Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 22 trang )

TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 1 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương

MỤC LỤC

Trang phụ bìa i
MỤC LỤC 1
I. Lí do chọn đề tài 2
II. Giải quyết vấn đề 3
2.1. Cơ sở lí luận. 3
2 2. Cơ sở thực tiễn 5
2.3. Tác dụng và ưu điểm 8
2.4. Phương pháp thiết kế sơ đồ tư duy. 10
2.4. Thiết kế một số bản đồ tư duy 12
2.5. Kết quả thực nghiệm thu được 19
2.6. Một số kiến nghị 20
III. KẾT LUẬN 21

TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 2 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lịch sử là những gì đã trải qua trong quá khứ, những sự kiện, những ngày tháng
nối tiếp lẫn nhau. Do vậy, bộ môn Lịch sử sẽ cung cấp một lượng kiến thức rất
lớn trong một khoảng thời gian hạn hẹp. Trong xu thế hiện nay, vấn đề cập nhật thông
tin và đổi mới luôn đặt lên hàng đầu. trong tình hình đó việc giảng dạy bộ môn Lịch sử
cần phải đổi mới, cần phải có định hướng chung để học sinh tiếp xúc với nhiều tri thức,
nhiều thông tin và rèn luyện kỹ năng làm bài, kỹ năng thực hành, đặc biệt là trong việc
nhớ được những kiến thức cơ bản nhất và những sự kiện lịch sử có tầm quan trọng đặc
biệt.


Như chúng ta biết lịch sử là một trong những nội dung vô cùng quan trọng thuộc
kiến thức xã hội. Việc nhận thức lịch sử vừa phải tuân thủ quy luật nhận thức nói
chung, nhưng đồng thời còn có nét đặc thù riêng “ Học sinh không thể trực tiếp nhận
thức ( tri giác ) các sự kiện lịch sử, vì lịch sử là cái đã qua không lặp lại nguyên xi,
không thể dựng lại hoàn toàn hay thí nghiệm như khoa học tự nhiên. Vì lẽ đó dạy học
lịch sử trước hết là một quá trình truyền thông tin, thu nhận và xử lý thông tin giữa giáo
viên và học sinh qua các phương tiện dạy học. Thông tin về sự kiện lịch sử càng chính
xác, chân thật, phong phú ( Sinh động và vừa sức thì nhận thức lịch sử của học sinh
càng sâu sắc bền vữnglời nói hình ảnh cũng như các loại đồ dùng trực quan( hiện vật,
tranh ảnh, bản đồ, băng đĩa, máy chiếu…. ) là những phương tiện dạy học, có khả năng
chứa hoặc truyền thông tin rất đa dạng và phong phú. Các phương tiện này đóng vai trò
rất quan trọng trong việc bảo đảm tính trực quan và tạo biểu tượng lịch sử chân thật cho
học sinh.
Môn học lịch sử có những đặc thù riêng nên việc hệ thống hoá kiến thức giúp HS
so sánh, đánh giá, lý giải vấn đề …nhờ vậy mà hiểu được lịch sử, phát triển tư duy
logich trong nhận thức lịch sử là một việc làm cần thiết. Việc sử dụng sơ đồ tư duy
huy động tối đa tiềm năng của bộ não, giúp học sinh học tập tích cực, hỗ trợ hiệu
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 3 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
quả các phương pháp dạy học. Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, giáo viên giúp
học sinh có thói quen tự tay ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc -
đã học, theo cách hiểu của học sinh với dạng sơ đồ tư duy.
Sau khi cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, giáo viên đưa ra
một chủ đề chính, đặt chủ đề này ở vị trí trung tâm bảng (hoặc vào trang vở, tờ giấy/
bìa) rồi đặt câu hỏi gợi ý để học sinh vẽ tiếp các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3 Mỗi bài
học được tự vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang giấy, giúp học sinh dễ ôn tập, dễ
xem lại kiến thức khi cần. Nếu học sinh thường xuyên tự lập sơ đồ tư duy sẽ phát
triển khả năng thẩm mỹ do việc thiết kế nó phải bố cục màu sắc, các đường nét, các
nhánh sao cho đẹp, sắp xếp các ý tưởng khoa học, súc tích… Và đó chính là để các

