Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

thực trạng xóa đói giảm nghèo của nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.82 KB, 34 trang )

Đề tài :Tình trạng nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở nông thôn
Việt Nam hiện nay
I/ MỞ ĐẦU :
1.1 Tính cấp thiết của đề tài :
Trong lịch sử của xã hội loài người , đặc biệt từ khi có giai cấp đến
nay , vấn đề phân biệt giàu nghèo đã xuất hiện và đang tồn taị như
một tách thức lớn đối với phát triển bền vững của từng quốc gia , từng
khu vực và toàn bộ nền văn minh hiện đại . Đói nghèo và tấn công
chống đói nghèo luôn luôn là mới quan tâm hàng đầu của các quốc
gia trên thế giới , bởi vì giầu mạnh gắn liền với sự hưng thịnh của một
quốc gia . Đói nghèo thường gây ra xung đột chính trị , xung đột giai
cấp , dẫn đến bất ổn về xã hội , bất ổn về chính trị . Mọi dân tộc tuy
có thể khác nhau về khuynh hướng chính trị nhưng đều có một mục
tiêu là làm thế nào để quốc gia mình , dân tộc mình giàu có . tron thực
tế ở một số nước cho thấy kinh tế càng phát triển nhanh bao nhiêu ,
năng suất lao động càng cao bao nhiêu thì tình trạng đói nghèo của
một bộ phận dân cư lại càng bức xúc và có nguy cơ dẫn đến xung đột.
Trong nền kinh tế thị trường , quy luật cạnh tranh đã thúc đẩy nhanh
hơn quá trình phát triển không đồng đều , làm sâu sắc hơn sự phân
hóa giữa các tầng lớp dân cư trong quốc gia . Khoảng cách về mức
thu nhập của người nghèo so với người giầu ngày càng có xu hướng
rộng và đang là một vấn đề có tính toàn cầu , nó thể hiện tình trạng
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập , về nạn đói , nạn suy dinh
dưỡng vẫn đang đeo đẳng 1/3 dân số thế giới .
Nhân loại bước sang thế kỷ 21 và đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc
trên nhiều lĩnh vực như khoa học công nghệ , phát triển kinh tế nhưng
vẫn phải đối mặt với một thực trạng nhức nhối : nạn đói nghèo vẫn
còn chiếm một tỉ lệ đáng kể ở nhiều nước mà nổi bật ở những quốc
gia đang phát triển . Ở Việt Nam từ khi có đường lối đổi mới , chuyển
đổi kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước , tuy nhiên nền kinh tế có phát triển mạnh , tốc độ tăng trưởng


hàng năm khá là cao , nhưng đồng thời cũng phải đương đầu với vấn
đề phân hóa giàu nghèo hố ngăn cách giữa bộ phận dân cư giàu nghèo
đang có chiều hướng mở rộng nhất là giữa các vùng có điều kiện
thuận lợi so với những vùng khó khăn , trình độ dân trí thấp như nông
thôn , vùng sâu vùng xa .Tromg đó số hộ nghèo ở nông thôn chiếm
90% tỷ lệ nghèo đói trong cả nước . Vấn đề đói nghèo đã được Đảng
và Nhà nước hết sức quan tâm. Để người nghèo thoát nghèo là mục
tiêu, nhiệm vụ chính trị - xã hội. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính
sách và biện pháp giải quyết vấn đề đói nghèo. Nhưng việc triển khai
thực hiện còn một số hạn chế do sự thiếu thông tin cũng như nhận
thức chưa đầy đủ về tình trạng nghèo đói hiện nay . Vì thế việc
nghiên cứu về thực trạng đói nghèo ở khu vực nông thôn một cách hệ
thống, có khoa học để từ đó làm cơ sở đưa ra các chính sách xóa
nghèo giảm cho từng đối tượng ở từng địa phương một cách hợp lí là
vấn đề mang tính cấp thiết để từng bước đưa nông thôn Việt Nam
cũng như đất nước Việt Nam thoát khỏi tình trạng đói nghèo, trở
thành một nước phát triển .

1.2 Mục tiêu nghiên cứu :
Tìm hiểu về thực trạng nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở khu vực
nông thôn nước ta, từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần giảm tỉ lệ
hộ nghèo đói ở nông thôn. Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và
thực tiễn của vấn đề nghèo đói ở nông thôn.
Tìm hiểu về thực trạng đói nghèo và xóa đói giảm nghèo đưa ra
những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Bước đầu có những kiến nghị
về các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo ở vùng
nông thôn.
1.3 Giới hạn nghiên cứu :
Khu vực nông thôn Việt Nam .
1.4 Đối tượng nghiên cứu :

Vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn Việt
Nam .

1.5 Phương pháp nghiên cứu :
-Phương pháp thu thập số liệu : thứ cấp : tham khảo từ một số sách
báo , tiểu luận và các nguồn có liên quan đến đói nghèo và xóa đói
giảm nghèo trên internet
-Phương pháp xử lý : đọc và chọn lọc
-Phương pháp phân tích :thống kê , so sánh , phân tích swot .
II/ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU .
2.1 Cơ sở lý luận :
Theo nghị quyết về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh về bền
vững đối với 61 huyện nghèo của Chính Phủ số: 30a/2008/NQ-CP
ngày 27 /12 / 2008 :
Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta
nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu
hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa
các dân tộc, nhóm dân cư. Thành tựu xóa đói giảm nghèo trong
những năm qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững và thực
hiện công bằng xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy
nhiên, kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu – nghèo
giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, đặc biệt là ở những
huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
đến cuối năm 2006, cả nước có 61 huyện (gồm 797 xã và thị trấn)
thuộc 20 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%. Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chính sách và dành nhiều nguồn lực để ưu tiên phát triển vùng
này, nhưng mức độ chuyển biến còn chậm, đời sống của đồng bào
dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao gấp 3,5

lần bình quân cả nước.
Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do các
huyện này đều nằm ở vùng núi, địa hình chia cắt, diện tích tự nhiên
rộng, nhưng diện tích đất canh tác ít; điều kiện thời tiết không thuận
lợi, thường xuyên xảy ra lũ quét, lũ ống; dân số gồm 2,4 triệu người,
trong đó trên 90% là đồng bào dân tộc thiểu số, sống phân tán, thu
nhập thấp (bình quân 2,5 triệu đồng/người/năm) chủ yếu từ nông
nghiệp nhưng trình độ sản xuất còn lạc hậu; cơ sở hạ tầng vừa thiếu,
vừa kém; thu ngân sách trên địa bàn mỗi huyện bình quân 3 tỷ
đồng/năm. Các nguồn hỗ trợ của Nhà nước còn phân tán, thiếu đồng
bộ, hiệu quả thấp, chưa hỗ trợ đúng mức cho phát triển sản xuất; đội
ngũ cán bộ cơ sở còn yếu và thiếu cán bộ khoa học, kỹ thuật; chưa thu
hút được các doanh nghiệp đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Bên
cạnh đó, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước
ở một bộ phận cán bộ và dân cư còn nặng nên đã hạn chế phát huy
nội lực và sự nỗ lực vươn lên.
Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xóa đói giảm nghèo, tại phiên họp
ngày 18 tháng 11 năm 2008, Chính phủ đã thảo luận và quyết nghị về
việc triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và
bền vững đối với 61 huyện thuộc 20 tỉnh có số hộ nghèo trên 50%
(sau đây gọi tắt là Chương trình hỗ trợ các huyện nghèo)
Các quan điểm về nghèo đói :
-Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống tối thiểu không
thỏa mãn nhu cầu về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp…
-Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống nhỏ hơn
mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc
sống.
-Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân không được hưởng và thỏa
mãn những nhu cầu con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa

