Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Phân tích và đánh giá thực trạng xoá đói giảm nghèo ở huyện Bình Liêu - tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2000-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.01 KB, 61 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nghèo đói là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu đối với
mọi quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển cũng như các nước đang phát triển và
kém phát triển, ở Việt Nam, đói nghèo là vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm. Sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế -
xã hội nước ta nói chung và khu vực nông thôn nói riêng đã có những biến đổi
sâu sắc. Nhịp độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế cao và tương đối ổn định từ
7% - 10% tỷ lệ lạm phát giảm, sản lượng lương thực liên tục tăng trong nhiều
năm qua, cuộc sống nhân dân ngày càng được cải thiện, bộ mặt nông thôn đã có
những thay đổi, tiến bộ .
Từ thực tế sản xuất cùng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng , nhà nước, các hộ nông dân biết sở dụng có hiệu quả về lao động, đất đai,
tiền vốn cho nên ngày càng có nhiều những hội kinh doanh giỏi . Mặt khác, số
hộ nông dân không biết bắt nhịp thời cơ, tiếp cận những tri thức sản xuất hay
không đủ điều kiện đã trở thành hộ nghèo đói . Ranh giới giàu nghèo ngày càng
trở nên rõ nét hơn , khi nền kinh tế thị trường ngày càng mở cửa , điều đó đã dẫn
tới sự phân hoá sâu sắc về đời sống và thu nhập của nhóm người giàu và người
nghèo trong xã hội, giữa thành thị và nông thôn . Thực trạng này nếu không
được giải quyết sẽ nẩy sinh ra những mâu thuẫn trong xã hội , là nguy cơ làm
mất ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội .
Mặc dù được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm , ưu đãi trong công cuộc
xoá đói giảm nghèo. Nhưng Bình Liêu vẫn còn có hộ nghèo, cụ thể tổng số hộ
nghèo đầu năm 2006 là 254 hộ = 49,46% hộ ở Huyện.
Đây là một mối quan tâm lớn của cấp uỷ, các ban, ngành đoàn thể từ huyện
đến cơ sở . Vì vậy việc xoá đói giảm nghèo trong nông thôn ở đây được đặt ra
như một yêu cầu cấp bách cần giải quyết với nhiều phương pháp tiếp cận cả trên
bình diện vĩ mô và vi mô .
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36


27
Chuyờn thc tp tt nghip
Xut phỏt t nhng vn lý lun v thc tin trờn nờn trong quỏ trỡnh
thc tp ti phũng Ni v LTB & XH huyn Bỡnh liờu tnh Qung Ninh em ó
chn ti nghiờn cu ca mỡnh :
Phân tích và đánh giá thực trạng xoá đói giảm nghèo ở huyện Bình
Liêu - tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2000-2010 lm chuyờn thc tp tt
nghip.
Nhm ỏnh giỏ ỳng n thc trng úi nghốo , tỡm ra nguyờn nhõn v ra
nhng bin phỏp thit thc tng bc gúp phn xoỏ úi, gim nghốo a
phng mỡnh mt cỏch hiu qu .
2 . Mc tiờu nghiờn cu ca ti
H thng hoỏ c s lý lun v phng phỏp lun nhm xem xột , ỏnh giỏ
cỏc vn nghốo úi nụng thụn hin nay .
Phn ỏnh thc trng úi nghốo v tỡm ra nguyờn nhõn dn n úi nghốo
Bc u tỡm ra nh hng v gii phỏp ch yu nhm gúp phn xoỏ úi ,
gim nghốo cho cỏc h nghốo úi nụng thụn huyn Bỡnh liờu - tnh Qung
Ninh trong nhng nm ti (2007- 2010) .
3. i tng v phm vi nghiờn cu
3.1. i tng nghiờn cu
ti tp trung nghiờn cu tỡnh hỡnh sn xut, thu nhp v i sng ca
cỏc h nghốo úi qua iu tra huyn Bỡnh liờu .
3.2. Phm vi nghiờn cu
Ch yu tp trung nghiờn cu mt s xó in hỡnh i din cho 2 vựng
sinh thỏi khỏc nhau ca huyn v ngoi bói.
V khụng gian: nghiờn cu trong phm vi a bn huyn Bỡnh Liờu tnh
Qung Ninh.
V thi gian: nghiờn cu thc trng trong nhng nm gn õy, ch yu t
2001 n 2006 ra nh hng v gii quyt cho n nm 2010.
4. Phng phỏp nghiờn cu

Sinh viờn:Trn Th Lý
Lp Kinh T Lao ng K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đề tài sử dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu kết hợp với các phương
pháp phân tích tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh xử lý, bảng biểu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về xóa đói giảm nghèo.
Chương II: Phân tích và đánh giá thực trạng nghèo đói ở huyện Bình
Liêu giai đoạn 2000-2006.
Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị thực hiện tốt việc XĐGN ở
huyện Bình Liêu giai đoạn 2007-2010
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
I. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực xác định đói nghèo của thế giới
I.1.Khái niệm
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nghiên cứu
vấn đề nghèo đói ở thành thị và nông thôn. Vậy như thế nào là nghèo đói? Xác
định và đánh giá như thế nào? Những câu hỏi đang đặt ra cho giới nghiên cứu
cũng như những nhà hoạch định ở mọi quốc gia. Vào cuối thập kỷ 80 và đầu
những năm 90 nền kinh tế của các vùng châu Á- Thái Bình Dương đã có những
chuyển biến rõ rệt, các nước cùng khu vực đã hỗ trợ liên doanh, liên kết với
nhau xây dựng, phát triển nền kinh tế, nhiều quốc gia đã cơ bản giải quyết được
vấn đề kinh tế, nhiều quốc gia khác đã có sự hồi phục lại nền kinh tế một cách
đầy ấn tượng.Tuy đã đạt được những thành quả to lớn đó, nhưng không có nghĩa

