VIỆN KHOA HỌC KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ MÔI TRƯỜNG
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG BA
CNĐT: HUỲNH THỊ LAN HƯƠNG
8358
HÀ NỘI – 2009
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ ii
MỤC LỤC
MỤC LỤC ii
MỤC LỤC BẢNG BIỂU iii
MỤC LỤC HÌNH VẼ v
MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI NGUYÊN NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 6
1.1. Mâu thuẫn tranh chấp tài nguyên nước 6
1.2. Giải quyết mâu thuẫn tài nguyên nước trên thế giới 8
1.3. Giải quyết mâu thuẫn tài nguyên nước ở Việt Nam 12
CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN LƯU VỰC SÔNG BA 16
2.1. Vị trí địa lý 16
2.2. Đặc điểm địa hình 16
2.3. Đặc điểm thổ nhưỡng 20
2.4. Thảm phủ thực vật 22
2.5. Đặc điểm khí hậu 23
2.6. Đặc điểm thủy văn 27
2.7. Đặc điểm hải văn 29
CHƯƠNG 3. HIỆN TRẠNG TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI
NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG BA 31
3.1. Đánh giá hiện trạng tài nguyên nước 31
3.2. Đánh giá sự biến động của tài nguyên nước 35
3.3. Tình hình khai thác sử dụng nguồn nước trên lưu vực sông Ba 41
CHƯƠNG 4. ĐÁNH GIÁ MÂU THUẪN TRONG SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU
VỰC SÔNG BA 46
4.1. Mức bảo đảm nước mặt trong tỉnh và các vùng 46
4.2. Nhu cầu dùng nước trong lưu vực sông Ba 51
4.3. Tính toán cân bằng nước – kịch bản hiện trạng 55
4.4. Tính toán cân bằng nước – kịch bản tương lai 70
4.5. Những mâu thuẫn có thể xảy ra trong sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Ba.79
4.6. Cơ chế giải quyết tranh chấp tài nguyên nước trên lưu vực sông Ba 89
CHƯƠNG 5. HỆ THỐNG HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI NGUYÊN
NƯỚC LƯU VỰC SÔNG BA 91
5.1. Tổng quan về hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh chấp 91
5.2. Hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước 99
5.3. Sử dụng hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh chấp cho các loại hình mâu thuẫn trong
sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Ba 109
KẾT LUẬN 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO 125
PHỤ LỤC 127
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ iii
MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. 1. Thống kê số lượng lưu vực sông xuyên biên giới 6
Bảng 2. 1. Lưới trạm khí tượng và đo mưa lưu vực sông Ba và vùng lận cận 23
Bảng 2. 2. Lượng bức xạ tổng cộng (kcal/cm
2
) 23
Bảng 2. 3. Số giờ nắng trung bình tháng và năm (giờ) 24
Bảng 2. 4. Nhiệt độ trung bình tháng và năm (
o
C) 24
Bảng 2. 5. Lượng mưa trung bình tháng và năm (mm) 25
Bảng 2. 6. Đặc trưng hình thái lưu vực sông Ba 28
Bảng 3. 1. Lượng mưa bình quân nhiều năm các trạm lưu vực sông Ba (1977-2006) 31
Bảng 3. 2. Tần suất lượng mưa năm các trạm 31
Bảng 3. 3. Nguồn nước các sông trong lưu vực 33
Bảng 3. 4. Kết quả tính tần suất dòng chảy năm tại các trạm lưu vực sông Ba 33
Bảng 3. 7. Lượng mưa tháng, năm bình quân nhiều năm các khu vực trong và lân cận lưu
vực sông Ba 36
Bảng 3. 8. Thời gian xuất hiện đỉnh lũ lớn nhất tại các trạm thủy văn 39
Bảng 3. 9. Đỉnh lũ lớn nhất đã quan trắc được tại các trạm thủy văn trong lưu vực 40
Bảng 3. 10. Tổng lượng lũ lớn nhất thời đ
oạn tại các vị trí 40
Bảng 3. 11. Dòng chảy kiệt đo tại các trạm đo thủy văn lưu vực sông Ba 41
Bảng 3. 12. Hiện trạng công trình thủy lợi lưu vực sông Ba 42
Bảng 4. 1. Mức bảo đảm nguồn nước mặt trong các tỉnh thuộc lưu vực sông Ba 50
Bảng 4. 2. Mức bảo đảm nguồn nước mặt trong các vùng tính cân bằng nước thuộc lưu vực
sông Ba 50
Bảng 4.3: Tiêu chuẩn dùng nước cho sinh hoạt dân sinh (l/người/ngày.đêm) 52
Bảng 4. 4. Tiêu chuẩn cấp nước cho nuôi trồng thủy sản nước ngọt 53
Bảng 4. 5. Tiêu chuẩn cấp nước cho nuôi trồng thủy sản nước lợ 53
Bảng 4. 6a. Lượng nước cần dùng trong các vùng 54
Bảng 4. 7. Các nút tưới trong kịch bản hiện trạng 60
Bảng 4. 8. Thông số của các hồ chứa và nhà máy thủy điện - Kị
ch bản hiện trạng 62
Bảng 4. 9. Kết quả đánh giá dòng chảy mô phỏng và thực đo giai đoạn 1980-1999 63
Bảng 4. 10. Kết quả tính cân bằng nước tại các nút tưới giai đoạn 1980-1999 Kịch bản hiện
trạng 64
Bảng 4. 11. Kết quả đánh giá dòng chảy mô phỏng và thực đo giai đoạn 2000-2005 65
Bảng 4. 12. Kết quả tính cân bằng nước tại các nút tưới giai đoạn 2000-2005- Kị
ch bản hiện
trạng 66
Bảng 4. 13. Kết quả tính cân bằng nước tại các nút thủy điện giai đoạn 2000-2005 Kịch bản
hiện trạng 67
Bảng 4. 14. Kết quả tính toán cân bằng nước sơ bộ cho các vùng – Kịch bản hiện trạng 68
Bảng 4. 15. Các nút tưới trong kịch bản tương lai 72
Bảng 4. 16. Thông số của các hồ chứa và nhà máy thủy điệ
n - Kịch bản tương lai 73
Bảng 4. 17. Kết quả tính cân bằng nước tại các nút tưới - Kịch bản tương lai 75
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ iv
Bảng 4. 18. Kết quả tính cân bằng nước tại các nút cung cấp nước sinh hoạt, chăn nuôi,
công nghiệp, thủy sản - Kịch bản tương lai 76
Bảng 4. 19. Kết quả tính cân bằng nước tại các nút thủy điện - Kịch bản tương lai 76
Bảng 4. 20. Kết quả tính toán cân bằng nước sơ bộ cho các vùng - kịch bản giai đoạn năm
2020 77
Bảng 4. 21. Kết quả tính cân bằng nướ
c cho các khu tưới 80
Bảng 4. 22. Lưu lượng trung bình trong các tháng mùa cạn năm 1998 tại một số vị trí trên
sông Ba được tính toán theo mô hình MIKE BASIN (trong giai đoạn hiện tại,
năm 2005) 81
Bảng 4. 23. Lưu lượng trung bình trong các tháng mùa cạn năm 1998 tại một số vị trí trên
sông Ba được tính toán theo mô hình MIKE BASIN (trong giai đoạn từ sau năm
2010 có hồ Kanăk - An Khê và Ba Hạ) 82
Bảng 4. 24. Kết quả tính toán cân bằng nước năm 2020 trong các tiểu vùng 83
Bả
ng 4. 25. Đặc trưng các thông số kỹ thuật của các công trình thuỷ điện trên dòng chính
sông Ba 88
Bảng 4. 26. Lượng nước cần trả lại sông Ba (hạ lưu đập An Khê) 88