phương.
-Chuẩn đói nghèo: Các quốc gia khác nhau sử dụng các tiêu chuẩn
khác nhau để đánh giá mức độ giàu nghèo. Việt Nam đưa ra chuẩn
đói từ 2-1997 đến 1-1-2000 hộ đói là hộ có thu nhập dưới 13kg
gạo/người/tháng, tương đương với 45.000 đồng. Năm 2000, Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội đưa ra ngưỡng nghèo mới làm căn cứ
xác định mục tiêu xoá đói giảm nghèo cho giai đoạn 2001 - 2005.
Ngưỡng nghèo đó được ấn định cho từng khu vực: nông thôn miền
núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng; nông thôn đồng bằng: 100.000
đồng/người/tháng; thành thị: 150.000 đồng.Còn chuẩn nghèo mới áp
dụng cho giai đoạn 2011-2015 theo Chỉ thị số 1752/CT-TTg ngày 21-
9-2010 của Thủ tướng Chính phủ, mức chuẩn nghèo và cận nghèo
được xác định, những hộ có thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo (khu vực nông thôn), đối với
khu vực thành thị hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân
500.000 đồng/người/tháng; Hộ cận nghèo là những hộ có mức thu
nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng (khu
vực nông thôn), đối với khu vực thành thị là từ 501.000 đồng đến
650.000 đồng/người/tháng.
2.2 Cơ sở thực tiễn:
-Hiện nay, đói nghèo không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia,
mà là vấn đề mang tính toàn cầu, bởi vì tất cả các quốc gia trên thế
giới ngay cả những giàu mạnh thì người nghèo vẫn còn và có lẽ khó
có thể hết người nghèo khi trong các xã hội chưa thể chấm dứt những
rủi ro về kinh tế, xã hội, môi trường và sự bất bình đẳng trong phân
phối của cải làm ra. Rủi ro quá nhiều trong sản xuất và đời sống làm
cho một bộ phận dân cư rơi vào tình trạng nghèo. Tháng 3/1995, tại
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen Đan
Mạch, những người đứng đầu các quốc gia đã trịnh trong tuyên bố:
Chúng tôi cam kết thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo trên thế

giới, thông qua các hành động quốc gia kiên quyết và sự hợp tác quốc
tế, coi đây như một đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức xã hội, chính trị,
kinh tế của nhân loại.
-Đói nghèo là một hiện tượng tồn tại ở tất cả các quốc gia dân tộc. Nó
là một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian và thời gian.
Đến nay, nhiều nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều
khái niệm khác nhau, trong đó có khái niệm khái quát hơn cả được
nêu ra tại Hội nghị bàn về xóa đói giảm nghèo ở khu vực châu Á Thái
Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Thái Lan vào tháng 9/1993, các
quốc gia đã thống nhất cho rằng: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận
dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con
người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã
hội và phong tục tập quán của từng địa phương. Đây là khái niệm khá
đầy đủ về đói nghèo, được nhiều nước trên thế giới nhất trí sử dụng,
trong đó có Việt Nam.
-Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại:
Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
-Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc
sống như nhu cầu về ăn, mặc, nhà ở, chăm sóc y tế,…
-Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của địa phương, ở một thời kì nhất định.
-Những quan điểm trên về đói nghèo phản ánh ba khía cạnh chủ yếu
của người nghèo là: không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở
mức tối thiểu dành cho con người, có mức sống thấp hơn mức sống
cộng đồng, thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của
cộng đồng.
*Vai trò của công tác xoá đói giảm nghèo
Đói nghèo là vấn đề mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải
quan tâm đến trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đó cũng là một

trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội, kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. Chính vì
vậy, XĐGN đóng một vai trò hết sức to lớn trong tất cả các mặt của
đời sống xã hội, cụ thể như sau:
a. Xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế
Nghèo đói đi liền với lạc hậu, do đó xoá đói giảm nghèo là tiền đề
cho sự phát triển kinh tế vì khi đói nghèo giảm sẽ giảm đi những áp
lực từ bên trong tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư bên ngoài, làm
năng lực kinh tế phát triển vững chắc. Ngược lại sự phát triển kinh tế
là nhân tố đảm bảo cho sự thành công trong công tác XĐGN.

b. Xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển xã hội
Việc thực hiện xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa quan trọng không
những đối với sự phát triển kinh tế mà còn có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển của xã hội. Để làm nổi bật những cản trở của nghèo
đói đối với sự phát triển xã hội các nhà kinh tế đưa ra lý thuyết về cái
vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói .Từ cái vòng luẩn quẩn của sự
nghèo đói lại kéo theo cái vòng luẩn quẩn khác của sự phát triển của
một quốc gia, của một vùng. Vì vậy muốn cho đất nước, vùng phát
triển chúng ta phải phá vỡ các mắt xích cơ bản như hạn chế
gia tăng dân số, nâng cao sức khoẻ và dinh dưỡng của người dân, hạn
chế sự thất học, nâng cao trình độ dân trí. Để đảm bảo phá vỡ được
cái vòng luẩn quẩn đó thì chúng ta phải tháo gỡ từng mắt xích cụ thể
chứ không làm chung chung ồ ạt được.
c. Xoá đói giảm nghèo đối với vấn đề chính trị, an ninh, xã hội.
Hầu hết hộ dân nghèo thường sinh sống ở những địa bàn giáp ranh
vớinước bạn, vùng sâu, vùng xa. Việc bảo toàn lãnh thổ và độc lập về
kinh tế, chính trị gặp nhiều khó khăn. Vì thế, nghèo đói ảnh hưởng
đến các mặt chính trị, an ninh xã hội, làm nảy sinh những mặt hạn
chế, những tư tưởng lạc hậu, cổ hũ, đi chệch đường lối của Đảng và

Nhà nước ta từ đó phát sinh những tệ nạn xã hội như trộm, cắp, mại
dâm, đạo đức bị suy đồi gây rối loạn xã hội. Xóa đói thực hiện tốt
XĐGN giúp người dân an tâm trong sản xuất và đời sống, góp
phần giữ vững được ổn định, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước.
d. Xoá đói giảm nghèo đối với vấn đề văn hoá
Việt Nam đang tập trung phát triển nền văn hoá truyền thống đậm đà
bản sắc dân tộc. Để thực hiện mục tiêu phát triển văn hoá, cần xác
định rằng: đói nghèo là một trong những nguy cơ tiềm ẩn kéo theo
các vấn đề văn hoá xã hội và sự kìm hãm xã hội, nó ăn sâu vào tiềm
thức của từng hộ gia đình, từng người Gia tăng dân số ,Bệnh tật Suy
dinh dưỡng Ô nhiễm môi trường Thất họcTệ nạn xã hội trong cuộc
sống sinh hoạt văn hoá. Ở một trình độ văn hoá thấp, đói nghèo luôn
là nỗi ám ảnh tư tưởng con người sẽ nảy sinh các vấn đề xã hội, làm
thay đổi nhân cách con người đi vào lối sống buông thả, tự ti sùng bái
những tư tưởng lạc hậu, mông lung dẫn đến đẩy lùi văn minh xã hội,
phát triển văn hoá và nhân cách con người. Chính vì vậy, đầy nhanh
công tác XĐGN là một yếu tố quan trọng nâng cao đời sống người
dân, làm cho nền văn hoá phát triển cùng nhịp độ tăng trưởng kinh tế
trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay .
III/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU :
3.1 Thực trạng nghèo đói và vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt
Nam hiện nay .
a. Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam hiện nay :
+Về tỷ lệ hộ nghèo: Theo kết quả điều tra, trên toàn quốc năm 2012
có 2.149.110 hộ nghèo, chiếm 9,6%. Tỷ lệ hộ nghèo phân theo vùng:
miền núi Tây Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là 28,552%; tiếp đến là
miền núi Đông Bắc 17,39%; Bắc Trung bộ 15,01%; Tây Nguyên
15%; Duyên hải miền Trung 12,2%; đồng bằng sông Cửu Long
9,24%; đồng bằng sông Hồng 4,89%; và Đông Nam bộ vùng có tỷ lệ
hộ nghèo thấp nhất là, 1,27%. Một số tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo còn cao