là có sự phồn vinh kinh tế trong tất cả các vùng và tất cả xã hội trong một quốc
gia. Với nền kinh tế mở các nước có điều kiện giao lưu buôn bán, trao đổi cả về
hàng hoá công nghệ, nhờ vậy mà người giàu có điều kiện mở mang kinh doanh
sản xuất, tăng thu nhập, còn những người có điều kiện và cơ hội ít thì gặp khó
khăn trong việc sản xuất kinh doanh ngày càng nghèo đi. Thậm chí có những
nước tỷ lệ người nghèo đói lại cao hơn, đó là điều làm cho thế giới phải quan
tâm và giải quyết. Một số nước ở Tây Âu, với nền kinh tế phát triển, tưởng
chừng như không còn nghèo đói thì thực ra tỷ lệ người nghèo đói vẫn còn cao.
Như vậy, dù ở nước nào, thời điểm nào thì nghèo đói vẫn còn tồn tại, một phần
là do hậu quả của các chính sách phát triển không tương xứng và các chiến lược
không thích hợp, một phần do mức tăng trưởng dân số hay những yếu tố ngoại
cảnh khác.
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối với mỗi quốc gia, mỗi khu vực nghèo đói được phân chia ở mức độ
khác nhau, tuy nhiên xét trên phương diện chung thì nghèo đói được định nghĩa
một cách rất trừu tượng là: Không có khả năng để có được một mức sống tối
thiểu do vậy nó không giống như vấn đề không công bằng. Bởi vì, nghèo đói có
liên quan đến mức sống tuyệt đối của một phần xã hội, còn sự không công bằng
chỉ mức sống tương đổi trên toàn xã hội.
Mặt khác, đói nghèo có tính động, thay đổi theo không gian, thời gian và
xuất phát điểm theo căn nguyên của nó là những nhân tố sự phát triển của sản
xuất, mức tăng trưởng kinh tế, sự tăng lên của nhu cầu con người, những biến
đổi của xã hội. Thực tế cho thấy các chỉ số xác định người đói nghèo và giàu có
luôn biến đổi. ỏ một số thời điểm nào đó cùng một nước thì chỉ số đói nghèo có
thể là một con số nhất định, nhưng sang một thời điểm nào khác, nước khác,
cộng đồng dân cư khác thì chỉ số này có thể không còn có ý nghĩa.
Tuy nghèo đói và phân hoá giàu nghèo đạt nội dung kinh tế có nguồn gốc

căn nguyên của nó, song với tư cách là một hiện tượng tồn tại phổ biến ở tất cả
các quốc gia, dân tộc trong tiến trình phát triển đói nghèo và phân hoá giàu
nghèo không bao giờ là hiện tượng kinh tế xã hội.Nhưng nó có những nội dung
vật chất, gốc rễ kinh tế ở bên trong và có quan hệ rất biện chứng với xã hội
chính trị và văn hoá.Như vậy, nghèo đói và phân hoá giàu nghèo là khái niệm
kép vừa có mặt kinh tế, vừa có mặt xã hội trong nội dung của nó, trong sự phát
sinh diễn biến ấy, nhân tố chính trị và văn hóa cũng có phần tác động, gây ảnh
hưởng tới hiện trạng, xu hướng và cách thức giải quyết. Điều này thật rõ trong
sự vận động của nền kinh tế thị trường, của bước chuyển đổi mô hình, cơ chế
chính sách quản lý, kể cả những biến đổi của cơ cấu kinh tế - xã hội trong thời
kỳ quá độ ở nước ta.
Đặc điểm này có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn vì đây là cơ sở của việc
tìm kiếm đồng bộ các giải pháp, biện pháp xoá đói giảm nghèo ở nước ta, nhất
là những vùng dân cư nông nghiệp trong nông thôn.
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Để đánh giá tình trạng nghèo đói của một quốc gia, nhận dạng được hộ
nghèo, hộ đói cũng như địa bàn cư trú của hộ, từ đó có những chính sách, giải
pháp hỗ trợ phù hợp đòi hỏi phải có những đúng đắn về vấn đề nghèo đói mà
trước hết là khái niệm, thước đo, chỉ tiêu chuẩn mực các hiện tượng kinh tế xã
hội này.
Hội nghị Quốc tế bàn về xoá đói giảm nghèo trong khu vực CHÂU Á-
THÁI BÌNH DƯƠNG do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc năm 1993 đã đưa ra khái
niệm về nghèo đói như sau:
“Nghèo đói là tình trạng ,một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả
mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo
trình độ phát triển kinh tế-xã hội và phong tục tập quán của các địa phương”.
Có thể coi đây là định nghĩa chung nhất về nghèo đói, một định nghĩa có

tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu phổ biến
về nghéo đói. Để phân biệt rõ hơn nữa quan niệm về nghèo đói các nước đã
phân chia làm 2 loại: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả
mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống, nghĩa là không có khả năng
đạt được ít nhất của cuộc sống.
Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng không có khả năng đạt đến một tiêu chuẩn sống
hiện tại. Do vậy, khái niệm nghèo đói tương đối tuỳ thuộc theo thời gian và mức
sống chung của cả xã hội.
Trên thế giới vấn đề xá định nghèo đói và giải quyết nghèo đói cũng có
những cách hiểu khác nhau. Theo quan điểm chung những người có thu nhập
dưói 1/3 mức trung bình của xã hội thì coi là nghèo khổ.
Ở INĐÔNÊSIA được quy định cụ thể hơn, ai có mức thu nhập quy ra gạo
bình quân đầu người dưói 285kg/năm thì được coi là nghèo khổ
I.2. Chỉ tiêu đánh giá nghèo đói của thế giới.
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Để đánh giá đói nghèo của thế giới chủ yếu sử dụng chỉ tiêu thu nhập
quốc dân đầu người ( GDP)/người . Nhưng một số nhà nghiên cứu cho rằng chỉ
dùng một chỉ tiêu sẽ không đủ đảm bảo đánh giá toàn diện được đói nghèo . Vì
vậy, tổ chức hội đồng hải ngoại (OCD) đã đưa ra chỉ số chất lượng vật chất của
cuộc sống (PQLI- physic quality life indx),căn cứ để đánh giá chỉ số PQLI gồm
ba chỉ tiêu cơ bản :
- Tuổi thọ
- Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh.
- Tỷ lệ xoá mù chữ.
Gần đây, để đánh giá sự nghèo đói của một quốc gia, UNDP đã đưa ra chỉ số

nghèo đói HPI với bồn chỉ tiêu chính là:
- Tỷ lệ thất học.
- Tỷ lệ những người chết dưới 40 tuổi.
- Tỷ lệ người không được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản (nước sạch,
chăm sóc y tế, dinh dưỡng…)
- GDP bình quân đầu người tính theo phương pháp PPP ( ngang giá sức
mua ).
- HPI như là một công cụ để tham khảo đánh giá tình trạng nghèo đói của
một quốc gia.
I.3.Chuẩn mực xác định đói nghèo của thế giới.
Nghèo đói về lương thực thực phẩm : là những người có thu nhập không
đảm bảo cho lượng dinh dưỡng tối thiểu ( bù đắp 2100calo ri/người/ngày đêm).
Đường nghèo đói chung : được xác định trên cơ sở người nghèo lương thực thực
phẩm va coi đó là tương ứng với 70% nhu cầu cơ bản tối thiểu , còn 30% còn lại
là các nhu cầu cơ bản tối thiểu khác. Nghèo đói chung là những người không
đảm bảo thu nhập để đáp ứng 2 nhu cầu trên.
II. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực xác định nghèo đói của Việt Nam.
II.1.Khái niệm về nghèo đói của Việt Nam.
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Việt Nam là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, đầu
những năm 90 mức thu nhập chỉ đạt trên dưới 200 USD/người/năm. Đến đầu
năm 1997 mới đạt 320 USD/người/năm. ( 2006 trên 600 USD), tuy nhiên so với
thế giới và khu vực thì vẫn còn quá thấp. Chính vì vậy, qua nhiều cuộc điều tra,
khảo sát, nghiên cứu các nhà nghiên cứu quản lý ở các Bộ, ngành đã đi đến
thống nhất cần có khái niệm riêng, chuẩn mực riêng cho nghèo đói như sau:
Hộ nghèo: Là tình trạng một bộ phận hộ gia đình có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng (thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành,