bạn chúng ta “Học cách học”: Chúng ta được học để tích lũy kiến thức, nhưng đã
bao giờ chúng ta học cách để lĩnh hội những kiến thức đó một cách hiệu quả chưa?
Chính vì điều đó trong quá trình giảng dạy môn lịch sử lớp 12, tôi xin trao đổi một
vài kinh nghiệm về vấn đề “ SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY VÀ HOC
TRONG TRƯỜNG THPT” nhằm giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức lịch sử để
các em dễ học dễ nhớ và khắc sâu kiến thức.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm bản đồ tư duy
Theo Tony Buzan, người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra bản đồ tư duy thì: “Bản
đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào
sâu các ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh trung tâm. Ý tưởng
hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho các ý
chính và đều được nối với các ý trung tâm. Với phương thức tiến dần từ trung tâm ra
xung quanh, bản đồ tư duy khiến tư duy con người cũng phải hoạt động tương tự. Từ đó
các ý tưởng của con người sẽ phát triển”.
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 4 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
2.1.2. Cơ sở khoa học
Từ trước tới nay, chúng ta thường ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường
thẳng, con số theo trật tự tuyến tính. Nghĩa là chúng ta mới chỉ sử dụng ½ bộ não- não
trái mà chưa sử dụng kĩ năng nào bên não phải – nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin
về nhịp điệu, màu sắc, không gian và sự mơ mộng.
Các nhà khoa học chỉ ra rằng bộ não của con người gồm 2 bán cầu: não phải và
não trái. Não phải nhạy cảm với các thông tin về màu sắc, nhịp điệu, hình dạng, tưởng
tượng…. những yếu tố đó sẽ tác động, kích thích não trái. Não trái thích hợp với các từ
ngữ, con số, tư duy và phân tích cho ra sản phẩm. Do đó người ta tìm cách kích thích
não phải tốt nhất và khi hai bán cầu não có sự tương tác, tác động, kích thích lẫn nhau
nó sẽ đem đến cho con người khả năng to lớn.

Dựa trên những đặc điểm đó của não bộ, Tony Buzan đã sáng tạo ra bản đồ tư
duy theo nguyên lí hoạt động của bộ não. Bản đồ tư duy không những sử dụng chữ, số,
các dòng kẻ mà còn có thể sử dụng cả màu sắc và hình ảnh. Các dòng kẻ, chuỗi, chữ,
số, và các danh sách được xử lí bằng chức năng thần kinh của não trái. Đây là bán cầu
não được sử dụng cho các công việc bình thường. Do đó khi sử dụng nó, tư duy sáng
tạo của con người bị giới hạn. Để thực sự trở nên sáng tạo, chúng cần sử dụng trí tưởng
tượng - chức năng hoạt động của bán cầu não phải như sự tri giác màu sắc, hình ảnh,
nhịp điệu, không gian.
Với đặc điểm trên, bản đồ tư duy kết hợp hoạt động của hai bán cầu não trái và
não phải. Điều này giải thích vì sao chúng ta có thể phát huy toàn bộ mọi khả năng tư
duy của mình khi sử dụng bản đồ tư duy. Như vậy bản đồ tư duy là một công cụ hỗ trợ
tư duy hiện đại, một kĩ năng sử dụng bộ não rất mới mẻ. Đó là một kĩ thuật hình họa,
một dạng sơ đồ kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp, tương thích
với cấu trúc, hoạt động của bộ não.
Nguyên tắc hoạt động của bản đồ tư duy đúng theo nguyên tắc liên tưởng “ý này
gọi ý kia” của bộ não. Ở vị trí trung tâm của bản đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 5 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
hiện một ý tưởng hay một khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm đó được nối với các hình ảnh
hay từ khóa cấp 1 bằng các nhánh chính. Từ các nhánh chính đó lại có sự phân nhánh
đến các từ khóa cấp 2 để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế sự phân nhánh cứ tiếp tục và các
khái niệm hay hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này tạo ra một
bức tranh tổng thể mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ, rõ ràng.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới dạy học môn Lịch sử luôn được các
nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều phương pháp, biện pháp mới liên tục được
đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học không
phải là những bình chứa thụ động mà là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá
trình học tập. Như vậy dạy Lịch sử là dạy cách tư duy, dạy cách đi tìm và tự chiếm lĩnh

