
II.2 Tổng hợp, đánh giá hiện trạng của các văn bản luật có liên quan
Trước yêu cầu của tình hình thực tế là cần có một quy định mang tính pháp lý
để để phục vụ việc quản lý nhà nước về tính an toàn của sản phẩm dệt may, vào tháng
6/2009, Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Công Thương) đã soạn thả
o thông tư “Quy
định tạm thời về giới hạn cho phép đối với hàm lượng formaldehyt, các amin thơm có
thể giải phóng ra từ thuốc nhuộm azo trong các điều kiện khử trên sản phẩm dệt may”.

Thông tư này đã qua nhiều lần góp ý của các cơ quan chức năng và các cơ quan quản
lý nhà nước về chất lượng hàng hóa; và được ký để ban hành vào ngày 5 tháng 11 năm
2009.
III. Xây dựng quy chuẩn kỹ thuật
III.1 Tóm tắt các yêu cầu của lu
ật và một số tiêu chuẩn tự nguyện khác trên thế giới
về hàm lượng formadehyt trên vật liệu dệt
Với mục đích bảo vệ an toàn cho người tiêu dùng, một số quốc gia trên thế giới
đã thiết lập quy chuẩn kỹ thuật về hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt may, được
tóm tắt trong bảng 1.
Bảng 1 – Tóm tắt hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt may trong các quy
chuẩn kỹ thuật trên thế gi
ới[8]

TT Nước Quy chuẩn kỹ thuật Giá trị giới hạn
1 Đức Gefahrstoffveronung
(Sắc lệnh về các chất
nguy hại) Phụ lục III, Số
9, 26/10/1993
Vật liệu dệt thông thường tiếp xúc
với da và giải phóng trên 1500
mg/kg formaldehyt phải có nhãn ghi
“có chứa formaldehyt. Khuyến nghị

7
giặt quần áo này trước khi sử dụng
lần đầu để tránh kích thích da”
2 Pháp Official Gazette of the
French Republic
Notification 97/0141/F

Quy chuẩn kỹ thuật áp dụng cho các
sản phẩm có ý định tiếp xúc trực tiếp
với da người, gồm vật liệu dệt, da và
giày v.v
Vật liệu dệt cho trẻ em bé: 20 mg/kg
Vật liệu dệt tiếp xúc trực tiếp với da:
100 mg/kg
Vật liệu dệt không tiếp xúc trực tiếp
với da: 400 mg/kg.
3 Hà Lan Quy chuẩn kỹ thuật (Đạo
luật về hàng hóa ) của Hà
Lan về formaldehyt trên
vật liệu dệt (tháng 7 năm
2000)
Vật liệu dệt tiếp xúc trực tiếp với da
phải mang nhãn “Giặt trước khi sử
dụng lần đầu” nếu có chứa trên 120
mg/kg formaldehyt và sản phẩm
phải không chứa quá 120 mg/kg
formaldehyt sau khi giặt.
4 Áo Formaldehydeverodnung,
BGBL số. 194/1990
Vật liệu dệt có chứa 1500 mg/kg
hoặc hơn phải mang nhãn.
5 Phần Lan Nghị định về lượng
formaldehyt tối đa trong
các sản phẩm dệt nào đó
(nghị định 210/1988)
Vật liệu dệt cho trẻ em dưới 2 tuổi:
30 mg/kg

Vật liệu dệt tiếp xúc trực tiếp với da:
100 mg/kg
Vật liệu dệt không tiếp xúc trực tiếp
với da: 300 mg/kg.
6 Na Uy Quy chuẩn khống chế sử
dụng các hóa chất trên
vật liệu dệt (tháng 4 năm
1999)
Vật liệu dệt cho trẻ em dưới 2 tuổi:
30 mg/kg
Vật liệu dệt tiếp xúc trực tiếp với da:
100 mg/kg
Vật liệu dệt không tiếp xúc trực tiếp
với da: 300 mg/kg
7 Trung Quốc
Quy chuẩn kỹ thuật an
toàn tổng quát quốc gia
cho sản phẩm dệt
GB 18401-2003
Vật liệu dệt cho trẻ nhũ nhi và trẻ
em bé: ≤ 20 mg/kg
Vật liệu dệt tiếp xúc trực tiếp với da:

8
≤ 75 mg/kg
Vật liệu dệt không tiếp xúc trực tiếp
với da: ≤ 300 mg/kg
8 Nhật Bản Luật Nhật Bản 112 Vật liệu dệt cho trẻ em bé: không
phát hiện được (giá trị phát hiện là
16 ppm)

Vật liệu dệt tiếp xúc trực tiếp với da:
75 mg/kg

Giới hạn formaldehyt trên sản phẩm dệt may trong một số tiêu chuẩn tự nguyện
như trong bảng 2.
Bảng 2 – Giới hạn hàm lượng formaldehyt trong một số tiêu chuẩn tự nguyện

TT Tiêu chuẩn Giá trị giới hạn
1 Tiêu chuẩn Oeko-Tex
100[9]
- Vật liệu dệt cho trẻ em bé: không phát hiện được
(giá trị phát hiện là 16 ppm)
- Vật liệu dệt tiếp xúc trực tiếp với da: 75 mg/kg
- Vật liệu dệt không tiếp xúc trực tiếp với da: 300
mg/kg
- Vật liệu dệt trang trí: 300 mg/kg
2 Tiêu chuẩn sinh thái EU
Flower[10]
- Vật liệu dệt tiếp xúc trực tiếp với da: 30 ppm
- Các vật liệu dệt khác: 300 ppm
3 Danh sách các chất bị hạn
chế của Hiệp hội may và
giày dép Mỹ (AFFA)[11]
- Từ 0-36 tháng tuổi: 20 ppm
- Từ 36 tháng tuổi trở lên (có tiếp xúc trực tiếp với
da: 75 ppm
- Từ 36 tháng tuổi trở lên (không tiếp xúc trực
tiếp với da: 300 ppm
4 Tuyên bố chính sách an
toàn của Chính phủ về các

giới hạn chấp nhận được
của formaldehyt trên quần
áo và vật liệu dệt khác
(New Zealand)[12]
- Quần áo cho trẻ em bé dưới 2 tuổi: không lớn
hơn 30 ppm (30 mg/kg)
- Quần áo được thiết kế đặc biệt và bán cho những
người có da mẫn cảm (cả trẻ em và người lớn)
hoặc để tránh bất kỳ phản ứng nhạy cảm với da:
không lớn hơ
n 30 ppm (30 mg/kg)
- Quần áo và vật liệu dệt tiếp xúc trực tiếp với da:

9
không lớn hơn 100 ppm (100 mg/kg) hoặc không
lớn hơn 100 ppm (100 mg/kg) sau khi giặt nếu có
nhãn hoặc hướng dẫn khuyến nghị “giặt trước khi
sử dụng)
- Quần áo và vật liệu dệt không tiếp xúc trực tiếp
với da: không lớn hơn 300 ppm (300 mg/kg)