Bảng 5. 1. Các chức năng khác nhau và những người dùng được phép can thiệp 101
Bảng 5. 2. Chi tiết các phương án 108
Bảng 5. 4. Nhu cầu sử dụng nước của các bên liên quan 110
Bảng 5. 5. Kết quả tính toán độ thiếu hụt trong cấp nước của các phương án 115
Bảng 5. 6. Kết quả tính cân bằng nước tại các nút thủy điện giai đoạn 2000 - 2005 117
Bảng 5. 7. Nhu cầu sử dụng nước của các bên liên quan 117
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ v
MỤC LỤC HÌNH VẼ
Hình 2. 1 Bản đồ hành chính và mạng lưới sông suối lưu vực sông Ba 17
Hình 3. 1. Bản đồ lượng mưa bình quân nhiều năm lưu vực sông Ba 32
Hình 3. 2. Bản đồ module dòng chảy năm lưu vực sông Ba 34
Hình 3. 3. Bản đồ các công trình thủy lợi trên lưu vực sông Ba 44
Hình 4. 1: Bản đồ phân vùng lưu vực sông Ba 48
Hình 4. 2. Sơ đồ tính trong MIKEBASIN giai đoạn 1980-1999 - Kịch bản hiện trạng 56
Hình 4. 3. Sơ đồ hệ thống giai đoạn 1980 - 1999 - Kịch bản hiện trạng 57
Hình 4. 4. Sơ đồ tính trong MIKEBASIN giai đoạn 2000-2005 - Kịch bản hiện trạng 58
Hình 4. 5. Sơ đồ hệ thống giai đoạn 2000-2005 - Kị
ch bản hiện trạng 59
Hình 4. 6. Các lưu vực con được phân chia trên lưu vực sông Ba 61
Hình 4. 7. Dòng chảy thực đo và tính toán trạm Củng Sơn giai đoạn 1980-1999 63
Hình 4. 8. Dòng chảy thực đo và tính toán trạm Củng Sơn giai đoạn 2000-2005 65
Hình 4. 9. Sơ đồ tính trong MIKEBASIN - Kịch bản tương lai 70
Hình 4. 10. Sơ đồ tính hệ thống - Kịch bản tương lai 71
Hình 5. 1. Mặt cắt ngang của hồ chứa 95
Hình 5. 2. Màn hình khởi động hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh chấp 99
Hình 5. 3. Màn hình các chức năng người điều khiển có thể can thiệp 100
Hình 5. 4. Màn hình “Sửa đặc điểm hồ chứa” 102
Hình 5. 5. Màn hình “Sửa các tham số” 102
Hình 5. 6. Màn hình biểu diễn đồ thị lưu lượng dòng chảy đến theo tháng 103
Hình 5. 7. Màn hình cho phép sửa đổi dòng chảy vào hồ 103
Hình 5. 8. Màn hình cho phép sửa đổi nhu cầu sử dụng nước cho 1 đơn vị diện tích tưới. 104
Hình 5. 9. Đồ thị biểu thị nhu cầu sử dụng nước hàng tháng của các hộ sử dụng 105
Hình 5. 10. Đồ thị biểu thị so sánh giữa cung và cầu cho một hộ sử dụng 105
Hình 5. 11. Đồ thị biểu thị so sánh lượng thiếu hụt giữa hai hộ sử dụng 106
Hình 5. 12. Đồ thị biểu thị cao trình mực nước hồ từng thời đoạn 106
Hình 5. 13. Đồ thị biểu thị lượng nước trữ trong hồ từng thời đoạn 107
Hình 5. 14. Đồ thị biểu thị lưu lượng cấp cho môi trường sinh thái 107
Hình 5. 15. Kết quả mô phỏng của các phương án 108
Hình 5. 16. Kết quả lựa chọn phương án có lợi 109
Hình 5. 17. Bảng giới thiệu của các bên liên quan 110
Hình 5. 18. Biểu đồ nhu cầu sử dụng nước của các bên 111
Hình 5. 19. Biểu đồ lưu lượng dòng chảy đến 111
Hình 5. 20. Kết quả mô phỏng thiếu hụt – Phương án 1 112
Hình 5. 21. Nhu cầu sử dụng nước năm 2020 113
Hình 5. 22. Thiếu hụt nước - phương án nhu cầu sử dụng năm 2020 - phương án 1 113
Hình 5. 23. Thiếu hụt nước - phương án nhu cầu sử dụng năm 2020 - phương án 2 114
Hình 5. 24. Thiếu hụt nước - phương án nhu cầu sử dụng năm 2020 - phương án 3 115
Hình 5. 25. Kết quả lựa chọn phương án có lợi nhất - Mâu thuẫn dạng 1 116
Hình 5. 26. Màn hình đăng nhập kiểu tranh chấp 2 117
Hình 5. 27. Biểu đồ nhu cầu sử dụng nước của các nhóm 118
Hình 5. 28. Các tham số của hệ thống 118
Hình 5. 29. Lượng nước chảy vào hồ chứa theo tháng 119
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ vi
Hình 5. 30. So sánh giữa cung và cầu cho tưới 119
Hình 5. 31. So sánh giữa cung và cầu cho thủy điện 120
Hình 5. 32. Sửa nhu cầu cho thủy điện 120
Hình 5. 33. Sửa nhu cầu cho thủy điện 121
Hình 5. 34. Lựa chọn phương án có lợi nhất - Mâu thuẫn dạng 2 122
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 2
MỞ ĐẦU
Nước là một nguồn tài nguyên cần thiết cho sự sống và sức khoẻ của con người và
là một phần quan trọng của hệ sinh thái. Ở hầu hết các vùng trên thế giới, việc cấp nước
đang trở nên ngày càng khó khăn do sự gia tăng nhu cầu sử dụng nước cho các mục đích
như công nghiệp, sự phát triển của đô thị hoá và gia tăng dân số.
Nước phân bố trên thế giới rấ
t không đồng đều theo không gian và thời gian. Có
những vùng có lượng nước ngọt dồi dào, tuy nhiên có những vùng đang phải đối mặt với
sự khan hiếm nước ngọt. Hơn nữa, nguồn nước ngọt trên thế giới lại không được phân
phối theo các phạm vi quốc gia. Có khoảng 261 lưu vực sông trên thế giới chảy qua 2 hay
nhiều hơn quốc gia. Chính vì vậy, sự thiếu hụt và phân phối không đều về nguồn nước có
thể tạo ra các mâu thuẫn về nước ở các cấp độ địa phương, vùng hay thậm chí ở cấp độ
quốc tế.
Bên cạnh đó, sức ép gia tăng dân số và phát triển kinh tế sẽ tiếp tục làm gia tăng
ảnh hưởng đến môi trường và đặc biệt là gia tăng khan hiếm nguồn nước. Trong một hệ
thống tài nguyên nước, việc tăng cường khan hiếm nguồn nước sẽ dẫ
n đến mâu thuẫn về
chia sẻ nguồn nước. Từ đó có thể nhận thấy: cần sớm lập quy hoạch quản lý tổng hợp tài
nguyên và môi trường lưu vực sông, xây dựng chiến lược và chính sách sử dụng hợp lý tài
nguyên nước. Tuy nhiên, không giống như các nguồn tài nguyên khác, nước được sử dụng
để làm năng lượng để phát triển cho tất cả các khía cạnh của xã hội. Do đó, không thể
quản lý tài nguyên n
ước theo cách xem xét một mục tiêu đơn lẻ mà phải xét theo các mục
tiêu tổng hợp và phải dựa trên các lợi ích của các ngành. Trong một quốc gia, các lợi ích
này bao gồm các lợi ích công cộng, các cộng đồng dân cư, các nhà sản xuất năng lượng và
các nhà môi trường. Chính vì vậy, quá trình giải quyết tranh chấp về nước đã được nghiên
cứu bởi nhiều chuyên gia như: luật, kinh tế, chính sách, địa lý học, và các lý thuyết về
hệ thống. Các hướng ti
ếp cận truyền thống như: hệ thống luật pháp, các hội đồng ở cấp
quốc gia thường đưa ra các giải pháp mà trong đó ngành này sẽ đạt lợi ích của ngành khác.