không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất).
Hộ đói: Là tình trạng một bộ phận hộ gia đình không có khả năng thoả
mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống (cơm không đủ ăn, áo không
đủ mặc, con cái thất học, ốm đau không có tiền chữa trị, nhà ở bằng tranh tre
vách đất)
Nhu cầu thiết yếu gồm 3 yếu tố: ăn, mặc, ở.
Nhu cầu sinh hoạt hàng ngày gồm 5 yếu tố: văn hoá, giáo dục,y tế, đi lại,
giao tiếp.
Nhu cầu tối thiểu, mức cụ thể của nhu cầu tối thiểu phụ thuộc vào điều
kiện phát triển kinh tế của từng vùng, từng quốc gia theo từng thời kỳ.
II.2.Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của Việt Nam
Thước đo chuẩn nghèo: là ranh giới phân biệt những người nghèo và
những người không nghèo, nó được xác định vào các nhu cầu của cuộc sống vào
hoàn cảnh cụ thể của từng hộ dân, vào tình trạng phát triển kinh tế xã hội của
một địa phương, một vùng, một quốc gia. Đây không phải là con số ổn định mà
nó sẽ thay đổi theo từng địa phương, từng quốc gia và thay đổi theo thời gian.
Chỉ tiêu chính là thu nhập bình quân đầu người/tháng (hoặc năm), đo
được bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương thực hay gạo
để đánh giá.
Ngoài ra còn có các chỉ tiêu phụ: dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các
điều kiện học tập, chữa bệnh, đi lại,…
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Với điều kiện giá cả ổn định thì có thể căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập bình
quân đầu người bằng giá trị cơ bản để phản ánh mức sống, song trong những
thời kỳ mà giá cả có sự biến động thì cần phải quy đổi ra giá trị hiện vật, phổ
biến là quy đổi ra gạo để xác định (gạo thường), việc sử dụng hình thức quy đổi
hiện vật nhằm loại bỏ được ảnh hưởng của các yếu tố giá cả. Từ đó có thể so

sánh được mức thu nhập của người dân theo không gian và thời gian.
II.3.Chuẩn mực xác định đói nghèo của Việt Nam
Chuẩn mực đói nghèo năm 1997-1998 được xác định :
Hộ đói : là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 13ky gạo/người/tháng ,
tương ứng với 45.000đ , (áp dụng cho mọi vùng).
Hộ nghèo: Phân theo 3 vùng có thu nhập như sau :
+ Vùng nông thôn miền núi , hải đảo: là hộ có thu nhập bình quân đầu người
dưới 15kg gạo , tương ứng với 55.000đ.
+ Vùng nông thôn đồng bằng , trung du: là hộ có thu nhập bình quân đầu
người dưới 20kg gạo, tương ứng với 70.000đ
+ Vùng thành thị : là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 25 kg gạo,
tương ứng với 90.000đ .
Bộ lao động TBXH đã đưa ra chuẩn mực chung cho toàn quốc . Các tỉnh ,
thành phố có thể căn cứ tình hình kinh tế - xã hội và thực trạng nghèo đói ở địa
phương có thể nâng chuẩn mực nghèo đói cao hơn chuẩn chung , nhưng phải
đảm bảo 3 điều kiện :
+ Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập bình quân cả nước .
+ Tỷ lệ nghèo đói thấp hơn tỷ lệ bình quân cả nước .
+ Có đủ nguồn lực cân đối thực hiện các giải pháp hỗ trợ XĐGN
Chuẩn nghèo theo quyết định số:1143/2000/QĐ-LĐTBXH mgày
01/11/2000 của Bộ trưởng Bộ lao động TBXH về việc điều chỉnh hộ nghèo giai
đoạn 2001 – 2005 theo mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng
vùng , cụ thể như sau :
Vùng nông thôn miền núi , hải đảo: 80.000đ/tháng/người - 960.000đ/ năm.
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000đ/tháng/người – 1.200.000đ/năm
- Vùng thành thị : 150.000đ/tháng /người – 1.800.000đ/ năm.

Những hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới mức qui định nêu trên được
xác định là hộ nghèo.
Chuẩn mực nghèo đói năm 2005 như sau :
- Vùng nông thôn đồng bằng : 200.000đ / tháng / người
- Vùng thành thị : 260.000đ / tháng /năm
Những hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới mức qui định nêu trên được
xác định là hộ nghèo.
Trên thực tế, việc xác định chuẩn đói nghèo thông qua thu nhập bình quân đầu
người (thường qui ra gạo)có không ít những hạn chế . Như đã trình bày ở trên,
chuẩn đưa ra tương ứng với 23 ky gạo/người/tháng (hộ đói), tức là nếu quy đổi
thì chỉ bằng 1.500 Kcal/ngày. Mà nếu tính chi tiết cụ thể và thực tế hơn, tổng thu
nhập của một người không chỉ phục vụ 100%cho việc ăn uống, còn có các nhu
cầu tối thiểu khác: mặc, ở,…buộc phải được thoả mãn và các nhu cầu cơ bản
cũng đôi khi cần phải thoả mãn. Như vậy tính ra thì không phải mỗi người được
nạp vào mỗi ngày 1.500 Kcal mà còn thấp hơn thế nữa. Nhưng thậm chí ngay cả
với mức 1.500 Kcal mỗi ngày thì vẫn còn rất thấp so với tiêu chuẩn y sinh học
quốc tế. Giới hạn chính thức của các nước Đông Nam Á còn cao hơn rất
nhiều(2.000 đến 2.100Kcal/ngày/người).
Quan trọng hơn nữa, khi quy đổi từ thu nhập sang gạo và tương ứng là số
Kcal/ngày đã không căn cứ trên cách thức tiêu dùng thực tế của người dân.
Người dân hoàn toàn có thể tiêu dụng thu nhập của mình cho những thực phẩm
khác có giá tiền tính trên một đơn vị Kcal cao hơn rất nhiều so với gạo. Trên
thực tế thì lượng Kcal nạp vào của mỗi người phải có đến 20-25% là tối thiểu
không phải là gạo. Tiếp đến, việc xác định hộ nghèo đói dựa trên thu nhập trung
bình đầu người đã đưa đến một con số nhỏ đáng ngờ về số lượng người nghèo
đói ở Việt Nam (chỉ có 1,1% người Việt Nam thuộc diện nghèo đói).
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Chính vì vậy, người ta đã đưa thêm giới hạn nghèo đói 2.100
Kcal/người/ngày làm giới hạn nghèo đói. Nếu theo giới hạn này thì Việt Nam
năm 1994 có tới 51% dân số được xếp ở loại nghèo đói.
II.4. Tình hình nghèo đói ở Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam chỉ thực sự có bước chuyển biến khi Đảng và Nhà
nước thực hiện các chính sách mở cửa, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo
hướng phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong những
năm này, tình hình kinh tế trong nước đã có những thay đổi lớn. Cụ thể là tốc độ
tăng trưởng GDP cao và tăng đều qua các năm, bình quân thời kỳ 1986-1990
tăng 3% năm; thời kỳ 1991-1995 tăng 8,2% năm; năm 1991 tăng 9,34% … Nhờ
đó mà đời sống nhân dân được cải thiện, lạm phát được kìm chế và giảm dần
trong những năm gần đây: năm 1995 là 12,4%; năm 1996 là 4,5%; năm 1997
còn 3,6% (trong đó có những năm con số này lên đến 774,7% siêu lạm phát
(1986). Tuy đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ như trên, nhưng vào
thập niên 90 Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo trên thế giới, chỉ tiêu
kinh tế bình quân đầu người còn rất thấp, tỷ lệ nghèo đói vẫn còn cao. Có hơn
90% số người nghèo đói ở nông thôn sản xuất thuần nông, qui mô nhỏ và lạc
hậu
II.5. Nguyên nhân và đặc điểm của các hộ nghèo đói
* Nguyên nhân của các hộ nghèo đói
Thứ nhất, do nguồn lực bị hạn chế. Thiếu nguồn lực nên người nghèo bị
rơi vào vòng luẩn quẩn nghèo đói không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực làm
cản trở họ thoát nghèo, các hộ nghèo có ít đất, thiếu khả năng tiếp cận nguồn tín
dụng do không có tài sản thế chấp, sử dụng sai mục đích. Nguồn thu nhập bấp
bênh, tích luỹ kém nên khó chống đỡ với mọi biến cố xảy ra.
Thứ hai, do trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định:
người nghèo trình độ hoc vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt nên mức
thu nhập thấp, không có khả năng để nâng cao trình độ. Từ đó ảnh hưởng đến
các vấn đề giáo dục,sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái,…
Sinh viên:Trần Thị Lý

Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Do trình độ thấp nên người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ sản xuất đã làm tăng chi phí,giảm thu nhập trên một đơn vị sản phẩm…
Thứ ba, do bệnh tật sức khoẻ yếu kém và bất bình đẳng giới: bệnh tật
ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo, hộ mất đi thu nhập và tăng
thêm chi phí cho y tế do đó họ phải vay mượn dẫn đến khó có thể thoát nghèo.
Bất bình đẳng làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói, phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận
với khoa học, kỹ thuật công nghệ mới, họ phải gánh nặng việc gia đình, thu
nhập thấp hơn nam giới, tỷ lệ trẻ em tử vong do bà mẹ không hiểu biết về sinh
sản sức khoẻ.
Thứ tư, do các nguyên nhân về nhân khẩu, quy mô hộ gia đình: đông con
vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của đói nghèo.
Thứ năm, do những tác động của đổi mới chính sách: tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao và ốn định trong thời gian qua là một trong những nhân tố ảnh hưởng
lớn tới mức giảm nghèo. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông
nghiệp và nông thôn còn thấp. Cải cách doanh nghiệp nhà nước cùng với những
hộ khó khăn về tài chính của một số doanh nghiệp đã dẫn tới việc mất đi gần
1.000.000 việc làm, nhiều công nhân mất việc gặp rất nhiều khó khăn. Tình
trạng thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm thấp và năng lưc sản xuất hạn chế đã làm không ít các doanh nghiệp nhỏ
và vừa bị phá sản.
Tóm lại: Đói nghèo do nhiều ngyên nhân gây nên, có cả chủ quan và
khách quan. Để nhận biết một cách đầy đủ chúng ta có thế chia thành 3 nhóm
nguyên nhân:
Nhóm 1: Gồm những nguyên nhân chủ quan thuộc về bản thân nguời lao
động.
- Kém hiểu biết về cách thức làm ăn hộ sản xuất lạc hậu.
- Thiếu hoặc không có vốn để sản xuất.

- Đông con, ít lao động.
- Rủi ro, ốm đau, bệnh tật.
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Thiếu tư liệu sản xuất cần thiết.
- Thiếu việc làm.
- Ăn tiêu không có kế hoạch, lười biếng, mắc tệ nạn xã hội.
Nhóm 2: Thuộc về điều kiện tự nhiên.
- Đất đai dùng cho thâm canh cây lúa, diện tích BQ đầu ngưòi thấp.
- Đất đai cằn cỗi, chưa chủ động hoàn toàn về nước.
- Thời tiết khí hậu khắc nghiệt gây khó khăn cho sản xuất, cụ thể như hạn
hán, bão lụt thường xuyên xảy ra kèm theo gió Lào, mưa phùn kéo dài,…
- Xa trung tâm kinh tế của tỉnh, giao thông đi lại khó khăn cách trở.
Nhóm 3: Gồm những yếu tố xã hội tác động.
- Hậu quả của chiến tranh để lại gây ảnh hưởng đến sản xuất phát triển kinh
tế.
- Nhà nước chưa có biện pháp đầu tư đúng mức để xây dựng cơ sở vật chất hạ
tầng cần thiết phục vụ sản xuất trong khi đó địa phương không có đủ khả năng
để tự làm như cầu đường giao thông.
-Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội chưa có biện pháp hữu hiệu để
chuyển những thông tin cần thiết đến tận người dân, cụ thể như: các biện pháp
lỹ thuật sản xuất, chăn nuôi, cách thức làm ăn, mở rộng ngành nghề mới, các
chủ trương chính sách nhất là chính sách kinh tế…
* Đặc điểm của các hộ nghèo đói
- Người nghèo chủ yếu là người nông dân với trình độ học vấn thấp và khả
năng tiếp cận đến các thông tin và kỹ năng chuyên môn bị hạn chế.
Tình trạng hộ nghèo có ít đất hoặc không có đất đang ngày một phổ biến
hơn. Các hộ không thể sống bằng canh tác trên đất có rất ít cơ hội để có thu nhập

