Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tổng quan kiến thức internet và thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.65 KB, 22 trang )

Tổng quan về internet và thương
mại điện tử
1 mở đầu
1.1 Lịch sử phát triển internet:
Vào cuối những năm 60, Bộ Quốc Phịng Mỹ đã tài trợ cho một nhóm sinh viên từ
nhiều trường Đại học và Viện nghiên cứu của Mỹ để tham gia chương trình nghiên
cứu về một cách thức truyền thông mới. Kết quả nghiên cứu là sự ra đời của mạng
ARPA (The Advanced Research Project Agency – tên của tổ chức tài trợ chi phí
nghiên cứu cho chương trình này). Sau đó, mạng này được các trường Đại học cùng
nhau phát triển để trở thành một mạng chung cho các trường Đại học, gọi là ARPAnet
ông tổ của Internet ngày nay. Ban đầu, mạng này được các trường Đại học sử dụng,
sau đó Quân đội cũng bắt đầu tận dụng, và cuối cùng Chính phủ Mỹ quyết định mở
rộng việc sử dụng mạng cho mục đích thương mại và cộng đồng. Mạng Internet ngày
nay đã trở thành một mạng liên kết các mạng máy tính nội bộ và các máy tính cá nhân
trên khắp tồn cầu
.
Cho đến ngày nay, mọi người đều công nhận rằng sự phát minh ra Internet là một
trong những phát minh vĩ đại nhất của nhân loại trong thế kỷ XX và sự phát minh này
có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế toàn cầu. Sự ảnh hưởng của Internet lên
nền kinh tế thế giới, lên cuộc sống của mỗi người trên thế giới sẽ còn tiếp tục trong
nhiều năm tới, đặc biệt là ở các nước đang và chưa phát triển.
World Wide Weblà một hệ thống siêu văn bản có thể liên kết nhiều loại văn bản ở
nhiều nguồn khác nhau. World Wide Web được một kỹ sư người Anh là Tim Berners
– Lee phát minh và hoàn thiện vào năm 1991. Xuất phát từ nhu cầu hệ thống lại những
ghi chép lộn xộn của mình, nhanh chóng tìm ra và liên kết được với những tài liệu
tham khảo tại bất cứ chỗ nào trên một văn bản, Tim Berners-Lee đã phát minh ra một
phần mềm trên một giao diện văn bản có thể tạo ra các liên kết với các file dữ liệu
trong máy tính của mình, sau đó phát triển tính năng này có thể liên kết với bất cứ file
dữ liệu nào trong các máy tính trên mạng Internet. Từ đó ra đời khái niệm trang Web
là một loại siêu văn bản có địa chỉ cụ thể và duy nhất, trên trang web có thể đặt các
liên kết tới các trang web khác một cách đơn giản và tiện lợi. Tập hợp các trang web ở


khắp nơi trên thế giới thông qua mạng Internet tạo thành World Wide Web.
World Wide Web đã nhanh chóng phát triển và có thể nói nó đã trở thành linh hồn
cho mạng Internet. Trên web không những chuyển tải được các văn bản mà cịn các
thơng tin đa phương tiện khác như hình ảnh, âm thanh, phim, …vì vậy chẳng những
nó mang lại một nguồn thơng tin khổng lồ mà cịn mang đến rất nhiều ứng dụng trong
đời sống của con người như giải trí (chơi trị chơi, xem phim, nghe nhạc…), mua sắm,
học tập, kết bạn, làm việc, …

Trang 1


1.2 Nền tảng phat triển internet:
Tiền thân của mạng Internet ngày nay là mạng ARPANET. Cơ quan quản lý dự án
nghiên cứu phát triển ARPA thuộc bộ quốc phòng Mỹ liên kết 4 địa điểm đầu tiên vào
tháng 7 năm 1969 bao gồm: Viện nghiên cứu Stanford, Đại học California, Los
Angeles, Đại học Utah và Đại học California, Santa Barbara. Đó chính là mạng liên
khu vực (Wide Area Network - WAN) đầu tiên được xây dựng.
Thuật ngữ "Internet" xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 1974. Lúc đó mạng vẫn
được gọi là ARPANET. Năm 1983, giao thức TCP/IP chính thức được coi như một
chuẩn đối với ngành quân sự Mỹ và tất cả các máy tính nối với ARPANET phải sử
dụng chuẩn mới này. Năm 1984, ARPANET được chia ra thành hai phần: phần thứ
nhất vẫn được gọi là ARPANET, dành cho việc nghiên cứu và phát triển; phần thứ hai
được gọi là MILNET, là mạng dùng cho các mục đích quân sự.
Giao thức TCP/IP ngày càng thể hiện rõ các điểm mạnh của nó, quan trọng nhất là
khả năng liên kết các mạng khác với nhau một cách dễ dàng. Chính điều này cùng với
các chính sách mở cửa đã cho phép các mạng dùng cho nghiên cứu và thương mại kết
nối được với ARPANET, thúc đẩy việc tạo ra một siêu mạng (SuperNetwork). Năm
1980, ARPANET được đánh giá là mạng trụ cột của Internet.
Mốc lịch sử quan trọng của Internet được xác lập vào giữa thập niên 1980 khi tổ
chức khoa học quốc gia Mỹ NSF thành lập mạng liên kết các trung tâm máy tính lớn

với nhau gọi là NSFNET. Nhiều doanh nghiệp đã chuyển từ ARPANET sang
NSFNET và do đó sau gần 20 năm hoạt động, ARPANET khơng cịn hiệu quả đã
ngừng hoạt động vào khoảng năm 1990.
Sự hình thành mạng xương sống của NSFNET và những mạng vùng khác đã tạo ra
một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Internet. Tới năm 1995, NSFNET thu
lại thành một mạng nghiên cứu cịn Internet thì vẫn tiếp tục phát triển.
Với khả năng kết nối mở như vậy, Internet đã trở thành một mạng lớn nhất trên thế
giới, mạng của các mạng, xuất hiện trong mọi lĩnh vực thương mại, chính trị, quân sự,
nghiên cứu, giáo dục, văn hố, xã hội... Cũng từ đó, các dịch vụ trên Internet không
ngừng phát triển tạo ra cho nhân loại một thời kỳ mới: kỷ nguyên thương mại điện tử
trên Internet.

1.3 Phân biệt internet va intranet:
Đọc các định nghĩa cũ về Intranet từ cách đây vài năm thì khơng thể nào đầy đủ
được.
Intranet nói chung là mạng nội bộ. Nó có thể là nguồn chia sẻ thơng tin dựa trên
mơi trường web, nó cũng có thể chỉ là sự liên kết giữa các máy tính để chia sẻ dữ liệu
(copy files và in ấn). Việc gán ghép khái niệm "web" ngay khi nói đến "Intranet" là
Trang 2


khơng

cịn

chính

xác

nữa.


Intranet cũng sử dụng giao thức TCP/IP như Internet và có thể hỗ trợ mọi dịch vụ
như những gì có trên Internet (trừ kho tàng dữ liệu khổng lồ được chia sẻ trên
Internet), nhưng theo mặc định thì tách biệt với Internet. Có thể cài đặt để một mạng
Intranet sử dụng được Internet, nhưng đấy lại là chuyện khác.
Đi kèm với khái niệm "Intranet" ngày nay, cịn có khái niệm "Extranet", là một sự
mở rộng của Intranet.

