Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

“ Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 79 trang )

Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước trong thời gian qua đã thu được
những kết quả khả quan, tạo được niềm tin trong nhân dân cũng như các nhà đầu
tư trong và ngoài nước. Cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hoạt
động Ngân hàng đã có những bước tiến đáng kể, góp phần tích cực vào việc
kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế
giới.
Tuy nhiên, hoạt động của ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập cả về cơ chế
chính sách và tổ chức hoạt động. Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành ngân
hàng vẫn còn những hạn chế. Một trong những hạn chế là vấn đề các ngân hàng
chỉ trú trọng cho vay đối với các đối tượng khách hàng là doanh nghiệp mà chưa
quan tâm đến cho vay tiêu dùng cho đối tượng khách hàng cá nhân.
Thị trường cho vay tiêu dùng những năm gần đây rất phát triển, và trở
thành thị trường rất hấp dẫn đối với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, do
hình thức vay tiêu dùng còn khá mới mẻ đối với người Việt Nam và các ngân
hàng thương mại nên còn nhiều bất cập. Nhận thấy đây là thị trường tiềm năng
trong tương lai đối với các ngân hàng thương mại và cũng xu hướng tất yếu khi
xã hội ngày càng phát triển. Chính vì thế nên em đã chọn đề tài “ Mở rộng cho
vay tiêu dùng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng
Long” làm chuyên đề thực tập.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
1
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
Chuyên đề thực tập gồm có các phần:
Chương 1: Lý luận chung về cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long.
Chương 3: Các giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long.


Với đề tài này em hy vọng những lý luận và thực tiễn về cho vay tiêu dùng
trong đề tài sẽ giúp ích cho những người quan tâm đến việc mở rộng hoạt động
cho vay tiêu dùng.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
2
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS Trần Thị Thanh Tú đã giúp đỡ,
định hướng cho em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo ở khoa Ngân hàng – Tài
chính, trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã dạy dỗ đào tạo và giúp đỡ em trong
quá trình học tập tại trường.
Cám ơn ban lãnh đạo của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh
Thăng Long cùng các anh chi công tác trong phòng Tín dụng và Quan hệ khách
hàng đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực tập và tạo điều kiện để em thu
thập các tài liệu liên quan.
Hà Nội, ngày 5 tháng 3 năm 2008
Sinh viên :
Lê Hoàng Vỹ
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
3
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại và các hình thức cho vay của ngân
hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm cơ bản về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại được hiểu một cách tổng quát là một trung gian tài

chính hoạt động trên lĩnh vực đặc biệt đó là kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ
ngân hàng.
Thật vậy, Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính quan trọng nhất
của nền kinh tế, đóng vai trò thủ quỹ của toàn xã hội. Hàng triệu cá nhân, hộ gia
đình, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng.
Đồng thời, Ngân hàng cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh
nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần với chính phủ. Trong đó, đối với các
doanh nghiệp, Ngân hàng thường cung cấp các khoản tín dụng phục vụ cho nhu
cầu mua hàng hoá, dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi
doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá
và dịch vụ thì họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng và các tài khoản
điện tử… Và khi họ cần thông tin hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến
Ngân hàng để được tư vấn.
Hoạt động của Ngân hàng thương mại bao gồm: nghiệp vụ huy động vốn,
nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian tài chính. Các nghiệp vụ trên
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau làm cho Ngân hàng ngày càng
phát triển và tạo được uy tín trên thị trường tài chính.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
4
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
Hiện nay, Ngân hàng thương mại được phân loại theo các hình thức:
- Phân chia theo hình thức sở hữu: Gồm có ngân hàng sở hữu tư nhân,
ngân hàng cổ phần, ngân hàng sở hữu Nhà nước và ngân hàng liên doanh.
- Phân chia theo tính chất hoạt động: Gồm có ngân hàng hoạt động
chuyên doanh và đa năng, ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ. Ngân hàng
hoạt động theo hướng chuyên doanh là ngân hàng chỉ tập trung cung cấp một số
dịch vụ ngân ngân hàng. Ngân hàng hoạt động theo hướng đa năng là ngân hàng
cung cấp mọi loại dịch vụ ngân hàng cho mọi loại đối tượng. Ngân hàng hoạt
động bán buôn là cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng, các công ty tài chính,
cho Nhà nước, cho những doanh nghiệp lớn. Ngân hàng hoạt động bán lẻ cung

cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân, với các
khoản tín dụng nhỏ.
- Phân chia theo cơ cấu tổ chức: Gồm có ngân hàng sở hữu công ty và
công ty sở hữu ngân hàng, ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh. Ngân
hàng sở hữu công ty là nắm giữ phần vốn chi phối của công ty, cho phép ngân
hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty. Ngân
hàng thuộc sở hữu của công ty là các tập đoàn kinh tế thường tổ chức thành lập
các ngân hàng nhằm cung cấp dịch vụ tài chính cho các đơn vị thành viên của
tập đoàn và ngoài tập đoàn.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
- Hoạt động kinh doanh ngoại hối:
Đây là hoạt động đầu tiên mà ngân hàng thực hiện với nội dung là ngân
hàng đứng ra mua hoặc bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và thu được
lợi nhuận nhờ chênh lệch giá và phí dịch vụ. Ngày nay, hoạt động này đã mở
rộng ra rất nhiều các hình thức dịch vụ phong phú như: Mua bán, trao đổi, gửi
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
5
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
vay các loại ngoại tệ với các nghiệp vụ như giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền
chọn và tương lai. Các ngân hàng thương mại tham gia giao dịch ngoại hối với
hai mụch đích. Một là, ngân hàng cung cấp dịch vụ cho khách hàng, chủ yếu là
mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng riêng lẻ, và ngân hàng thu một khoản
phí. Hai là, ngân hàng kinh doanh ngoại hối nhằm kiếm lời khi tỷ giá thay đổi.
- Hoạt động huy động vốn:
Các Ngân hàng cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền
kinh tế để duy trì hoạt động và phát triền cần vốn. Nguồn vốn của Ngân hàng
gồm có vốn tiền gửi, vốn tiền vay, vốn chủ sử hữu và vốn uỷ thác đầu tư. Để
thực hiện hoạt động này Ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành các giấy nợ hoặc cổ
phiếu với cam kết sẽ hoàn trả khách hàng đúng hẹn kèm theo một khoản tiền gọi
là tiền lãi. Việc huy động được càng nhiều vốn sẽ càng tạo điều kiện cho Ngân

hàng mở rộng kinh doanh do đó các Ngân hàng luôn tìm kiếm các nguồn vốn với
chi phí thấp và ổn định, đa dạng hoá các hình thức và lãi suất tiền gửi, giấy nợ
nhằm thu hút được nhiều vốn trong nền kinh tế.
- Hoạt động sử dụng vốn:
Đây là hoạt động Ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư
hoặc cấp tín dụng. Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của
Ngân hàng và là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Bên cạnh
hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng mở rộng danh mục tài sản bằng cách đầu tư
vào các giấy tờ có giá như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty Các hoạt
động đầu tư và tín dụng mang lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng nhưng lại
chứa đựng nhiều rủi ro nên các Ngân hàng thường rất thận trọng khi thực hiện
hoạt động này.
- Các hoạt động khác:
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
6
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
Các hoạt động ngân hàng khác có thể kể ra ở đây như là hoạt động bảo
quản vật có giá, cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý
ngân quỹ, tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ, cho thuê thiết bị trung và dài
hạn, cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng
khoán, bảo hiểm, dịch vụ đại lý… Các hoạt động này mang lại nguồn thu nhập
cho ngân hàng thông qua việc thu phí và chứa đựng ít rủi ro. Do vậy, các ngân
hàng hiện đại ngày nay đang mở rộng hoạt động dịch vụ này nhằm tăng nguôn
thu giảm bớt rủi ro.
1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm:
Cho vay là hoạt động truyền thống và là chức năng kinh tế hàng đầu của
các ngân hàng, giúp ngân hàng thực hiện việc chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Ngân hàng thương mại có thể cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp
ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, đời sống và cũng có thể cho các tổ

chức, cá nhân vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh.
Ta có thể tóm tắt lại rằng: “Cho vay là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc
hàng hoá) giữa bên cho vay ( Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên
đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay
chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo
thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho
bên đi vay khi đến hạn thanh toán”.
Đối với phần lớn các ngân hàng thì khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá
trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/3 đến 1/2 thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên rủi ro
trong hoạt động ngân hàng lại tập trung vào danh mục các khoản cho vay.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
7
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
1.1.2.2. Phân loại hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Để phân loại hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại thì có rất nhiều
tiêu thức để phân loại như: Phân loại theo thời gian, theo tài sản đảm bảo, theo
đối tượng vay, theo phương thức vay, theo nguồn cho vay… Cụ thể là:
• Phân loại theo thời gian thì ta có: cho vay ngắn hạn là các khoản
vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống, cho vay trung hạn là các
khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm và cho vay dài hạn là các
khoản vay có thời hạn trên 5 năm.
• Phân loại theo tài sản đảm bảo: bao gồm có đảm bảo bằng uy tín
khách hàng và có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Đảm bảo
bằng uy tín khách hàng đối với khách hàng làm ăn thường xuyên có
lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây
dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay… Đảm
bảo bằng tài sản đối với khách hàng mới, đối với các khoản vay lớn
đòi hỏi ngân hàng phải có phương án để dự phòng khi khách hàng
không thanh toán được nợ cho ngân hàng…