III.2 Đề xuất các giá trị giới hạn tối đa của hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm
dệt may
III.2.1 Đề xuất các giá trị giới hạn tối đa
Theo Mục 2.4 của Hiệp định rào cản kỹ thuật đối với thương mại, khi đã có các
quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn thích hợp được chấp nhận rộng rãi trên quốc tế, các
quốc gia thành viên của WTO được khuyến cáo s
ử dụng các quy chuẩn kỹ thuật hoặc
tiêu chuẩn ấy để làm cơ sở cho quy chuẩn kỹ thuật/tiêu chuẩn của nước mình.
Theo các luật và các tiêu chuẩn có liên quan, sản phẩm dệt may đều được chia

làm ba nhóm là:
- Sản phẩm dệt may cho trẻ em dưới 2 (hoặc 3) tuổi;
- Sản phẩm dệt may tiếp xúc trực tiếp với da; và
- Sản phẩm dệt may không tiếp xúc trực tiếp vớ
i da.
Đối với giá trị giới hạn tối đa của formaldehyt trên các nhóm sản phẩm dệt may,
có thể thống kê thấy:
- Sản phẩm dệt may cho trẻ em dưới 2 (hoặc 3) tuổi: 16 ppm (Nhật Bản và
tiêu chuẩn Oeko-Tex 100), 20 ppm (Trung Quốc và Pháp) và 30 ppm (các
quy định còn lại);
- Sản phẩm dệt may tiếp xúc trực tiếp với da: 75 ppm, hoặc 100 ppm hoặc 120
ppm (Hà Lan);
- Sản phẩm dệt may không tiếp xúc trực tiếp vớ
i da: 300 ppm hoặc 400 ppm
(Pháp).
Nhật Bản và Trung Quốc có quy định nghiêm ngặt nhất, đặc biệt là cho nhóm
sản phẩm dệt may cho trẻ em và sản phẩm dệt may tiếp xúc trực tiếp với da.
Đối với các giá trị formaldehyt áp dụng cho sản phẩm dệt may trẻ em có thể giải
thích như sau:
Làn da trẻ em bé (dưới 2-3 tuổi) rất nhạy cảm, nhất là khi hệ miễn dịch của các
bé chưa phát triển đầy đủ. Đây là ch
ủ thể dễ bị tác động bởi các dị nguyên (chất gây dị
ứng). Trong một thí nghiệm để tìm ra ngưỡng phản ứng dị ứng trên những người mẫn

10
cảm với formaldehyt, người ta đã thấy giá trị 30 ppm khi phơi nhiễm với chế phẩm
formaldehyt ở vùng nách thông qua thử nghiệm băng hút giữ trong 48 giờ. Thực
nghiệm từ các phòng thí nghiệm của châu Âu chỉ ra rằng hàm lượng 10 ppm
formaldehyt trên sản phẩm dệt may dành cho trẻ em có thể giải thích là do mức
formaldehyt có sẵn trong tự nhiên (background formaldehyt level) không liên quan đến

bất kỳ quá trình xử lý hoàn tất nào. Giá trị formaldehyt nằm giữa 10 và 20 ppm chỉ ra
rằng về mặt đị
nh lượng là có sự hiện diện của formaldehyt. Nếu thử nghiệm cho ra kết
quả dưới 20 ppm thì ta có thể cho rằng đó là mức zero. Người ta cũng nhấn mạnh rằng
các chất khác (kể cả các aldehyt) cũng có đáp ứng tương tự, chỉ các thử nghiệm đắt tiền
mới có thể loại trừ được các tín hiệu dương tính giả. Vì lý do này và để tránh tranh cãi,
kết quả thử nghiệm bằng 30 ppm hoặc th
ấp hơn có thể được xem là giá trị ngưỡng dưới
chấp nhận được. Do vậy đa phần các nước chọn hàm lượng formaldehyt là 30 ppm trên
sản phẩm dệt may cho trẻ em là an toàn; nhưng nếu đủ năng lực về thiết bị thử nghiệm
có độ nhạy cao thì ta có thể quy định các giá trị nghiêm ngặt hơn (như luật của Nhật
Bản hoặc tiêu chuẩn Oeko-Tex 100 – 16 ppm, hoặc luật của Trung Quốc – 20 ppm).
Đố
i với sản phẩm dệt may tiếp xúc trực tiếp với da, giá trị formaldehyt bằng 100
ppm được dựa trên các nghiên cứu khoa học rằng rất hiếm những cá thể nhạy cảm với
formaldehyt có phản ứng với formaldehyt dưới 100 ppm, nên phần lớn các luật đều
đưa ra hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt may là 100 ppm. Hiện đã có loại
nhựa DMDHEU biến tính mới nhất chứa ít hơn 75 ppm formaldehyt tự do, như sản
phẩm Fixapret ECO c
ủa Công ty BASF, có thể đôi khi gây phản ứng nhưng các bệnh
nhân bị dị ứng tiếp xúc với vật liệu dệt có khả năng vượt qua được[5], nên cũng có luật
và tiêu chuẩn áp dụng mức nghiêm ngặt hơn này.
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hàm lượng formaldehyt 500 ppm cũng rất hiếm
khi gây ra phản ứng dị ứng trên da. Các loại nhựa DMDHEU được biến tính bằng quá
trình ete hóa, glycolat hóa hoặc metyl hóa giải phóng ra chưa tới 300 ppm[5]. Do vậy
quy định hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt may không tiếp xúc trực tiếp với da
là 300 ppm là đủ đảm bảo an toàn và khả thi về mặt kỹ thuật.
Từ những chứng cứ khoa học nói trên và để hài hòa với các luật và tiêu chuẩn
mới nhất về hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt may, đề tài đề nghị chia sản
phẩm dệt may thành 3 nhóm và đề xuất các giá trị formaldehyt tối đa trên sản phẩm

của các nhóm này là:
-
Sản phẩm dệt may cho trẻ em dưới 3 tuổi: 20 mg/kg ;
- Sản phẩm dệt may tiếp xúc trực tiếp với da: 75 mg/kg;
- Sản phẩm dệt may không tiếp xúc trực tiếp với da: 300 mg/kg.