như: Điện Biên 38,25%; Lai Châu 31,82%; Hà Giang 30,13%; Cao
Bằng 28,22%; Yên Bái 29,23% Có tất cả 10 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương với tỷ lệ hộ nghèo dưới 5% là: Quảng Ninh 3,52%;
Hà Nội 1,52%; Bắc Ninh 4,27%; Hải Phòng 4,21%; Đà Nẵng 0,97%;
Tây Ninh 2,97%; Đồng Nai 0,91%; Bà Rịa - Vũng Tàu 1,71%; TP.Hồ
Chí Minh 0,00033%; Long An 4,58%.
+Về tỷ lệ hộ cận nghèo: Kết quả điều tra cho thấy, trên toàn quốc
năm 2012 có 1.469.727 hộ cận nghèo, chiếm 6,57%. Tỷ lệ hộ cận
nghèo phân theo vùng: vùng có tỷ lệ hộ cận nghèo cao nhất là Bắc
Trung bộ 13,04%; vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất là Đông Nam bộ
1,08%. Các vùng còn lại xếp theo thứ tự tỷ lệ hộ cận nghèo giảm dần
là: miền núi Tây Bắc 11,48%; Duyên hải miền Trung 9,32%; miền
núi Đông Bắc 8,92%; đồng bằng sông Cửu Long 6,51%; Tây Nguyên
6,19%; đồng bằng sông Hồng 4,58%.
Đối với các huyện nghèo của cả nước: Theo kết quả điều tra, tỷ lệ
hộ nghèo tại 62 huyện nghèo (theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP
ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo
nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo) giảm từ 58,33% (năm
2010) xuống còn 50,97% (năm 2011) và 43,89% (năm 2012), bình
quân giảm trên 7%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo tại 07 huyện nghèo theo
Quyết định 615/QĐ-TTg ngày 25/4/2011 về việc hỗ trợ có mục tiêu
từ ngân sách trung ương cho 07 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao được áp
dụng cơ chế, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng theo quy định của Nghị
quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ, giảm từ 43,56% (năm
2011) xuống còn là 30,13% (năm 2011), và giảm còn 13,43% (năm
2012). Tỷ lệ hộ nghèo tại 23 huyện nghèo theo Quyết định 293/QĐ-
TTg ngày 05/02/2013 về hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương
cho 23 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao được áp dụng cơ chế, chính sách
đầu tư cơ sở hạ tầng theo quy định của Nghị quyết số 30a/2008/NĐ-
CP của Chính phủ, đến cuối năm 2012 giảm còn 43,14%.

b. Thực trạng xóa đói giảm nghèo :
* Các chính sách xóa đói giảm nghèo :
- Các dự án hỗ trợ của nhà nước cho chương trình xây dựng nông
thôn mới .
-Giảm lãi suất cho vay lĩnh vực tam nông nhằm khuyến khích nông
dân đầu tư làm ăn hướng đến xóa đói giảm nghèo bền vững
-Hướng dẫn hoạt động của Quỹ khám, chữa bệnh cho người
nghèo (25/10/2013 10:30)
Đây là nội dung chính của Thông tư liên tịch số 33/2013/TTLT-BYT-
BTC do Bộ Y tế, Bộ Tài chính ban hành ngày 18/10/2013, hướng dẫn
tổ chức thực hiện Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg ngày 01/03/2012
của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Quyết định 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002
-Hỗ trợ 100% phí BHYT cho một số đối tượng cận nghèo (15/5/2013
15:58)
Ngày 08/05/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
705/QĐ-TTg về việc nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế (BHYT)
cho một số đối tượng người thuộc hộ gia đình cận nghèo
-Hộ cận nghèo được ưu đãi lãi suất cho vay (4/3/2013 14:51)
Đây là quy định đáng chú ý của Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg về
tín dụng đối với hộ cận nghèo do Thủ tướng Chính phủ ban hành
ngày 23/02/2013
-Thí điểm mô hình tạo việc làm công cho người nghèo (15/10/2012
10:16)
Ngày 08 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 1489/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc
gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012 - 2015.
-Tổ chức bình xét hộ nghèo, cận nghèo ở tổ dân cư (12/9/2012 16:24)
Ngày 05 tháng 09 năm 2012, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
đã ban hành Thông tư số 21/2012/TT-BLĐTBXH hướng dẫn quy

trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hàng năm làm cơ sở
thực hiện các chính sách an sinh xã hội, đánh giá kết quả thực hiện
mục tiêu giảm nghèo hàng năm của các địa phương và cả nước.
-Hỗ trợ tối thiểu 70% mức đóng BHYT cho hộ cận nghèo (3/7/2012
16:17)
Ngày 26 tháng 06 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 797/QĐ-TTg về việc nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y
tế (BHYT) cho người thuộc hộ gia đình cận nghèo.
* Thực trạng xóa đói giảm nghèo :
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 được Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI thông qua tháng 1/2011 với
mục tiêu tổng quát: Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên rõ rệt, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao
hơn trong giai đoạn sau. Do đó, các chương trình và chính sách giảm
nghèo của Chính phủ đã được xây dựng tập trung trên ba chiến lược
chính: Thúc đẩy các hoạt động sản xuất và sinh kế để tăng thu nhập
cho người nghèo, tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo đến
các dịch vụ xã hội, tăng cường năng lực và nâng cao nhận thức của
người dân ở các vùng nghèo.
Những chiến lược này được hiện thực hóa bằng các chương trình
quốc gia hỗ trợ giảm nghèo và phát triển xã hội, trong đó tập trung
vào 5 nhóm chính sách: Tín dụng, phát triển sản xuất nông nghiệp, cơ
sở hạ tầng, giáo dục và y tế. Nhờ đó, người nghèo được tiếp cận với
các nguồn lực (vốn, đất sản xuất, công nghệ, thị trường) và các dịch
vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nước sạch, trợ giúp pháp lý).
Tính đến năm 2010, có hơn 77% người nghèo được hưởng lợi từ
các chương trình và chính sách hỗ trợ của Chính phủ, cho thấy mức
độ phổ cập chính sách rộng khắp trên cả nước.
Đánh giá về những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc xây