• Phân loại theo mục đích sử dụng vốn: Bao gồm cho vay nhằm mục
đích sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng.Cho vay nhằm mục
đích sản xuất kinh doanh là ngân hàng cho các tổ chức, các doanh
nghiệp hay các công ty vay để kinh doanh dịch vụ hay thực hiện các
dự án đầu tư, các phương án sản xuất. Cho vay tiêu dùng là ngân
hàng cho cá nhân hay hộ gia đình vay để đáp ứng nhu cầu mua sắm
hàng tiêu dùng như mua ôtô, mua nhà ở …
Cho vay tiêu dùng là một trong những dịch vụ ngân hàng mới phát triển
gần đây nhưng đã tỏ rõ được ưu thế của nó so với các khoản cho vay khác của
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
8
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
ngân hàng. Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành một xu hướng tất
yếu và là một thị trường tiềm năng để các ngân hàng nâng cao năng lực cạnh
tranh trên thị trường tài chính.
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của cho vay tiêu dùng
1.2.1.1. Khái niệm
Hoạt động cho vay tiêu dùng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng( người
cho vay) và các cá nhân, người tiêu dùng(người đi vay) nhằm tài trợ cho các
phương án phục vụ đời sống, tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá dịch vụ khi người
tiêu dùng chưa có khả năng thanh toán trên nguyên tắc người tiêu dùng sẽ hoàn
trả cả gốc và lãi tại một thời điểm xác định trong tương lai.
Nếu như cho vay sản xuất kinh doanh là hình thức tín dụng mà trong đó
ngân hàng thương mại cấp cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nhằm tài
trợ cho các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh… thì cho vay tiêu dùng
lại là một sản phẩm rất hữu ích nhằm tài trợ cho những nhu cầu tiêu dùng cá
nhân, hộ gia đình. Như vậy, khác với các khoản cho vay sản xuất kinh doanh thì
các khoản cho vay tiêu dùng giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá dịch
vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có thể hướng tới cuộc sống cao

hơn như mua xe, các dụng cụ dân dụng, chi phí nghỉ ngơi, du lịch…
1.2.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Cũng là một hình thức cho vay của ngân hàng dành cho cá nhân và hộ gia
đình, cho vay tiêu dùng có đầy đủ đặc điểm chung của một hình thức cho vay
như đối tượng cho vay, nguyên tắc cho vay, thu nhập từ các khoản vay và rủi ro
từ các khoản vay. Ngoài ra cho vay tiêu dùng còn có các đặc điểm sau:
- Quy mô món vay nhỏ
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
9
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
Người tiêu dùng luôn có sự tích luỹ từ trước khi có ý định mua sắm các tài
sản có giá trị lớn ( do tâm lý cũng như trong điều lệ cho vay của các ngân hàng
thường là người tiêu dùng phải có đủ vốn chủ sở hữu trước khi vay vốn). Hơn
nữa, giá cả hàng hoá dịch vụ tiêu dùng thường không lớn so với quy mô vốn của
một ngân hàng.
- Rủi ro lớn
Nguyên nhân các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro cao là vì:
Thứ nhất, các khoản cho vay này có lãi suất cố định nên ngân hàng phải
chịu rủi ro lãi suất khi chi phí huy động tăng lên.
Thứ hai, đối tượng của cho vay tiêu dùng là cá nhân, hộ gia đình nên chất
lượng các thông tin tài chính của khách hàng thường không cao. Tư cách của
khách hàng là một yếu tố rất quan trọng, quyết định sự hoàn trả của khoản vay
nhưng lại rất khó xác định. Trong cho vay đối với hộ sản xuất kinh doanh, nguồn
trả nợ được lấy từ kết quả kinh doanh, còn trong cho vay tiêu dùng thì nguồn trả
nợ là thu nhập hoặc tài sản của người vay. Khả năng trả nợ thay đổi nhanh chóng
khi người vay thay đổi điều kiện làm việc hoặc sức khoẻ giảm sút, khả năng bù
đắp trong trường hợp rủi ro hầu như không có. Lý do là các cá nhân dễ dàng giữ
kín các thông tin đáng ra phải trình bày( như triển vọng về công việc cũng như
tình trạng sức khoẻ) hơn là hầu hết các hãng kinh doanh khác( vì các hãng kinh
doanh này sẽ phải gửi kèm theo đơn xin vay mọi giấy tờ chứng nhận về tài chính

đã được kiểm toán). Hơn nữa, cá nhân và hộ gia đình không thể dễ dàng vượt
qua các khó khăn về tài chính so với một hãng kinh doanh. Đấy là chưa kể đến
những trường hợp người đi vay cố tình lừa đảo. Trong những trường hợp như
vậy thì dù có nắm giữ tài sản đảm bảo hay không thì các Ngân hàng vẫn phải đối
mặt với rủi ro giảm thu nhập.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
10
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
- Lãi suất cao
Cho vay tiêu dùng là một khoản đem lại lợi nhuận rất cao cho các Ngân
hàng với lãi suất “cứng nhắc” tức nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của
Ngân hàng và có một khoản lãi cần thiết. Không như hầu hết các khoản cho vay
kinh doanh, lãi suất cho vay thường biến động theo điều kiện thị trường, như vậy
với cho vay tiêu dùng Ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động
vốn tăng lên. Tuy nhiên, các khoản vay này thường được định giá rất cao đến
mức mà bản thân lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải
tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi
nhuận.
Lý do chính khiến các khoản vay tiêu dùng có lãi suất cao nhất trong
thang lãi suất cho vay của Ngân hàng đó là do chi phí và rủi ro của các khoản
vay tiêu dùng là cao nhất trong các loại cho vay của Ngân hàng. Tất nhiên đây
cũng không phải là lý do đặc biệt gì vì đó luôn là nguyên nhân chính làm cho giá
cả của các khoản tín dụng Ngân hàng thông thường tăng lên. Nguyên nhân có thể
do:
Đặc điểm về quy mô của món vay tiêu dùng thường nhỏ, thời gian vay
không kéo dài lâu trong khi số lượng các món vay tiêu dùng thường lại rất lớn.
Hơn nữa, thông tin về các cá nhân thường không đầy đủ và chính xác hoàn toàn,
tiêu dùng là hoạt động không mạng lại các lợi ích kinh tế cụ thể cho người tiêu
dùng, không cho các con số cụ thể về thu nhập từ hoạt động sử dụng vốn vay hay
các nguồn thu nhập cụ thể cho người tiêu dùng nên gây khó khăn cho cán bộ tín