Ở Việt Nam hiện nay, quản lý tài nguyên nước hiệu quả là vấn đề rất quan trọng
trong việc đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Đến nay, nhiều công việc xây
dựng phương pháp tiếp cận quản lý t
ổng hợp tài nguyên nước ở Việt Nam đã được thực
hiện theo các nguyên tắc: hiệu quả về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng xã
hội. Các công việc tiếp theo cần thực hiện là xác định các thủ tục và hướng dẫn có thể áp
dụng nhằm hỗ trợ việc ra quyết định phân bổ và quản lý nguồn nước ở cấp lưu vực sông
hoặc tiểu lư
u vực. Tuy nhiên, rất cần có những công cụ mang tính khoa học cao để hỗ trợ,
giúp các nhà quản lý có cái nhìn tổng quan về các phương án phân bổ nguồn nước, từ đó
ra các quyết định đúng đắn và chính xác.
Nhìn chung, nguồn tài nguyên nước là có hạn, tuy nhiên nhu cầu phát triển kinh tế
xã hội ngày càng cao dẫn tới nhu cầu về nước cũng ngày càng gia tăng, điều này dẫn đến
nảy sinh mâu thuẫn trong khai thác sử dụng tài nguyên nước. Các mâu thuẫn này là khác
nhau đối v
ới từng lưu vực sông. Chính vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng Hệ thống hỗ trợ
giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước mang ý nghĩa thực tiễn to lớn. Đây sẽ là một
công cụ hỗ trợ kỹ thuật đắc lực giúp cho các nhà xây dựng chính sách có được một cái
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 3
nhìn tổng quát về các mâu thuẫn có thể xảy ra trong quá trình phân bổ nguồn nước, dựa
trên sự phân tích kết quả tối ưu của các phương án phân bổ nước trên lưu vực để xây dựng
kế hoạch phân bổ và quản lý nguồn nước hiệu quả.
Lưu vực sông Ba là một lưu vực sông lớn ở nước ta, có vị trí địa lý đặc biệt, đa
dạng và phong phú về tài nguyên cũng như về
lịch sử phát triển KT - XH của các tỉnh nằm
trên lưu vực. Lưu vực sông Ba thuộc địa phận của 3 tỉnh: Gia Lai, Đắc Lắc và Phú Yên.
Lưu vực có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của
cả nước. Lưu vực có dạng gần như chữ L, với tổng diện tích tự nhiên khoảng 13.900 km
2
,
dân số tính đến năm 2004 là 1.366.582 người. Hiện trạng và diễn biến tài nguyên, môi
trường trên lưu vực sông Ba mang nét đặc trưng của một vùng kinh tế đang bước vào thời
kỳ phát triển với những chuyển dịch rõ rệt. Áp lực của các hoạt động phát triển kinh tế -
xã hội trong khu vực đã tác động mạnh mẽ đến tài nguyên thiên nhiên, trong đó có tài
nguyên nước. Lưu vực có lượng mưa và dòng chảy không phong phú, thuộc lo
ại trung
bình so với cả nước. Do đó, trong lưu vực sông Ba đã nảy sinh các mâu thuẫn về sử dụng
tài nguyên nước giữa các ngành, các hộ, các địa phương v.v… dùng nước.
Trong lĩnh vực quy hoạch, trên lưu vực sông Ba đã có các quy hoạch thủy lợi, thủy
điện được xây dựng trong những thời gian trước đây, tuy nhiên chúng đều là quy hoạch
đơn ngành nên chưa đảm bảo đầy đủ yêu cầu về mặt tổng h
ợp. Qua xem xét có thể chỉ ra
là mặc dù trong các quy hoạch đó đều có nói đến từ “sử dụng tổng hợp nguồn nước”
nhưng cách giải quyết các công trình quy hoạch vẫn mang tính đơn ngành, trong đó chỉ
chú trọng đến dùng nước của ngành mình và một điểm tìm thấy nữa là không có quy
hoạch nào đưa ra được chiến lược và các chính sách về quản lý tổng hợp tài nguyên nước
cũng như các giải pháp cần thiết để th
ực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước đối với
lưu vực sông.
Trong quy hoạch thủy điện năm 2002, ngành Điện đã đề xuất một hệ thống công
trình thủy điện bậc thang trên sông Ba, bao gồm 4 công trình thủy điện trên dòng chính:
(An Khê - Kanak, sông Ba Thượng, sông Ba Hạ) và 7 công trình thủy điện trên dòng
nhánh (Sông Hinh, EaKrong Hnăng, AYun thượng 1, AYun thượng 2, Daksrong, H’Chan,
H’Mun). Do đây là quy hoạch đơn ngành do ngành Điện lập mà không có sự phối hợ
p với
các ngành khác, nên quy hoạch này mới chú trọng hiệu quả phát điện của các công trình
mà chưa quan tâm đầy đủ tới nước cho hệ sinh thái cũng như sử dụng nước của các ngành
khác ở hạ lưu. Mặt khác, công trình An Khê còn có nhiệm vụ chuyển nước từ sông Ba
sang sông Côn nhằm giải quyết vấn đề thiếu nước trầm trọng trên lưu vực sông Côn, tuy
nhiên điều này cũng dẫn đến việc thi
ếu nước xảy ra trên sông Ba. Tương tự như vậy, các
hồ chứa phục vụ tưới hầu hết cũng được thiết kế cho phép lấy hết dòng chảy cơ bản của
sông trong mùa kiệt để tưới nên tạo nên tình trạng khô cạn nước cho đoạn sông hạ lưu đập
trong các tháng mùa khô.
Phương thức khai thác sử dụng nguồn nước trên lưu vực sông Ba hiện tại cũng còn
tồn t
ại những điều bất cập và những biểu hiện chưa bền vững. Để lấy nước tưới con người
đã sử dụng quá nhiều các đập dâng nhỏ ở trung và thượng lưu, việc xây dựng các đập
dâng lớn như đập Đồng Cam ở hạ lưu nhưng không có hồ điều tiết dòng chảy ở thượng
nguồn, là những bất cập và những biể
u hiện chưa bền vững trong phương thức khai thác
và sử dụng tài nguyên nước. Điều này đã làm suy giảm rất đáng kể dòng chảy các tháng
mùa cạn ở khu vực hạ lưu và gần cửa sông.
Hiện tại, dòng chính sông Ba ở khu vực hạ lưu từ sau đập Đồng Cam đến biển
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 4
nguồn nước đang bị cạn kiệt và hệ sinh thái đã bị suy thoái tương đối nghiêm trọng. Đã
xuất hiện những thời gian trong mùa kiệt nguồn nước tự nhiên đến thượng lưu đập Đồng
Cam không đủ cho lấy nước của đập khiến cho mực nước thượng lưu đập thấp hơn
ngưỡng tràn. Đoạn sông khu vực hạ lưu đập ra đến biển không còn nướ
c, lòng sông rộng
từ 1 - 2 km nhưng gần như khô cạn và nổi lên toàn là cồn cát trắng.