ốn định từ các hoạt động phi nông nghiệp. Cần phải tiến hành ngay cải cách
nhằm tạo ra việc làm phi nông nghiệp hơn.
Các hộ có nhiều con hoặc có ít lao động có tỷ lệ nghèo cao hơn và đặc biệt
dễ bị tổn thương khi phải gánh chịu thêm những chi phí về y tế và giáo dục. Các
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hộ gia đình mới lập ban đầu phải trải qua giai đoạn nghèo đói do ít có khả năng
được sử dụng đất. Các hộ nghèo thường bị rơi vào vòng nợ luẩn quẩn.
- Các hộ nghèo đều dễ bị tổn thương bởi những khó khăn mang tính thời vụ
và những biến động bất thường xảy ra đối với gia đình hay cộng đồng. Các hộ
nghèo có thể bị tách biệt về mặt địa lý hoặc về mặt xã hội.
- Tỷ lệ nghèo đói trong các nhóm dân tộc ít người đã giảm đi, nhưng không
giảm nhanh bằng người Kinh. Các dân tộc ít người gặp phải nhiều bất lợi đặc
biệt. Các bất lợi này cần phải được giải quyết thông qua một Chương trình Phát
triển cho các dân tộc ít người.
- Những người dân nhập cư thành thị, nghèo và không có hộ khẩu gặp
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các dịch vụ công cộng và có thể phải
sống ở bên lề của xã hội.
- Có quá nhiều trẻ em trong số dân nghèo. Trẻ em nghèo ít có khả năng
được đến trường và bị rơi vào vòng nghèo đói do thế hệ trước để lại và các em
thường có cảm giác không được an toàn.
III. Tình hình nghèo đói của tỉnh Quảng Ninh
Theo kết quả tổng điều tra xác định hộ nghèo trên địa bàn toàn tỉnh tháng 6/
2005 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 do Chính phủ qui định (mức chuẩn
thu nhập để đánh giá hộ nghèo tăng khoảng 2 lần so với tiêu chí cũ). Toàn tỉnh
có 26.587 hộ nghèo, chiếm 10,62% tổng số hộ ; trong đó tỷ lệ nghèo khu vực
vùng cao chiếm 32,99% (huyện Ba Chẽ 52,13%; huyện Bình Liêu 49,46% hộ
nghèo); 56 xã, thị trấn có tỷ lệ nghèo từ 52% trở lên. Có 17,30 hộ nghèo diện

nông nghiệp nhưng không có đất hoặc thiếu đất sản xuất; 43,95% hộ nghèo còn
dùng nước tự nhiên để ăn uống ; 18,28% hộ nghèo chưa sử dụng điện sinh hoạt .
Các huyện vùng cao, miền núi địa bàn rộng , địa hình phức tạp, hệ thống cơ sở
hạ tầng đến các thôn, bản còn thiếu và yếu. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập
giữa thành thị và vùng nhiều dân tộc thiểu số vẫn tiếp tục gia tăng. Số hộ đã
thoát nghèo nhưng chưa thật sự bền vững, nguy cơ tái nghèo có khả năng tăng
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khi có thiên tai, dịch bệnh, mất mùa xảy ra. Trình độ dân trí của người nghèo
còn thấp, cơ hội tìm việc làm ngày càng khó khăn hơn.


Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XOÁ ĐÓI
GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN BÌNH LIÊU TỈNH QUẢNG NINH
GIAI ĐOẠN 2000-2006
I. Quá trình hình thành và phát triển của huyện Bình liêu
Bình liêu ngày nay, dưới thời phong kiến Việt nam , khi thực dân pháp
chưa xâm lược gồm hai tổng Bình liêu và Kiến Duyên của Châu Tiên Yên thuộc
phủ Hải Ninh , phủ Hải Ninh gồm có ba châu :Móng Cái, Tiên Yên, Hà Cối
Tỉnh Quảng Yên. Ngày 12 tháng 3 năm 1983, thực dân pháp đánh chiếm Quảng
Yên sau đó chiếm huyện Bình liêu , từng bước củng cố ách thống trị của chúng.
Ngày 10 tháng 12 năm 1906 , phủ toàn quyền pháp ra NĐ tách ba châu : Móng
Cái , Hà Cối , Tiên Yên khỏi tỉnh Quảng Yên , thành lập tỉnh mới Hải Ninh .

Ngày 14 tháng 12 năm 1912, phủ toàn quyền pháp ra NĐ xoá bỏ tỉnh Hải Ninh
lập đạo quân binh thứ nhất . Ngày 16 tháng 12 năm 1919, phủ toàn quyền Pháp
ra Nghị định tách hai tổng Bình liêu và Kiên Duyên, tổng Bình liêu gồm có: 4 xã
và 1 thị trấn, tổng Kiến Duyên gồm có : Ba xã và một phần cắt cho Trung Quốc
năm 1893 thuộc tỉnh Quảng Tây (TQ).
Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công , nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ( nay là nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời chính quyền cách
mạng Bình liêu được thành lập, châu Bình liêu được đổi tên thành huyện Bình
liêu ngày nay .
1. Đặc điểm tự nhiên và vị trí lãnh thổ
1.1. Vị trí và đặc điểm lãnh thổ
Bình liêu là một huyện miền núi , vùng cao nằm ở phía Đông Bắc tỉnh
Quảng Ninh , với diện tích tự nhiên khoảng 471,38% km2 chiếm 0.8% diện tích
tỉnh Quảng Ninh . Địa giới hành chính huyện chia thành 7 xã và một thị trấn,
gồm 97 thôn, trong đó các xã đều thuộc loại vùng cao .Dân số của huyện tính
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
theo số liệu thống kê năm 2006 là 28.121 người. trong đó có 13.385 nam (chiếm
47,59% và nữ 14,738 (chiếm 52,40% ) . Mật độ dân số trung bình là 56,8%
người/km2 bằng 31,7% . Mật độ dân số trung bình của tỉnh là 181người/km2 .
Bình liêu là một huyện miền núi biên giới, có cửa khẩu Hoành Mô và cửa
khẩu phụ Đồng Văn là cầu nối giao lưu giữa các địa phương với tỉnh Quảng Tây
(Trung Quốc).
Bình liêu là một huyện miền núi biên giới, địa thế tiếp giáp liền kề với
huyện Phòng Thành tạo sự giao lưu mậu dịch , trao đổi hành hoá , thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - thương mại , dịch vụ trên địa bàn huyện . Nhưng đồng thời
tạo ra những thách thức trong việc bảo vệ an ninh quốc phòng, quản lý các hoạt
động xuất khẩu và kiểm soát xuất nhập khẩu trên địa bàn huyện mạng lưới giao

thông của huyện duy nhất là giao thông đường bộ có 33km đường nhựa cấp
miền núi với nhiều ngầm qua suối thuộc tuyến quốc lộ 18c, dài 52 km độc đáo
chạy dọc giữa huyện theo hướng Tây Nam – Đông Bắc từ Tiên Yên đến cửa
khẩu Hoành Mô, nối liền huyện Bình Liêu với trục đường 18c cảng mũi Chùa
(Tiên Yên)và các trung tâm kinh tế- xã hội của tỉnh .Ngoài ra có hệ thống cấp
phối và đường liên thôn, liên bản.
1.2 Đặc điểm tự nhiên
Cấu trúc địa hình đa dạng mang tính chất của miền núi , phân dị độ dốc
lún, nên thường bị sói mòn rửa trôi làm giảm độ phì của đất, ảnh hưởng tới sản
xuất nông – lâm nghiệp . Độ cao phổ biến từ 300- 400m có một số đỉnh cao trên
1000m, như núi cao xiêm 1.330m .
Đặc trưng khí hậu miền núi phân hoá theo đỉnh cao tạo ra những vùng tiểu
sinh thái nhiệt đới và á nhiệt đới cho phép phát triển đa dạng các loại cây trồng .
Nhiệt đới trung bình năm dao động từ 18
0
c-28
0
c, nhiệt độ trung bình cao nhất
mùa hạ từ 30
0
c- 34
0
c , nhiệt độ trung bình thấp nhất mùa đông từ 5
0
c- 15
0
c, thỉnh
thoảng có sương muối, băng giá ở vùng núi đồi cao có khi còn có tuyết bao phủ,
lượng mưa hàng năm khá cao nhưng không điều hoà, bình quân từ 2000-
2.400mm/năm, khoảng 70% lượng mưa tập trung vào tháng 6-9 trong năm sườn

Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
các dãy núi mưa nhiều từ 2.400- 2.800mm. Độ ẩm trung bình năm khoảng
70-80% , điều kiện đó phù hợp với các loại cây ăn quả , ở vùng núi cao ven khe
suối thì thích nghi với các loại cây trồng : Hồi , Quế , Trẩu…
Thuỷ văn: Bình liêu có rất nhiều sông suối nhỏ, ngắn và dốc hội tụ chảy vào
sông Tiên Yên bắt nguồn từ biên giới Việt- Trung chảy dài suốt huyện theo
hướng Đông Bắc – Tây Nam do có độ dốc lớn nên lòng sông có nhiều ghềnh
nên không có giá trị giao thông vận tải . Thuỷ chế mang tính chất sông suối ,
miền núi , phức tạp và sự phân phối dòng chảy trong năm, mùa mưa lượng nước
dồn nhanh về phía hạ lưu tạo nên dòng xiết gây lũ ngập úng ruộng đồng .
Địa hình đồi đất rất lớn , chiếm 90% diện tích chia thành các vùng chính :
+ Vùng tây sông Bình Liêu
+ Vùng đông sông Bình Liêu
+ Vùng núi cao Đông Bắc
1.3. Đất đai thổ nhưỡng:
Tổng quỹ đất của huyện Bình liêu là 47.306 ha trong đó:
Đất nông nghiệp 26.606 ha chiếm 52,01%
Trong đó : Đất sản xuất nông nghiệp :4.492 ha chiếm 9,50%
Đất lâm nghiệp 20.049 ha , chiếm 42,48%
Đất phi công nghiệp 1.551ha, chiếm 3,28%
Đất chưa sử dụng 21.149ha, chiếm 44,71%
Thới gian qua , diện tích đất sản xuất nông nghiệp tăng từ 2.311ha năm 2000 lên
4.492ha năm 2005, đất phi nông nghiệp(chuyên dùng + đất ở) có xu hướng tăng
từ 537 ha năm 2000 lên 1.551 ha năm
Xét về đặc điểm tính chất thổ nhưỡng cho thấy đất đai của huyện phổ biến
là loại đất feralit đỏ vàng, nâu đỏ phát triển trên đá sa phiến thạch và đá riôlit,
được phân theo vùng sau:

+ Loại đất phát triển trên đá me riôlit: phân bố chủ yếu ở phía đông và đông
nam sông tiên yên, ven theo dẫy núi Cao Xiêm và Cao Ba Lanh (dọc từ xã Đồng
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Văn – Hoành Mô đến Tiên Yên). Loại đất này có độ phì cao, tầng đất dầy phù
hợp trồng các loại cây : Hồi, Quế,Trẩu, Sở …
+ Loại đất feralit phát triển trên đá sa phiến thạch : có tầng đất mỏng , độ
phì kém ; độ dốc lớn nên đất rẽ bị bào mòn và rửa trôi, phân bố chủ yếu ở phía
tây và tây bắc sông Tiên Yên . Trên loại đất này có thể trồng thông mã vĩ, cây
keo …
Biểu 1: Tổng hợp tài nguyên đất huyện Bình Liêu
Đơn vị: ha
Loại đất 2000 2003 2005
Tổng diên tích 42.918 47.138 47.306
I. Đất nông nghiệp 2.311 3.234 4.492
Tỷ lệ% so với diện tích tự nhiên 5,38 6,86 9,5
Trong đó đất trồng cây hàng năm 1.681 1.955 1.928
Tỷ lệ% so với đất nông nghiệp 72,74 60,46 42,49
Trong đó đất ruộng lúa mầu 1.396 1.644 1.621
II. Đất lâm nghiệp 9.624 17.670 20.094
Tỷ lệ% so với diện tích tự nhiên 22,42 37,48 42,48
III. Đất phi nông nghiệp 537 610 5.551
Tỷ lệ% so với diện tích tự nhiên 1,25 1,29 3,28
Trong đó:a: đất chuyên dùng 425 495 493
Tỷ lệ% so với diện tích tự nhiên 0,99 1,05 1,04
Trong đó b: đất ở 112 115 132
Tỷ lệ % so với diện tích tự nhiên 0,26 0,24 0,28
IV. Đất chưa sử dụng 30.446 25.625 21.149

Tỷ lệ% so với diện tích tự nhiên 70,94 54,36 44,71
(Nguồn : Phòng tài nguyên môi trường huyện Bình Liêu)
1.4. Tài nguyên rừmg :
* Rừng tự nhiên :chủ yếu là rừng gỗ các loại , trong đó :
Rừng chữ lượng V (rừng nghèo) : 909 ha chiếm chiếm 14,8% rừng tự
nhiên , đã bị khai thác nhiều lần , trữ lượng bình quân từ 50-70m3/ha, chủ yếu
còn ở Húc Động , Vô Ngoại, Tình Húc.
Rừng phục hồi: 5.250 ha chiếm 85,2% diện tích rừng tự nhiên , trong đó
rừng có chữ lượng là 2.970 ha và rừng chưa có chữ lượng là 2.280 ha.
* Rừng trồng : Tổng diện tích có 11.510 ha, được phân thành :
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Diện tích rừng trồng gỗ các loại: thông, keo, bạch đàn, sa mộc… ở Hoành
Mô, Húc Động, Đồng tâm, Tình Húc, Vô Ngoại, Húc Động .
Diện tích rừng đặc sản : hồi, quế, sở…tập trung ở Đồng Văn,Húc Động.
* Trữ lượng các loại rừng : Tổng trữ lượng là 724.000 m3 gỗ các loại , trong đó:
Rừng tự nhiên : 208.100 m3 chiếm 28,7% tổng trữ lượng rừng gỗ toàn
huyện , chia ra : rừng nghèo (V) 58.415 m3 ; rừng phục hồi 149.700 m3.
Rừng trồng : 516.000 m3 chiếm 71,3% trữ lượng gỗ của huyện, chia ra:
Thông cấp tuổi II-IV: 511.720 m3; Bạch đàn cấp tuổi II-III: 4.230 m3; sa mộc
cấp tuổi II: 60 m3.
* Hệ thực vật rừng :
Hệ thực vật chịu ảnh hưởng và có nhiều đặc điểm của hệ thực vật Hoa Nam
(Trung Quốc) . Bình Liêu có khoảng 250 loài , 80 họ thực vật bậc cao , trong đó
các loài thực vật quí hiếm cần được bảo vệ như : lim xanh, sến mật, vù hương ,
sa nhân và nhiều cây đặc sản được trồng ( hồi, quế, sở).
Bình liêu có tiềm năng lớn phát triển rừng vừa để bảo vệ cảnh quan môi
trường thiên nhiên , vừa cung cấp gỗ , lâm sản ( hồi, quế, sở).