dụng từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định các nguồn trả nợ Ngân hàng của các
khách hàng vay vốn, giải ngân và thu nợ. Điều đó làm cho chi phí mỗi món vay
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
11
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
cao và rủi ro các khoản vay này tăng lên so với các loại cho vay kinh doanh luôn
có những con số cụ thể với chi phí và thu nhập rõ ràng từ các nguồn công khai.
- Có tính nhạy cảm theo chu kỳ:
Cho vay tiêu dùng thường có tính nhạy cảm theo chu kỳ, nó tăng lên trong
thời kỳ nền kinh tế mở rộng, khi mà mọi người dân cảm thấy lạc quan về tương
lai. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình
cảm thấy không tin tưởng nhất là khi họ thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và
họ sẽ hạn chế việc vay mượn từ Ngân hàng, và khi đó tình trạng chất lượng
khách hàng cũng giảm khiến tỉ lệ khách hàng được vay vốn cũng giảm xuống.
Ngoài ra, cho vay tiêu dùng còn có một số đặc điểm như: Khi vay tiền, cá
nhân người tiêu dùng thường không quan tâm đến khoản tiền họ phải trả hàng
tháng hơn là lãi suất mặc dù chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến quy
mô số tiền phải trả. Trong khi lãi suất không phải là một trong những yếu tố
quan trọng mà hộ gia đình vay tiền quan tâm thì mức thu nhập và trình độ dân trí
lại tác động rất lớn đến việc sử dụng các khoản tiền vay của người tiêu dùng.
Những người có thu nhập cao có xu hướng vay nhiều hơn so với thu nhập hàng
năm của mình. Những gia đình mà người chủ gia đình hay người tạo thu nhập
chính có học vấn cao cũng vậy. Với họ, việc vay mượn là một công cụ để đạt
được mức sống như mong muốn hơn là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình
trạng khẩn cấp.
- Lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng là rất đáng kể
Tương ứng với mức rủi ro cao như vậy thì các khoản tín dụng tiêu dùng có
được một mức lợi nhuận rất lớn trong các nguồn thu của ngân hàng. Bên cạnh
đó, số lượng các khoản vay tiêu dùng khá nhiều khiến cho tổng quy mô cho vay
tiêu dùng rất lớn, và cùng với mức lợi nhuận trên mỗi khoản vay tiêu dùng sẽ

Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
12
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
khiến cho lợi nhuận thu về từ hoạt động cho vay là rất đáng kể trong tổng lợi
nhuận của ngân hàng.
Chính vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi về đối tượng khách
hàng trong lĩnh vực này mà đối với hầu hết các nước phát triển hiện nay, cho vay
tiêu dùng đã trở thành một trong những nguồn thu chủ chốt của các ngân hàng
thương mại, đóng vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng cũng như quản lý
ngân hàng và vẫn còn tiếp tục hứa hẹn nhiều triển vọng trong việc phát triển loại
hình tín dụng này trong tương lai. Tại các nước đang phát triển, loại hình cho
vay này cũng đang dần khẳng định được vai trò của mình, đem lại những lợi
nhuận không nhỏ trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
1.2.2. Đối tượng của cho vay tiêu dùng
Do cho vay tiêu dùng là một hướng cho vay cụ thể của ngân hàng bán lẻ
nên cách phân loại khách hàng cá nhân cũng tương tự như cách phân loại khách
hàng cá nhân theo nhóm thu nhập của ngân hàng bán lẻ. Cụ thể là khách hàng cá
nhân của cho vay tiêu dùng cũng được chia làm ba nhóm như sau:
- Nhóm thứ nhất: Những cá nhân có thu nhập cao
Những đối tượng này thường cần đến tín dụng với tư cách là những khoản
phụ trợ linh hoạt, trợ giúp thêm khả năng thanh toán, đặc biệt khi tiền của họ đã
bị trói chặt vào những khoản đầu tư dài hạn. Mặc dù sự vay mượn nhằm mục
đích tiêu dùng chỉ thể hiện một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản mà họ đang sở
hữu, song họ lại thường xuyên cần chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với những
món tiền lớn. Và chính vì lý do này mà các ngân hàng tỏ ra đặc biệt quan tâm
đến nhóm khách hàng đi vay này.
- Nhóm thứ hai: Những cá nhân có thu nhập trung bình:
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
13
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập

Nhu cầu về tín dụng của nhóm này có xu hướng tăng trưởng ngày càng
mạnh. Việc mong muốn chi tiêu ngay lập tức các nguồn tài chính trong tương lai
hoặc việc không thể điều tiết nhu cầu của mình mà chạy theo những chi tiêu có
tính chất phô trương dẫn đến quá khả năng thu nhập là nguyên nhân có thể làm
nảy sinh các nhu cầu về tín dụng của nhóm khách hàng này.
- Nhóm thứ ba: Những người có thu nhập thấp
Nhu cầu tín dụng của nhóm này thường rất hạn chế do thu nhập của họ
thường không đủ để thoả mãn những nhu cầu chi tiêu đa dạng của họ. Tuy nhiên,
những người này cũng có các mong muốn chi tiêu không khác mấy so với những
người có thu nhập cao hơn. Vì vậy, nếu có những chính sách và biện pháp hợp lý
thì cũng có thể hình thành được các món tín dụng hợp lý đến nhóm khách hàng
này.
Nhìn chung, nhu cầu về tín dụng của hai nhóm đầu là rất cao, thường
chiếm tỉ trọng lớn trong tổng mức cầu tiều dùng cúa cá nhân. Vì lẽ đó, nhu cầu
cho vay tiêu dùng chủ yếu đến từ những người có thu nhập trung bình và thu
nhập cao, nhưng không vì thế mà các nhà quản trị ngân hàng, các nhà kinh
doanh lại bỏ ngỏ nhu cầu tín dụng tiêu dùng của nhóm khách hàng có thu nhập
thấp mà phải có những chính sách và sản phẩm phù hợp để phục vụ mọi nhu cầu
của mọi nhóm đối tượng khách hàng.
1.2.3. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng
1.2.3.1. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với khách hàng
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng. Do vậy, khách hàng của cho vay tiêu dùng cũng chính là
người tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình. Nhờ những
khoản cho vay tiêu dùng, họ có thể mua sắm những hàng hoá cần thiết có giá trị
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
14
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cuộc sống ngay cả khi khả năng tài
chính hiện tại của họ không cho phép.

Thực tế, đối với cá nhân và hộ gia đình thường nảy sinh nhiều nhu cầu
mang tính tự nhiên, thiết yếu, có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống. Ví dụ như
nhu cầu về mua sắm, sửa chữa nhà cửa, mua các đồ dùng tiện nghi sinh hoạt,
mua sắm các phương tiện như xe máy, ôtô, du lịch, học hành…
Mặc dù những nhu cầu thiết yếu thì nhiều nhưng của cải thì được tích luỹ
theo thời gian, do vậy khả năng tài chính thường bị giới hạn. Vì vậy người ta
thường mua sắm nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt sau một khoản thời gian dài tích
luỹ. Khi đó lợi ích cảm nhận được từ sự hưởng thụ sẽ ít đi. Do vậy người tiêu
dùng sẽ tìm cách để phối hợp khéo léo giữa việc thoả mãn các nhu cầu với yếu tố
thời gian và khả năng thanh toán trong hiện tại và tương lai. Điều này có nghĩa là
người tiêu dùng sẽ tìm cách để hưởng thụ trước số tiền sẽ có trong tương lai. Nếu
ta phân tích theo khía cạnh tài chính thì việc mượn tiền trước của ngân hàng để
tiêu dùng đòi hỏi chúng ta phải trả lãi thực chất là cách quy đổi luồng tiền mà ta
sẽ có tại một thời điểm nào đó trong tương lai về thời điểm hiện tại.
Khi xuất hiện cho vay tiêu dùng, sức mua sắm của người dân sẽ tăng
nhanh, do đó mang lại sức mua rất lớn cho thị trường, tuy nhiên sự lựa chọn
hàng hoá sẽ trở nên khắt khe hơn, cầu kỳ hơn, kỹ lưỡng hơn, do đó cạnh tranh sẽ
trở nên gay gắt hơn dẫn đến nhà sản xuất sẽ phải chú trọng vào chất lượng và
luôn sản xuất ra những sản phẩm tốt hơn nữa để tung ra thị trường, vì vậy người
tiêu dùng sẽ được hưởng những dịch vụ tốt nhất tương ứng với đồng tiền mà
mình bỏ ra.
Cho vay tiêu dùng chính là một giải pháp, nhờ vay tiêu dùng mà người
tiêu dùng được hưởng các lợi ích trước khi họ tích luỹ đủ tiền để mua sắm. Bên
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
15
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
cạnh đó cho vay tiêu dùng còn đặc biệt cần thiết và có ý nghĩa khi đáp ứng nhu
cầu chi tiêu mang tính cấp bách như chi tiêu cho học hành, khám chữa bệnh…
Như vậy, việc ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng sẽ mang lại cho
người tiêu dùng những lợi ích tốt nhất.