2. Các thành phần cấu thành internet:
2.1 Giao thức TCP/IP:
Giao thức TCP/IP được phát triển từ mạng ARPANET và Internet và được dùng
như giao thức mạng và vận chuyển trên mạng Internet. TCP (Transmission Control
Protocol) là giao thức thuộc tầng vận chuyển và IP (Internet Protocol) là giao thức
thuộc tầng mạng của mơ hình OSI. Họ giao thức TCP/IP hiện nay là giao thức được sử
dụng rộng rãi nhất để liên kết các máy tính và các mạng.
Hiện nay các máy tính của hầu hết các mạng có thể sử dụng giao thức TCP/IP để
liên kết với nhau thông qua nhiều hệ thống mạng với kỹ thuật khác nhau. Giao thức
TCP/IP thực chất là một họ giao thức cho phép các hệ thống mạng cùng làm việc với
nhau thông qua việc cung cấp phương tiện truyền thơng liên mạng.
• Giao thức IP:
Tổng qt
Nhiệm vụ chính của giao thức IP là cung cấp khả năng kết nối các mạng con thành
liên kết mạng để truyền dữ liệu, vai trò của IP là vai trò của giao thức tầng mạng trong
mơ hình OSI. Giao thức IP là một giao thức kiểu khơng liên kết (connectionlees) có
nghĩa là khơng cần có giai đoạn thiết lập liên kết trước khi truyền dữ liệu.
Sơ đồ địa chỉ hóa để định danh các trạm (host) trong liên mạng được gọi là địa chỉ
IP 32 bits (32 bit IP address). Mỗi giao diện trong 1 máy có hỗ trợ giao thức IP đều
phải được gán 1 địa chỉ IP (một máy tính có thể gắn với nhiều mạng do vậy có thể có
nhiều địa chỉ IP). Địa chỉ IP gồm 2 phần: địa chỉ mạng (netid) và địa chỉ máy (hostid).
Mỗi địa chỉ IP có độ dài 32 bits được tách thành 4 vùng (mỗi vùng 1 byte), có thể biểu

thị dưới dạng thập phân, bát phân, thập lục phân hay nhị phân. Cách viết phổ biến nhất
là dùng ký pháp thập phân có dấu chấm (dotted decimal notation) để tách các vùng.

Trang 3


Mục đích của địa chỉ IP là để định danh duy nhất cho một máy tính bất kỳ trên liên
mạng.
Do tổ chức và độ lớn của các mạng con (subnet) của liên mạng có thể khác nhau,
người ta chia các địa chỉ IP thành 5 lớp, ký hiệu là A, B, C, D và E. Trong lớp A, B, C
chứa địa chỉ có thể gán được. Lớp D dành riêng cho lớp kỹ thuật multicasting. Lớp E
được dành những ứng dụng trong tương lai.
Netid trong địa chỉ mạng dùng để nhận dạng từng mạng riêng biệt. Các mạng liên
kết phải có địa chỉ mạng (netid) riêng cho mỗi mạng. Ở đây các bit đầu tiên của byte
đầu tiên được dùng để định danh lớp địa chỉ (0 - lớp A, 10 - lớp B, 110 - lớp C, 1110 lớp D và 11110 - lớp E).
Ơû đây ta xét cấu trúc của các lớp địa chỉ có thể gán được là lớp A, lớp B, lớp C
Cấu trúc của các địa chỉ IP như sau:
Mạng lớp A: địa chỉ mạng (netid) là 1 Byte và địa chỉ host (hostid) là 3 byte.
Mạng lớp B: địa chỉ mạng (netid) là 2 Byte và địa chỉ host (hostid) là 2 byte.
Mạng lớp C: địa chỉ mạng (netid) là 3 Byte và địa chỉ host (hostid) là 1 byte.
Lớp A cho phép định danh tới 126 mạng, với tối đa 16 triệu host trên mỗi mạng.
Lớp này được dùng cho các mạng có số trạm cực lớn.
Lớp B cho phép định danh tới 16384 mạng, với tối đa 65534 host trên mỗi mạng.
Lớp C cho phép định danh tới 2 triệu mạng, với tối đa 254 host trên mỗi mạng. Lớp
này được dùng cho các mạng có ít trạm.

Hình 7.1: Cấu trúc các lớp địa chỉ IP
Một số địa chỉ có tính chất đặc biệt: Một địa chỉ có hostid = 0 được dùng để hướng
tới mạng định danh bởi vùng netid. Ngược lại, một địa chỉ có vùng hostid gồm tồn số
1 được dùng để hướng tới tất cả các host nối vào mạng netid, và nếu vùng netid cũng

gồm toàn số 1 thì nó hướng tới tất cả các host trong liên mạng
Trang 4


Hình 7.2: Ví dụ cấu trúc các lớp địa chỉ IP
Cần lưu ý rằng các địa chỉ IP được dùng để định danh các host và mạng ở tầng
mạng của mơ hình OSI, và chúng khơng phải là các địa chỉ vật lý (hay địa chỉ MAC)
của các trạm trên đó một mạng cục bộ (Ethernet, Token Ring.).
Trong nhiều trường hợp, một mạng có thể được chia thành nhiều mạng con
(subnet), lúc đó có thể đưa thêm các vùng subnetid để định danh các mạng con. Vùng
subnetid được lấy từ vùng hostid, cụ thể đối với lớp A, B, C như ví dụ sau:

Hình 7.3: Ví dụ địa chỉ khi bổ sung vùng subnetid
Đơn vị dữ liệu dùng trong IP được gọi là gói tin (datagram), có khn dạng

Trang 5


Hình 7.4: Dạng thức của gói tin IP
Ý nghĩa của thông số như sau:
VER (4 bits): chỉ version hiện hành của giao thức IP hiện được cài đặt, Việc có chỉ
số version cho phép có các trao đổi giữa các hệ thống sử dụng version cũ và hệ thống
sử dụng version mới.
IHL (4 bits): chỉ độ dài phần đầu (Internet header Length) của gói tin datagram, tính
theo đơn vị từ ( 32 bits). Trường này bắt buột phải có vì phần đầu IP có thể có độ dài
thay đổi tùy ý. Độ dài tối thiểu là 5 từ (20 bytes), độ dài tối đa là 15 từ hay là 60 bytes.
Type of service (8 bits): đặc tả các tham số về dịch vụ nhằm thông báo cho mạng
biết dịch vụ nào mà gói tin muốn được sử dụng, chẳng hạn ưu tiên, thời hạn chậm trễ,
năng suất truyền và độ tin cậy. Hình sau cho biết ý nghĩ của trường 8 bits này.


Precedence (3 bit): chỉ thị về quyền ưu tiên gửi datagram, nó có giá trị từ 0 (gói tin
bình thường) đến 7 (gói tin kiểm sốt mạng).
D (Delay) (1 bit): chỉ độ trễ yêu cầu trong đó
D = 0 gói tin có độ trễ bình thường
D = 1 gói tin độ trễ thấp
T (Throughput) (1 bit): chỉ độ thơng lượng u cầu sử dụng để truyền gói tin với
lựa chọn truyền trên đường thông suất thấp hay đường thơng suất cao.
T = 0 thơng lượng bình thường và
T = 1 thông lượng cao
R (Reliability) (1 bit): chỉ độ tin cậy yêu cầu
R = 0 độ tin cậy bình thường
R = 1 độ tin cậy cao
Total Length (16 bits): chỉ độ dài tồn bộ gói tin, kể cả phần đầu tính theo đơn vị
byte với chiều dài tối đa là 65535 bytes. Hiện nay giới hạn trên là rất lớn nhưng trong
tương lai với những mạng Gigabit thì các gói tin có kích thước lớn là cần thiết.