dựng những chính sách giảm nghèo, bà Victoria Kwa kwa, Giám đốc
Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam nhấn mạnh: Thành
công của Việt Nam có được đầu tiên là nhờ vào tầm nhìn và quyết
tâm lãnh đạo của Chính phủ, cũng như tinh thần chịu khó, làm việc
chăm chỉ của người dân Việt Nam. Là đối tác phát triển, WB rất tự
hào được đồng hành cùng Việt Nam trong chặng đường phát triển
kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo thời gian qua, đóng góp cho sự
phát triển chung của Việt Nam. Cơ hội hợp tác này cũng giúp cho
WB kiểm nghiệm những ý tưởng mới với điều chắc chắn rằng, hỗ trợ
phát triển là có thể làm được và hiệu quả.
Chương trình giảm nghèo bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-
CP của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62
huyện nghèo là chương trình lớn và quan trọng, có tác động mạnh đến
giảm nghèo và nâng cao điều kiện sống của người nghèo. Chương
trình này đã lồng ghép một loạt các hạng mục phát triển kinh tế-xã
hội như: Phát triển cơ sở hạ tầng công cộng cấp xã, tín dụng cho
người nghèo, bảo hiểm y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi
trường và các chương trình khuyến nông.
Với chính sách toàn diện thúc đẩy mọi khía cạnh của đời sống,
hướng đến nhóm dân cư dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất ở vùng
sâu, vùng xa, các chương trình này đã đạt được mục tiêu chung là
giảm nghèo, tăng thu nhập và cải thiện điều kiện sống của nhóm
người dân những vùng này. Kết quả đánh giá tác động qua 3 năm
thực hiện cho thấy tỷ lệ nghèo đã giảm 4-5%/năm và khả năng tiếp
cận dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, điện, nước sạch của các hộ gia
đình tăng đáng kể.
Vấn đề đảm bảo nhà ở cho người thu nhập thấp cũng được nhà nước
quan tâm. Nhiều chính sách, chương trình phát triển nhà ở cho các đối
tượng có khó khăn về nhà ở như người lao động tại các khu công
nghiệp, học sinh, sinh viên, người nghèo ở nông thôn, người có thu

nhập thấp tại khu vực đô thị đã được ban hành và triển khai thực
hiện trên thực tế.
Năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về một số cơ chế,
chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên,
công nhân lao động tại các khu công nghiệp và người có thu nhập
thấp tại khu vực đô thị. Thông qua các chương trình đó, đến nay đã có
hơn 530.000 hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở; có 62 dự án nhà ở cho
công nhân với tổng quy mô 11.719 căn hộ được hoàn thành, đáp ứng
chỗ ở cho 67.600 công nhân lao động tại các khu công nghiệp. 163
khối nhà cho sinh viên đã được đưa vào sử dụng, đáp ứng khoảng
140.000 chỗ ở (dự kiến hết năm 2013 sẽ đáp ứng được chỗ ở cho
330.000 sinh viên). 56 dự án nhà cho người thu nhập thấp tại khu vực
đô thị được triển khai, đáp ứng cho khoảng 130.000 hộ thu nhập thấp
có nhu cầu về nhà ở.
Việt Nam cũng đang nghiên cứu, soạn thảo Luật Nhà ở sửa đổi để
trình Quốc hội thông qua vào năm 2014, trong đó tập trung vào các
chính sách hỗ trợ người nghèo (cả đô thị và nông thôn), người thu
nhập thấp và các đối tượng ưu tiên khác như công nhân tại khu công
nghiệp, học sinh, sinh viên… Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục
hoàn thiện chính sách về phát triển nhà ở xã hội, nhà cho thuê ở khu
vực đô thị và nhà ở tái định cư; thúc đẩy các biện pháp tăng cường
trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng trong
việc xây dựng nhà ở cho người nghèo nhằm hỗ trợ các đối tượng khó
khăn có nhà ở, ổn định cuộc sống.
Đa dạng hóa phân công lao động :Chiến lược phân công lao động
hộ gia đình khác biệt giữa các xã , các thôn , các hộ , nhưng thường
có sự kết hợp giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp (sự học hành )
giữa các thành viên trong gia đình . Đa dạng hóa và thâm canh trong
sản xuất nông nghiệp , tận dụng lợi thế về đất đai là rất quan trọng
trong việc tăng năng suất . Việc làm phi nông nghiệp mang lại thu

nhập cho người lao động , mặc dù phải đi làm ăn xa . Cơ hội lao động
cho nam và nữ đã tăng dần trong năm năm qua . Một số thích đi làm
gần nhà , một số đi làm ăn ngoài tỉnh , nhưng làm ăn xa nhà không
phổ biến ở các khu vực miền núi và các dân tộc . Việc làm ở địa
phương thường không ổn định vì thế lợi nhuận người dân thường ít vì
thế khó để dành . Ngược lại tiền gửi từ nam và nữ đi làm ăn xa đóng
góp đáng kể cho thu nhập hộ . Tuy nhiên trong những năm vừa qua ,
tiền để dành và gửi về quê giảm do chi phí sinh hoạt đo thị tăng lên
mà thu nhập của họ không tăng lên .
Sản xuất hàng hóa theo phương pháp đa dạng hóa , thâm canh và
phát triển chăn nuôi : Chiến lược đa dạng hóa kết hợp giữa cây ngắn
ngày với cây dài ngày như kết hợp lúa với chè hoặc rau màu , và ngô
với cà phê . Đa dạng hóa giúp người nông dân dối mặt với rủi ro ,
tăng hiệu quả sử dụng lao động và hiệu quả sử dụng đất ở miền núi ,
tăng năng suất và chất lượng nông sản hàng hóa nhò thay đỏi giống
và phương pháp canh tác ở các vùng thấp . Tích lũy dần từ chăn nuôi
giúp cho các hộ có tiền đầu tư vào làm nhà , mua sắm tài sản , mở
rộng sản xuất , cho con ăn học . Tuy nhiên mức sinh lời của chăn nuôi
gia súc rất thấp ( trâu bò mỗi năm chỉ đẻ một lứa , mỗi lứa chỉ đẻ một
con ) về lệ thuộc vào rỉu ro về bệnh dịch và thời tiết .
Mở rộng diện tích đất sản xuất : Tại các địa bàn miền núi dân tộc
thiểu số phía Bắc , nhiều người dân hàng năm vẫn cố gắng khai hoang
thêm ruộng bậc thang nhỏ tại những nơi có nguồn nước . Tạo điều
kiện ở một số khu vực nhưng vẫn còn nhiều bất cập . Nhìn chung ,
quan trọng là phải có nguồn nhân lực .
Chính sách hỗ trợ của nhà nước đã giúp cho người nghèo bớt khó
khăn trong cuộc sống . Với những hộ đặc biệt nghèo , hỗ trợ làm nhà ,
tín dụng ưu đãi , hỗ trợ trẻ em khuyết tật và hỗ trợ xã hội giúp người
nghèo bớt khó khăn .
Đầu tư cho giáo dục cho thế hệ sau đặc biệt quan trọng để cải thiện