11
III.2.2 Xác định phương pháp thử
Phương pháp thử được lựa chọn là TCVN 7421-1: 2004 (ISO 17184-1: 1998)
Vật liệu dệt – Xác định formaldehyt. Phần 1 – Formaldehyt tự do và bị thủy phân
(Phương pháp chiết trong nước).
Phương pháp này xác định formaldehyt tự do và formaldehyt được chiết một
phần bằng quá trình thủy phân (phản ứng với nước) bằng phương pháp chiết trong
nước. Phương pháp này được dùng để xác định formaldehyt tự do và thủy phân trên vải
trong khoảng từ 20 ppm tới 3500 ppm. D
ưới 20 ppm thì kết quả được báo cáo là không
phát hiện được.
Phương pháp thử này được chấp nhận trên thế giới để thử formaldehyt tự do và
thủy phân trên sản phẩm dệt may; và được quy định trong tất cả các quy chuẩn kỹ thuật
lẫn các tiêu chuẩn sinh thái dệt trên thế giới để xác định formaldehyt tự do và thủy
phân trên sản phẩm dệt may.
III.3 Tiếp thu góp ý cho dự thảo “Quy chuẩn kỹ thuật đối với hàm lượ
ng
formaldehyt trên sản phẩm dệt may”
Bản dự thảo I của Quy chuẩn, sau khi hoàn thành, đã được gửi cùng với bản
thuyết minh quy chuẩn tới các cơ quan hữu quan để lấy ý kiến đóng góp như Phòng
Tiêu chuẩn 5 của Tổng cục Đo lường – Tiêu chuẩn – Chất lượng; Vụ Khoa học và
Công nghệ (Bộ Công Thương), Ban Khoa học Công nghệ và Môi trường (Vinatex),
văn phòng TBT Việt Nam, Viện Dệt May…, và một số cá nhân có kinh nghiệ
m trong

xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn như PGS TS Phạm Hồng – Nguyên Phó Giám đốc
Sở Khoa học Công nghệ Hà Nội kiêm Chi cục trưởng chi cục Đo lường – Tiêu chuẩn –
Chất lượng Hà Nội; PGS TS Cao Hữu Trượng (Khoa Công nghệ Dệt May và thiết kế
thời trang (ĐHBK Hà Nội))…
Đề tài đã đọc và phân tích các ý kiến đóng góp để tiếp thu có chọn lọc các ý
kiến cho bản dự thảo 2 của Quy chuẩn. Sau đó, bản dự th
ảo 2 đã được gửi lên vụ Khoa
học và Công nghệ (Bộ Công Thương) để đưa lên website của bộ nhằm lấy ý kiến đóng
góp rộng rãi của các cơ quan, cá nhân có liên quan và quan tâm.
Song song với quá trình biên soạn Quy chuẩn này, Thông tư của Bộ Công
Thương “Quy định tạm thời về giới hạn cho phép đối với hàm lượng formaldehyt, các
amin thơm có thể giải phóng ra từ thuốc nhuộm azo trong các điều kiện khử trên sản
phẩ
m dệt may” cũng được soạn thảo và được nhiều ý kiến đóng góp của các cơ quan
hữu quan trong các cuộc họp.
Bản dự thảo 3 của Quy chuẩn được chỉnh sửa lại dựa trên các đóng góp ý kiến
cho hai bản dự thảo nói trên và cho dự thảo của Thông tư để có bố cục gồm 8 điều với

12
các nội dung cụ thể như trong Bản Dự thảo 3 “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hàm
lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt may”.
Ngoài các ý kiến đóng góp về sử dụng từ ngữ và câu chữ, các góp ý cho các nội
dung cụ thể trong từng điều đã được đọc, phân tích và chọn lọc để dùng trong việc biên
soạn lại các điều khoản của quy chuẩn. Các ý kiến đóng góp đã được t
ổng hợp lại theo
từng mục và tóm tắt trong bảng sau.

TT Góp ý Tiếp thu
1
Quy định chung

Điểm 1.1 Phạm vi điều chỉnh
Cần nêu rõ “đưa ra các quy định về giới
hạn cho phép của hàm lượng
formaldehyt trên sản phẩm dệt may, các
quy định về thử nghiệm và quản lý …”

Đã tiếp thu vào quy chuẩn.
Điểm 1.3 Đề nghị sửa tiêu đề lại thành
“Giải thích từ ngữ”
Đã tiếp thu vào quy chuẩn.
2
Quy định kỹ thuật
Tiêu đề của Bảng 1 sửa lại là “…các
giới hạn cho phép của hàm lượng
formaldehyt …”.
Tiếp thu và đã chỉnh sửa lại.
Đề nghị cân nhắc và giải thích tại sao
lại chọn các giới hạn cho phép tại sao là
20/75/300 mg/kg chứ không phải là
30/100/300 mg/kg (căn cứ vào tài liệu,
tiêu chuẩn các nước nhưng cần phân
tích quan điểm lựa chọn trong thuyết
minh)
- Đã tiếp thu và bổ sung thêm phần
phân tích nguyên tắc lựa chọn các giới
hạn cho phép của hàm lượng
formaldehyt trên các sản phẩm dệt may
của từng nhóm sản phẩm như trong bản
thuy
ết minh này.

3
Quy định về lấy mẫu
Các ý kiến đóng góp tập trung vào yêu
cầu quy định lấy mẫu phải cụ thể, dễ áp
dụng cho sản phẩm dệt may để cho
doanh nghiệp và cơ quan quản lý thị
trường cũng như quản lý chất lượng sản
phẩm có thể thực hiện lấy mẫu mang đi
thử nghiệm; Cần nêu rõ số lượng mẫu
Sửa lạ
i thành điều 3 – Quy định về lấy
mẫu.
Sau khi đã phân tích các ý kiến đóng
góp, có tham khảo ý kiến của các các
cán bộ kỹ thuật và làm công tác xuất
nhập khẩu dệt may, tham khảo quy
định lấy mẫu từ một vài quy chuẩn của
nước ngoài, và quyết định số

13
thế nào là đủ chứ không nên chung
chung là mẫu đủ để thử nghiệm
24/2007/QĐ-BKHCN “Quy định về
chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận
hợp quy và công bố hợp chuẩn, hợp
quy” đã sửa lại thành quy định cụ thể
về lấy mẫu cho sản phẩm dệt trong mục
3.1 và cho sản phẩm may trong mục
3.2.
Đối với sản phẩm hoàn thiện, lượng

mẫu phải đủ để thử. Nếu các phần của
sản phẩm có thành phần cấu tạo khác
nhau thì lấy mẫu tách riêng để xử lý
từng phần như từng mẫu.
Không đưa quy định về lấy mẫu tách
riêng sản phẩm có thành phần khác
nhau vì khi thử nghiệm, nhân viên thí
nghiệm sẽ thử riêng thành phần theo
quy định trong phương pháp thử.
4
Quy định về phương pháp thử
Đưa thêm phương pháp thử theo
AATCC của Mỹ

- Bản dự thảo 3 chỉ quy định phương
pháp thử TCVN 7421-1 : 2004 (EN
ISO 14184-1 : 1998), do phương pháp
này được hài hòa từ phương pháp thử
tương đương của tổ chức tiêu chuẩn
hóa quốc tế và tương đương với
phương pháp thử theo Law 112 của
Nhật Bản. Phương pháp thử AATCC
của Mỹ có quy trình chiết khác với
các tiêu chuẩ
n nêu trên nên đưa ra kết
quả cao hơn nhiều lần, nên không
được chấp nhận trong Quy chuẩn này.
5 Cần nêu quy định đánh giá sự hợp quy
của sản phẩm, phương thức đánh giá sự
phù hợp, quy định việc lấy mẫu thích

hợp
Bổ sung thêm điều 5 – Quy định về
đánh giá sự hợp quy
Đã tham khảo quyết định số
24/2007/QĐ-BKHCN “Quy định về
chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận
hợp quy và công bố hợp chuẩn, hợp
quy” và một s
ố quy chuẩn và tiêu
chuẩn của nước ngoài để biên soạn
Điều 5.