lấy kiến thức. Đó là một định hướng giáo dục quan trọng hiện nay.
Bộ môn Lịch sử trong nhà trường THPT là một trong những bộ môn có dung
lượng kiến thức và số tiết dạy nhiều. Bộ môn này được cấu tạo bởi nhiều thành phần:
Lịch sử thế giới cổ - trung đại, Lịch sử thế giới cận – hiện đại, Lịch sử Việt Nam cổ -
trung đại , Lịch sử Việt Nam cận – hiện đại. Trong đó có một thành phần nội dung quan
trọng được phân bố đều ở cả 3 khối: 10,11,12 chính là phần Lịch sử. Kiến thức Lịch sử
có vị trí quan trọng. Nó trang bị cho học sinh toàn bộ những kiến thức khái quát nhất,
tiêu biểu nhất về một nhân vật, một thời kì, một giai đoạn, một châu lục. Từ đó, học
sinh có nền tảng kiến thức cơ bản, vững chắc đi sâu tiếp thu những bài học cụ thể.
Kết quả thi tuyển sinh môn sử những năm gần đây thấp hơn các năm trước là do
đề thi khác những năm trước, chứ còn việc dạy và học sử lâu nay vẫn như thế. Theo tôi,
đề thi môn sử những năm gần đây rất hay, vừa yêu cầu thí sinh phải tái hiện kiến thức
đã ghi nhớ, vừa kiểm tra trình độ hiểu những sự kiện, vấn đề lịch sử, kiểm tra khả năng
khái quát, tổng hợp của thí sinh. HS không những phải có trình độ về kiến thức lịch sử
mà phải có khả năng ngôn ngữ để phân tích đề và hiểu đề.
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 6 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
Qua thực tế chấm thi tuyển sinh những năm gần đây có thể đúc kết những lỗi thí
sinh thường mắc phải như: không xác định được phạm vi thời gian, không gian của sự
kiện và quá trình lịch sử; nhầm lẫn địa danh, địa điểm xảy ra sự kiện; khả năng diễn đạt
rất kém, chưa kể những sai sót hết sức ngớ ngẩn kiểu như hòa thượng Thích Quảng Đức
lại viết thành hoàng thượng Thích Quảng Đức
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến kết quả trên?
- Do xã hội có quan niệm không đúng về môn sử. Nhiều người coi lịch sử là môn
học thuộc lòng không cần tư duy. Trong khi đó, trên thực tế lịch sử đòi hỏi người học
phải có tư duy chính xác, khả năng khái quát và tổng hợp cao.
Tôi thấy rằng hiện nay vẫn còn nhiều HS yêu thích môn sử nhưng từ việc yêu
thích đến việc học còn có khoảng cách. Nhiều giáo viên (GV) phàn nàn với tôi rằng
trong giờ học sử nhưng HS cứ giở sách toán, lý ra học. Các em phải tập trung cho

những môn học liên quan đến việc chọn ngành, nghề, các em phải học những môn để
phục vụ thi cử. Đây là một trong những nguyên nhân khiến HS không nắm vững được
kiến thức môn sử.
Đúng là thí sinh chọn thi khối C phải đầu tư thời gian, công sức cho các môn
khoa học xã hội. Nhưng việc đầu tư thời gian với kết quả đạt được là hai vấn đề hoàn
toàn khác nhau. Ở lịch sử, đối tượng học tập thuộc về quá khứ, xa lạ với thời đại HS
đang sống. GV môn sử không thể làm sống lại Lê Lợi hay Quang Trung cũng như
không thể làm thí nghiệm để dựng lại một sự kiện lịch sử. Thời gian càng lùi xa thì việc
nhận thức bản chất của sự kiện và hiểu sâu về sự kiện lịch sử càng khó. Nếu GV không
biết kết hợp nhiều biện pháp hỗ trợ thì HS sẽ rất khó khăn trong việc tiếp nhận kiến
thức.
Trong khi đó, nhà trường phổ thông cũng như GV hiện phải chịu sức ép về tỉ lệ
tốt nghiệp cuối cấp. Vì thế, họ tổ chức dạy và học phục vụ mục đích đậu tốt nghiệp cao.
Như trên tôi đã nói, đề thi tuyển sinh môn sử những năm gần đây đòi hỏi khả năng tư
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 7 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
duy độc lập, khái quát tổng hợp nhưng HS chưa được chuẩn bị tâm thế cho những dạng
đề này.
Các em đã quen với cách học thuộc lòng, những bài kiểm tra cuối học kỳ hay thi
tốt nghiệp, kể cả đề thi tuyển sinh phần lớn chỉ yêu cầu tái hiện kiến thức ghi nhớ, yêu
cầu về khả năng tư duy nếu có thì hàm lượng cũng rất thấp. Người ta thường nói thi như
thế nào thì học như thế ấy. Đề thi tuyển sinh những năm gần đây sẽ giúp GV và HS
điều chỉnh phương pháp giảng dạy và học tập của mình.
GV đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng giáo dục. Tuy đời
sống giáo viên day sử còn nhiều khó khăn nhưng thực tế cho thấy phần lớn GV môn sử
tâm huyết với nghề và có đủ khả năng đổi mới phương pháp dạy học.
Tuy nhiên, từ tâm huyết đến việc thực hiện đổi mới còn phải phụ thuộc nhiều
điều kiện khác nhau. Thực tế nhiều người đã nhìn nhận nội dung chương trình môn sử
quá nặng, sách giáo khoa thì quá hàn lâm, thiếu tính hấp dẫn. GV luôn sợ cháy giáo án