1.5. Tài nguyên khoáng sản
Theo điều tra khảo sát địa chất , Bình liêu nghèo khoáng sản cả về số lượng và
chất lượng . Đây hạn chế đối với phát triển kinh tế của huyện .Trên địa bàn
huyện mới chỉ phát hiện hiện đá hoa cương dọc từ Đồng Văn , Húc Động và
xung quanh núi cao xiêm , khai thác một số điểm khoáng sản , sản vật liệu xây
dựng : đá, cát, sỏi, phân bố theo hai bờ sông Tiên yên ; và sản xuất gạch cung
cấp cho xây dựng địa phương
1.6. Kết cấu hạ tầng giao thông:
Các trục đường giao thông liên tỉnh kết nối huyện Bình liêu với bên ngoài
được đầu tư nâng cấp bước đầu tạo điều kiện cho phát triển giao lưu kinh tế
thông suốt và thúc đẩy phát triển khu kinh tế cửa khẩu Hoành Mô - Đồng Văn .
Tuyến trục chình QL 18c cùng với hệ thống cống cầu,cống dài ( dài 52km,
trongđó đoạn tuyến qua huyện là 33km +5 cầu : Pắc hóc, Pắc lặc,Nà Bam, Pắc
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cậm, Bản pạt 1+2 ,cống hộp khe chát) là trục đường huyết mạch của huyện đã
được mở rộng .
Đường giao thông trên địa bàn huyện, ngoài trục QL18c, có khoảng 314 km,
trong đó đường liên huyện : 53 km, đường liên xã ; 79 km và đường liên thôn
bản . các tuyến chính :
+ Nhựa hoá đường Hoành Mô - Đồnh Văn : dài 8 km
+ Nhựa hoá đường Bình Liêu – Húc Động : dài 10 km
+ Nâng cấp đường Lục Nà – Loòng Vài : dài 10 km
+ Đường Húc Động - Lục Ngù đang được nâng cấp : dài 6 km
+ Đường Bản Chuông- Nà sa
+ Bê tông , nhựa hóa đường nội thị trong khu cửa khẩu Hoành Mô ,
đường mở rộng thị trấn Bình Liêu .
+ Mạng lưới dịch vụ bưu chính - viễn thông : toàn huyện có hai cơ sở bưu

điện ( Bình Liêu và Hoành Mô) và 7 trạm bưu điện văn hóa xã, đảm bảo thông
tin liên lạc suốt trong phạm vi huyện và các xã.
1.7. Lưới điện:
Mạng lưới cấp điện và phân phối điện cho huyện Bình Liêu chủ yếu từ
trạm 110/35 KV- 16 MVA Tiên Yên trong hệ thống điện lưới quốc gia và thông
qua lưới điện quốc gia 35KV chạy dọc tuyến QL 18c cung cấp cho thị trấn Bình
Liêu , khu cửa khẩu Hoành Mô và các tram hạ áp 35/22-6KV và các trục đường
truyền tải , phân phối điện đến 7 trung tâm xã và nột số thôn bản trên địa bàn
huyện .
Hiện tại lưới điện vận hành của huyện mới đáp ứng nhu cầu cho 59,6% hộ
dân cư sử dụng điện cho các thôn bản ( kể cả thuỷ điện nhỏ).Trong những năm
tới,cần tiếp tục đầu tư lưỡi điện nông thôn cho các điểm dân cư thôn bản giáp
tuyến biên giới còn đến 40,4% số hộ chưa được sử dụng điện sinh hoạt .
1.8. Hệ thống cấp nước sạch :
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hệ thống cấp nước của thị trấn Bình Liêu được đầu tư xây dựng cải tạo
trạm sử lý nước sạch Bình liêu , công suất 2000 m3/ ngày . đêm được lấy từ
nguồn nước sông Bình Liêu . Tuy nhiên do hệ thống mạng cấp nước mới được
xây dựng đưa vào vận hành nên tỷ lệ được cấp nước máy chỉ đạt 50% dân số thị
trấn .
Đầu tư dự án nước sạch nông thôn với các công trình giếng đào, bể chứa
nước và nước nguồn tự chảy ; Trong năm 2003 – 2004 đã đầu tư khoảng 3 tỷ
đồng bằng hình thức bể chứa, nhưng chưa đạt được hiệu quả ( tỷ lệ hộ dùng
nước sạch mới đạt 41,2% số hộ, năm 2004).
2. Điều kiện kinh tế .
Là huyện có cửa khẩu biên giới , kinh tế huyện Bình liêu có những đặc
điểm khác biệt về so với huyện khác trong tỉnh .

- Tổng sản phẩm nội địa GDP trên địa bàn huyện năm 2004 là 135,4tỷ đồng
( giá so sánh 94) trong đó 83,2 tỷ từ kinh tế địa phương huyện quản lý ( chiếm
61,4% GDP) và khoảng 52,2 tỷ đồng từ thu thuế xuất nhập khẩu ở cửa khẩu
Hoành Mô ( chiếm 38,6% GDP), tăng 22,6% so với năm 2000 . GDP (giáHH)
bình quân đầu người trên địa bàn huyện đạt 7,32 triệu đồng , bằng khoảng 82%
mức bình quân của tỉnh , và 84% mức bình quân cả nước . Nhịp độ tăng trưởng
GDP bình quân năm ( 2000 - 2004) đạt 9,1%
Nếu tính riêng tổng sản phẩm nội địa GDP (giá CĐ94) thuộc kinh tế địa
phương huyện quản lý ( không tính phần thuế xuất nhập khẩu tại cửa khẩu
Hoành Mô- Đồng Văn) đã tăng liên tục từ 59,1 tỷ đồng năm 2000 lên 83,2 tỷ
đồng năm 2004 . GDP bình quân đầu người là 4,45 triệu đồng tương đương
283USD/ người , bằng 48% bình quân của tỉnh và 50,5% cả nước . Nhịp độ tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm của giai đoạn 2000- 2004 đạt khoảng 9,12%/
năm, Riêng năm 2004 GDP tăng gần 10% trong đó nông nghiệp tăng 2,22% ,
lâm nghiệp tăng 8,5%, công nghiệp xây dựng tăng 10,4% và dịch vụ tăng 4,5%.
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Biểu2: Tổng sản phẩm nội địa (GDP)
Đơn vị: tỷ đồng
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng sản phẩm nội địa GDP
+ GDP theo kinh tế lãnh thổ 110,5 101,5 99,0 132,4 135,4 144,0
+ GDP theo kinh tế huyện 59,1 67,4 64,1 80,9 83,2 91,5
GDP bình quân/người (tr đ)
+ GDP/ng theo KT lãnh thổ 5,898 5,375 5,318 7,130 7,315 7,818
Quy USD 406 358 350 456 465 495
+ GSP/ng theo KT huyện 3,088 3,518 3,440 4,296 4,446 4,910
Quy USD 212 234 224 275 283 311