14
6
Quy định về quản lý

Các ý kiến đóng góp tập trung vào việc
cần làm rõ quy định về công bố hợp
quy:
- Quy định về phòng thử nghiệm;
- Nên chấp nhận giấy chứng nhận
hợp quy do tổ chức chứng nhận
hợp quy nước ngoài được thừa
nhận cấp để tránh thử nghiệm
hai lần, ách tắc thị trường.
Sửa lại thành đi
ều 6 – Quy định về
quản lý
Sau khi tham khảo quyết định số
24/2007/QĐ-BKHCN “Quy định về

chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận
hợp quy và công bố hợp chuẩn, hợp
quy” và Điều 4, khoản 1 của Nghị định
132/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Chất lượng
Sản phẩm hàng hóa để viết lại thành
điểm 6.1 cho công b
ố hợp quy của
hàng sản xuất trong nước; và Điều 7,
khoản 1 của Nghị định 132/2008/NĐ-
CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Chất lượng Sản phẩm
hàng hóa để viết lại thành điểm 6.2
cho công bố hợp quy của hàng dệt may
nhập khẩu.
7
Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
Cần quy định thêm việc thực hiện trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân công bố
hợp quy
Điều 7 – Trách nhiệm của tổ chức, cá
nhân
Đã bổ sung thêm trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân công bố hợp quy như
trong điểm 7.1 theo Điều 20 của Quy
định về chứng nhận hợp chuẩn, chứng
nhận hợp quy và công bố hợp chuẩ
n,
công bố hợp quy ban hành kèm theo
Quyết định số 24/2007/QĐ-BKHCN

ngày 28/9/2007 của Bộ Khoa học và
Công nghệ
8
Góp ý về bố cục của thuyết minh:
1. Thuyết minh quy chuẩn kỹ thuật
bao gồm:
- Sự cần thiết;
- Nội dung của quy chuẩn:

- Đã tiếp thu và sửa lại bố cục của
thuyết minh như bản mới nhất này.



15
+ Quy định kỹ thuật;
+ Quy định quản lý
Phân tích cơ sở khoa học của sự lựa
chọn, quan điểm của nhóm tác giả; ý
kiến đề nghị …
2. Nên tách phần chuyên đề khoa
học ra khỏi thuyết minh (bố trí độc
lập)





- Phần chuyên đề khoa học về sử dụng
các chế phẩm xử lý hoàn tất có chứa

formaldehyt cho sản phẩm dệt may và
ảnh hưởng của formaldehyt lên s
ức
khỏe con người được tách thành phụ
lục của thuyết minh.

III.4 Bố cục của Quy chuẩn kỹ thuật
Dự thảo 3 của Quy chuẩn kỹ thuật gồm 8 điều với các nội dung chính như sau:
Điều 1. Quy định chung: nêu phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Quy
chuẩn, giải thích từ ngữ;
Điều 2. Quy định kỹ thuật: quy định các giới hạn cho phép của hàm lượng
formaldehyt trên các sản phẩm dệt may của t
ừng nhóm sản phẩm dệt may xác định;
Điều 3. Quy định về lấy mẫu: xác định phương thức lấy mẫu sản phẩm cho thử
nghiệm;
Điều 4. Quy định về phương pháp thử: quy định phương pháp thử được dùng để
xác định hàm lượng formaldehyt trên sản phẩm dệt may;
Điều 5. Quy định về đánh giá sự hợp quy: quy định tình trạng đạt hoặc không
đạt cho lô s
ản phẩm;
Điều 6. Quy định về quản lý: nêu các yêu cầu:
- Sản phẩm dệt may phải được công bố hợp quy trước khi đưa ra thị trường;
- Phòng thử nghiệm do Bộ Công Thương chỉ định khi đáp ứng các yêu cầu đưa
ra trong Quy chuẩn;
- Sản phẩm dệt may lưu thông trên thị trường phải chịu sự kiểm tra nhà nước về
hợp quy.
Điều 7. Trách nhiệm của t
ổ chức, cá nhân: nêu rõ trách nhiệm của tổ chức cá
nhân khi kinh doanh sản phẩm dệt may;
Điều 8. Tổ chức thực hiện: nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà

nước trong việc thực hiện Quy chuẩn kỹ thuật này.


16
PHỤ LỤC

I. NGUỒN PHÁT SINH FORMALDEHYT TRÊN SẢN PHẨM DỆT MAY
Các sản phẩm nhựa dựa trên formaldehyt được sử dụng trong ngành dệt là thành
phần của các sản phẩm xử lý hoàn tất chống nhàu, mực in, chất xử lý sau cho nhuộm
(gắn màu), chất xử lý hoàn tất chống cháy. Hiện nay, nồng độ formaldehyt tự do trong
các sản phẩm này nói chung thấp hơn 2%[6].
I.1 Chất xử lý hoàn tất nhựa cho vật liệu dệt từ xenlulo
Vật liệu dệt từ xơ xenlulo là một trong những nguyên liệu lý tưởng cho hàng
may mặc và các chủng loại hàng dệt nội thất như bộ đồ giường, vải bọc đệm ghế v.v do
khả năng hút chất ẩm tốt, thoáng mát và hợp vệ sinh. Nhưng vật liệu dệt từ xơ xenlulo
có nhược điểm là dễ bị nhàu, bị co (độ ổn định kích thước kém) làm giảm tính thẩm mỹ

cũng như công năng của sản phẩm dệt may.
Nguyên nhân chính gây ra độ co của xơ xenlulo là xơ dễ dàng hút ẩm. Xơ
xenlulo có cấu trúc hai pha là cấu trúc tinh thể và cấu trúc vô định hình. Các mạch
phân tử xenlulo được liên kết với nhau bởi các liên kết hydro và lực Van-Dec-Van,
thiếu hẳn liên kết hóa trị. Các vùng vô định hình là nguyên nhân gây ra các nếp nhăn
nhàu trên vật liệu dệt do trong vùng vô định hình các mạch phân tử sắp xếp không trật
tự, không gian giữa các mạch phân tử
lớn hơn và lực liên kết giữa các phân tử yếu hơn.
Khi xơ hút ẩm, xơ trương nở làm các mạch polyme trong vùng vô định hình dễ di
chuyển tương đối với nhau và làm đứt các liên kết hydro yếu giữa các mạch phân tử.
Các liên kết hydro có thể thay đổi giữa các mạch phân tử ở vị trí đã bị dịch chuyển.
Việc không có liên kết hóa trị để kéo mạch phân tử xenlulo quay trở về vị trí ban đầu
khi bị biến dạng bởi các nếp nhăn nhàu trong quá trình mặc và giặt để lại các nếp nhăn

này trên sản phẩm dệt may cho đến khi có quá trình gia công bổ sung (ví dụ quá trình
là) tác dụng đủ độ ẩm và lực cơ học để vượt qua được các nội lực này[13].
Có thể giảm sự trương nở của xơ xenlulo do ẩm gây nên bằng tác đưa các sản
phẩm hóa chất tự tạo liên kết ngang như là các nhựa ure formaldehyt ho
ặc melamin
formaldehyt lẫn các sản phẩm có thể chủ yếu tạo liên kết ngang với các phân tử
xenlulo. Nếu không được xử lý hoàn tất tạo liên kết ngang, xơ xenlulo có thể hút thêm
nước tương đương với 10% khối lượng xơ. Kết quả là khi xơ trương nở lên, vải bị nhàu
và co lại để giảm bớt ứng suất bên trong do quá trình trương nở gây ra[13]. Quá trình
này không chỉ áp dụng cho vật liệu dệt từ xơ xenlulo mà còn t
ừ các hỗn hợp của xơ
xenlulo với các loại xơ tổng hợp khác. Trong tài liệu chuyên môn, ta có thể bắt gặp rất