cũng phải thôi. Ví dụ ở chương trình lớp 12, với 66 tiết sử/năm học (kể cả giờ ôn tập,
tổng kết) GV phải truyền đạt các sự kiện từ năm 1919 - 1991 của sử Việt Nam và từ
năm 1945 - 1991 của sử thế giới - làm sao không lo được.
Chưa kể các thầy cô còn phải chịu sức ép về thi đua, nhiều trường lấy kết quả học
tập, thi cử của HS để đánh giá, xếp loại GV. Thêm vào đó, môn lịch sử cũng chưa thật
sự được cán bộ quản lý các trường và HS coi trọng, vẫn còn sự phân biệt môn chính,
môn phụ. Phần lớn các trường THPT hiện nay chưa có phòng học bộ môn dành cho lịch
sử. Đời sống GV hết sức khó khăn vì không thể dạy thêm như những môn khác Vì
thế, họ có ít điều kiện về thời gian, tiền bạc để đầu tư cho chuyên môn. Đó là cái “vòng
kim cô” hạn chế chất lượng giảng dạy môn lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Lịch sử không chỉ có tác dụng quan trọng trong việc trang bị những hiểu biết về
quá trình phát triển của dân tộc và nhân loại mà còn có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình
cảm cho HS. Không phải ngẫu nhiên mà Nghị viện châu Âu năm 1996 đã gửi thư
khuyến cáo các chính phủ: “ Lịch sử là một phương tiện để tìm lại quá khứ Lịch sử
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 8 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
là môn học phát triển khả năng tiếp cận có phê phán các nguồn thông tin góp phần bồi
dưỡng tinh thần dân chủ, lòng khoan dung và ý thức trách nhiệm của công dân”.
Vị trí, vai trò của môn lịch sử trong nhà trường nói riêng, tri thức lịch sử nói
chung lúc nào cũng rất cần thiết. “Lịch sử là người thầy của cuộc sống” là vì vậy
Nhưng thật đáng tiếc, người ta chưa thấy hết tầm quan trọng của lịch sử. Việc giáo dục
lịch sử không chỉ bó gọn trong nhà trường mà phải tiến hành một cách đa chiều.
Chúng ta có nhiều bộ phim tư liệu nhưng ít có những bộ phim truyện mang tính
sử thi phục dựng lại lịch sử một cách chân thực, hấp dẫn, phù hợp với tâm lý giới trẻ.
Lớp trẻ hiện nay ít có thời gian để đọc sách về lịch sử. Mà thị trường sách cũng ít có
những tác phẩm sử học, văn học phản ánh khách quan lịch sử và thu hút giới trẻ như
nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm hay liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc mà báo TS đã đăng
Tuy nhiên việc dạy Lịch sử cũng gặp nhiều khó khăn. Dung lượng kiến thức mỗi
tiết rất dài và có độ khái quát rất lớn. Để giờ dạy có hiệu quả thì cả người dạy và người