1.2.3.2. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với ngân hàng thương mại
Hiện nay, các ngân hàng thương mại phải đối mặt với sự cạnh tranh gay
gắt của các tổ chức tài chính phi ngân hàng như công ty bảo hiểm, công ty chứng
khoán… Do vậy, để thành công thì ngân hàng phải dựa vào khả năng xác định
các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu và thực hiện các dịch vụ đó một cách
hiệu quả. Như vậy để tăng tính cạch tranh của ngân hàng thương mại thì cần phải
phát triển một cách toàn diện hoạt động của ngân hàng cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu, trong đó cho vay tiêu dùng đóng một vai trò quan trọng trong việc xây
dựng chiến lược cạnh tranh của ngân hàng. Hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ là
tăng thu nhập của ngân hàng, mở rộng và tăng cường mối quan hệ giữa ngân
hàng với doanh nghiệp, tăng cường khả năng cạnh tranh cũng như tạo hình ảnh
và thương hiệu đối với công chúng.
Với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng tiền đó để cho vay kiếm lời, các ngân hàng thương mại song song với nỗ
lực huy động vốn, phải khai thác thị trường tín dụng một cách triệt để, nghĩa là
tìm cách để đảm bảo khả năng đáp ứng và trên cơ sở đó thoả mãn tốt nhất các
nhu cầu về tín dụng của nền kinh tế. Vì vậy, sẽ là sai lầm và thiếu sót nếu bỏ qua
thị trường khách hàng cá nhân. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng thương mại
không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng những
khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô nhỏ và rủi ro vỡ nợ cao do đó làm
cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ XX, các ngân hàng thương
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
16
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
mại bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tiến hành cho vay
thương mại. Và rồi, sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho
vay đã buộc các Ngân hàng phải hướng vào người tiêu dùng như là một khách
hàng trung thành. Sau thế chiến thứ hai, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong
những loại hình có mức tăng trưởng nhanh nhất. Các Ngân hàng tiếp tục phát
triển và trở thành tổ chức cấp tín dụng chính trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng.

Như vậy, phát triển cho vay tiêu dùng là một biện pháp tốt để mở rộng thị trường
cho các ngân hàng thương mại.
Trong nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, khách hàng tiềm năng của Ngân hàng
và sự đa dạng về nhu cầu là vô cùng lớn. Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng gần
như là vô tận, đó là nền tảng vững chắc của Ngân hàng khi tiến hành cho vay
tiêu dùng. Thực tế, rất nhiều hộ gia đình sẽ không muốn gửi tiền của mình vào
một Ngân hàng nếu họ không thấy được rằng mình có triển vọng vay lại Ngân
hàng đó khi có nhu cầu. Vì vậy, các ngân hàng thương mại cung cấp sản phẩm
dịch vụ cho vay tiêu dùng cũng có nghĩa là sẽ mở rộng được quan hệ với khách
hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi cho Ngân hàng. Đồng
thời, phát triển cho vay tiêu dùng cũng chính là Ngân hàng thực hiện đa dạng
hoá hoạt động kinh doanh, nhờ vậy Ngân hàng nâng cao được khả năng cạnh
tranh, tăng thu nhập và phân tán rủi ro cho Ngân hàng.
Bên cạnh đó mục tiêu hoạt động của Ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận,
trong khi đó cho vay tiêu dùng có giá trị của món vay nhỏ nhưng số lượng món
vay thì rất lớn nên có thể chia sẻ rủi ro, đồng thời lại đơn giản hơn rất nhiều so
với cho vay đối với sản xuất mà lãi suất lại tương đối cao. Do vậy việc mở rộng
cho vay tiêu dùng đối với ngân hàng thương mại là một hướng kinh doanh có
hiệu quả và tương đối an toàn.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
17
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
Ngày nay các dịch vụ của Ngân hàng ngày càng đa dạng và cuộc cạnh
tranh hết sức mạnh mẽ. Thực hiện phát triển cho vay tiêu dùng vừa mở rộng
khách hàng vay, tăng quan hệ giao dịch của Ngân hàng với khách hàng để hình
ảnh của Ngân hàng ngày càng đậm nét trên thị trường.
Với những lợi ích trên, phát triển cho vay tiêu dùng là hướng đi rất đúng
đắn của các ngân hàng thương mại.
1.2.3.3. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nhà sản xuất
Lợi ích của nhà sản xuất là cùng với sự gia tăng nhu cầu có khả năng

thanh toán của người tiêu dùng, là gia tăng cầu về hàng hoá dịch vụ, qua đó làm
tăng quy mô thị trường về hàng hoá dịch vụ. Vì vậy, các doanh nghiệp sẽ bán
được nhiều hàng hóa hơn, cũng như đẩy nhanh được quá trình bán hàng, tăng
vòng quay hàng tồn kho, giảm các khoản phải thu, từ đó làm tăng thu nhập và
tăng độ an toàn trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó cho vay tiêu dùng cũng
tạo ra sự cạnh tranh cao hơn giữa các nhà sản xuất cả về số lượng, mẫu mã,
chủng loại sản phẩm, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
1.2.3.4. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nền kinh tế
Cho vay tiêu dùng là đòn bẩy hữu hiệu cho việc kích cầu. Thị trường cho
vay tiêu dùng đã góp phần tạo nên sự sôi động của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển, tạo nguồn vốn cho khu vực sản xuất trong nước, từ đó tăng GĐP cho
nền kinh tế. Cùng với nó là hàng loạt các vấn đề xã hội được giải quyết như tạo
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, giúp họ cải thiện mức sống, giảm
tệ nạn xã hội, góp phần quan trọng đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi… và làm tăng
tiết kiệm quốc gia. Tuy nhiên cần phải đặc biệt chú ý tới tác dụng phụ của tăng
cầu, đó là khi xảy ra lạm phát mà lại tăng cầu thì đó là một điều không tốt và sẽ
làm cho nền kinh tế trở nên quá nóng.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
18
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
Tóm lại, hoạt động cho vay tiêu dùng ra đời là một tất yếu, phù hợp với sự
phát triển của xã hội và tuân theo quy luật kinh tế. Có thể nói phát triển cho vay
tiêu dùng là một hướng đi vô cùng đúng đắn đối với các ngân hàng thương mại
trong điều kiện hiện nay.
1.2.4. Phân loại cho vay tiêu dùng
Để phân loại cho vay tiêu dùng được lựa chọn trên nhiều tiêu thức khác
nhau. Cụ thể là ta có thể phân loại dựa vào:
- Cắn cứ vào mục đích vay:
Căn cứ vào mục đích vay thì cho vay tiêu dùng bao gồm:
• Cho vay tiêu dùng cư trú( Residential Mortgage Loan): Đây là các

khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở
của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
• Cho vay tiêu dùng phi cư trú( Nonresidential Loan): Cho vay tiêu dùng
phi cư trú là khoản cho vay nhằm tài trợ cho việc trang trải các chi phí về mua
sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí, du lịch, chữa bệnh…
- Căn cứ theo phương thức hoàn trả:
• Cho vay tiêu dùng trả góp( Installment Consumer Loan): Đây là hình
thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ( gồm cả số tiền gốc lẫn lãi)
cho ngân hàng theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho
vay. Phương thức này được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu
nhập từng thời kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số
nợ vay. Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các ngân hàng thường chú ý tới một
số vấn đề cơ bản sau:
+ Thứ nhất: Loại tài sản được tài trợ.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
19
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
Thông thường thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ cao hơn nếu tài sản
hình thành từ tiền vay đáp ứng được nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong
tương lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, ngân hàng thường chú ý đến điều này vì
ngân hàng thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời
hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn. Bởi vì, có như vậy thì người tiêu dùng
mới được hưởng những tiện ích do tài sản đem lại trong một khoảng thời gian
dài.
+ Thứ hai: Số tiền phải trả trước
Nói chung thì các ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải thanh toán
trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm( số tiền này được gọi là số tiền trả
trước). Phần còn lại, ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để
một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng chính họ là chủ sở hữu tài sản, mặt khác
lại có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận được rằng

mình là chủ sở hữu của tài sản được hình thành từ tiền vay thì người đi vay sẽ có
thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ,
trong nhiều trường hợp, ngân hàng đành phải tiếp nhận và phát mại tài sản để thu
hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều đã bị giảm giá trị, tức là giá trị thị
trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có vai trò
rất quan trọng trong việc giúp ngân hàng hạn chế rủi ro. Số tiền trả trước thường
phụ thuộc vào các yếu tố sau:
 Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số
tiền trả trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm
giá chậm thì số tiền trả trước ít.
 Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng.
 Môi trường kinh tế.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
20
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
 Năng lực tài chính của những người đi vay.
+ Thứ ba: Chi phí cuả khoản vay.
Chi phí của khoản vay là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng
về việc sử dụng vốn. Chi phí này chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có
liên quan. Chi phí khoản vay này phải trang trải được chi phí huy động vốn, chi
phí hoạt động, rủi ro, đồng thời phải mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho
ngân hàng.
+ Thứ tư: Điều khoản thanh toán.
Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách
hàng, ngân hàng thường chú ý tới các vấn đề sau:
 Số tiền thanh toán mỗi kỳ hạn phải phù hợp với khả năng về thu
nhập trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của
khách hàng.
 Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng.
 Thời hạn cho vay không nên quá dài. Thời hạn cho vay bị giới hạn

bởi thời gian hoạt động của tài sản tài trợ. Và nếu thời hạn cho vay
quá dài thì dễ làm cho giá trị tài sản tài trợ bị giảm mạnh đồng thời
rủi ro tín dụng cũng tăng lên. Hơn nữa, khi thời hạn cho vay quá dài
thì thiện chí trả nợ của những người đi vay cũng như việc thu hồi nợ
gặp nhiều khó khăn rắc rối.
+ Thứ năm: Số tiền khách hàng thanh toán cho ngân hang mỗi kỳ trả nợ.
Để xác định số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng trong mỗi
kỳ trả nợ, ta có thể áp dụng một trong các phương pháp sau:
 Phương pháp lãi gộp( Add on Method): Đây là phương pháp thường
được áp dụng trong cho vay tiêu dùng trả góp, do tính chất đơn giản
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
21
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
và dễ hiểu của nó. Theo phương pháp này, trước hết lãi được tính
bằng cách lấy vốn gốc nhân với lãi suất và thời gian vay, sau đó
cộng gộp vào vốn gốc rồi chia cho số kỳ hạn phải thanh toán để tìm
số tiền phải thanh toán ở mỗi kỳ hạn trả nợ.
 Phương pháp lãi đơn( Simple Interest Method): Theo phương pháp
này, vốn gốc người đi vay phải trả cho từng kỳ hạn trả nợ được tính
đều nhau bằng cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh
toán. Còn lãi phải trả mỗi kỳ hạn được tính trên số tiền khách hàng
thực sự còn nợ ngân hàng.
• Cho vay tiêu dùng phi trả góp( Noninstallment Consumer Loan)
Theo phương thức này thì tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân
hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì tín dụng tiêu dùng phi trả góp chỉ được
cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
• Cho vay tiêu dùng tuần hoàn( Revolving Consumer Credit):
Đây là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách
hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc thấu chi dựa trên tài khoản vãng
lai. Theo phương thức này thì trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn

cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân
hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo
một hạn mức tín dụng.
- Căn cứ vào nguồn gốc các khoản nợ.
• Cho vay tiêu dùng gián tiếp.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua
những khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay
dịch vụ cho người tiêu dùng. Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
22
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
bán nợ. Trong hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều khoản về đối tượng
khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu. Công
ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Theo
nguyên tắc người mua hàng phải trả trước một phần giá trị của hàng hoá. Có hai
cách tài trợ tín dụng tiêu dùng gián tiếp cho khách hàng:
(1)Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng
hóa, người mua trả trước một phần giá trị tài sản mua bán chịu.
(2)Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng và lập bộ chứng từ bán
chịu hàng hoá.
(3)Công ty bán lẻ giao bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng làm
thế chấp.
(4)Ngân hàng thanh toán tiền còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(5)Người tiêu dùng thanh toán nợ vay theo thoả thuận trong bộ chứng từ
bán chịu cho ngân hàng.
Ưu điểm cho vay tiêu dùng gián tiếp:
+ Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
Người mua Người bán
NHTM

(1)
(2)
(3) (4)(5)
23
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
+ Cho phép ngân hàng giảm được chi phí trong cho vay. Vì việc mua lại
các chứng từ bán chịu hàng hoá sẽ đơn giản hơn việc lập một bộ hồ sơ cho vay
trong một thời hạn nào đó( như theo dõi các tài khoản trả không đúng hạn, việc
tái sở hữu, bán hàng hoá tái sở hữu…).
+ Là nguồn gốc để mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động
khác của ngân hàng.
+ Trong trường hợp ngân hàng có mối quan hệ tốt với các công ty bán lẻ
thì cho vay tiêu dùng sẽ có tính an toàn cao hơn, giúp ngân hàng giảm bớt rủi ro.
Nhược điểm của cho vay tiêu dùng gián tiếp:
+ Ngân hàng không được tiếp xúc trưc tiếp với người tiêu dùng, điều này
dẫn đến ngân hàng không thể kiểm soát được khách hàng mà công ty bán lẻ đã
bán chịu, không kiểm soát được chất lượng tín dụng.
+ Ngân hang không thẩm định được khách hàng trước khi cho vay, dễ dẫn
đến rủi ro cho ngân hàng trong trường hợp có hiện tượng cố ý lừa đảo.
+ Nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính chất phức tạp cao.
Do có những nhược điểm trên nên rất nhiều ngân hàng không mặn mà với
cho vay tiêu dùng gián tiếp, chỉ có những ngân hàng nào có cơ chế kiểm soát tín
dụng rất chặt chẽ mới tham gia vào hoạt động cho vay tiêu dùng này.
Để hạn chế những nhược điểm trên, cho vay tiêu dùng gián tiếp thường
được thực hiện thông qua các phương thức sau:
- Tài trợ truy đòi toàn bộ: Theo phương thức này, khi bán cho ngân hàng
các khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu, công ty bán lẻ cam kết
sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn
người tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q

24
Đại học Kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập
- Tài trợ truy đòi hạn chế: Theo phương thức này, trách nhiệm của công
ty bán lẻ đối với các khoản nợ của người tiêu dùng mua chịu không
thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào
các điều khoản đã thoả thuận giữa ngân hàng và công ty bán lẻ.
- Tài trợ miễn truy đòi: Theo phương thức này, sau khi bán các khoản nợ
cho ngân hàng, công ty bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc
liệu các khoản nợ đó có được trả hay không. Phương thức này chứa
đựng nhiều rủi ro nên chi phí của khoản vay này được ngân hàng tính
cao hơn so với các phương thức trên và các khoản nợ được mua cũng
được ngân hàng lựa chọn rất kỹ. Ngoài ra, chỉ có những công ty bán lẻ
rất uy tín vơi ngân hàng mới áp dụng phương thức tài trợ này.
- Tài trợ có mua lại: Theo phương thức này thì khi thực hiện cho vay tiêu
dùng gián tiếp với hình thức miễn truy đòi hoặc truy đòi một phần, nếu
rủi ro xảy ra, người tiêu dùng không trả được nợ thì ngân hàng buộc
phải thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả
thuận trước thì ngân hàng có thể bán lại cho chính công ty bán lẻ phần
nợ mình chưa được thanh toán kèm với tài sản đã được người tiêu dùng
sử dụng trong một thời gian nhất định.
• Cho vay tiêu dùng trực tiếp:
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ họ.
Các bước thực hiện:
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.
(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán
lẻ.
Lê Hoàng Vỹ Lớp TCDN 46Q
25

×