17
nhiều thuật ngữ để mô tả kết quả của các quá trình này như: dễ chăm sóc (easy-care),
không cần là (non-iron), chống nhàu (crease resistant, shrink proof hoặc wrinle free),
giữ nếp bền lâu (durable press) v.v. Thuật ngữ mô tả đúng về mặt kỹ thuật sẽ là “chất
xử lý hoàn tất chống trương nở cho xenlulo” hoặc “chất tạo liên kết ngang cho
xenlulo”. Ngoài ra, độ bóng láng của vải in hoa được xử lý cán láng (permanent chintz)
hoặc độ đứng thẳng của các loại v
ải nổi vòng lông nói chung cũng được cải thiện bằng
chất xử lý hoàn tất nhựa. Các tác dụng chính của xử lý hoàn tất nhựa chống nhàu cho
xenlulo là:
- Giảm sự trương nở và độ co;
- Cải thiện độ hồ phục nếp nhàu ở trạng thái khô và ướt;
- Ngoại quan phẳng phiu sau khi làm khô;
- Giữ được các nếp nhăn và nếp li mong muốn[2].
Các sản phẩm hóa chất được s
ử dụng trong quá trình xử lý hoàn tất nhựa chống
nhàu được trình bày tóm tắt dưới đây cùng với những tính chất nổi bật của chúng.

I.1.1 Các loại nhựa có chứa formaldehyt
Các sản phẩm nhựa dựa trên formaldehyt gồm ba loại sau[13, 14, 15]:
a. Nhựa ure formaldehyt (nhựa U/F)
Loại nhựa này được tổng hợp từ dung dịch nước của urê và formaldehyt ở pH từ
7,5-9. Hợp chất N,N’- đimêtylo urê nhận được được cho phản ứng v
ới metanol ở pH từ
8-9 thành hợp chất N,N’ đimêtôxy mêtylen urê lỏng. Phản ứng này là phản ứng cân
bằng tùy thuộc vào nồng độ của các chất tham gia phản ứng. Sự cân bằng này giải
thích về nồng độ cao của formaldehyt tự do và formaldehyt giải phóng ra từ sản phẩm
nhựa urê formaldehyt. Loại nhựa này có chi phí thấp nhưng có nhược điểm là có độ ổn
định thấp với quá trình thủy phân, độ bền lâu thấp, khả
năng giữ clo cao.
b. Nhựa melamin formaldehyt
Nhựa melamin formaldehyt có các tính chất được cải thiện hơn so với nhựa ure
formaldehyt. Các sản phẩm nhựa này gồm 3 tới sáu nhóm hoạt động N-metylol (N-
CH
2
-OH) được nối với một vòng melamin. Điều này dẫn tới tạo liên kết ngang nhiều
hơn và là chất xử lý hoàn tất chống nhàu có độ bền giặt tốt hơn. Quá trình tổng hợp
loại nhựa này tạo ra tri- hoặc hexamêtylol melamin (TMM hoặc HMM). TMM được sử
dụng để xử lý hoàn tất chống nhàu, thường chỉ dùng như là một thành phần của hỗn
hợp sản phẩm để tạo ra công công năng c
ủa hiệu ứng tốt hơn. TMM cũng được dùng
để xử lý hoàn tất vải xenlulo in hoa được xử lý cán láng (permanent chintz). HMM
được sử dụng bổ sung trong chất tạo màng của in pigment trên vật liệu dệt.

18
Loại nhựa này có nhược điểm là luợng formaldehyt tự do và formaldehyt giải
phóng tương đối cao, khả năng giữ clo cao hơn.
Hai loại nhựa này được sử dụng rộng rãi trong những năm 1950.

c. Các loại nhựa chứa ít formaldehyt: N,N-Dimetylol-4,5-dihydroxyetylen Ure
(DMDHEU) và các dẫn xuất của nhựa này
Loại nhựa này được tổng hợp từ ure, glyoxal và formaldehyt và là cơ sở cho tới
90% sản phẩm xử lý hoàn tất chống nhàu trên thị trường, đượ
c sử dụng rộng rãi từ
những năm 1960. DMDHEU có hoạt tính cao và rất thích hợp cho xử lý chống nhàu
bền với giặt. Vải xử lý bằng loại nhựa này có formaldehyt tự do khoảng 500 ppm[19],
vẫn gây ra mối quan ngại về vấn đề môi trường và sức khỏe. Để tạo ra sản phẩm giải
phóng formaldehyt thấp, DMDHEU được biến tính bằng quá trình ete hóa, glycolat
hóa hoặc metyl hóa; các loại nhựa biến tính này giải phóng ra ít formaldehyt hơn (chưa
tới 300 ppm)[16] và
được bắt đầu sử dụng từ năm 1970. Loại nhựa DMDHEU biến
tính mới nhất chứa ít hơn 75 ppm formaldehyt tự do, như sản phẩm Fixapret ECO của
Công ty BASF, có thể đôi khi gây phản ứng nhưng các bệnh nhân bị dị ứng tiếp xúc
với vật liệu dệt có khả năng vượt qua được[16].
So sánh lượng formaldehyt giải phóng ra của các loại nhựa DMDHEU như
trong bảng sau[14].
Bảng 1 - So sánh lượng formaldehyt giải phóng ra từ
các loại nhựa DMDHEU
Các loại nhựa DMDHEU Formaldehyt giải phóng ra (ppm)
(Phương pháp thử AATCC 112)
DMDHEU không biến tính 750 – 1000
DMDHEU metyl hóa một phần 300 – 500
DMDHEU metyl hóa toàn phần < 300
DMDHEU+đietylen glycol < 50

I.1.2 Các sản phẩm xử lý chống nhàu không chứa formaldehyt[13,14]
a. Nhựa Đimetyl – 4,5 – đihyđroxietylen ure (DMeDHEU)
Loại nhựa này được tổng hợp từ nguyên liệu tương đối đắt tiền là N,N-đimêtyl
ure và glyoxal thành sản phẩm N, N’-đimêtyl-4,5-đihyđroxyetylen ure (DMeDHEU).