cuộc sống trong tương lai . Tuy nhiên hiện nay đầu tư này chưa tạo ra
ảnh hưởng tích cực . Trong ngắn hạn con em đi học cao còn là gánh
nặng chi phí cho gia đình . Nhiều gia đình vay nợ để cho con ăn học
cao đẳng đại học . Tại một số nơi thanh niên đi học về không kiếm
được việc làm , lại qay về làm nông hoặc đi làm thuê .
-Thành tựu đáng tự hào
Ghi nhận thành tựu xóa đói giảm nghèo của Việt Nam , bà Victoria
Kwa kwa nhận định: Hai mươi năm qua đã chứng kiến những tiến bộ
vượt bậc của Việt Nam . Năm 1993, Việt Nam là một trong những
nước nghèo nhất trên thế giới với bình quân thu nhập đầu người chỉ
khoảng 100 USD và có các chỉ số thấp kém về phát triển xã hội.
Ngày nay, Việt Nam là một nước có thu nhập trung bình đang lên,
với nền kinh tế có quy mô gần 154 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu
người khoảng 1.700 USD. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% năm 1993
xuống còn khoảng 10% năm 2012, với hơn 30 triệu người thoát
nghèo. Các chỉ số phúc lợi xã hội hiện cao hơn phần lớn các nước có
cùng mức thu nhập và thậm chí cả một số nước có thu nhập cao hơn.
Việt Nam đã đạt được 5 trong số 8 mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
(MDG) ban đầu và đang trên đường hoàn thành nốt 3 mục tiêu nữa
vào năm 2015.
Trong những năm gần đây, mặc dù tình hình kinh tế gặp khó khăn
hơn trước, nhưng nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội vẫn được Việt
Nam ưu tiên duy trì. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền
vững đạt kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ
13,7% năm 2008 xuống còn 9,6% năm 2012 và dự kiến còn khoảng
7,6-7,8% vào cuối năm 2013.
Thu nhập bình quân của hộ nghèo tăng gần 2 lần trong 5 năm qua.
Năm 2012, số lượt hộ thiếu đói giảm 27,6% và tỷ lệ hộ nghèo cả nước
cũng giảm 1,76% so với năm 2011. Xu thế giảm mạnh được thể hiện
ở cả 3 thước đo nghèo quan trọng: Tỷ lệ nghèo, khoảng cách nghèo

và mức độ nghiêm trọng của nghèo. Điều quan trọng là không chỉ
một số lượng lớn người dân thoát nghèo mà mức sống và chất lượng
sống của họ được cải thiện đáng kể.
Tỷ lệ hộ nghèo ở 62 huyện nghèo bình quân giảm hơn 7%/năm. Hơn
1 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản
xuất, hơn 500.000 hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở. Cơ sở hạ tầng thiết
yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
được tăng cường, đời sống người dân không ngừng được cải thiện.
Mới đây, phát biểu tại Hội nghị lần thứ 3 về hợp tác giữa Việt Nam
và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, ông Marko Lovrekovic,
đồng giám đốc Trung tâm dữ liệu các tổ chức phi chính phủ cho biết:
Mười năm trở lại đây đã đánh dấu nhiều chuyển biến tích cực, Việt
Nam đã chia sẻ với quốc tế thông điệp sự phát triển chỉ có được khi
toàn xã hội phát triển và sự phát triển này phải mang lại lợi ích cho tất
cả mọi người, đặc biệt là cho những người nghèo khổ nhất. Việt Nam
đã làm cho cả thế giới phải ngạc nhiên bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế
không ngừng mà quan trọng hơn là những thành tựu trong công cuộc
xóa đói giảm nghèo.
Công nhận thành tích nổi bật trong xóa đói giảm nghèo thời gian
qua, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) cho
biết: Việt Nam nằm trong số 38 quốc gia được vinh danh là nước có
nhiều thành tích trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Chính sách xóa
đói nghèo của Việt Nam không chỉ nhằm giúp tăng thu nhập cho
người nghèo mà còn giúp họ cải thiện sinh kế và tiếp cận với các dịch
vụ xã hội như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, hòa nhập xã hội. Nhà
nước cũng mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên lên
trên 2,5 triệu người, tăng mức, mở rộng diện hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số, hỗ trợ chi phí học tập, sinh hoạt cho trẻ em nghèo, trẻ em
dân tộc thiểu số và vùng khó khăn, hỗ trợ gạo cho học sinh.
Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đang đứng thứ 6 trên

toàn cầu về thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Do đó, việc tiếp tục
duy trì những thành tựu đã đạt được và hoàn thành các mục tiêu còn
lại là một trong những nội dung quan trọng đòi hỏi phải có những giải
pháp thiết thực để vượt qua. Hơn nữa, sự ổn định kinh tế vĩ mô còn
chưa vững chắc, nguy cơ lạm phát tăng trở lại, nhưng công tác xóa
đói giảm nghèo cho toàn dân chính là động lực mạnh mẽ để Việt Nam
quyết tâm thực hiện và sẽ hoàn thành tốt nhất mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ đã cam kết. Vấn đề này, thực sự quan trọng cho sự
thành công của Việt Nam với vị thế là một quốc gia thu nhập trung
bình và để đạt được mục tiêu dài hạn hơn là trở thành một nước công
nghiệp hóa.
Việt Nam thành công trong giảm nghèo và tỷ lệ nghèo nhìn chung
giảm
Hệ thống an sinh xã hội hướng tới người dễ bị tổn thương và cung
cấp hỗ trợ quan trọng để thoát nghèo .
Dịch vụ khuyến nông đã mở rộng và tiếp cạn nhiều nông dân ở
nhiều xã hơn .
Thanh niên đi lao động ở các khu đô thị tạo ra nhiều cơ hội việc
làm học tập và tiền gửi về cho các hộ gia đình ỏ nông thôn .
Học sinh có thể tiếp cận nhiều cơ hội học tập hơn và thử nghiệm
giáo dục bằng tiếng mẹ đẻ cho dân tộc thiểu số
-Những thách thức mới phải đối mặt
Tuy đạt được những thành tích đáng mừng nhưng công cuộc xóa
đói giảm nghèo của Việt Nam lại đang đối mặt với những thách thức
mới. Phần lớn những người nghèo còn lại sống ở vùng nông thôn xa
xôi, hạn chế về tài sản, trình độ học vấn và điều kiện sức khỏe kém.
Nghèo trong các nhóm dân tộc thiểu số là một thách thức kéo dài.
Tuy chỉ chiếm 15% dân số cả nước nhưng chiếm tới 47% tổng số
người nghèo vào năm 2010, so với 29% năm 1998. Hơn nữa, những
người nghèo ngày càng khó tiếp cận với các điều kiện giảm nghèo

chung do không theo kịp tốc độ gia tăng của các điều kiện giảm
nghèo, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu
số.
Bên cạnh những thách thức giảm nghèo mang tính lâu dài thì công
cuộc giảm nghèo ở nước ta còn phải tính đến một số thách thức mới
như: Bất ổn vĩ mô ngày càng tăng khiến cho tốc độ giảm nghèo có xu
hướng chậm lại; nghèo tại khu vực thành thị gia tăng do tốc độ đô thị
hóa nhanh khiến người dân gặp khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi
và nguy cơ tái nghèo mới ở khu vực nông thôn, ven biển…
Nhiều người còn nghèo kinh niên và nhiều người khác còn khả
năng tái nghèo .
Các chương trình an sinh xã hội bao phủ chưa đủ hộ trợ thấp so với
chi phí cuộc sống và nhiều khi chưa đúng đối tượng .
Dịch vụ khuyến nông không phải lúc nào cũng đáp ứng nhu cầu
của nông dân vê nội dung và phù hợp với bối cảnh .
Người di cư ra đo thị gặp phải khó khăn khi tiếp nhận dịch vụ cơ
bản và rủi ro do việc làm là không ổn định .
Chi phí trả thêm và chi phí không chính thức cho giáo dục với hộ
gia đình đang tăng và làm cản trở tiếp cận giáo dục , làm cho việc
cung cấp dịch vụ giáo dục mở rộng gặp rủi ro .