Trang 6


Identification (16 bits): cùng với các tham số khác (như Source Address và
Destination Address) tham số này dùng để định danh duy nhất cho một datagram trong
khoảng thời gian nó vẫn còn trên liên mạng.
Flags (3 bits): liên quan đến sự phân đoạn (fragment) các datagram, Các gói tin khi
đi trên đường đi có thể bị phân thành nhiều gói tin nhỏ, trong trường hợp bị phân đoạn
thì trường Flags được dùng điều khiển phân đoạn và tái lắp ghép bó dữ liệu. Tùy theo
giá trị của Flags sẽ có ý nghĩa là gói tin sẽ khơng phân đoạn, có thể phân đoạn hay là
gói tin phân đoạn cuối cùng. Trường Fragment Offset cho biết vị trí dữ liệu thuộc
phân đoạn tương ứng với đoạn bắt đầu của gói dữ liệu gốc. Ý nghĩa cụ thể của trường

Flags là:

bit 0: reserved - chưa sử dụng, luôn lấy giá trị 0.
bit 1: (DF) = 0 (May Fragment) = 1 (Don't Fragment)
bit 2: (MF) = 0 (Last Fragment) = 1 (More Fragments)
Fragment Offset (13 bits): chỉ vị trí của đoạn (fragment) ở trong datagram tính theo
đơn vị 8 bytes, có nghĩa là phần dữ liệu mỗi gói tin (trừ gói tin cuối cùng) phải chứa
một vùng dữ liệu có độ dài là bội số của 8 bytes. Điều này có ý nghĩa là phải nhân giá
trị của Fragment offset với 8 để tính ra độ lệch byte.
Time to Live (8 bits): qui định thời gian tồn tại (tính bằng giây) của gói tin trong
mạng để tránh tình trạng một gói tin bị quẩn trên mạng. Thời gian này được cho bởi
trạm gửi và được giảm đi (thường qui ước là 1 đơn vị) khi datagram đi qua mỗi router
của liên mạng. Thời lượng này giảm xuống tại mỗi router với mục đích giới hạn thời
gian tồn tại của các gói tin và kết thúc những lần lặp lại vô hạn trên mạng. Sau đây là
1 số điều cần lưu ý về trường Time To Live:
Nút trung gian của mạng không được gởi 1 gói tin mà trường này có giá trị= 0.

Trang 7


Một giao thức có thể ấn định Time To Live để thực hiện cuộc ra tìm tài nguyên trên
mạng trong phạm vi mở rộng.
Một giá trị cố định tối thiểu phải đủ lớn cho mạng hoạt động tốt.
Protocol (8 bits): chỉ giao thức tầng trên kế tiếp sẽ nhận vùng dữ liệu ở trạm đích
(hiện tại thường là TCP hoặc UDP được cài đặt trên IP). Ví dụ: TCP có giá trị trường
Protocol là 6, UDP có giá trị trường Protocol là 17
Header Checksum (16 bits): Mã kiểm soát lỗi của header gói tin IP.
Source Address (32 bits): Địa chỉ của máy nguồn.
Destination Address (32 bits): địa chỉ của máy đích
Options (độ dài thay đổi): khai báo các lựa chọn do người gửi yêu cầu (tuỳ theo
từng chương trình).
Padding (độ dài thay đổi): Vùng đệm, được dùng để đảm bảo cho phần header luôn

kết thúc ở một mốc 32 bits.
Data (độ dài thay đổi): Trên một mạng cục bộ như vậy, hai trạm chỉ có thể liên lạc
với nhau nếu chúng biết địa chỉ vật lý của nhau. Như vậy vấn đề đặt ra là phải thực
hiện ánh xạ giữa địa chỉ IP (32 bits) và địa chỉ vật lý (48 bits) của một trạm.
• Các giao thức trong mạng IP
Để mạng với giao thức IP hoạt động được tốt người ta cần một số giao thức bổ
sung, các giao thức này đều không phải là bộ phận của giao thức IP và giao thức IP sẽ
dùng đến chúng khi cần.
Giao thức ARP (Address Resolution Protocol): Ở đây cần lưu ý rằng các địa chỉ IP
được dùng để định danh các host và mạng ở tầng mạng của mơ hình OSI, và chúng
không phải là các địa chỉ vật lý (hay địa chỉ MAC) của các trạm trên đó một mạng cục
bộ (Ethernet, Token Ring.). Trên một mạng cục bộ hai trạm chỉ có thể liên lạc với
nhau nếu chúng biết địa chỉ vật lý của nhau. Như vậy vấn đề đặt ra là phải tìm được
ánh xạ giữa địa chỉ IP (32 bits) và địa chỉ vật lý của một trạm. Giao thức ARP đã được
xây dựng để tìm địa chỉ vật lý từ địa chỉ IP khi cần thiết.
Giao thức RARP (Reverse Address Resolution Protocol): Là giao thức ngược với
giao thức ARP. Giao thức RARP được dùng để tìm địa chỉ IP từ địa chỉ vật lý.
Giao thức ICMP (Internet Control Message Protocol): Giao thức này thực hiện
truyền các thơng báo điều khiển (báo cáo về các tình trạng các lỗi trên mạng.) giữa các

Trang 8


gateway hoặc một nút của liên mạng. Tình trạng lỗi có thể là: một gói tin IP khơng thể
tới đích của nó, hoặc một router khơng đủ bộ nhớ đệm để lưu và chuyển một gói tin
IP, Một thơng báo ICMP được tạo và chuyển cho IP. IP sẽ "bọc" (encapsulate) thơng
báo đó với một IP header và truyền đến cho router hoặc trạm đích.
• các bước hoạt động của giao thức IP:
Khi giao thức IP được khởi động nó trở thành một thực thể tồn tại trong máy tính
và bắt đầu thực hiện những chức năng của mình, lúc đó thực thể IP là cấu thành của

tầng mạng, nhận yêu cầu từ các tầng trên nó và gửi yêu cầu xuống các tầng dưới nó.
Đối với thực thể IP ở máy nguồn, khi nhận được một yêu cầu gửi từ tầng trên, nó
thực hiện các bước sau đây:
Tạo một IP datagram dựa trên tham số nhận được.
Tính checksum và ghép vào header của gói tin.
Ra quyết định chọn đường: hoặc là trạm đích nằm trên cùng mạng hoặc một
gateway sẽ được chọn cho chặng tiếp theo.
Chuyển gói tin xuống tầng dưới để truyền qua mạng.
Đối với router, khi nhận được một gói tin đi qua, nó thực hiện các động tác sau:
1) Tính chesksum, nếu sai thì loại bỏ gói tin.
2) Giảm giá trị tham số Time - to Live. nếu thời gian đã hết thì loại bỏ gói tin.
3) Ra quyết định chọn đường.
4) Phân đoạn gói tin, nếu cần.
5) Kiến tạo lại IP header, bao gồm giá trị mới của các vùng Time - to -Live,
Fragmentation và Checksum.
6) Chuyển datagram xuống tầng dưới để chuyển qua mạng.
Cuối cùng khi một datagram nhận bởi một thực thể IP ở trạm đích, nó sẽ thực hiện
bởi các cơng việc sau:
1) Tính checksum. Nếu sai thì loại bỏ gói tin.
2) Tập hợp các đoạn của gói tin (nếu có phân đoạn)
3) Chuyển dữ liệu và các tham số điều khiển lên tầng trên.
• Giao thức điều khiển truyền dữ liệu TCP
TCP là một giao thức "có liên kết" (connection - oriented), nghĩa là cần phải thiết
lập liên kết giữa hai thực thể TCP trước khi chúng trao đổi dữ liệu với nhau. Một tiến

Trang 9


trình ứng dụng trong một máy tính truy nhập vào các dịch vụ của giao thức TCP thông
qua một cổng (port) của TCP. Số hiệu cổng TCP được thể hiện bởi 2 bytes.