Sản phẩm này cho hàng được xử lý bền với gi
ặt, rất bền với clo và hàng mềm hơn xử
lý bằng các loại nhựa dựa trên formaldehyt. Điều nổi bật của sản phẩm này là hoàn
toàn không có formaldehyt tự do. Do vậy sản phẩm này được khuyến cáo dùng xử lý
vật liệu dệt cho hàng may mặc cho trẻ em.

19
Để đạt được hiệu quả chống nhàu và giữ nếp bền lâu tốt, cần sử dụng lượng
DMeDHEU gấp hai lần lượng DMDHEU và do vậy chi phí cũng sẽ gấp đôi. Tuy
nhiên, phổ biến là dùng hỗn hợp DMeDHEU và DMDHEU với tỷ lệ 1:1 để giảm bớt
lượng formaldehyt giải phóng ra và tính chất cơ lý của vật liệu dệt được xử lý chỉ bị
giảm nhẹ, với chi phí chấp nhậ
n được.
b.Hệ thống axit Polycacboxylic như butantetracacboxylic axit (BTCA), axit
xitric hoặc axit polycacboxylic biến tính
Vào cuối những năm 1980 của thế kỷ trước, este hóa xenlulo bằng các axit
Polycacboxylic là xu hướng mới trong xử lý hoàn tất chống nhàu không có
formaldehyt. BCTA hay là Butantetracacboxylic axit chứng tỏ là chất có hiệu quả nhất.
Este hóa xenlulo ở nhiệt độ tạo liên kết ngang cao đến 200
0
C cho các tính chất chống
nhàu dễ chăm sóc tốt. Tuy nhiên do một số khó khăn như BTCA khó mua hoặc nhiệt
độ phản ứng tạo liên kết ngang quá cao hoặc chất xúc tác natri hipophotphit không dễ
tìm và làm thay đổi ánh màu của hàng nhuộm hoạt tính và lưu hóa, mà chất này vẫn
chưa được chấp nhận.
Ngoài ra, các sản phẩm hóa chất dựa trên axit policacboxylic (APCM) biến tính
như axit photphonocacboxylic và axit photphinicocacboxylic đã có mặt trên thị trường.
I.2 Hệ thống in trên vật liệu dệt
Nhự
a dựa trên formaldehyt được sử dụng làm chất tạo liên kết ngang và trong

các hệ thống chất tạo màng acrylic để in pigment trên vật liệu dệt xenlulo,
xenlulo/polyeste hoặc vật liệu dệt tổng hợp. Nhựa formaldehyt được hòa tan trong
nước và được trộn với hồ in. Điển hình là từ 1% đến 3% chế phẩm nhựa được sử dụng
trong hồ in phụ thuộc vào độ đậm màu yêu cầu[6]. Hiện nay đã có các hệ thống in thay
thế không có formaldehyt.
1.3 Nhuộm vật liệu dệt
Nhựa dựa trên formaldehyt được sử dụng làm chất gắn màu, làm tăng độ bền
màu của thuốc nhuộm[6].
I.4 Chất bảo vệ len có chứa formaldehyt[22]

Len dễ bị tổn thương trong quá trình xử lý trong nước, nhất là tại nhiệt độ cao
hoặc pH cao. Để khắc phục điều này, thường sử dụng các tác nhân bảo vệ len, nhất là
trong quá trình gia công lại hoặc trong khi nhuộm các hỗn hợp len/polyeste tại nhiệt độ
cao. Các tác nhân bảo vệ len thường nằm trong ba chủng loại:
* Các sản phẩm dựa trên các protein tan trong nước;
* Các sản phẩm dựa trên các este của axit sunphonic béo hoặc các axit
alkylsunphonic;

20
* Các sản phẩm dựa trên formaldehyt hoặc các hóa chất khác có khả năng tạo
liên kết ngang cho len. Nhóm sản phẩm này hoạt động bằng cách tạo liên kết ngang
cho len và do đó thay thế các liên kết ngang disunphua xystin đã bị gãy bằng các nhóm
–S-CH
2
-S- là các nhóm ổn định hơn.
Gần đây các dẫn xuất của formaldehyt đã được giới thiệu như là Irgasol HTW
(CGY) hoặc Lanasan PW có chứa lượng formaldehyt tự do không đáng kể.
I.5 Các sản phẩm xử lý hoàn tất chống cháy
Các sản phẩm hóa chất chống cháy phốt pho halogen có chứa formaldehyt[18].
Vật liệu dệt được xử lý bằng các hóa chất được nói đến ở mục I.1 đến I.5 đều có

tiềm năng giải phóng ra formaldehyt trong các đi
ều kiện sử dụng thông thường, dưới
hai dạng là[12]:
• Formaldehyt tự do: formaldehyt tự do được định nghĩa là formaldehyt
monome không liên kết tồn tại trong dung dịch xử lý; và
• Formaldehyt giải phóng ra: formaldehyt giải phóng ra là lượng formaldehyt
thoát ra từ vải đi vào không khí.
Trong các trường hợp xử lý vật liệu dệt với các nhựa DMDHEU,
formaldehyt giải phóng có thể xảy ra bằng một trong hai cách: một phần nhựa không
tạo ra liên kết ngang hoàn toàn thì bị thoái biến bằng chấ
t tẩy clo trong quá trình giặt
bằng chất tẩy rửa có clo và kết quả là giải phóng ra formaldehyt. Trong quá trình giặt
gia dụng bằng chất tẩy rửa không có clo, lượng formaldehyt giải phóng ra giảm đáng
kể khi số lần giặt tăng lên. Mặt khác trong quá trình chống nhàu cho vật liệu dệt
xenlulo, cần phải dùng các chất xúc tác có tính axit như clorua magie, nếu chất xúc tác
còn lại trên vật liệu dệt thì formaldehyt có thể giải phóng ra bằng quá trình thủy phân
nhựa trong các điều kiệ
n nóng ẩm, giống như điều kiện ta gặp khi tiếp xúc với da trong
các điều kiện mặc quần áo. Tốc độ thủy phân nhựa dựa trên formaldehyt bị ảnh hưởng
bởi loại và hàm lượng nhựa, thời gian xử lý nhiệt (curing time), nhiệt độ xử lý. Các yếu
tố khác cũng quan trọng là tạp chất trong dung dịch phản ứng, tình trạng của vải trước
khi xử lý hoàn tất, giặt sau và pH c
ủa nước giặt (nếu được thực hiện), các chất phụ gia
được bổ sung vào dung dịch ngấm ép và bất kỳ xử lý sau nào bằng hợp chất sẽ có thể
phản ứng với formaldehyt[15].
pH của vải đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các nhóm N-CH
2
OH và
formaldehyt do ảnh hưởng đến tốc độ thủy phân các liên kết ngang được tạo ra giữa
xenlulo và chất xử lý hoàn tất, giữa xenlulo và nhóm N-CH

2
OH. Tại khoảng pH trung
tính, giải phóng formaldehyt là thấp nhất. Giải phóng formaldehyt tăng khi độ axit dư
trên vải tăng do tăng thủy phân liên kết ngang C-O, tạo ra các nhóm N-mêtylol, đến