3.2 Giải pháp hoàn thiện trong giai đoạn mới :
Để chủ động, sáng tạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính
sách xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn mới, trước hết cần làm rõ
những nhân tố tác động đến chính sách này, có quan hệ trực tiếp đến
sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế, nhất là thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh". Làm rõ những nhân tố tác động đến chính
sách còn góp phần khắc phục bệnh "chủ quan, duy ý chí một cách tập
thể" và bệnh thành tích đã lan rộng trong các cấp quản lý.


*Trong thập niên 2011 - 2020, chính sách xóa đói, giảm nghèo ở
nước ta chịu tác động của những nhân tố sau đây:(nguyên nhân của
tình trạng nghèo đói và xóa đói giảm nghèo chưa được hiệu quả ):
1 - Tăng trưởng kinh tế phiến diện
Vấn đề đói nghèo, về khách quan, là sản phẩm tất yếu của một mô
hình kinh tế nhất định. Khi một mô hình kinh tế đã cạn kiệt tiềm năng
phát triển, thì dù có cố gắng của chính quyền cũng không thể giải
quyết tốt vấn đề đói nghèo.
Nước ta đã chuyển sang mô hình công nghiệp hóa từ nhiều năm
nay. Đó là mô hình kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên và lao động
giá rẻ, dựa vào đầu tư nước ngoài để xuất khẩu nhằm tăng trưởng
nhanh. Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, mô hình ấy có vai trò nhất
định ở giai đoạn khởi động nền kinh tế thị trường, nhưng nếu kéo dài
thời gian thực hiện mô hình ấy chỉ lo tăng trưởng số lượng thì những
vấn đề xã hội sẽ phát sinh và tăng lên, thể hiện ở vấn đề đói nghèo trở
nên nghiêm trọng, phân hóa giàu nghèo mở rộng khoảng cách nhanh
chóng, lối sống trong xã hội xuất hiện nhiều vấn nạn mới.
Trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới thì mô hình
công nghiệp hóa này đã diễn ra hơn 200 năm trước đây trong hình
thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong thế kỷ XX, mô hình này đã biến
đổi dần dưới hình thức "khủng hoảng - phát triển", đã lỗi thời và kết
thúc vào nửa sau thế kỷ XX, khi mô hình phát triển bền vững dựa trên
kinh tế tri thức ra đời và phát triển mạnh mẽ. Đây là bối cảnh thế giới
khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Do kéo dài mô hình công nghiệp hóa chạy theo tăng trưởng số
lượng, nên hiện nay nước ta tuy thực hiện chính sách xóa đói, giảm
nghèo đạt những kết quả nhất định, nhưng vấn đề đói nghèo trên thực
tế ở cả khu vực chính thức lẫn khu vực phi chính thức vẫn còn nhiều

điểm cần quan tâm nghiên cứu.
Ở khu vực chính thức (khu vực nhà nước) thì vấn đề đói nghèo ở
trong bối cảnh tiền lương thấp. Theo điều tra của Viện Nghiên cứu
quản lý kinh tế Trung ương, lương tối thiểu hiện mới chỉ đáp ứng
60% - 65% nhu cầu cần thiết. Mức lương này (dù đã tăng lên) vẫn
không bảo đảm bù đắp sức lao động giản đơn, chưa thể nói đến tái tạo
sức lao động và nâng cao năng lực lao động. So với các nước trong
khu vực, lương tối thiểu ở Việt Nam hiện thấp hơn khoảng 40%. Ưu
điểm của một mô hình kinh tế không chỉ ở năng suất lao động mà còn
ở mức sống của người lao động.
Chính sách tiền lương thấp hiện nay còn được các doanh nghiệp
trong nước và đầu tư nước ngoài lấy đó để làm căn cứ để trả lương
cho người lao động, chứ không dựa vào năng suất, chất lượng, hiệu
quả công việc. Những nhược điểm trong quản lý nhà nước đã bị các
doanh nghiệp khai thác làm cho người lao động ngày càng đói nghèo.
Ngoài ra, theo cam kết quốc tế, tới năm 2012, sự bình đẳng trong trả
lương giữa các thành phần kinh tế phải được thực hiện, trong khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước phải có chung
mức lương tối thiểu (khác với mức lương tối thiểu trong bộ máy nhà
nước).
Vấn đề đói nghèo hiện nay khác với đói nghèo trước đây ở thôn
quê do nhịp độ phát triển các dự án chỉ nhằm thu hút đầu tư cho tăng
trưởng kinh tế, còn các yêu cầu an sinh xã hội chưa được quan tâm,
nhất là trong giải phóng mặt bằng, trong tái định cư đã để lại hậu quả
về mất việc làm và đói nghèo tăng lên.
Nhìn tổng quát, tác động của tăng trưởng kinh tế một cách phiến
diện đến đói nghèo có nguyên nhân sâu xa từ việc duy trì quá lâu mô
hình công nghiệp hóa đã lỗi thời ở thời đại hiện nay, còn nguyên nhân
trực tiếp là bệnh thành tích theo nhiệm kỳ của bộ máy quản lý. Thực
tiễn cho thấy, giải quyết vấn đề đói nghèo phải gắn liền với đổi mới

mô hình kinh tế với đổi mới tư duy và phương pháp quản lý.
2 - Môi trường bị tàn phá
Ở nước ta, mức độ tàn phá môi trường ngày càng nghiêm trọng là
một nhân tố trực tiếp làm tăng mức độ và phạm vi của đói nghèo. Ở
đây chỉ nêu lên mấy mặt chủ yếu:
Trước hết, tình trạng ô nhiễm môi trường các khu công nghiệp. Các
khu công nghiệp, các công ty đã làm hàng loạt sông ngòi, kênh rạch,
nguồn nước ngầm bị ô nhiễm do không giải quyết vấn đề chất thải.
Kết quả là làm bệnh tật gia tăng đối với công nhân và dân cư trong
vùng. Những chi phí cho chữa trị bệnh tật khiến người lao động
nghèo thêm.
Thứ hai, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu không những đưa
đến mực nước biển dâng cao, xâm chiếm nhiều diện tích đất đai để
sinh sống (Việt Nam là một trong năm nước chịu tác động trước tiên),
mà còn gây ra những trận hạn hán, lũ lụt trầm trọng, xói mòn bờ biển,
bờ sông, phèn hóa đất đai nông nghiệp. Bộ Tài nguyên và Môi trường
Việt Nam dự báo, nếu mực nước biển dâng thêm 1 mét thì khoảng
20% châu thổ và 10% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh có thể bị
nhấn chìm. Những tai họa gần này sẽ làm tăng sự đói nghèo về mức
độ và phạm vi.
Thứ ba, vấn đề môi trường tác động xấu đến phát triển kinh tế và
đói nghèo ở nước ta trở nên cấp bách khi con sông Mê Công rơi vào
tình trạng lâm nguy. Sông Mê Công dài 5.400 km chảy qua Trung
Quốc, Mi-an-ma, Thái Lan, Lào, Cam-pu-chia và Việt Nam, cung cấp
nước cho trồng trọt, cho vận chuyển hàng hóa, ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của 65 triệu người. Riêng nhu cầu nguồn nước cho khu
vực này tăng nhanh (từ 43.700m
3
năm 2002 tăng lên 56.700m
3