học đều phải tập trung cao độ, chuẩn bị kĩ nếu không sẽ không đủ thời gian. Trong khi
đó, kiến thức phần này lại khó và rộng, chủ yếu là các khái niệm khoa học trừu tượng
nên không phải người học nào cũng tạo cho mình một tâm lí thoải mái, hưng phấn khi
học, thậm chí còn thấy mệt mỏi, kém hứng thú. Hơn nữa phương pháp chủ yếu trong
các giờ học này là thuyết trình để chạy đua với thời gian nhằm đảm bảo dung lượng
kiến thức. Vì thế, ngoài việc sử dụng các phương pháp giảng dạy Lịch sử trước đây
chúng ta cần phải tiếp cận và sử dụng thêm phương pháp vẽ sơ đồ tư duy vào dạy học
lịch sử nhằm nâng cao hiệu quả nhận thức lịch sử.
2.3. Tác dụng và ưu điểm của việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học
lịch sử ở trường THPT
 Tác dụng của bản đồ tư duy:
- Tiết kiệm thời gian, công sức.
- Cung cấp bức tranh tổng thể.
- Tổ chức và phân loại suy nghĩ.
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 9 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
- Ghi nhớ tốt hơn.
- Kích thích tiềm năng sáng tạo.
- Sử dụng rộng rãi, hiệu quả và dễ dàng ở nhiều lĩnh vực
Bản đồ tư duy là một công cụ giúp học tập hiệu quả thông qua việc vận dụng
cả não phải và não trái giúp người học tiếp thu bài nhanh hơn, hiểu bài kĩ hơn, nhớ
được nhiều chi tiết hơn. Tuy nhiên bản đồ tư duy không phải là một tác phẩm hội
họa nên cần tránh rơi vào việc trang trí cầu kì, chau chuốt thay cho ghi chú (là mục
đích chính khi sử dụng bản đồ tư duy).
 Bản đồ tư duy đối với hoạt động giảng dạy bài Lịch sử của giáo viên có
những ưu điểm sau:
Sử dụng bản đồ tư duy như một công cụ để giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức
tổng hợp về bài học :
Với phương pháp bản đồ tư duy trong giảng dạy từng bước giáo viên sẽ giúp

học sinh tự mình phát hiện dần dần toàn bộ kiến thức bài học. Bắt đầu bằng những
kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm bài học- trung tâm bản đồ. Giáo viên giúp học
sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm bài học, những ý nhỏ trong
từng ý lớn cứ như vậy đến khi giờ học kết thúc cũng là lúc kiến thức tổng quát của
bài học được trình bày một cách sáng tạo, sinh động trên bản đồ. Không những cung
cấp cho học sinh kiến thức tổng thể, bản đồ tư duy còn giúp cho học sinh nhìn nhận
đa chiều mọi mặt của vấn đề, từ đó đưa ra các ý tưởng mới, phát hiện mới, tìm ra sự
liên kết, ràng buộc các ý tưởng trong bài tức tìm ra mạch lôgic của bài học. Sau khi
hoàn thiện, học sinh nhìn vào bản đồ là có thể tái hiện, thuyết trình lại được toàn bộ
nội dung kiến thức bài học. Đồng thời học sinh cũng có thể khẳng định được toàn bộ
dung lượng kiến thức của bài, xác định ý chính, ý phụ và lên kế hoạch học tập hiệu
quả.
Sử dụng bản đồ tư duy như một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm kiếm
kiến thức của học sinh:
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 10 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
Với những ưu điểm của mình, bản đồ tư duy trở thành một công cụ gợi mở,
kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Bước quan trọng nhất là giáo viên
giúp học sinh phát hiện, tìm kiếm được trung tâm bản đồ - trọng tâm bài học. Sau đó
theo nguyên lí bản đồ tư duy là ý nọ gợi ý kia dần dần giúp học sinh khám phá kiến
thức bài học. Bằng trí tưởng tượng cùng sự tập hợp kiến thức từ các nguồn, học sinh
phải biết cách phân tích tìm ra những từ khóa, hình ảnh chính xác nhất. Khi các
nhánh lớn được xây dựng giáo viên cũng nên hướng dẫn học sinh sắp xếp theo thứ
tự quan trọng bằng cách đánh số ở đầu mỗi nhánh. Điều đó giúp học sinh dễ dàng ôn
tập sau này. Cứ làm việc theo cách đó học sinh sẽ biết cách tự mình vận động, tìm
tòi khám phá, lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả.
Sử dụng bản đồ tư duy như một công cụ để củng cố, khái quát bài học của học
sinh:
Sau mỗi tiết học bao giờ cũng có phần củng cố, nhắc lại kiến thức trọng tâm.