21
lượt mình các nhóm này lại thủy phân để tạo ra formaldehyt. Mức độ giải phóng
formaldehyt tăng thậm chí tới mức lớn hơn khi vải trở nên kiềm do độ nhạy với quá
trình thủy phân của liên kết C-N trong nhóm N-mêtylol tại pH cao. Với nhựa được
metyl hóa cũng quan sát được các ảnh hưởng tương tự của pH[19].
Nhiệt độ tăng dần và độ ẩm tương đối cao nói chung làm tăng giải phóng
formaldehyt[15]. Hai điều kiện này, khi có thêm mồ
hôi và sự chà xát, ví dụ ở vùng
nách, rất có thể làm tăng xu hướng formaldehyt sẽ được giải phóng từ quần áo tiếp xúc
trực tiếp với da[1].
Để giảm bớt sự phơi nhiễm của da với formaldehyt, khuyến cáo rằng nên giặt
quần áo được xử lý bằng nhựa dựa trên formaldehyt trước khi mặc lần đầu.
II. XÉM XÉT ẢNH HƯỞNG CỦA FORMALDEHYT ĐẾN SỨC KHỎE
II.1 Tóm tắt nguồn phát sinh và sử d
ụng formaldehyt[6, 14, 20, 21, 22, 23]

Formaldehyt là chất khí không màu, có tính ăn mòn, có khả năng cháy với mùi
hăng và gây ngạt thở. Formaldehyt có thể có mặt trong môi trường từ các nguồn tự
nhiên hoặc có thể được sản sinh ra từ các hoạt động công nghiệp. Formaldehyt có mặt
trong tự nhiên do ánh sáng mặt làm thoái biến metan. Formaldehyt cũng được giải
phóng ra trong quá trình cháy các vật liệu hữu cơ, và cũng thể có mặt trong khói từ gỗ
cháy, khí thải của xe cộ và khói thuốc lá. Mức formaldehyt có trong tự nhiên ở những
vùng phi đ
ô thị là < 1µg/m
3

với giá trị trung bình khoảng 0,5 µg/m
3
. Nồng độ
formaldehyt trong không khí tại các khu đô thị với phát thải hyđrocacbon và các
alđêhyt có nguồn gốc từ hoạt động của con người là từ 1-20 µg/m
3
.

Hầu hết các sinh
vật, kể cả con người đều sản sinh ra formaldehyt dưới dạng là sản phẩm trung gian của
quá trình chuyển hóa trong tất cả các tế bào của quá trình sinh tổng hợp các purin,
thymidin, và các axit amin nào đó.
Formaldehyt được sử dụng rất nhiều trong công nghiệp. Formaldehyt là cấu
thành phổ biến trong sản xuất nhiều phức liệu phức hợp, được sử dụng trong sản xuất
các polyme như là nhựa ure, nhựa phenol và nhựa melamin formaldehyt. Các loại nh
ựa
này được sử dụng phổ biến trong sản xuất các chất kết dính dùng trong sản xuất ván ép,
gỗ dán và sản xuất thảm. Formaldehyt cũng được dùng trong tấm cách nhiệt dạng bọt
xốp và xử lý giấy. Trong ngành dệt, các loại nhựa dựa trên formaldehyt được sử dụng
trong xử lý hoàn tất chống nhàu cho vật liệu dệt từ xơ xenlulo. Khoảng 60-85% tất cả
các loại quần áo được xử lý bằng nh
ựa có chứa formadehyt. Ngành dệt cũng sử dụng
formaldehyt trong chất chống cháy, làm tăng khả năng chống thấm nước, làm tăng độ
cứng của vải.

22
Formaldehyt với nồng độ xấp xỉ 5% trong nước được dùng làm chất khử trùng
trong bệnh viện, trên tàu thủy, trang trại chăn nuôi do nó có tính chất diệt vi khuẩn, vi
rút và nấm hữu hiệu. Dung dịch với nồng độ xấp xỉ 37% formaldehyt được gọi là
formalin và được dùng để bảo quản mô cho y học. Formaldehyt còn được sử dụng làm

chất bảo quản chống vi khuẩn trong nhiều loại mỹ phẩm như xà phòng, dầu gội
đầu,
các chế phẩm làm tóc, chất khử mùi, dầu dưỡng thể và mỹ phẩm trang điểm. Nồng độ
của formaldehyt trong các mỹ phẩm và sản phẩm tiêu dùng nói chung dưới 0,2%. Các
sản phẩm có chứa trên 0,2% formaldehyt gồm chất làm mềm vải đậm đặc (0,3%), chất
tẩy rửa đậm đặc (0,3%) dung dịch rửa bát đậm đặc (0,6%) và chất làm cứng móng tay
(1%).
II.2 Độc tính của formaldehyt
Dưới đây là một số dữ li
ệu độc tính cấp tính của formaldehyt[20].
Bảng 2 – Dữ liệu độ độc của formaldehyt
Độ độc cấp đường miệng, chuột nhắt (rat) LD50 600 mg/kg
Độ độc cấp đường miệng, chuột nhà
(mouse)
LD50 42 mg/kg
Độ độ cấp qua da, thỏ LD50 270 mg/kg
Độ độc cấp hít thở, chuột nhắt (rat) LC50, 4 giờ 578 mg/m
3
(480 ppm)
Độ độc cấp hít thở, chuột nhà (mouse) LC50, 4 giờ 467 mg/m
3
(412 ppm)

Từ các giá trị trên, thấy rằng độ độc cấp đường miệng là tương đối cao. Giá trị
độ độc cấp đường miệng thấp nhất được xác định bằng LD50 là 42 mg/kg.
Độ độc cấp qua đường phơi nhiễm qua da trong một nghiên cứu được xác định
là từ 2-300 mg/kg cho thấy rằng formaldehyt là nguy hại đối với sức khỏe khi tiếp xúc
qua da.
Về giá trị độ độc cấp tính qua đường hít thở
, giá trị LC50 dưới 1 mg/l trong 4

giờ là giá trị thấp, chỉ ra rằng formaldehyt là độc theo đường hít thở.
II.3 Các ảnh hưởng tới sức khỏe
II.3.1 Các đường phơi nhiễm
Con người có thể phơi nhiễm với formaldehyt qua đường tiêu hóa, hít thở, qua
da và mắt. Con người hàng ngày phơi nhiễm với formaldehyt qua hít thở không khí
ngoài trời và trong nhà có chứa formaldehyt. Nồng độ formaldehyt trong không khí
trong nhà cao hơn ngoài trời do sự bay hơi của formaldehyt từ đồ nội thất, sơn và các
cấu trúc xây d
ựng, với mức được tường trình là từ 10 tới 1000 µg/m
3
.