vào
cuối năm 2010).
Mối đe dọa chính đối với sông Mê Công là việc xây dựng đập thủy
điện. Trung Quốc đã có 5 đập hoạt động, dự định xây thêm 15 đập cỡ
lớn và cực lớn ở thượng nguồn. Các nước Đông Nam á có kế hoạch
xây dựng 11 con đập ở hạ nguồn. Những con đập này sẽ làm biến đổi
sự điều hòa tự nhiên và lưu lượng dòng chảy theo mùa (tính thủy
học), làm giảm lượng phù sa ở hạ nguồn, đe dọa những khu vực trồng
lúa nước năng suất cao nhất thế giới (như đồng bằng sông Cửu Long),
đe dọa các luồng cá di chuyển sinh sản ở một con sông đang là ngư
trường cá nước ngọt lớn nhất thế giới, ảnh hưởng nặng nề đến đời
sống của nông dân và ngư dân. Mối đe dọa sông Mê Công còn do tác
động của biến đổi khí hậu, gây ra ngày càng nhiều những trận lũ lụt
và hạn hán trầm trọng, xói mòn bờ, nước biển dâng cao ở khu vực
châu thổ con sông này.
Như vậy, vấn đề môi trường bị tàn phá đang và sẽ là một trong
những nguy cơ rất lớn về đói nghèo đối với cả ba miền Bắc, Trung,
Nam trong thập niên tới. Chính sách xóa đói, giảm nghèo từ năm
2011 trở đi phải được xây dựng trên những cơ sở hiện thực mới nói
trên, khác hẳn với cách làm chắp vá dựa trên “tư duy hỗ trợ, ban ơn”,
chỉ nhằm ổn định xã hội ngắn hạn, không có khả năng phát triển.
Khi xem xét tác động của môi trường đến phát triển kinh tế và xã
hội, còn phải tính đến giá trị địa - kinh tế của Việt Nam. Đó là giá trị
địa - kinh tế ven biển, với chiều dài 3.260 km bờ biển, hơn 3.000 hòn
đảo, diện tích mặt biển lớn gấp ba lần diện tích đất liền. Đó là lợi thế
để tăng trưởng kinh tế gắn chặt với thu hẹp diện đói nghèo, bằng cách
khai thác tiềm năng biển gắn liền với bảo vệ môi trường của một nền
kinh tế sinh thái thông qua hiện đại hóa 4 trung tâm vùng biển: Hạ
Long - Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Phú Quốc và xây dựng lực
lượng hiện đại bảo vệ vùng biển.

Mặt khác, phải chấm dứt những hoạt động kinh tế trái với đòi hỏi
trên, như khai thác cát để bán cho Xin-ga-po. Theo Bộ Tài nguyên và
Môi trường, mỗi năm hoạt động khai thác cát đã làm mất một khối
lượng tương đương một hòn đảo rộng 15 km
2
.
3 - Sự hạn chế về năng lực tổ chức, quản lý của bộ máy nhà nước các
cấp.
Đây là nhân tố tác động không nhỏ đến mức độ đói nghèo, nhưng
thường bị bỏ qua và chậm đổi mới. Xét trên toàn cảnh, tác động của
nhân tố tổ chức, quản lý của các cấp đến đói nghèo có mức độ khác
nhau, ở những thời gian khác nhau, được thể hiện tập trung ở mấy
mặt sau đây:
Thứ nhất, tính chất và mức độ "hành chính quan liêu" trong các cấp
đã ảnh hưởng đến giải quyết vấn đề đói nghèo, thực hiện những chủ
trương, chính sách xóa đói, giảm nghèo trong thời gian qua biểu hiện
ở các hoạt động:
- Cứu trợ dân nghèo trong các đợt thiên tai bão lụt ở một số nơi rất
chậm trễ, làm diện đói nghèo kéo dài và lan rộng.
- Việc xác định diện hộ nghèo theo quy định có những lệch lạc, dựa
vào quan hệ thân quen đưa vào diện nghèo những hộ không nằm
trong tiêu chí nghèo, thậm chí bớt xén tiền bạc mà đáng lẽ hộ nghèo
được hưởng. Những sai phạm này thường ở cấp chính quyền cơ sở và
huyện.
- Chất lượng xây dựng các luật kinh tế, xã hội còn thấp so với thực
tiễn, nên "dễ thông qua nhưng khó thi hành" ở cấp vĩ mô. Quy trình
làm luật hiện nay chỉ coi trọng mặt chính sách, giải trình nội dung
chính sách hay luật mà không đòi hỏi giải trình về mặt kỹ thuật tổ
chức thực hiện, nhất là về mặt thanh tra, kiểm soát. Vì vậy đã có
những trường hợp bất khả thi, hoặc dễ "lách luật" và lạm dụng. Đây là

hạn chế của cấp vĩ mô.
Thứ hai, tình trạng lãng phí ngày càng tăng trong quá trình triển
khai các dự án kinh tế - xã hội, do chất lượng thấp trong xây dựng và
thực hiện dự án, nên các dự án không có khả năng hoàn vốn, rủi ro
cao, thời gian thực hiện kéo dài. Hiện nay, chỉ số ICOR quá cao (# 8)
tiềm ẩn nhiều nguy cơ về tăng trưởng và đói nghèo.
Tính chất hành chính quan liêu trong quản lý vĩ mô gây lãng phí ở
tầm quốc gia còn do nôn nóng muốn làm tất cả, không có ưu tiên và
bước đi phù hợp. Cách làm nặng về số lượng (người ta nói do bệnh
thành tích theo tư duy nhiệm kỳ) không chỉ gây lãng phí lớn, mà còn
để lại nhiều vấn nạn cả về kinh tế và xã hội.
Thứ ba, tình trạng tham nhũng tác động không chỉ đến chất lượng
và hiệu quả phát triển, mà còn trực tiếp đến đời sống nhân dân. Hiện
tượng tham nhũng xuất hiện cả trong lĩnh vực giáo dục, lĩnh vực y tế,
thậm chí cả trong dự án xóa đói, giảm nghèo, cùng với những tác
động tiêu cực của các dự án xây dựng, nhất là các dự án sử dụng
nhiều đất đai, làm cho vấn đề đói nghèo và ổn định xã hội khó giải
quyết. Nguy cơ và hậu quả nghiêm trọng của tệ nạn tham nhũng là
những người này đang trở thành lực lượng "nội xâm", coi thường luật
pháp và vô trách nhiệm.
Trong thời gian qua, thực hiện Chương trình 135, Chương trình
30a, cũng như hỗ trợ giải quyết đói nghèo ở đồng bằng sông Cửu
Long đã góp phần giảm tỷ lệ nghèo, nhưng con số nghèo ở nông thôn
và đô thị vẫn còn cao. Nếu về mặt tổ chức, quản lý nhà nước không
khắc phục tình trạng hành chính quan liêu, lãng phí, tham nhũng thì
các mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2020 khó có triển vọng.