2.1. Cơ sở hạ tầng của huyện
Những năm qua , trên địa bàn huyện đã tập trung nhiều nguồn vốn để đầu
tư xây dựng cải tạo, nâng cấp, như hệ thống giao thông ( trục đường 18c , đường
giao thông liên xã, giao thông nông thôn liên thôn bản) phát triển mạng lưới
điện, thông tin liên lạc , công trình thuỷ lợi, cấp nước theo hướng kết nối khu
kinh tế cửa khẩu Hoành Mô – Bình liêu với trung tâm Tỉnh để phục vụ phát triển
Kinh Tế - Xã Hội của huyện
2.2. Dịch vụ thương mại
Trong những năm qua đã tập trung đầu tư phát triển khu kinh tế cửa khẩu,
khuyến khích và thu hút các Doanh nghiệp, thương tư đến hoạt động kinh doanh
tạo bước phát triển mới ngành TM-DV .
2.3.Đặc điểm văn hoá – xã hội
- Văn hoá xã hội còn nhiều lạc hậu dân trí nhìn chung thấp , tỷ lệ hộ nghèo
còn cao, đời sông nhân dân còn nhiều vất vả khó khăn .
- Cơ sở vật chất của thiết bị VH- Thông tin huyện còn chưa tương xứng với
chức năng hoạt động của nó, hiện đang xuống cấp, trang thiết bị nghèo nàn, nhỏ
bé thiếu đồng bộ.
- Di tích lịch sử - văn hoá và lễ hội truyền thống trên địa bàn huyện rất đa
dạng về loại hình và kiến trúc nghệ thuật :
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lễ hội truyền thống trên đia bàn huyện Bình liêu mang đậm đà nét văn hoá
các dân tộc, như hội hát tháng ba của dân tộc Sán Chỉ ngày 16/3 (âm lịch) .
Văn hoá dân gian : các làn điệu dân ca hát then của dân tộc tày, Sóng cọ làn
điệu múa dân tộc .
Các di tích lịch sử, danh thắng và lễ hội trên địa bàn : Di tích lịch sử văn hoá
Đình Lục Nà ( Di tích cấp tỉnh) Thác khe vằn ( xã Húc Động) .
2.4. Quốc phòng- an ninh

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn luôn được gữi vững và
ổn định , an ninh biên giới được đảm bảo , công tác cắm mốc biên giới đúng tiến
độ và đảm bảo an toàn ; an ninh ở vùng sâu, vùng xa và các thôn bản được củng
cố đảm bảo an trật tự trên các lĩnh vực kinh tế,văn hóa xã hội . Trong thời gian
qua đã phát hiện và sử lý 41 vụ bằng 166 đối tượng xuất nhập cảnh trái phép .
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong mọi tầng lớp
nhân dân , nhất là trong thanh thiếu niên, học sinh,thường xuyên chỉ đạo thực
hiện nhiệm vụ chống tham nhũng,chống buôn lậu, gian lận thương mại góp phần
đảo bảo trật tự kỷ cương xã hội ở địa phương.
Bình liêu có 17.700 ha rừng chiếm 7,8% diện tích đất rừng trong tỉnh và
chiếm 37,5% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện .
2.5.Y tế-giáo dục
mạng lưới y tế-chăm sóc sức khỏe trên địa bàn huyện tiếp tục được đầu tư cơ
sở vật chất, trang thiết bị, huyện hiện có trung tâm y tế bệnh viện huyện ( qui mô
40 gường ) gồm các khoa, phòng và đội vệ sinh phòng bệnh có khả năng đảm
nhiệm cấp cứu thông thường và có một số trường hợp đặc biệt ngoại-sản; và 7
trạm y tế xã (24 gường) với tổng số gường bệnh 64 gường (2004 )
Tổng số cán bộ,nhân viên y tế hiện có 5/8 trạm y tế, thị trấn có bác sỹ; các thôn
bản đều có bác sỹ chăn sóc sức khỏe cộng đồng.
Những năm gần đây mạng lưỡi cơ sở giáo trường, lớp học được đầu tư
khá, được đưa vào sử dụng: THCS thị trấn Bình Liêu, THCS Hoành Mô, Lục
Hồn, Tình Húc, Húc Động.
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tuy nhiên,hiện nay hệ thống trường lớp còn nhiều bất cập, tồn tại phổ thông
cơ sở (Tiểu học + THCS ) các điểm trường nằm rải trên các thôn bản, nên khó
khăn trong việc quản lý vá nâng cao chất lượng giáo dục thường xuyên và trung
tâm dạy nghề.

Các phòng học ở các điểm trường tuy đã xóa phòng tranh tre nhưng cũng đã
xuống cấp, hư hỏng nhiều hoặc chưa đủ tiêu chuẩn cần được đầu tư cải tạo, xây
dựng mới. Số lớp học, số học sinh huy động ra lớp ở các ngành học, cấp hàng
năm ngày càng tăng lên, chiếm 30,6% dân số.
Đội ngũ giáo viên về cơ bản đáp ứng đủ về số lượng, đã được đào tạo lại đạt
chuẩn hóa 100% và trên chuẩn về trình độ ( hệ mầm non 6,5%, tiểu học 21%,
bậc học THCS: 7% ) phần lớn các giáo viên có tâm huyết với nghề, có ý thức
trách nhiệm với học sinh dân tộc ở các thôn bản, biên giới.Tuy nhiên số lượng
giáo viên chưa đồng bộ đủ cho các bộ môn, một số môn ít được bồi dưỡng nâng
cao trình độ nghiệp vụ, cập nhật thông tin các phương pháp giảng dạy.
3. Dân số - lao động:
Cơ cấu dân số theo dưới tính dân tộc
Bình liêu có 5 dân tộc chính thuộc các dân tộc ít người trong cộng đồng
các dân tộc việt nam, sống phân tán và xen kễ, trong đó chủ yếu là người Tày,
Dao, Sán Chỉ:
Biểu 3 : Bảng tỷ lệ các dân tộc trên địa bàn
Số TT Dân tộc Tỷ lệ (%)
1 Dân tộc Tày 56,5%
2 Dân tộc Dao 30,3%
3 Dân tộc Sán Chỉ 8,2%
4 Dân tộc Hoa 0,3%
5 Dân tộc Kinh 4,7%
( Nguồn: Phòng tài chính kế hoạch huyện Bình Liêu)
Theo số liệu thống kê, dân số trung bình của huyện Bình Liêu năm 2006
là: 28.121.000 người trong đó có: 13.385 nam (chiếm 47,59% )và nữ 14.736
(52,40%). tỷ lệ phát triển dân số năm 2006 là 1,32%. Tổng số dân trong độ tuổi
lao động toàn huyện là 14.351 người, chiếm 40,36% tổng dân số.
Sinh viên:Trần Thị Lý
Lớp Kinh Tế Lao Động K36
27

×