Mặt khác, sông Ba hiện nay chưa có tổ chức quản lý lưu vực sông nên chưa có cơ
quan nào chịu trách nhiệm quản lý và điều phối việc sử dụng nước trên phạm vi toàn lưu
vực. Trên lưu vực cũng chưa có nghiên cứu và bất kỳ một quy định nào về phân bổ nguồn
nước sử dụng cho các ngành, nên các ngành tự
tiến hành quy hoạch và xây dựng công
trình khai thác sử dụng nước theo ý mình. Nước cho hệ sinh thái và duy trì các giá trị môi
trường của dòng sông thì chưa có ngành nào quan tâm tới. Từ đó có thể nhận thấy: cần
sớm lập quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường lưu vực sông Ba, trước mắt
cần xây dựng chiến lược và chính sách sử dụng hợp lý tài nguyên, nhất là tài nguyên nước.
Tóm lại, Tài nguyên nước nói chung và tài nguyên nước trên lưu vực sông Ba nói
riêng là nguồn tài nguyên thiết yếu trong s
ự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh lương thực
và xoá đói giảm nghèo, cũng là yếu tố thiết yếu trong quá trình đạt tới các mục tiêu phát
triển thiên nhiên kỷ và các mục tiêu phát triển khác. Đối với riêng lưu vực sông Ba là một
lưu vực lớn nằm cả hai bên sườn Đông và Tây dãy Trường Sơn với điều kiện tự nhiên đa
dạng. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên quy định nên đây là lưu vự
c sông có nguồn nước
thấp nhất ở dải duyên hải miền Trung, nhưng đây cũng là lưu vực có tiềm năng đất,
khoáng sản, hệ sinh thái rất đa dạng và phong phú. Vì vậy vấn đề sử dụng nước trên lưu
vực sông Ba đã và đang xuất hiện các tranh chấp về tài nguyên nước như đã trình bày ở
trên. Do đó, việc nghiên cứu xây dựng khung hỗ trợ giải quyết tranh chấp v
ề nước cho lưu
vực sông Ba mang tính thực tiễn cao. Từ kết quả của nghiên cứu, có thể mở rộng áp dụng
cho các lưu vực khác ở Việt Nam. Để có thể tiếp cận và giải quyết được các nôị dung đã
đề ra trong đề tài, nhóm thực hiện đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
a) Phương pháp khảo sát, thu thập, điều tra bổ sung thông tin, dữ liệu liên quan đến
sử
dụng và phát triển tài nguyên nước: Đây là phương pháp truyền thống luôn
được thực hiện trong công tác điều tra cơ bản về hiện trạng, diễn biến tài nguyên
nước. Các số liệu, kết quả thu được qua phương pháp này là cơ sở thiết yếu để xác
định hiện trạng và dự báo diễn biến cũng như tình hình sử dụng tài nguyên nước
trên lưu vực sông Ba;
b) Phương pháp phân tích, đánh giá và tổ
ng hợp các thông tin, dữ liệu: Việc phân
tích đánh giá tài nguyên nước, thiết lập các mục tiêu từ các thông tin, dữ liệu thực
đo được thực hiện trên cơ sở ứng dụng các phương pháp thống kê thông dụng hiện
nay.
c) Phương pháp đánh giá tài nguyên: Sử dụng các công cụ phân tích, xác định, đánh
giá diễn thế của các điều kiện chung về tài nguyên nước, về sự phát triển kinh tế -
xã hội, về
dân số, của khu vực trong tương lai. Kết quả để phục vụ xây dựng các
kịch bản sử dụng nước ứng với các thời kỳ khác nhau.
d) Phương pháp mô hình: Ứng dụng, xây dựng các mô hình mô phỏng nhằm đưa ra
được bức tranh tổng thể về tài nguyên nước ở các tiểu vùng có liên quan. Đối với
mô hình mô phỏng các phần mềm chuyên dụng hiện nay trong nước cũng như nước
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 5
ngoài sẽ được ứng dụng như mô hình thuỷ văn và tính toán dòng chảy (NAM), mô
hình quy hoạch và đánh giá nguồn nước (MIKE Basin);
e) Phương pháp phân tích tối ưu đa mục tiêu: Tiến hành phân tích tối ưu dựa trên cơ
sở tối ưu về nguồn nước nhằm đưa ra phương án phân bổ nguồn nước hiệu quả nhất
thỏa mãn tối đa nhu cầu của các ngành.
f) Phương pháp chuyên gia: Phương pháp chuyên gia thông qua các H
ội thảo khoa
học lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong và ngoài nước về cách tiếp cận,
thiết kế nghiên cứu.
g) Phương pháp tư vấn, tiếp xúc cộng đồng: Đảm bảo sự tham gia của các cộng đồng
dân cư sống trên lưu vực nhằm tăng cường nhận thức của cộng đồng.
1. Mục tiêu của đề tài:
Xây dựng một công cụ mang tính khoa học để hỗ trợ giải quyết tranh chấp về tài
nguyên nước, giúp ích trong quá trình ra quyết định trong phân bổ hợp lý tài nguyên nước
phục vụ công tác quản lý tổng hợp lưu vực sông.
2. Cấu trúc của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, cấu trúc của báo cáo tổng kết đề tài bao
gồm 5 chương như sau:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về hệ thống thỗ trợ giải quyết tranh
chấp tài nguyên nước;
- Chương 2: Điều kiện địa lý tự nhiên lưu vực sông Ba;
- Chương 3: Hiện trạng tài nguyên nước và khai thác, sử dụng tài nguyên nước lưu
vực sông Ba;
- Chương 4: Cân bằng nướ
c hệ thống lưu vực sông Ba - Mâu thuẫn trong sử dụng tài
nguyên nước lưu vực sông Ba;
- Chương 5: Hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước lưu vực sông
Ba;
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 6
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI NGUYÊN NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
1.1. Mâu thuẫn tranh chấp tài nguyên nước
Thiếu hụt nguồn nước là một trong những mối đe doạ nghiêm trọng nhất đối với
nền kinh tế và cuộc sống của con người trong tương lai ở bất kì quốc gia nào. Sự phát triển
dân số không ngừng, đà đô thị hóa bùng nổ và biến
đổi khí hậu sẽ khiến tình trạng thiếu
nước dẫn đến xung đột nước ngày càng trở nên nghiêm trọng. Trên thế giới, mâu thuẫn về
nước là vấn đề mang tính thời sự và ngày càng trở nên gay gắt.
Hiện nay trên toàn thế giới có 263 lưu vực sông xuyên quốc gia thuộc 145 nước,
chiếm gần nửa diện tích lục địa. Ở Châu Âu có 69 lưu vực sông xuyên biên giới chiến
62% diện tích lưu vực so với diện tích châu l
ục, Châu Phi có 59 lưu vực sông xuyên biên
giới chiến 62% diện tích lưu vực so với diện tích châu lục, Châu Á có 57 lưu vực sông
xuyên biên giới chiến 39% diện tích lưu vực so với diện tích châu lục, Bắc Mỹ có 40 lưu
vực sông xuyên biên giới chiến 55% diện tích lưu vực so với diện tích châu lục, Nam Mỹ
có 38 lưu vực sông xuyên biên giới chiến 60% diện tích lưu vực so với diện tích châu lục.
Ngoài ra, trên toàn thế giới hiện có khoảng 274 t
ầng chứa nước dưới đất chảy xuyên biên
giới giữa các quốc gia.