Hình 7.5: Cổng truy nhập dịch vụ TCP
Một cổng TCP kết hợp với địa chỉ IP tạo thành một đầu nối TCP/IP (socket) duy
nhất trong liên mạng. Dịch vụ TCP được cung cấp nhờ một liên kết logic giữa một cặp
đầu nối TCP/IP. Một đầu nối TCP/IP có thể tham gia nhiều liên kết với các đầu nối
TCP/IP ở xa khác nhau. Trước khi truyền dữ liệu giữa 2 trạm cần phải thiết lập một
liên kết TCP giữa chúng và khi khơng cịn nhu cầu truyền dữ liệu thì liên kết đó sẽ
được giải phóng.
Các thực thể của tầng trên sử dụng giao thức TCP thông qua các hàm gọi (function
calls) trong đó có các hàm yêu cầu để yêu cầu, để trả lời. Trong mỗi hàm còn có các
tham số dành cho việc trao đổi dữ liệu.
Các bước thực hiện để thiết lập một liên kết TCP/IP: Thiết lập một liên kết mới có
thể được mở theo một trong 2 phương thức: chủ động (active) hoặc bị động (passive).
Phương thức bị động, người sử dụng yêu cầu TCP chờ đợi một yêu cầu liên kết gửi
đến từ xa thông qua một đầu nối TCP/IP (tại chỗ). Người sử dụng dùng hàm passive
Open có khai báo cổng TCP và các thông số khác (mức ưu tiên, mức an toàn)
Với phương thức chủ động, người sử dụng yêu cầu TCP mở một liên kết với một
một đầu nối TCP/IP ở xa. Liên kết sẽ được xác lập nếu có một hàm Passive Open
tương ứng đã được thực hiện tại đầu nối TCP/IP ở xa đó.
Bảng liệt kê một vài cổng TCP phổ biến.
Trang 10


Số

hiệu

cổng
0
5

7
9
11
13
15
17
20
21
23
25
37
53
102
103
104
111
139

Mô tả
Reserved
Remote job entry
Echo
Discard
Systat
Daytime
Nestat
Quotd (quote odd day
ftp-data
ftp (control)
Telnet

SMTP
Time
Name Server
ISO - TSAP
X.400
X.400 Sending
Sun RPC
Net BIOS Session

source
160 - 223
Reserved
Khi người sử dụng gửi đi một yêu cầu mở liên kết sẽ được nhận hai thông số trả lời
từ TCP.
Thông số Open ID được TCP trả lời ngay lập tức để gán cho một liên kết cục bộ
(local connection name) cho liên kết được yêu cầu. Thông số này về sau được dùng để
tham chiếu tới liên kết đó. (Trong trường hợp nếu TCP khơng thể thiết lập được liên
kết u cầu thì nó phải gửi tham số Open Failure để thơng báo.)
Khi TCP thiết lập được liên kết yêu cầu nó gửi tham số Open Sucsess được dùng để
thông báo liên kết đã được thiết lập thành công. Thông báo này dược chuyển đến trong
cả hai trường hợp bị động và chủ động. Sau khi một liên kết được mở, việc truyền dữ
liệu trên liên kết có thể được thực hiện.
Các bước thực hiện khi truyền và nhận dữ liệu: Sau khi xác lập được liên kết người
sữ dụng gửi và nhận dữ liệu. Việc gửi và nhận dữ liệu thông qua các hàm Send và
receive.

Trang 11


Hàm Send: Dữ liệu được gửi xuống TCP theo các khối (block). Khi nhận được một

khối dữ liệu, TCP sẽ lưu trữ trong bộ đệm (buffer). Nếu cờ PUSH được dựng thì tồn
bộ dữ liệu trong bộ đệm được gửi, kể cả khối dữ liệu mới đến sẽ được gửi đi. Ngược
lại cờ PUSH khơng được dựng thì dữ liệu được giữ lại trong bộ đệm và sẽ gửi đi khi
có cơ hội thích hợp (chẳng hạn chờ thêm dữ liệu nữa để gữi đi với hiệu quả hơn).
Hàm reveive: Ở trạm đích dữ liệu sẽ được TCP lưu trong bộ đệm gắn với mỗi liên
kết. Nếu dữ liệu được đánh dấu với một cờ PUSH thì tồn bộ dữ liệu trong bộ đệm (kể
cả các dữ liệu được lưu từ trước) sẽ được chuyển lên cho người sữ dụng. Cịn nếu dữ
liệu đến khơng được đánh dấu với cờ PUSH thì TCP chờ tới khi thích hợp mới chuyển
dữ liệu với mục tiêu tăng hiệu quả hệ thống.
Nói chung việc nhận và giao dữ liệu cho người sử dụng đích của TCP phụ thuộc
vào việc cài đặt cụ thể. Trường hợp cần chuyển gấp dữ liệu cho người sử dụng thì có
thể dùng cờ URGENT và đánh dấu dữ liệu bằng bit URG để báo cho người sử dụng
cần phải sử lý khẩn cấp dữ liệu đó.
Các bước thực hiện khi đóng một liên kết: Việc đóng một liên kết khi không cần
thiết được thực hiên theo một trong hai cách: dùng hàm Close hoặc dùng hàm Abort.
Hàm Close: u cầu đóng liên kết một cách bình thường. Có nghĩa là việc truyền
dữ liệu trên liên kết đó đã hoàn tất. Khi nhận được một hàm Close TCP sẽ truyền đi tất
cả dữ liệu cịn trong bộ đệm thơng báo rằng nó đóng liên kết. Lưu ý rằng khi một
người sử dụng đã gửi đi một hàm Close thì nó vẫn phải tiếp tục nhận dữ liệu đến trên
liên kết đó cho đến khi TCP đã báo cho phía bên kia biết về việc đóng liên kết và
chuyển giao hết tất cả dữ liệu cho người sử dụng của mình.
Hàm Abort: Người sử dụng có thể đóng một liên kết bất và sẽ không chấp nhận dữ
liệu qua liên kết đó nữa. Do vậy dữ liệu có thể bị mất đi khi đang được truyền đi. TCP
báo cho TCP ở xa biết rằng liên kết đã được hủy bỏ và TCP ở xa sẽ thông báo cho
người sử dụng cũa mình.
Một số hàm khác của TCP:
Hàm Status: cho phép người sử dụng yêu cầu cho biết trạng thái của một liên kết cụ
thể, khi đó TCP cung cấp thơng tin cho người sử dụng.
Hàm Error: thông báo cho người sử dụng TCP về các yêu cầu dịch vụ bất hợp lệ
liên quan đến một liên kết có tên cho trước hoặc về các lỗi liên quan đến môi trường.


Trang 12


Đơn vị dữ liệu sử dụng trong TCP được gọi là segment (đoạn dữ liệu), có các tham
số với ý nghĩa như sau:

Hình 7.5: Dạng thức của segment TCP
Source Por (16 bits): Số hiệu cổng TCP của trạm nguồn.
Destination Port (16 bit): Số hiệu cổng TCP của trạm đích.
Sequence Number (32 bit): số hiệu của byte đầu tiên của segment trừ khi bit SYN
được thiết lập. Nếy bit SYN được thiết lập thì Sequence Number là số hiệu tuần tự
khởi đầu (ISN) và byte dữ liệu đầu tiên là ISN+1.
Acknowledgment Number (32 bit): số hiệu của segment tiếp theo mà trạm nguồn
đang chờ để nhận. Ngầm ý báo nhận tốt (các) segment mà trạm đích đã gửi cho trạm
nguồn.
Data offset (4 bit): số lượng bội của 32 bit (32 bit words) trong TCP header (tham
số này chỉ ra vị trí bắt đầu của nguồn dữ liệu).
Reserved (6 bit): dành để dùng trong tương lai
Control bit (các bit điều khiển):
URG: Vùng con trỏ khẩn (Ucgent Poiter) có hiệu lực.
ACK: Vùng báo nhận (ACK number) có hiệu lực.
PSH: Chức năng PUSH.
RST: Khởi động lại (reset) liên kết.
SYN: Đồng bộ hóa số hiệu tuần tự (sequence number).
FIN: Khơng cịn dữ liệu từ trạm nguồn.