* Định hướng chính sách xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2020
1 - Tính tất yếu, cấp bách thay đổi định hướng chính sách
Thực tiễn kinh tế - xã hội nước ta trong những năm qua cho thấy,

không thể giải quyết vấn đề đói nghèo theo tư duy truyền thống chỉ
nhằm ổn định xã hội trước mắt, tách rời giữa tăng trưởng kinh tế với
xóa đói, giảm nghèo.
Về khách quan, tư duy ấy vốn là sản phẩm của mô hình công
nghiệp hóa truyền thống đã lỗi thời từ cuối thế kỷ XX.
Về chủ quan, tư duy ấy còn là di sản của nền kinh tế tập trung bao
cấp với quan hệ "ban ơn" và "chịu ơn" giữa Nhà nước với nhân dân
trước đổi mới.
Tính cấp bách của việc đổi mới tư duy kinh tế chính trị về tăng
trưởng và đói nghèo còn thể hiện ở nguy cơ Việt Nam rơi vào "cái
bẫy thu nhập trung bình" của một quốc gia thoát nghèo và gia nhập
vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng rồi mất nhiều thập niên
vẫn không trở thành nước phát triển. Từ năm 2009, Ngân hàng Thế
giới (WB) đã đưa Việt Nam vào nhóm nước có mức thu nhập trung
bình (hơn 1.000 USD/người). Hiện nay, nước ta buộc phải vượt qua
thử thách của cái bẫy này.
2 - Định hướng chính sách xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2011 -
2020
Thứ nhất, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế.
Đây là hướng chung của sự nghiệp đổi mới, là bước chuyển giai
đoạn từ tăng trưởng số lượng lên tăng trưởng cả số lượng và chất
lượng, là giai đoạn lấy chất lượng làm động lực tăng trưởng kinh tế.
Hơn một thập niên qua, mô hình tăng trưởng số lượng, dựa trên
khai thác tài nguyên và lao động gia công, dựa trên thu hút vốn đầu tư
nước ngoài đã tới giới hạn và đang phát sinh nhiều tiêu cực cả về kinh
tế, xã hội và môi trường. Do đó, nhu cầu cấp bách về kinh tế và chính
trị là chuyển sang mô hình phát triển bền vững, như các Đại hội của
Đảng đã nêu là: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo
vệ môi trường". Như vậy, vấn đề chính sách xóa đói, giảm nghèo phải
đặt trong tiến trình chuyển sang mô hình phát triển bền vững. Vấn đề

đói nghèo được giải quyết từ ba hướng gắn bó với nhau: Tăng trưởng
kinh tế bền vững, tự nó đã hạn chế phát sinh đói nghèo; tiến bộ xã hội
(thể hiện ở trình độ giáo dục, dân trí) là điều kiện trực tiếp để giải
quyết đói nghèo; bảo vệ môi trường đang trở thành vấn đề quan trọng
tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội.
Sự chuyển đổi mô hình kinh tế không chỉ là nhu cầu của nước ta
mà là xu thế của thời đại hiện nay, đang thách thức cả các nước phát
triển. Nhìn từ sự nghiệp đổi mới, thì chuyển đổi mô hình kinh tế là
lần đổi mới thứ hai, sau lần đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường
(từ năm 1986). Đây là cơ hội lớn và thách thức lớn.
Thứ hai, tạo lập những tiền đề, điều kiện để giải quyết vấn đề đói
nghèo trong mô hình mới.
Đây là những tiền đề vừa để xây dựng mô hình kinh tế mới, vừa
giải quyết có hiệu quả vấn đề đói nghèo.
- Xây dựng các hình thức liên kết các ngành khoa học và công nghệ
với sản xuất và xây dựng, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Thúc đẩy lan tỏa hình thức liên kết "bốn nhà" (nhà nông, nhà khoa
học, nhà doanh nghiệp và Nhà nước) trong các dự án nông, lâm, thủy
sản và dịch vụ.
- Phát triển các hình thức giáo dục miễn phí phổ cập về nghề nghiệp
cho những người trong diện đói nghèo. Nên dựa vào các tổ chức xã
hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ (NGO) nước ngoài thực
hiện các dự án về giáo dục, y tế, xã hội. Hướng hoạt động là nâng cao
năng lực, ý thức chủ động vượt đói nghèo của người dân nông thôn,
miền núi. Cách làm này hoàn toàn khác với cách làm phong trào để
ban ơn, lấy thành tích.
- Về mặt quản lý nhà nước, cần có quy định về tư vấn, phản biện và
giám định xã hội của các dự án sản xuất, xây dựng các dự án xóa đói,
giảm nghèo trước khi thực hiện, nhằm thể hiện được định hướng phát
triển bền vững.

- Nhà nước chỉ phê duyệt các dự án đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài
bảo đảm thực hiện mô hình phát triển bền vững. Đồng thời phải rà
soát, thanh tra các khu công nghiệp, các dự án đã và đang sản xuất và
xây dựng, quy định thời gian chuyển đổi sang mô hình mới. Bởi vì,
càng kéo dài kiểu sản xuất kinh doanh cũ thì càng tạo ra nguy cơ về
đói nghèo.
Thứ ba, đổi mới tổ chức và thể chế quản lý của Nhà nước theo yêu
cầu đổi mới mô hình kinh tế.
Mô hình tổ chức nhà nước và thể chế quản lý hiện nay, xét cho
cùng cũng là sản phẩm của mô hình tăng trưởng cũ. Khi mô hình tăng
trưởng kinh tế đã lỗi thời mà kéo dài kiểu tổ chức, quản lý cũ thì càng
làm cho tình hình kinh tế và xã hội phát sinh nhiều vấn đề nghiêm
trọng.
Về khách quan, mô hình phát triển bền vững đòi hỏi và quy định
mô hình tổ chức, thể chế quản lý là Nhà nước pháp quyền của dân
được đề ra từ Đại hội IX. Những vấn đề nóng trong kỳ họp Quốc hội
đầu năm 2010 cho thấy những khó khăn và chậm trễ trong việc xây
dựng nhà nước pháp quyền ở một nước kém phát triển, đang phát
triển. Vấn đề đói nghèo từng tồn tại lâu dài trong lịch sử. Sự tăng hay
giảm đói nghèo gắn liền với trình độ phát triển của nhà nước và phản
ánh bản chất nhà nước. Như vậy, đói nghèo ở phạm vi một nước là
một vấn đề chính trị. Các cuộc khủng hoảng xã hội và những biến
động về chính trị đều phát sinh từ tình hình đói nghèo và bất bình
đẳng xã hội.
Đổi mới tư duy và phương pháp hoạch định và thực hiện chính sách
xóa đói, giảm nghèo
1 - Đổi mới tư duy về chính sách xóa đói, giảm nghèo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng vạch rõ ba thứ giặc đe dọa sự tồn
vong của chính quyền nhân dân sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đó
là: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Sau 30 năm kháng chiến chúng

ta đã giải quyết vấn đề giặc ngoại xâm, giành được độc lập dân tộc,
còn giải quyết vấn đề "giặc đói", "giặc dốt" thì sau 35 năm chúng ta
vẫn chưa có nhiều bước tiến về chất lượng phát triển. Đây là thách
thức bên trong lớn nhất khi bước vào thập niên 2011 - 2020 với
những biến đổi có tính bước ngoặt, khi giải quyết vấn đề "giặc đói" và
"giặc dốt". Nó đòi hỏi Đảng cầm quyền phải có tư duy mới và năng
lực mới trong xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển. Tư duy
mới về chính sách xóa đói, giảm nghèo, trước hết là tư duy hệ thống,
tức là đặt vấn đề đói nghèo trong chiến lược chuyển sang mô hình
phát triển bền vững, trong đó giải quyết vấn đề "giặc đói" và "giặc
dốt" phải đồng thời, tạo điều kiện cho nhau, làm cho chính sách xóa
đói, giảm nghèo mang ý nghĩa là nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân được coi là trách nhiệm và mục tiêu của Đảng.
2 - Tư duy mới phải đi đôi với năng lực mới và phương pháp mới của
Đảng.
Trong tình hình hiện nay có những vấn đề lớn sau đây:

×