Với cách học truyền thống, học sinh ghi chép và thực hiện kiến thức theo trật tự
tuyến tính nên khả năng nhớ kiến thức thường ít hơn < 50%dung lượng bài. Sử dụng
bản đồ tư duy giúp các em khắc phục được hạn chế đó. Sau mỗi giờ học, khi cần
củng cố kiến thức học sinh chỉ cần nhìn vào bản đồ tư duy có thể tái hiện được 80%-
90% kiến thức bài học. Đến khi ôn thi học sinh không phải mất một lượng lớn thời
gian để đọc lại kiến thức như cách học truyền thống mà chỉ cần quan sát lại sơ đồ
tổng thể vẫn có thể tái hiện nội dung bài học một cách cụ thể, chi tiết. Như thế học
sinh vừa nâng cao được kết quả học tập vừa tiết kiệm được thời gian.
Trong giảng dạy Lịch sử không có phương pháp, biện pháp nào là độc tôn, là
vạn năng cả. Người dạy cần kết hợp các phương pháp, biện pháp một cách sinh động
để gây hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả giờ dạy.
2. 4. Phương pháp thiết kế sơ đồ tư duy lịch sử
 Bước 1.
+ Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang)
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 11 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
+ Người vẽ sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có thể thay thế
cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình. Sau đó có
thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
+ Nên sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh.
+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, gợi ấn tượng sâu sắc về chủ đề.
 Bước 2.
+ Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm
+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra
một cách dễ dàng.
 Bước 3.
+ Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ

+ Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ chỉ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh.
+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian.
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Trên
mỗi khúc nên chỉ có tối đa một từ khóa.
+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến
các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng đường kẻ. Các
đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong được tổ
chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi
màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
 Bước 4.
+ Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật
cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn.
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 12 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
CHÚ Ý
Sơ Đồ Tư Duy là một công cụ giúp bạn học tập hiệu quả, tiết kiệm thời gian
thông qua việc tận dụng cả não trái lẫn não phải để giúp bạn tiếp thu bài nhanh hơn,
hiểu bài kỹ hơn, nhớ được nhiều chi tiết hơn. Tuy nhiên, Sơ Đồ Tư Duy không phải là
một tác phẩm hội họa. Cho nên, việc dành quá nhiều thời gian để trau chuốt cho Sơ Đồ
Tư Duy của bạn thành một “tác phẩm hội họa” có thể khiến bạn lãng phí hơn là tiết
kiệm thời gian. Bạn có thể dành những thời gian này để hoàn thành bài tập hoặc các
công việc cần thiết khác. Chính vì thế, bạn cần chú ý tránh rơi vào việc “trang trí, trau
chuốt” thay vì “ghi chú” (là mục đích chính khi bạn sử dụng Sơ Đồ Tư Duy). Ngay cả
đối với phương pháp ghi chú kiểu truyền thống cũng thế, một số học sinh tiêu phí rất
nhiều thời gian chỉ để “trang trí” cho những ghi chú mà không thật sự chú tâm vào việc
học.
Hơn nữa, tôi khuyên bạn luôn luôn vẽ Sơ Đồ Tư Duy cho chương sách trước khi