Trang 13



Window (16 bit): cấp phát credit để kiểm soát nguồn dữ liệu (cơ chế cửa sổ). Đây
chính là số lượng các byte dữ liệu, bắt đầu từ byte được chỉ ra trong vùng ACK
number, mà trạm nguồn đã saün sàng để nhận.
Checksum (16 bit): mã kiểm sốt lỗi cho tồn bộ segment (header + data)
Urgemt Poiter (16 bit): con trỏ này trỏ tới số hiệu tuần tự của byte đi theo sau dữ
liệu khẩn. Vùng này chỉ có hiệu lực khi bit URG được thiết lập.
Options (độ dài thay đổi): khai báo các option của TCP, trong đó có độ dài tối đa
của vùng TCP data trong một segment.
Paddinh (độ dài thay đổi): phần chèn thêm vào header để đảm bảo phần header
luôn kết thúc ở một mốc 32 bit. Phần thêm này gồm toàn số 0.
TCP data (độ dài thay đổi): chứa dữ liệu của tầng trên, có độ dài tối đa ngầm định
là 536 byte. Giá trị này có thể điều chỉnh bằng cách khai báo trong vùng options.

Trang 14


Hình 7.8: Mơ hình quan hệ họ giao thức TCP/IP

2.2 Client:web-browser?
Web browser: Trình duyệt web, là một phần mềm ứng dụng dùng để định vị và
hiển thị các trang web.Có 2 loại web browser: trình duyệt dựa trên văn bản, chỉ hiển
thị các thông tin dưới dạng văn bản như Lynx; trình duyệt đồ họa, hỗ trợ hypermedia
như âm thanh, hình ảnh, video... các web browser đồ họa thơng dụng hiện nay:
Microsoft Internet Explorer, Netscape Navigator, Mozilla Firefox, Opera...
Web browser cịn gọi là web client.
2.3 Client-server là gì?
MơhìnhWebclient/server
:
Thuật ngữ server được dùng cho những chương trình thi hành như một dịch vụ trên
tồn mạng. Các chương trình server này chấp nhận tất cả các yêu cầu hợp lệ đến từ

mọi nơi trên mạng, sau đó nó thi hành dịch vụ và trả kết quả về máy yêu cầu. Một
chương trình được coi là client khi nó gửi các yêu cầu tới máy có chương trình server
và chờ đợi câu trả lời từ server. Chương trình server và client nói chuyện với nhau

Trang 15


bằng các thông điệp (messages) thông qua một cổng truyền thơng liên tác IPC
(Interprocess Communication). Để một chương trình server và một chương trình client
có thể giao tiếp được với nhau thì giữa chúng phải có một chuẩn để nói chuyện, chuẩn
này được gọi là giao thức. Nếu một chương trình client nào đó muốn u cầu lấy
thơng tin từ server thì nó phải tn theo giao thức mà server đó đưa ra. Bản thân chúng
ta khi cần xây dựng một mơ hình client/server cụ thể thì ta cũng có thể tự tạo ra một
giao thức riêng nhưng thường chúng ta chỉ làm được điều này ở tầng ứng dụng của
mạng. Với sự phát triển mạng như hiện này thì có rất nhiều giao thức chuẩn trên mạng
ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển này. Các giao thức chuẩn (ở tầng mạng và vận
chuyển) được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay như: giao thức TCP/IP, giao thức SNA
của IBM, OSI, ISDN, X.25 hoặc giao thức LAN-to-LAN NetBIOS. Một máy tính
chứa chương trình server được coi là một máy chủ hay máy phục vụ (server) và máy
chứa chương trình client được coi là máy tớ (client). Mơ hình mạng trên đó có các
máy chủ và máy tớ giao tiếp với nhau theo 1 hoặc nhiều dịch vụ được gọi là mơ hình
client/server. Thực tế thì mơ hình client/server là sự mở rộng tự nhiên và tiện lợi cho
việc truyền thơng liên tiến trình trên các máy tính cá nhân. Mơ hình này cho phép xây
dựng các chương trình client/server một cách dễ dàng và sử dụng chúng để liên tác với
nhau
để
đạt
hiệu
quả
hơn.

Mơ hình client/server như sau: Client/Server là mơ hình tổng qt nhất, trên thực tế
thì một server có thể được nối tới nhiều server khác nhằm làm việc hiệu quả và nhanh
hơn. Khi nhận được 1 yêu cầu từ client, server này có thể gửi tiếp yêu cầu vừa nhận
được cho server khác ví dụ như database server vì bản thân nó khơng thể xử lý u
cầu này được. Máy server có thể thi hành các nhiệm vụ đơn giản hoặc phức tạp. Ví dụ
như một máy chủ trả lời thời gian hiện tại trong ngày, khi một máy client u cầu lấy
thơng tin về thời gian nó sẽ phải gửi một yêu cầu theo một tiêu chuẩn do server định
ra, nếu yêu cầu được chấp nhận thì máy server sẽ trả về thông tin mà client yêu cầu.
Có rất nhiều các dịch vụ server trên mạng nhưng nó đều hoạt động theo nguyên lý là
nhận các yêu cầu từ client sau đó xử lý và trả kết quả cho client u cầu. Thơng
thường chương trình server và client được thi hành trên hai máy khác nhau. Cho dù
lúc nào server cũng ở trạng thái sẵn sàng chờ nhận yêu cầu từ client nhưng trên thực tế
một tiến trình liên tác qua lại (interaction) giữa client và server lại bắt đầu ở phía
client, khi mà client gửi tín hiệu yêu cầu tới server. Các chương trình server thường
đều thi hành ở mức ứng dụng (tầng ứng dụng của mạng). Sự thuận lợi của phương
pháp này là nó có thể làm việc trên bất cứ một mạng máy tính nào có hỗ trợ giao thức
truyền thơng chuẩn cụ thể ở đây là giao thức TCP/IP. Với các giao thức chuẩn này
cũng giúp cho các nhà sản xuất có thể tích hợp nhiều sản phẩm khác nhau của họ lên
mạng mà khơng gặp phải khó khăn gì. Với các chuẩn này thì các chương trình server
cho một dịch vụ nào đấy có thể thi hành trên một hệ thống chia sẻ thời gian
(timesharing system) với nhiều chương trình và dịch vụ khác hoặc nó có thể chạy trên
chính một máy tính các nhân bình thường. Có thể có nhiều chương server cùng làm
một dịch vụ, chúng có thể nằm trên nhiều máy tính hoặc một máy tính. Với mơ hình
trên chúng ta nhận thấy rằng mơ hình client/server chỉ mang đặc điểm của phần mềm
khơng liên quan gì đến phần cứng mặc dù trên thực tế yêu cầu cho một máy server là
cao hơn nhiều so với máy client. Lý do là bởi vì máy server phải quản lý rất nhiều các
yêu cầu từ các clients khác nhau trên mạng. Ưu và nhược điểm chính Có thể nói rằng
với mơ hình client/server thì mọi thứ dường như đều nằm trên bàn của người sử dụng,