Bảng 1. 1. Thống kê số lượng lưu vực sông xuyên biên giới
Tên châu lục Số lưu vực sông xuyên
biên giới
Tỷ lệ % diện tích lưu vực
so với diện tích châu lục
Châu Âu 69 62
Châu Phi 59 62
Châu Á 57 39
Bác Mỹ 40 55
Nam Mỹ 38 60
Nước chảy qua ranh giới các vùng - do đó “chảy” qua cả các ngành kinh tế, luật
pháp, chia cắt nền văn hoá và biên giới quốc gia – chính vì thế nó gây ra các mâu thuẫn
gay gắt giữa các hộ dùng nước trong khi tìm cách đạt được nguồn nước phục vụ cho lợi
ích của mình, bên cạnh đó yêu cầu bảo vệ môi trường tự nhiên cũng là một vấn đề quan
trọng. Trong khi đó, nguồn nước lại được khai thác trên tinh thần “giành giật” là chính,
không có một chiế
n lược nào được đề cập đến nhằm hòa giải sự cạnh tranh giữa các
ngành, điều này gây ra tranh chấp về tài nguyên nước ngày càng trở nên gay gắt ở Tây
Mỹ, Châu Phi, Trung Đông, Châu Á và khắp thế giới. Trong 60 năm qua trên thế giới đã
có 37 vụ xung đột giữa các quốc gia về nước. Trên 200 Hiệp ước thỏa thuận về nguồn
nước quốc tế giữa các quốc gia liên quan.
Sự thiếu hụt nướ
c ngày càng trầm trọng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề đối với thế
giới. Khan hiếm và ô nhiễm nước là nguyên nhân chính gây nên cái chết cho hàng chục
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 7
triệu người trên thế giới hàng năm. Thiếu hụt nước cũng dẫn đến nảy sinh mâu thuẫn,
tranh chấp trong sử dụng tài nguyên nước. Trên quan điểm phân vùng, có thể phân loại
mâu thuẫn dưới các dạng
1.1.1. Mâu thuẫn ở cấp độ quốc gia
Về mặt địa lý, chính trị, nước là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc đối đầu giữa
nhiều quốc gia, chẳng hạn giữa Thổ Nhĩ
Kỳ, Syria và Iraq để tranh giành nguồn nước của
2 con sông Tigre và Euphrates; giữa các nước cộng hòa Trung Á là Kazakhstan,
Ouzbékistan, Turkménistan và Kirghizistan để tranh giành nguồn nước 2 con sông Syr
Daria và Amor Daria; giữa Israel, Palestine, Syria, Jordania để tranh giành nguồn nước
sông Jourdania; giữa Ai Cập và Soudan để tranh giành nguồn nước sông Nil Về mặt kỹ
thuật là cả một chùm thách đố lớn lao để làm sao “bắt” được các nguồn nước ngày càng
tốt hơn. Về mặt sinh thái là làm sao xử lý các nguồn nước bị nhiễm bẩn do chính con
người tạo ra.
Mộ
t nguyên nhân chính gây nên tình trạng khan hiếm là các nguồn nước ngày càng
bị cạn kiệt trong khi đó tài nguyên nước lại phân bố không đều. Chẳng hạn có đến 60%
của tổng số 40.000 tỉ mét khối nước mưa đổ xuống mặt đất hàng năm lại nhắm vào 9 quốc
gia là Brazil, Nga, Trung Quốc, Canada, Indonesia, Ấn Độ, Colombia, Mỹ và Cộng hòa
dân chủ Congo. Trong khi đó nhiều nơi lại sốt lên vì thiếu nước. Còn theo tính toán của
các chuyên gia về môi trường nước củ
a Tập đoàn tư vấn quốc tế PWC thì chỉ trong vòng
thế kỷ 20, nhu cầu về nước đã tăng gấp 6 lần, trong khi dân số thế giới chỉ tăng 3 lần.
Riêng 2 thập niên 1980 và 1990, nhu cầu về nước đã tăng gấp 2 lần. Vì vậy nếu dân số thế
giới tăng đến 45% vào năm 2025 thì nhu cầu về nước sẽ tăng đến 50% so với hiện nay,
phần lớ
n được sử dụng trong nông nghiệp để sản xuất lương thực phục vụ 8,3 tỉ dân trên
thế giới.
Tất cả công cụ hệ thống quản lý được thiết lập nhằm điều phối việc khai thác các
con sông châu Á sao cho tất cả các bên đều không bị lợi dụng, chèn ép và không bị thiệt,
đến nay, đều không hiệu quả, từ Ủy ban Mê Công (1957); các hiệp ước Sarada (1920),
Kosi (1954), Gandak (1959) giữa Ấn Độ và Nepal; Hiệp
ước nguồn nước Indus giữa Ấn
Độ và Pakistan (1960); Hiệp ước sông Hằng giữa Ấn Độ và Bangladesh (1977); đến Thỏa
thuận sử dụng nước và năng lượng lưu vực Syr Darya giữa Kazakhstan và Uzbekistan
1.1.2. Mâu thuẫn ở cấp độ địa phương
Nước đang là vấn đề gây ra nhiều cuộc xung đột trên thế giới. Cho đến nay, đã có
khá nhiều cuộc đàm phán, thương lượng diễn ra nhằm mụ
c đích tìm lời giải cho các cuộc
tranh chấp nước quốc tế. Song, thực tế lại cho thấy các cuộc tranh chấp nguồn nước xảy ra
trong phạm vi quốc gia phổ biến hơn là những cuộc xung đột nước quốc tế.
Trong thập kỷ qua, những cuộc tranh luận về mặt chính sách đang ngày càng tăng
lên cùng với vấn đề khan hiếm nước và tranh chấp nguồn nước. Ở mức độ qu
ốc tế, đó là
các cuộc xung đột hay chiến tranh giữa các quốc gia cùng chia sẻ một nguồn nước. Còn ở
cấp quốc gia và địa phương, xung đột hay tranh chấp chủ yếu là do sự bất bình đẳng về
quyền sử dụng giữa các ngành khác nhau trên cùng lưu vực. Tuy nhiên, xung đột về nước
không chỉ là do vấn đề khan hiếm nước mà còn là do vấn đề quản lý và quyền sử dụng
nguồn nước đó.
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 8
Những cuộc xung đột liên quan đến nước ở địa phương xảy ra ngày càng nhiều hơn
những cuộc xung đột nước ở cấp quốc gia. Sự thiếu hụt các quy định pháp lý trong quyền
sử dụng và cấp nước địa phương là nguyên nhân chính về mặt thể chế và chính sách. Bên
cạnh đó, sự yếu kém trong cách quản lý ở mức độ địa phương cũng là nguyên nhân gây
xung đột. Tất cả những thi
ếu hụt đó đã gây nên tình trạng bất bình đẳng giữa các nhóm
dân cư. Những nhóm cộng đồng dễ bị tổn thương, họ là những người “thấp cổ bé họng” và
không có tiếng nói chính trị thường bị đẩy ra ngoài các nhóm có thế lực mạnh hơn.
Do đó, để giải quyết triệt để vấn đề này cần thiết phải phát triển một cách tiếp cận
hiệu quả đố
i với vấn đề cấp nước cho người nghèo, và cách tiếp cận này phải phát huy
được hiệu quả ở địa phương. Để đạt được điều đó, trong các chính sách và chương trình
cần đảm bảo các yếu tố về nguồn lực, sự tham gia của cộng đồng địa phương, có sự đền
bù thỏa đáng cho cộng đồng bị mất quyền sử dụng nguồn nước, xây d
ựng quy định kiểm
soát giá cả, chất lượng và số lượng nước cung cấp bởi các công ty tư nhân đồng thời xây
dựng các cơ chế giải quyết khi có xung đột xảy ra.