đến lớp nghe giảng. Nếu vì một lý do nào đó mà bạn không thể hoàn tất Sơ Đồ Tư Duy
trước giờ học, hãy để việc đó lại sau giờ học. Thời gian nghe giảng trong lớp hết sức
quan trọng và quý báu. Bạn cần phải tập trung 100% để đạt hiệu quả cao nhất.
Giáo viên nên sử dụng phần mềm Imindmap 6.0 để vẽ trên máy tính và in ra khổ
giấy lớn. Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu và vẽ sơ đồ thì giáo viên đưa ra cho học
sinh so sánh với sơ đồ của bản thân hay nhóm minh thiết kế từ đó điều chỉnh lại sơ đồ
tư duy cho đúng.
2.5. Thiết kế một số bản đồ tư duy cho một số bài học lịch sử chương trình THPT
Vì giới hạn về mặt thời gian và bước đầu tiếp cận với việc sử dụng sơ đồ tư duy vào
dạy học nên tôi chỉ mới triển khai thực nghiệm thí điểm ở một số lớp đang trực tiếp
giảng dạy . Số lượng sơ đồ tư duy chỉ được áp dụng ở một vài bài vài tiết học cụ thể.
Nhưng với tinh thần trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để vươn lên trong
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 13 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
công tác, tôi xin mạn phép đưa ra một số sơ đồ tư duy mà tôi đã thiết kế và sử dụng để
đồng nghiệp tham khảo. Rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp.
MỘT SỐ SƠ ĐỒ TƯ DUY LỊCH SỬ THPT
(ôn thi HSG lớp 11 và lịch sử lớp 12)














TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 14 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương


TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 15 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương

TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 16 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương

TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 17 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương


TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 18 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương

TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 19 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
2.5. Kết quả thực nghiệm thu được
Kết quả khảo sát 6 lớp trước khi sử dụng sơ đồ tư duy
LỚP

SỐ HS
GIỎI, KHÁ
TỶ LỆ%
TB
TỶ LỆ%
12A5
43
27
63
16
37
12A3
43
23
53
20
47
12A4
44
31
70
13
30
12A9
45
30
67
15
33
12A7

45
28
62
17
38
12 A1
43
26
60
17
40






Kết quả khảo sát 6 lớp sau khi dạy trước khi sử dụng sơ đồ tư duy
LỚP
SỐ HS
GIỎI, KHÁ
TỶ LỆ %
TB
TỶ LỆ %
12A5
43
34
79
9
21

12A3
43
35
81
8
19
12A4
44
37
84
7
16
12A9
45
36
80
9
20
12A7
45
35
78
10
22
12 A1
43
36
84
7
16







Đối chiếu bảng so sánh ta thấy khi sử dụng sơ đồ tư duy số lượng học sinh khá giỏi
tăng lên khá rõ, tỷ lệ trung bình giảm xuống đáng kể
LỚP
SỐ HS
GIỎI, KHÁ
Tăng thêm
TỶ LỆ %
Tăng lên
HS TB
giảm xuống

TỶ LỆ % giảm
xuống còn

12A5
43
7
16
7
16
12A3
43
12
28

12
28
12A4
44
6
14
6
14
12A9
45
6
13
6
13
12A9
45
7
16
7
16
12 A1
43
10
23
10
23
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 20 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương
2.6. Một số kiến nghị


Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học ở một số trường cho thấy, sử
dụng BĐTD trong dạy học kiến thức mới giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực
và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm
độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của HS và cũng là niềm
vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh HS khi chứng kiến thành quả lao động của học
trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không
chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên BĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã
học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp
hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Trước đây, các tiết ôn tập chương một số GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ,
biểu đồ,… và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của tài liệu,
chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó
chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Gần đây, sau một số đợt tập huấn của
Dự án THCS II, nhiều GV đã áp dụng thành công dạy học với việc thiết kế BĐTD. Có
thể kể đến một số trường tham gia dự án THCS II sau khi được tập huấn về đổi mới
PPDH (trong đó có nội dung thiết kế, sử dụng BĐTD) đã triển khai và bước đầu tạo
một không khí sôi nổi, hào hứng của cả thầy và trò trong các sinh hoạt ở tổ chuyên môn
cũng như hoạt động dạy học của nhà trường, là một trong những nội dung quan trọng
của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ
GD&ĐT đang đẩy mạnh triển khai.
BĐTD một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều
kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế BĐTD trên giấy,
bìa, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn, tẩy,… hoặc cũng có thể thiết kế
trên phần mềm BĐTD. Với trường có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có
thể cài vào máy tính phần mềm Mindmap cho GV, HS sử dụng, bằng cách vào trang
web www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap, ta có thể tải về bản
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 21 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương

demo ConceptDraw MINDMAP 5 Professional, phần mềm không hạn chế số ngày sử
dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn giản.
Bước đầu cho phép kết luận: Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình
thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề
một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học
tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới
PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THPT.
Vì lẽ đó, chúng tôi có mấy kiến nghị sau:
Một là, Sở Giáo dục và Đạo tạo nên sớm triển khai việc sử dụng sơ đồ tư duy vào
dạy học cho tất cả các bộ môn ở tất cả các trường THPT trên địa bàn tỉnh.
Hai là, tổ chức lớp tập huấn cho cán bộ cốt cán về kĩ năng thiết lập sơ đồ tư duy
và phương pháp vận dụng sơ đồ tư duy cho từng bộ môn.
Ba là, tổ chức cuộc thi thiết kế sơ đồ tư duy cho giáo viên và học sinh THPT trên
địa bàn tỉnh. Trước mắt nên chọn một số nội dung quan trong của từng bộ môn để làm
thí đỉểm sau đó triển khai rộng rãi và trải đều theo từng môn học.
Bốn là, đưa nội dung thiết kế và sử dụng sơ đồ tư duy vào nội dung đánh giá việc
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nghiệp vụ đối với giáo viên. Việc làm này sẽ góp phần
nâng cao ý thức trách nhiệm và thu hút sự quan tâm của giáo viên đối với việc sử dụng
sơ đồ tư duy vào trong quá trình dạy học.
III. KẾT LUẬN
Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình thức
ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một
mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu
sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ,
chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một
kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ
đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó
TTHPTBMT: Tên đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học lịch sử ở trường THPT”

Người thực hiện 22 NTH: Nguyễn Thị Minh Lương

việc lập BĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
Tâm lý học sinh cung như chúng ta đều rất ngại học thuộc lý thuyết và việc học
thuộc trong SGK là tương đối “khó nhá”. Nhưng nêu giáo viên giảng dạy và hướng dẫn
cho học sinh sử dụng Sơ đồ tư duy thì việc học thuộc và ghi nhớ kiến thức đã đơn giản
hơn rất nhiều. Sơ đồ tư duy giúp học sinh tiết kiệm thời gian vì nó chỉ tận dụng những
từ khoá và những ý chính. Bằng những hình ảnh, màu sắc, Sơ đồ tư duy gây hứng thú
cho việc học nhiều hơn là chỉ đơn thuần học ở vở, SGK. Và Sơ đồ tư duy còn giúp bạn
tận dụng tối đa khả năng sáng tạo của mình.
Theo đánh giá của nhiều giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, bản đồ tư duy sau
khi ứng dụng vào các tiết học đã mang lại hiệu quả thiết thực như: giúp học sinh thuộc
bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và lâu những nội dung của bài học. Mặt khác, dạy
học bằng BĐTD giúp học sinh không nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi, hào hứng
từ đầu đến cuối tiết học. Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc củng cố kiến thức
và rèn luyện, phát triển tư duy logic, năng lực cho học sinh, nhất là những học sinh khá,
giỏi. Việc triển khai này hoàn toàn rất đơn giản, có thể áp dụng ở tất cả các đơn vị
trường học. Những nơi không có điều kiện vẫn có thể áp dụng được bởi vì nó không đòi
hỏi tốn kém về phương tiện, có thể là 1 trang giấy A4, giấy rô ki, mặt sau tờ lịch hoặc
vẽ trên bảng… thầy cô và các em có thể vẽ bản đồ tư duy. Ngoài ra, học sinh có thể tự
học ở nhà rất hiệu quả, không tốn kém
Đổi mới phương pháp dạy và học là điều mà ngành giáo dục luôn cố gắng thực
hiện để nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, việc thực hiện riêng lẻ nhất định sẽ
không mang lại hiệu quả cao mà cần có sự vào cuộc đồng bộ của các cấp lãnh đạo.
Chính vì vậy, lần triển khai phương pháp dạy học mới này, Bộ GD&ĐT đã có công văn
8277 và công văn 295 do Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển ký chỉ đạo triển khai tập huấn
5 chuyên đề trong đó có Bản đồ tư duy trên diện rộng. Chúng tôi hy vọng rằng ngành
giáo dục tỉnh nhà nhanh chóng triển khai chủ trương này đến tất cả các trường học trên
địa bàn nhằm góp phần tạo nên sự chuyển biến tích cực trong lĩnh vực giáo dục tỉnh ta.

×