Trang 16



nó có thể truy cập dữ liệu từ xa (bao gồm các cơng việc như gửi và nhận file, tìm kiếm
thông tin, ...) với nhiều dịch vụ đa dạng mà mơ hình cũ khơng thể làm được. Mơ hình
client/server cung cấp một nền tảng lý tưởng cho phép tích hợp các kỹ thuật hiện đại
như mơ hình thiết kế hướng đối tượng, hệ chuyên gia, hệ thông tin địa lý (GIS) ... Một
trong những vấn đề nảy sinh trong mô hình này đó là tính an tồn và bảo mật thông tin
trên mạng. Do phải trao đổi dữ liệu giữa 2 máy ở 2 khu vực khác nhau cho nên dễ
dàng xảy ra hiện tượng thông tin truyền trên mạng bị lộ.
Client Trong mơ hình client/server, người ta cịn định nghĩa cụ thể cho một máy
client là một máy trạm mà chỉ được sử dụng bởi 1 người dùng với để muốn thể hiện
tính độc lập cho nó. Máy client có thể sử dụng các hệ điều hành bình thường như
Win9x, DOS, OS/2... Bản thân mỗi một client cũng đã được tích hợp nhiều chức năng
trên hệ điều hành mà nó chạy, nhưng khi được nối vào một mạng LAN, WAN theo mơ
hình client/server thì nó cịn có thể sử dụng thêm các chức năng do hệ điều hành mạng
(NOS) cung cấp với nhiều dịch vụ khác nhau (cụ thể là các dịch vụ do các server trên
mạng này cung cấp), ví dụ như nó có thể u cầu lấy dữ liệu từ một server hay gửi dữ
liệu lên server đó... Thực tế trong các ứng dụng của mơ hình client/server, các chức
năng hoạt động chính là sự kết hợp giữa client và server với sự chia sẻ tài nguyên, dữ
liệu trên cả 2 máy Vai trò của client Trong mơ hình client/server, client được coi như
là người sử dụng các dịch vụ trên mạng do một hoặc nhiều máy chủ cung cấp và
server được coi như là người cung cấp dịch vụ để trả lời các yêu cầu của các clients.
Điều quan trọng là phải hiểu được vai trò hoạt động của nó trong một mơ hình cụ thể,
một máy client trong mơ hình này lại có thể là server trong một mơ hình khác. Ví dụ
cụ thể như một máy trạm làm việc như một client bình thường trong mạng LAN
nhưng đồng thời nó có thể đóng vai trò như một máy in chủ (printer server) cung cấp
dịch vụ in ấn từ xa cho nhiều người khác (clients) sử dụng. Client được hiểu như là bề
nổi của các dịch vụ trên mạng, nếu có thơng tin vào hoặc ra thì chúng sẽ được hiển thị
trên
máy

client.
Server Server cịn được định nghĩa như là một máy tính nhiều người sử dụng
(multiuser computer). Vì một server phải quản lý nhiều yêu cầu từ các client trên
mạng cho nên nó hoạt động sẽ tốt hơn nếu hệ điều hành của nó là đa nhiệm với các
tính năng hoạt động độc lập song song với nhau như hệ điều hành UNIX,
WINDOWS... Server cung cấp và điều khiển các tiến trình truy cập vào tài nguyên của
hệ thống. Các ứng dụng chạy trên server phải được tách rời nhau để một lỗi của ứng
dụng này khơng làm hỏng ứng dụng khác. Tính đa nhiệm đảm bảo một tiến trình
khơng sử dụng tồn bộ tài nguyên hệ thống. Vai trò của server. Như chúng ta đã bàn ở
trên, server như là một nhà cung cấp dịch vụ cho các clients yêu cầu tới khi cần, các
dịch vụ như cơ sở dữ liệu, in ấn, truyền file, hệ thống... Các ứng dụng server cung cấp
các dịch vụ mang tính chức năng để hỗ trợ cho các hoạt động trên các máy clients có
hiệu quả hơn. Sự hỗ trợ của các dịch vụ này có thể là tồn bộ hoặc chỉ một phần thơng
qua IPC. Để đảm bảo tính an tồn trên mạng cho nên server này cịn có vai trị như là
một nhà quản lý tồn bộ quyền truy cập dữ liệu của các máy clients, nói cách khác đó
là vai trị quản trị mạng. Có rất nhiều cách thức hiện nay nhằm quản trị có hiệu quả,
một trong những cách đang được sử dụng đó là dùng tên Login và mật khẩu

2.4 ISP
Trang 17


ISP là viết tắt của Internet Service Provider, có nghĩa là nhà cung cấp dịch vụ
Internet. ISP là nơi bạn đăng ký để có quyền gia nhập vào Internet và sử dụng những
dịch
vụ

ISP
đó
cung

cấp
như
e-mail,
Web…
Ở nước ta thì có các ISP lớn như là : FPT, Viettel, VNPT.

2.5 Search Engine:
Search Engines :Máy tìm kiếm , là chương trình tìm kiếm các tư liệu trên WWW
dựa và các từ khóa và trả về danh sách các tư liệu phù hợp với từ khóa. Các máy tìm
kiếm họat động dựa vào các Spider (con nhện) để có thể thu thập các tư liệu cần thiết,
một số máy tìm kiếm khác sử dụng Indexer (người lập mục lục) dựa trên các từ chứa
trong các tư liệu.

2.6 Các server tiện ích:

• MỘT SỐ WEBSITE HỮU ÍCH.
Tra cứu thơng tin
• Các Search Engine: Google (, ),
• AltaVista (),
• Yahoo (),
• VNSeek ().
• Tự điển trực tuyến : Wikipedia ()
• Webopedia (
Thư viện phần mềm
• ZDNet (www.zdnet.com), Cnet()
Nghiên cứu, khoa học, giáo dục
• Codeguru (), MSDN ()
• : Khoa CNTT Trường ĐHSP Hà Nội
• , Khoa CNTT Trường ĐH KHTN-ĐHQG tp
HCM


3 : Kết nối máy PC vào mạng internet:
3.1 kết nối dùng model:
Dial-up networking là phương tiện được sử dụng rộng rãi trong kết nối máy tính tới
Internet. Cuối năm 2000, trên ¼ tỷ người đã quay số vào Internet - nhiều gấp 4 lần số
các user truy cập thông qua giao thức khác như: DSL, cáp quang, ISDN modem. Sau
đây là một số các đặc trưng về Dial-up networking:
• Dial-up networking sử dụng một modem, như giao diện giữa một máy tính PC với
một mạng (chẳng hạn như Internet). Tốc độ kết nối có thể lên tới 56 kbps.
• Quay số với một modem vẫn là phương pháp rẻ nhất và sẵn dùng để kết nối
Internet.
• Tốc độ lớn nhất khi bạn tải dữ liệu sử dụng công dial-up networiking được giới
hạn bởi băng thông của hệ thống điện thoại, chất lượng đường truyền, và giao vận trên
mạng Internet.
• Tốc độ kết nối qua khi sử dụng phương pháp quay số

Trang 18


• Dial-up

networking luôn sử dụng truyền thông với ISP sử dụng theo giao thức
điểm nối điểm.
Trong khi các dịch vụ băng thông khác như DSL, modem cáp, và Internet truyền
qua vệ tinh đang trở nên sẵn có trên nhiều quốc gia, dial-up networking vẫn tiếp tục
phát triển. Nhiều người ước tính rằng, các kết nối dạng khơng dây sẽ là đối thủ chính
trong việc cung cấp dịch vụ cho người sử dụng truy cập Internet trong tương lai gần.
Nhưng theo thống kê chỉ ra rằng, cuối năm 2001, vẫn có nhiều hơn 2 lần số người sử
dụng vẫn tiếp tục sử dụng dial-up networking so với sử dụng các dịch vụ băng thơng
kết

nối
Internet
khác.