1.2. Giải quyết mâu thuẫn tài nguyên nước trên thế giới
Trong thông điệp nhân kỷ niệm Ngày nước Thế giới năm 2009, Tổng Thư ký Liên
hiệp quốc Ban Ki Moon có đoạn viết: “Phần lớn tài nguyên nước trên toàn cầu, dù ở trên
hay nằm dưới mặt đất cần được chia sẻ. Có tới 40% dân số trên thế giới đang sinh sống
trên một trong số 263 lưu vực sông quốc tế thuộc lãnh thổ của hai hay nhiều quốc gia. Mối
quan ngại về những nguy cơ bất hoà có hơi hướng vũ lực là yếu tố luôn được quan tâm tại
diễn đàn chia sẻ các tài nguyên nước có hạn. Hợp tác, chứ không phải là xung đột mới là
cách
ứng xử chung nhất cho tất cả những ai đang phải trực diện với những nhu cầu mang
tính cạnh tranh về nước”, trong bài viết cũng chỉ ra “Cho đến nay, tính trên toàn thế giới
đã có ít nhất 300 hiệp định, thoả thuận quốc tế, thường là giữa các bên có sự bất đồng.
Những hiệp định này thể hiện thế mạnh của các nguồn nước chung, đó là thúc đẩy hoà
bình và tăng cường tin c
ậy lẫn nhau. Với thiện chí chính trị, với một cơ chế chính sách
mền dẻo, thể chế vững mạnh và lối tiếp cận tổng hợp sẽ giúp chúng ta hoàn toàn có cơ sở
tin tưởng phấn đấu vì lợi ích của toàn nhân loại”.
Đối với tranh chấp trong sử dụng tài nguyên nước trong một quốc gia. Để giải
quyết vấn đề này đòi hỏi chính phủ ở mỗi quốc gia phải có ch
ế tài, cơ chế nhằm đảm bảo
mọi thành phần kinh tế, mỗi người dân đều được tiếp cận nguồn nước sạch, đảm bảo lợi
ích quốc gia là lớn nhất. Mặt khác các ngành sử dụng nước, các địa phương phải hợp tác
cùng nhau chia sẻ nguồn nước nhằm sử dụng nguồn nước có hiệu quả nhất.
Trước những nguy cơ thiếu hụt về
nước, chiến tranh xảy ra giữa các nước trong lưu
vực nhằm kiểm soát nguồn nước vv, cần có giải pháp để đảm bảo lợi ích của các bên. Xu
hướng đối thoại là giải pháp tối ưu để giải quyết các vấn đề này.
1.2.1. Trên lưu vực sông Nile
Lưu vực sông Nile là một lưu vực rộng lớn với chiều dài vào khoảng 6695 km,
nguồn nước của sông được cung cấp phầ
n lớn từ các con sông của Ethiopia, Ai Cập và
một số nước khác thuộc Châu Phi. Do kết quả của một loạt các thỏa thuận thời thuộc địa,
mục tiêu hàng đầu của Anh ở Đông Phi là bảo vệ Ai cập, do đó, Cairo có quyền hợp pháp
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 9
được khai thác 55,5 tỷ m
3
nước hàng năm từ sông Nile, trong khi Sudan được quyền có
18,5 tỷ m
3
còn lại. Tuy nhiên, tám nước còn lại trong lưu vực sông Nile là Ethiopia,
Eritrea, Uganda, Kenya, Tanzania, Uganda, Burundi và Cộng hòa dân chủ Congo đều nằm
ở thượng lưu tính từ Ai Cập. Hầu hết các nước này đã có ý kiến về khuôn khổ pháp lý hiện
tại không cho phép họ can thiệp vào dòng chảy của sông Nile, ít nhất về mặt lý thuyết.
Hiện nay, Uganda và Ethiopia đang dự kiến phát triển một loạt các dự án thủy điện mới.
Ban đầu, Ai Cập phản ứng quyết li
ệt những dự án đó, nhưng hiện nay đã bắt tay vào quá
trình xúc tiến hợp tác giữa mười nước lưu vực sông Nile. Có vẻ như Cairo nhận ra rằng
khó có thể chống lại việc triển khai các công trình thượng lưu và dường như các hiệp định
quốc tế làm cơ sở cho những dàn xếp hiện nay sẽ không đứng vững tại bất cứ tòa án quốc
tế nào bởi sự bất công vố
n có của chúng.
Việc phát triển dân số nhanh trong khu vực và sự khan hiếm nước lâu nay chính là
ngòi nổ xung đột tiềm tàng trong khu vực, nhưng tất cả các nước trong khu vực đã hiểu
rằng hợp tác là chính sách tốt nhất, chứ không phải là xung đột. “Sáng kiến Lưu vực Sông
Nile” (NBI) đã được thành lập nhằm hướng mọi sáng kiến khác tới việc hợp tác thủy lợi
trong lưu vực. Một trong những vai trò chủ đạ
o của NBI trong thời gian tới là đảm bảo tất
cả các quốc gia trong lưu vực được hưởng lợi từ các dự án đập thủy điện ở bất cứ quốc gia
nào trên lưu vực. Ví dụ, người ta cam kết cải thiện việc kết nối truyền tải giữa các nước
thành viên để điện được phát triển (kéo dài), chẳng hạn như Ethiopia có thể phân phối điệ
n
khắp khu vực.
1.2.2. Trên lưu vực sông Mê Công
Sông Mê Công là con sông lớn trên thế giới, nó chảy qua sáu quốc gia độc lập
Trung Quốc, Myanmar, Campuchia, Lào, Thái lan, Việt Nam. Đây là khu vực đang phát
triển, sự tăng trưởng trưởng dân số và việc công nghiệp hóa trong khu vực làm tăng nhu
cầu nước, cùng với việc chính phủ Trung Quốc tiếp tục xây đập mới tại thượng lưu con
sông dài 4.400 km dẫn tới chất lượng nước bị thay đổi, phù xa lắng đọng
ở thượng nguồn,
tình trạng ngập mặn ở hạ lưu diễn ra thường xuyên. Trước tình hình đó “Ủy ban Sông Mê
Công” được thành lập nhằm giải quyết những tranh chấp. Tuy nhiên, Trung Quốc và
Myanmar lại không tham gia vào Ủy ban. Điều này càng làm cho việc giải quyết tranh
chấp trở lên khó khăn.
1.2.3. Trên lưu vực sông Colorado
Sông Colorado là con sông chính ở vùng Tây Nam nước Mỹ, chảy trong một vùng
đất rộng khoảng 627.000 km
2
, qua các bang Wyoming, Colorado, Utah, New Mexico,
Arizona, Nevada và California.