Lượng trung bình
formaldehyt con người hấp thụ hàng ngày từ không khí là 0,02 mg/ngày đối với không

23
khí ngoài trời, 0,5-2 mg/ngày đối với không khí trong các tòa nhà cũ, và tới 1-10
mg/ngày đối với không khí trong các tòa nhà có nguồn phát thải formaldehyt. Hút 20
điếu thuốc lá.ngày đóng góp lượng phơi nhiễm bổ sung khoảng 1 mg formaldehyt[20].
Formaldehyt còn tồn tại trong một số loại thực phẩm như rau quả, hải sản, thịt.
Ước tính lượng formaldehyt hấp thụ từ việc tiêu hóa thức ăn đối với người lớn là từ 1,5
tới 14 mg/ngày[20].
Tuy nhiên, việc phơi nhiễm với formaldehyt trong môi tr
ường nghề nghiệp và
với một số vật dụng hàng ngày giải phóng formal đêhyt lại có tác động xấu tới sức
khỏe con người.
II.3.2 Gây kích thích đường hô hấp, mắt

[20, 21, 22, 23, 24]


Ảnh hưởng chủ đạo của việc phơi nhiễm với formaldehyt qua đường hít thở là
gây ra một loạt các triệu chứng từ kích thích nhẹ tới đặc biệt khó thở. Thậm chí các
nồng độ formaldehyt tương đối thấp có thể nhanh chóng kích thích mũi và họng, gây
ho, đau phổi, hơi thở ngắn và thở khò khè. Phơi nhiễm cấp tính với lượng lớn
formaldehyt có thể gây ra sự mệt mỏi, đau đầu, bu
ồn nôn, nôn mửa, khó thở, co thắt
phế quản, thở khò khè, ho, viêm thanh quản và viêm phổi, suy yếu hệ thần kinh, sưng
phổi, tích tụ dịch trong phổi, chứng co giật và hôn mê. Các triệu chứng này có liên
quan đến nồng độ phơi nhiễm với formaldehyt. Ví dụ nồng độ từ 10-20 ppm gây ra khó
thở, bỏng màng nhày ở mũi, họng, gây ho và chảy nước mắt giàn dụa. Nồng độ 100
ppm ngay lập tức gây huy hiểm cho sức khỏe và tính mạng. S
ự phản ứng với phơi
nhiễm cũng phụ thuộc vào thời gian phơi nhiễm và độ nhạy cảm của cá nhân bị phơi
nhiễm.
Các cá nhân trước đó đã bị mẫn cảm với formaldehyt có thể phát triển triệu
chứng thu hẹp cuống phổi tại nồng độ rất thấp xuống tới 0,3 ppm. Thu hẹp cuống phổi
có thể bắt đầu ngay lập tức ho
ặc có thể bị chậm lại sau 3-4 tiếng đồng hồ. Ảnh hưởng
còn có thể xấu đi sau 20 giờ đồng hồ phơi nhiễm và có thể dai dẳng trong một vài
ngày.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa phơi nhiễm với formaldehyt và
bệnh hen do dị ứng. Các loại nhựa formaldehyt có liên quan tới bệnh đường hô hấp ở
một số công nhân, với các triệu chứng gồm ph
ản ứng ngay lập tức và phản ứng trì hoãn
của bệnh hen.
Mắt phơi nhiễm với hàm lượng thấp hơi formaldehyt thấp có thể gây kích thích
mắt, sau đó kích thích giảm đi trong vòng vài phút sau khi không phơi nhiễm nữa. Các
khảo sát sức khỏe trên các công nhân phơi nhiễm nghề nghiệp và các nghiên cứu phơi
nhiễm cấp tính có kiểm soát trên những người tình nguyện đã chứng minh rằng phơi


24
nhiễm với nồng độ formaldehyt trong không khí trong khoảng 0,4-3,0 ppm và cao hơn
có thể gây kích thích mắt. Bắn formalin vào mắt có thể gây loét màng sừng ở mắt,
thủng mắt, mất thị lực vĩnh viễn, các ảnh hưởng này có thể bị chậm lại tới 12 giờ hoặc
hơn.
Do vậy một số nước đã ban hành quy định về giới hạn phơi nhiễm với
formaldehyt tại nơi làm việc. Ví dụ: Mỹ
ban hành giới hạn phơi nhiễm cho phép
(permissible exposure limit – PEL) là 0,75 ppm - tính trung bình cho ca làm việc 8
tiếng, còn giới hạn phơi nhiễm trong thời gian ngắn (short-term exposure limit –
STEL) là 2 ppm - thời gian phơi nhiễm là 15 phút.
II.2.2 Gây kích thích và dị ứng da

[1, 20, 21, 22, 23, 25, 26]

Phơi nhiễm qua da là một trong những đường phơi nhiễm chính với
formaldehyt. Formaldehyt được phân loại là chất gây dị ứng mạnh (strong sensitizer).
Da tiếp xúc với formaldehyt có thể dẫn đến các phản ứng từ kích thích nhẹ cho tới
viêm da dị ứng nghiêm trọng. Các dung dịch formaldehyt đậm đặc sẽ làm cho da bị
biến màu, rạn da, khô da và da có vảy. Tiếp xúc kéo dài hoặc nhiều lần sẽ gây ra tình
trạng da tê cóng và cứng hoặc làm sạm da. Tiếp xúc sau đó của da mẫ
n cảm với lượng
nhỏ formaldehyt có thể gây ra sự bùng phát của bệnh viêm da trên toàn cơ thể.
Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hấp thụ formaldehyt qua da. Nếu cá nhân đang bị
viêm da hoặc bị mụn trứng cá và/hoặc nếu có vết đứt hoặc bị kích thích, sự hấp thụ
tăng lên. Độ ẩm cao hoặc diện tích da bị phơi nhiễm cũng ảnh hưởng lên khả năng da
hấ
p thụ formaldehyt.
Trẻ em dễ bị tổn thương với formaldehyt bị hấp thụ qua da do tỷ số diện tích bề
mặt: trọng lượng cơ thể lớn hơn.

Việc chuẩn đoán bệnh viêm da tiếp xúc dị ứng do formaldehyt gây ra được thực
hiện bằng thử nghiệm con tem (patch test). Các thử nghiệm con tem được các bác sĩ da
liễu thực hiện trên các chủ thể có vấn đề về da trong các khoảng thờ
i gian khác nhau,
tại các nước khác nhau chỉ ra tỷ lệ phần trăm chủ thể có phản ứng dương tính với
formaldehyt như sau: 7,8% ở Bắc Mỹ (1992-1994); 1,6% ở Thụy Điển (1983-1984);
2,6% ở châu Âu (1988-1989) và 3,7% ở Ba Lan (1990-1994). Vào năm 1995, Fisher đã
kết luận rằng trong hơn 30 năm kinh nghiệm với thử nghiệm con tem, khoảng 1-4%
các chủ thể được thử nghiệm là mẫn cảm với formaldehyt. Với phác đồ thử nghiệm con
tem tiêu chuẩn, nồng độ formaldehyt tới 2% và cao hơn có thể gây kích thích da trên
các cá nhân không mẫn cảm.
Một nhóm chuyên gia Na Uy từ các thực nghiệm trên người đề xuất rằng
ngưỡng gây mẫn cảm của formaldehyt sẽ nằm trong khoảng nồng độ formaldehyt từ

×