chế
bắt
tay

gì?
Dial-up networking là phương thức đơn giản nhất để kết nối tới Internet: bạn chỉ kết
nối qua đường điện thoại sử dụng modem của bạn, ban đầu bạn sẽ lựa chọn một nhà
cung cấp dịch vụ ISP, và phần mềm quay số đã có sẵn trong hệ điều hành Windows
với giao diện sử dụng đơn giản. Với mỗi người sử dụng, khi quay số đòi hỏi một
account truy cập với tên sử dụng và mật khẩu truy cập dịch vụ tới nhà cung cấp ISP.
Sau khi thiết lập các thao tác đó xong, mỗi lần truy cập sau, khách hàng chỉ cần thực
hiện kết nối bằng cách nháy kép chuột trên biểu tượng dial-up.
Khi bạn bắt đầu sử dụng dịch vụ, dial-up networking sẽ sử dụng modem để quay số tới
nhà cung cấp số dịch vụ ISP, nơi sẽ có một modem khác trả lời. Chỉ sau một vài giây,
các modem sẽ sử các tín hiệu điều khiển để xem xem các modem có thể kết nối với
tốc độ tối đa là bao nhiêu. Tiếng kêu của modem khi bắt đầu kết nối là khi modem bạn
và của nhà cung cấp dịch vụ đang ước định tốc độ và thiết lập kết nối sử dụng.
Khi kết nối đã được thiết lập, modem của bạn sẽ trở lại trạng thái im lặng, và dial-up
networking sẽ gửi tên truy cập và mật khẩu của bạn tới nhà cung cấp ISP theo phương
thức gọi là CHAP -- challenge handshake authentication protocol. Tại đầu cuối ISP,
một máy tính sẽ kiểm tra tên và mật khẩu truy cập của bạn dựa trên một cơ sở dữ liệu
các khách hàng được quyền sử dụng dịch vụ. Sau khi đã kiểm tra chứng thực này, của
sổ trạng thái dial-up networking biến mất, và bạn có thể duyệt thông tin các website,
gửi email, download các file, ... Q trình xử lý này ln được thực hiện ở bất cứ đâu
chỉ
trong

khoảng
thời
gian
từ
30
giây
đến
2
phút.
Giao thức điểm nối điểm (PPP): Chậm hơn nhưng chịu lỗi tốt hơn
Dial-up networking cũng cắt dữ liệu của bạn thành các gói tin, mã hố và gói dữ
liệu
trước
khi
gửi
đi.
Dial-up networking sử dụng giao thức PPP (Point to Point Protocol) để gói dữ liệu
truyền tin qua đường điện thoại. Với mạng ethernet, các gói dữ liệu PPP, thường được
gọi là một frame, bao gồm một vài phần, có các cờ bắt đầu và kết thúc (được gọi
“wrappers”) được gắn cho mỗi gói tin. Giống như các gói tin ethernet, các frame PPP
chứa các cờ wrapper. Các wrapper giúp dữ liệu trong các gói tin tới được nơi đến dù
sử dụng các giao thức khác, như TCP/IP, và cũng kiểm tra kiểu dữ liệu nén được sử
dụng
trong
gói
tin.
Sự khác biệt quan trọng giữa các frame PP và các gói tin ethernet là khả năng các
gói tin PPP bị nguy hiểm được phục hồi sử dụng một chu trình gói tin gửi đi. Mỗi gói
tin đơi khi bị mất hay hỏng dữ liệu khi truyền trên đường truyền; khi đến, theo cơ chế
xác thực sẽ có u cầu đến PC địi hỏi gửi lại gói tin đó. Điều này gây mất thời gian

nhiều
hơn
so
với
truyền
theo
dạng
băng
thông
khác.

Trang 19


Trong kiến trúc, mỗi PPP wrapper chứa một tập các định vị dữ liệu được gọi là giá
trị xác thực, mà được kiểm tra tại nơi đến. Khi có một PPP frame nguy hiểm, nó sẽ
dựa vào tập định vị này để lấy lại đúng gói tin đã bị mất mà khơng cần gửi lại tồn bộ
dữ
liệu.
Trong khi q trình này lưu thời gian ước định mà sẽ dùng nó để gửi lại các gói tin
bị nguy hiểm khi truyền, các chức năng khắc phục lỗi làm cho giao thức điểm nối
điểm chạy ít lỗi hơn so với các giao thức đơn giản hơn. Mà Internet là một nơi truyền
tin không đảm bảo độ tin cậy cao, do vậy PPP rất thích hợp khi sử dụng với Internet
và ngày càng phát triển.
3.2 Kết nối dung adsl
ADSL là một cách kết nối tốc độ cao tới Internet, với tốc độ có thể nhanh hơn vài chục
đến cả trăm lần modem quay số hiện nay chúng ta đang dùng. Công nghệ kết nối hứa hẹn
cho chúng ta để có thể "lướt" trên Internet và thưởng thức nhiều dịch vụ khơng dành cho
kết
nối

"rùa
bị".
*
Căn
bản
về
cơng
nghệ
ADSL
ADSL là một thành viên của họ công nghệ kết nối modem tốc độ cao hay còn gọi là
DSL, viết tắt của Digital Subscriber Line. DSL tận dụng hệ thống cáp điện thoại bằng
đồng có sẵn để truyền tải dữ liệu ở tốc độ cao, tiết kiệm kinh phí lắp đặt cáp quang (fibreoptic) đắt tiền hơn. Tất cả các dạng DSL hoạt động dựa trên thực tế là truyền âm thanh
qua đường cáp điện thoại đồng chỉ chiếm một phần băng thông rất nhỏ. DSL tách băng
thông trên đường cáp điện thoại thành hai: một phần nhỏ dành cho truyền âm, phần lớn
dành
cho
truyền
tải
dữ
liệu

tốc
độ
cao.
Trên đường dây điện thoại thì thực tế chỉ dùng một khoảng tần số rất nhỏ từ 0KHz đến
20KHz để truyền dữ liệu âm thanh (điện thoại). Công nghệ DSL tận dụng đặc điểm này
để truyền dữ liệu trên cùng đường dây, nhưng ở tần số 25.875 KHz đến 1.104 MHz
*
ADSL


Internet
trên
băng
thông
rộng
ADSL là một trong những kết nối Internet phổ biến cung cấp băng thông lớn cho việc
truyền tải dữ liệu (tiếng Anh gọi là broadband Internet). Broadband Internet so với kết
nối bằng modem quay số truyền thống là một cuộc cách mạng lớn về tốc độ, chất lượng
và nội dung, cũng giống như so sánh Nvidia GeForce 4 TI4600 với S3 Trio 1MB PCI
vậy. Với tốc độ kết nối gấp hàng chục đến hàng trăm lần modem quay số, ADSL – một
ứng dụng của broadband Internet - sẽ giúp bạn thực sự thưởng thức thế giới kĩ thuật số
trên
mạng
toàn
cầu.
A.
Đối
với
người
dùng
Về cơ bản, ADSL sẽ giúp bạn làm những việc quen thuộc trên Internet như dùng thư
điện tử, duyệt websites, duyệt diễn đàn, tải file..v.v.. nhưng nhanh hơn trước rất nhiều lần
và bạn có thể làm những việc đó đồng thời thay vì phải làm lần lượt từng thứ một như
trước đây. Bạn có thể thoải mái thưởng thức Internet do không phải dài cổ đợi modem
quay số gọi tổng đài hay ngồi đọc truyện chưởng chờ trang web nạp xong trên trình
duyệt. Một điều đáng chú ý là bạn không phải trả cước gọi điện thoại khi dùng ADSL, và
đường dây vẫn dùng để gọi được khi đang duyệt Internet, dù cơng nghệ này dựa trên
đường
điện
thoại


sẵn.
Ngồi việc tăng tốc cho những nhu cầu Internet phổ biến ở trên, ADSL còn giúp bạn sử
dụng Internet vào những tác vụ mà trước đây modem quay số vẫn phải khóc lóc thảm
thiết
vẫy
cờ
trắng
đầu
hàng.
- Thứ nhất, bạn có thể truy cập những website thiết kế với chất lượng cao, dùng flash,