Mức tăng dân số ở 3 tiểu bang Arizona, California, và Nevada trong vùng hạ lưu
sông Colorado thuộc hàng cao nhất ở Hoa Kỳ. Theo đà tăng dân số như hiện nay, tính đến
năm 2020, số dân cư trong vùng tùy thuộc vào nguồn nước do con sông cung cấp sẽ lên
đến 38 triệu người. Số dân sử dụng nguồn nước sống ở New Mexico theo dự đoán cũng sẽ
tăng khoảng 91% trong cùng khoảng thời gian. Để giải quyết mâu thu
ẫn trong sử dụng
nước của các bang trong lưu vực sông, Hiệp định Colorado hình thành với những điều
khoản về sử dụng nước. Tuy nhiên, nếu nhu cầu về nước dùng trong khu vực thượng lưu
con sông và lượng nước sử dụng cấp cho bang Arizona theo Hiệp Định Colorado tăng cao,
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 10
California sẽ mất đi cơ hội được sử dụng nguồn nước dành cho bang. Một vấn đề khác là
Hiệp Định Colorado được viết vào thời điểm mà các điều kiện về khí tượng, thủy văn là
không tiêu biểu cho vùng, và mực nước trung bình tính toán trong Hiệp Định là cao hơn
những con số khảo sát của các nghiên cứu mới đây. Vào năm 1945, New Mexico giành
được quyền sử dụng 42,5.10
3
m
3
nước mỗi năm từ sông Colorado - khoảng 10% lưu lượng
nước của con sông, con số này hiện nay là chủ đề chính của bản Hiệp Ước. Vào những
thời kỳ khô hạn, Hiệp Định cho phép cắt giảm lượng nước cấp cho cho New Mexico,
nhưng Hiệp Ước lại không định nghĩa rõ cụm từ "khô hạn". Tất cả các yếu tố này là điềm
báo về những xung đột trên vấn đề s
ử dụng nước trên lưu vực sông Colorado.
1.2.4. Trên lưu vực sông Tigre và Euphrate
Hai sông Tigre và Euphrate chảy qua ba quốc gia Syria, Iraq và Thổ Nhĩ Kỳ. Việc
phân chia nguồn nước của 2 con sông này luôn gây căng thẳng về quan hệ giữa 3 nước,
trong khi Thổ Nhĩ Kỳ cho xây dựng 32 con đập giữ nước ở thượng lưu sông Tigre và
Euphrate để tưới tiêu cho 50% diện tích trồng trọt của mình thì Syria chỉ nhận được 37%
lượng nước từ sông Euphrate, còn Iraq chỉ nhận đượ
c 24% lượng nước từ sông Tigre.
Điểm nóng này có thể bùng nổ tranh chấp quân sự bất cứ lúc nào do Thổ Nhĩ Kỳ luôn
phản đối việc Syria và Iraq cho xây dựng nhiều con đập giữ nước trên 2 con sông Tigre,
Euphrate để tưới tiêu trên lãnh thổ quốc gia mình theo quy định của một hiệp định về phân
chia nguồn nước được 3 nước ký kết và năm 1987 qua trung gian của Liên Hiệp Quốc.
1.2.5. Trên lưu vực sông Indus
Lưu vực sông Indus chảy qua đị
a phận hai nước Ấn Độ và Pakistan. Trên lưu vực
mâu thuẫn về sử dụng nước ngày càng trở nên trầm trọng do sự phát triển dân số và công
nghiệp ở cả hai bên biên giới. Chính phủ Ấn Độ ước tính rằng tới năm 2025 lượng nước
sẵn có tính theo đầu người tại nước này sẽ giảm xuống còn 1.500 m
3
, thấp hơn rất nhiều so
với dự đoán của Liên Hiệp Quốc là 1.700 m
3
, mà dưới ngưỡng này xung đột về nước sẽ nổ
ra. Dù có nhiều vấn đề căng thẳng giữa hai nước kể từ lúc chia tách, nhưng một trong
những thỏa thuận đạt được có ý nghĩa nhất đó chính là thỏa thuận về chia sẻ nguồn nước
hiện tại. Với trung gian giúp đỡ của Ngân hàng thế giới “Hiệp ước nước Indus” đã ra đời.
Theo thỏa thuận, Ấn
Độ được chia quyền kiểm soát các sông Beas, Ravi và Sutlej, trong
khi quyền kiểm soát các sông Chenab, sông Ấn và Jhelum nằm trong tay Pakistan. Dù Ấn
Độ được phép dùng nước từ ba con sông sau, nhưng họ không được phép thay đổi dòng
chảy của chúng bằng bất cứ cách nào, dù là chuyển nước hay tích nước. Thỏa thuận này
được “Ủy ban nước Indus” giám sát trong 45 năm qua.
1.2.6. Biển nước ngọt Aral
Tại những nước cộng hòa Trung Á trước đây thuộc Liên Xô, nhiều chương trình
tưới tiêu không hiệu quả
đã làm thất thoát một lượng nước ngọt lớn từ biển Aral khiến cho
diện tích của biển nước ngọt lớn nhất thế giới này bị giảm hơn một nửa (diện tích bề mặt
từ 67.000km
2
xuống còn 30.000km
2
). Không những bị giảm diện tích trữ nước, nước của
biển Aral còn bị ô nhiễm nặng nề khiến dân chúng không thể sử dụng được. Nguyên nhân
chính gây nên thảm họa sinh thái này là do 4 quốc gia Trung Á là Ouzbékistan,
Kazakhstan, Turkménistan và Kirghzistan đã thay nhau chuyển dịch nguồn nước của 2
con sông Amor Daria và Syr Daria, vốn là nguồn cung cấp nước chính cho biển Aral, để
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 11
tưới tiêu cho các cánh đồng trồng bông của mình. Trước tình trạng ngày càng bị khan
hiếm nước trầm trọng, cả 4 quốc gia này đều đổ lỗi cho nhau mà không đề ra được bất cứ
chương trình nào để cải tạo lại nguồn cung cấp nước cho biển Aral.
1.2.7. Trên lưu vực sông Lerma-Chapala
Lưu vực sông Lerma-Chapala ở Mexico nằm ở tây nam cao nguyên Altiplano, đây
là một vùng bán khô hạn nhưng nông nghiệp trong vùng là một ngành kinh tế quan trọng
đối với nề
n kinh tế của đất nước. Mặt khác, đây cũng là một vùng đô thị phát triển.
Theo hiến pháp của Mexico, Chính phủ đã tiến hành thu phí đối với tất cả các
ngành dùng nước trên toàn quốc. Do đó, tính công bằng đã trở thành "chìa khoá" cho sự
thành công của việc chia sẻ nguồn nước trên lưu vực sông Lerma-Chapala. Giải pháp quan
trọng là giao cho từng hộ sử dụng nước một "quyền được hưởng sự công bằ
ng" có thể
thoả mãn họ khi có mâu thuẫn xảy ra. Nói cách khác, giải pháp "thắng - thắng" là nhân
tố quan trọng để có thể giải quyết được các mâu thuẫn một cách lâu dài.
Từ các vấn đề nảy sinh trên lưu vực, Hội đồng Lưu vực sông đã xây dựng một mô
hình động lực học hệ thống. Mô hình có khả năng:
• Mô tả một hệ thống phức tạp như một th
ể thống nhất để có thể tiến hành thực hiện
các phân tích;
• Cho phép các hộ sử dụng nước trong một vùng có thể tính toán các lợi ích của họ
có thể đạt được và so sánh với các lợi ích của các hộ sử dụng nước trong các vùng
khác;
• Nó cung cấp các phân tích cần thiết để có thể xây dựng một chính sách phân bổ
nguồn nước chi tiết trong sử dụng nguồn nước hiệu quả trên lưu vự
c sông Lerma-
Chapala.
Như vậy, có thể thấy rằng, để giải quyết các mâu thuẫn về trong sử dụng tài nguyên
nước, ở nhiều quốc gia trên thế giới đã hình thành các chính sách, chiến lược lâu dài,
nhằm đạt được sự đồng thuận trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên một
lưu vực sông. Tuy nhiên, xét về mặt kỹ thuật, có thể nói rằng, hiện nay trên thế giới, chưa
có nhiều nghiên cứu xây dựng một b
ộ công cụ có thể hỗ trợ về mặt kỹ thuật để giải quyết
các tranh chấp giữa các hộ sử dụng nước trên lưu vực sông.