Trang 20


nhạc
nền,
nhiều
hình
động…
- Thứ hai, bạn có thể nghe và xem các bài hát, bản tin, giới thiệu phim… từ khắp mọi nơi
trên
thế
giới.
- Thứ ba là phim theo yêu cầu (tiếng Anh gọi là movie-on-demand), với băng thông rộng
và công nghệ nén và truyền hình ảnh, âm thanh tiên tiến, phim ảnh có thể được truyền
qua Internet và bạn có tồn quyền chọn lựa chương trình, tạm dừng hoặc tua đi tua lại tùy
thích. Hiện nay nhà cung cấp dịch vụ Internet của Singapore là SingNet đang cung cấp
dịch vụ này với giá khoảng 6.5 USD/tháng (giá khuyến mại cho 12 tháng đầu là 2.5
USD)

qua
đường
ADSL
512Kbps.
- Thứ tư là hội thảo video qua mạng: kết hợp với webcam, ADSL sẽ giúp bạn đàm thoại
với bạn bè, người thân hay đối tác kinh doanh qua Internet với âm thanh và hình ảnh chất
lượng
cao.
- Thứ năm là chơi multiplayer game trên Internet với bạn bè khắp thế giới. Với thời gian
ping rất thấp, ADSL cho phép các game mạng chạy trơn tru, khiến chơi game qua
Internet
nhanh
hơn

thú
vị
hơn.
Thứ sáu là học qua mạng. Bạn có thể tham dự các khóa học từ xa tổ chức bởi các trường
đại học tên tuổi trên thế giới hoặc truy cập các thư viện điện tử trên mạng nhanh hơn.
B.
Đối
với
doanh
nghiệp
Thương mại điện tử và nền công nghiệp thông tin là nền tảng tương lai của mọi nền kinh
tế. ADSL nói riêng và broadband Internet nói chung khiến thương mại điện tử trở nên
khả thi. Các cửa hàng trên mạng có thể được thiết kế với tính tương tác cao hơn, cách
trình bày sản phẩm hấp dẫn hơn với người dùng. Loại cửa hàng này dễ thiết kế, dễ bảo
quản, giá thành rẻ, kết hợp với khả năng tương tác trực tiếp với người dùng sẽ giúp cho
doanh nghiệp nhỏ có thể cạnh tranh với các cơ sở lớn hơn trên quy mơ tồn cầu.

Nền cơng nghệ phần mềm của Việtnam sẽ đạt tính cạnh tranh cao hơn với Internet băng
thơng rộng. Việc phát triển, thăm dò và xâm nhập thị trường cũng như nhận đơn đặt hàng
và giao sản phẩm sẽ trở nên dễ dàng hơn và kinh tế hơn rất nhiều.
*
Điều
kiện
để
lắp
đặt
ADSL
Điều kiện cơ bản là bạn phải có một đường điện thoại (!) Chi tiết hơn, đường điện thoại
đó
phải
đáp
ứng
những
yêu
cầu
sau:
Cách tổng đài dưới 5500 m. Càng gần tổng đài, tốc độ truy cập của bạn càng tăng. Dĩ
nhiên nếu nhà cung cấp dịch vụ giới hạn tốc độ thì dù ở đâu bạn cũng chỉ đạt tối đa là tốc
độ
giới
hạn.
Không bị áp dụng công nghệ pair gain. Pair gain là công nghệ kĩ thuật số tách đường
cáp điện thoại ra làm hai (ở đây xét pair gain 1+1). Công nghệ này được nhà cung cấp
dịch vụ điện thoại hay áp dụng để giảm chi phí trong trường hợp nhà bạn muốn có thêm
đường điện thoại. Điểm dở của nó là kết nối Internet quay số sẽ bị giảm một nửa tốc độ
(28.8Kbps tối đa so vKhông bị áp dụng công nghệ RIM – Remoted Integrated
Multiplexer. Công nghệ này dựa trên đường cáp quang (fibre-optic cable), nhà cung cấp

dịch vụ điện thoại dẫn cáp quang đến một khu vực rồi chuyển tín hiệu trên cáp quang
thành dịch vụ điện thoại bình thường. RIM rất kinh tế khi lắp đặt điện thoại ở những nơi
khơng có sẵn mạng cáp điện thoại bằng đồng như khu vực ngoại ô mới xây, vùng sâu
vùng
xa
hay
hải
đảo.
*
Trang
thiết
bị
Nếu đường điện thoại của bạn có thể hỗ trợ ADSL, bạn chỉ cần liên lạc nhà cung cấp
dịch vụ là họ sẽ lo phần kết nối bạn vào tổng đài. Nhưng về phần lắp đặt tại nhà thì bạn

Trang 21


phải tự làm lấy, nếu thuê dịch vụ thì sẽ rất đắt. Ngay cả việc mua sắm thiết bị có khi cũng
nên tự túc, vì nhà cung cấp có thể bán rất đắt. Tự túc mua sắm và lắp đặt thiết bị sẽ giúp
bạn tiết kiệm được khá nhiều và hơn nữa bạn làm chủ thiết bị, có thể chuyển qua nhà
cung cấp dịch vụ khác dễ dàng hơn (hi vọng Việtnam sẽ có nhiều nhà cung cấp dịch vụ
Internet trong tương lai). Bạn cứ yên tâm, vì lắp đặt rất dễ dàng, khơng hề khó hơn việc
lắp đặt modem quay số đâu. Tuy nhiên, trước khi mua thiết bị, bạn nên kiểm tra với nhà
cung
cấp
xem
thiết
bị
đó


được
họ
hỗ
trợ
khơng.
Cũng gần giống như kết nối quay số, bạn cần một modem làm trung gian giữa máy tính
và đường điện thoại để chuyển đổi giữa tín hiệu và dữ liệu. Có ba loại modem hỗ trợ
ADSL.
Modem trên card PCI: loại này tích hợp tất cả trên một card PCI. Giá thành rẻ nhất
trong ba loại, nhưng rất khó cài đặt, kén chọn hệ điều hành và không hỗ trợ chia sẻ kết
nối đến nhiều máy tính. Nếu bạn tính dùng thêm Linux hay Mac OS X, hay chia sẻ kết
nối ADSL với nhiều máy khác, hay là dân overclocker, nên tránh xa loại này.
Modem USB: đây là loại modem lắp ngoài kết nối qua giao tiếp USB 1.1. Giá chỉ hơn
loại trước một chút và trơng có vẻ dễ lắp đặt. Nhưng thực ra loại này cũng kén hệ điều
hành không kém loại kia, cài đặt tương đối khó và khơng hỗ trợ chia sẻ kết nối. Hơn nữa,
tốc độ của USB 1.1 rất thấp (tối đa là 12Mbps nhưng thực tế còn thấp hơn nhiều), khơng
thích hợp với ADSL tốc độ cao, lại dùng nhiều tài nguyên hệ thống. Bạn nên cân nhắc kĩ
trước
khi
chọn
USB
cho
ADSL.
Ethernet modem lắp ngồi: đây là loại phổ biến nhất. Nó dùng giao tiếp ethernet với
máy tính qua card mạng 10/100. Ưu điểm là rất dễ lắp đặt, hỗ trợ hầu hết các hệ điều
hành, dễ chia sẻ kết nối. Nhược điểm là giá thành cao hơn các loại khác (có tính cả giá
của card mạng). Ethernet ADSL modem có khi được tích hợp thêm một số chức năng
như tường lửa (hardware firewall) hay router và hub hay switch lắp trong (giúp bạn chia
sẻ

kết
nối
với
các
máy
khác
dễ
dàng).
Nếu muốn dùng các thiết bị khác như máy điện thoại hay fax trên đường dây mà ADSL
dùng, bạn cần một bộ lọc để lọc tín hiệu. Giá thành của nó rất rẻ và thường được bán kèm
modem
nếu
bạn
mua
từ
nhà
cung
cấp
dịch
vụ.
Hiện tại, dịch vụ ADSL đang được VDC- nhà cung cấp khả năng truy cập Internet lớn
nhất Việt Nam, triển khai và mở rộng.

Trang 22



×