1.2.8. Hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước
Với sự tài trợ của UNESCO – IHP, K D W Nandalal, University of Peradeniya,
Peradeniya, Sri Lanka và Prof. Slobodan P. Simonovic, The University of Western
Ontario, Ontario, Canada (2003 – 2006) đã xây dựng Hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh
chấp (Conflict Resolution Support System) là một phần mềm
để hỗ trợ giải quyết các
tranh chấp trong quản lý tài nguyên nước. Các tác giả đã xây dựng một hệ thống máy tính
mô phỏng 3 dạng mâu thuẫn cơ bản trong sử dụng nước, đó là:
- Mâu thuẫn trong việc chia sẻ nguồn nước tưới và nước phục vụ cho sinh hoạt
- Mâu thuẫn giữa nước dành cho thủy điện và nước cung cấp cho sinh hoạt.
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 12
- Mâu thuẫn giữa việc phòng chống lũ cho hạ du và nhu cầu tưới.
Trên cơ sở tham khảo từ nghiên cứu này, nhóm thực hiện đề tài đã tiến hành xây
dựng một hệ thống hỗ trợ giải quyết về mặt kỹ thuật các tranh chấp về sử dụng tài nguyên
nước trên lưu vực sông.
Các mâu thuẫn được xem xét trong quá trình xây dựng hệ thống hỗ trợ này bao
gồm các mâu thuẫn giữa các ngành. Hiệ
n nay, cách tiếp cận nhằm giải quyết mâu thuẫn là
làm thế nào để tất cả các bên đều cùng có lợi và đều thấy thỏa mãn với yêu cầu của mình.
Do đó, hệ thống sẽ hỗ trợ dưới dạng để hai bên có thể cùng ngồi thảo luận, bên cạnh đó,
họ có thể xem xét lượng nước đến, khả năng đáp ứng nhu cầu của mình cũng như của hộ
đ
ang có tranh chấp với mình. Từ đó, mới dễ dàng đạt được thỏa hiệp từ phía các hộ sử
dụng nước.
1.3. Giải quyết mâu thuẫn tài nguyên nước ở Việt Nam
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển kinh tế xã hội đã nảy sinh một số
tranh chấp, mâu thuẫn tài nguyên nước của một số hệ thống xuyên quốc gia và một số hệ
thố
ng trong lãnh thổ Việt Nam.
Lưu vực sông Mê Công: Trên lưu vực sông Mê Công việc Trung Quốc xây dựng
hàng loạt con đập ở trên đầu nguồn sông Mê Công là hiểm họa lớn nhất đối với tương lai
của sông Mê Công - một trong những con sông lớn trên thế giới và là nguồn nước quan
trọng đối với khu vực. Hiện Trung Quốc đang xây 8 đập nước khổng lồ trên dòng chính
của sông Lan Thương - tên Trung Quốc của sông Mê Công. Dân cư các nước hạ ngu
ồn
trong đó có Việt Nam bị ảnh hưởng tức thời như lượng cá tôm giảm sút, nhiều đoạn sông
cạn nước, tàu thuyền không lưu thông được.
Việc xây dựng các con đập sẽ làm gia tăng sức ép đối với sông Mê Công và mạng
lưới nhánh phụ khổng lồ của con sông này - vốn đang phải đối mặt với những hiễm họa do
ô nhiễm, biến đổi khí hậu. Những thay đổi v
ề lưu lượng và thời gian dòng chảy làm giảm
chất lượng nước và mất đi tính đa dạng sinh học.
Đối với đồng bằng sông Cửu Long, các đập thủy điện của Trung Quốc chặn dòng
chảy tạo điều kiện cho nước biển xâm nhập mặn, làm hạn chế nước ngọt cho canh tác;
Việc xây dựng các đập thuỷ điện của Trung Quốc ở phía thượ
ng nguồn gây mâu thuẫn với
nhu cầu dùng nước và môi trường sinh thái của các nước phía hạ nguồn. Tại hội nghị
chuyên đề lần thứ 6 của Ủy hội sông Mê Công tổ chức vào năm 2003 tại Vientiane có
tham luận khẳng định: “Bất kỳ đập nước nào trên dòng chính sông Mê Công cũng đều có
hại cho sản xuất và đời sống các nước…”.
Lưu vực sông Hồng: Lưu vực sông Hồng gồm dòng chính sông Hồng (chả
y xuyên
qua biên giới hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam) và những sông suối phụ cận, trong
những năm trở lại đây cùng với việc khai thác quặng ở phía thượng nguồn của một số suối
thuộc lưu vực sông Hồng đã gây ô nhiễm nghiêm trọng phía hạ nguồn, trong đó suối Đỏ là
một ví dụ điểm hình. Việc khai thác quặng phía thượng nguồn suối Đỏ (thuộc phần lãnh
thổ
Trung Quốc) đã làm ô nhiễm nguồn nước phần hạ nguồn suối Đỏ, nước ô nhiễm từ
đây đổ vào sông Chảy rồi ra nhập vào hệ thống sông Hồng.
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 13
Ô nhiễm nguồn nước suối Đỏ gây ảnh hưởng đến toàn bộ môi trường nước suối
Đỏ; hầu như trên suối này không thấy tồn tại loài thuỷ sinh nào sinh sống, nước ở suối Đỏ
không thể sử dụng cho sinh hoạt hay phục vụ sản xuất nông nghiệp của dân cư thuộc các
xã, bản Máy, Xín Mần, Hoàng Su Phì. Theo phản ánh của dân cư sinh sống hai bên bờ
suối, có những ngày nước suối Đỏ
đen ngàu và thối, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời
sống của dân cư sinh sống hai bên bờ suối.
Sự khai thác quặng phía thượng nguồn ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước suối
Đỏ gây mâu thuẫn với nhu cầu dùng nước và môi trường sinh thái phía hạ nguồn.
Lượng nước trên phần lưu vực sông Hồng thuộc Trung Quốc chảy về nước ta cũng
có những thay đổi nhất
định về chế độ; trong cuối năm 2006 đầu năm 2007 lượng nước
thiếu hụt khá rõ và biến động phi tự nhiên nên lượng nước về các hồ chứa Hòa Bình,
Tuyên Quang (và cả lượng nước về Việt Nam theo sông Thao) bị ảnh hưởng lớn.
Thực tế, số liệu quan trắc tại các trạm thủy văn Mường Tè, vùng thượng lưu sông
Đà và trên sông Lô tại Hà Giang về mùa cạn những năm gần đây c
ũng thể hiện các dấu
hiệu cho thấy mức độ khai thác mạnh mẽ TNN vùng thượng lưu sông Hồng hiện nay trong
phần lãnh thổ Trung Quốc.
Việc tích nước từ các hồ chứa thủy điện ở thượng nguồn dẫn đến nguồn nước ở hạ
lưu sông Hồng đang bị cạn kiệt quá mức,dù không phải năm hạn. Lần đầu tiên trong lịch
sử, hi
ện tượng sông Hồng gần như trơ đáy đã xuất hiện.
Lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn: Lưu vực sông Vu Gia là một trong những lưu vực
sông liên tỉnh lớn của VN. Từ 2005, Bộ Công nghiệp đã quy hoạch xây dựng trên hệ
thống sông Vu Gia đến 7 thuỷ điện bậc thang, đều nằm trên địa bàn Quảng Nam. Trong
đó, 6 thuỷ điện thiết kế theo nguyên tắc trả nước về
dòng cũ. Riêng thuỷ điện Đăk Mi4 -
tại huyện Phước Sơn chuyển nước từ sông Vu Gia sang sông Thu Bồn. Với thiết kế này,
hơn 1.850km2 diện tích của lưu vực sông Vu Gia (kể từ đầu nguồn đến Ái Nghĩa, huyện
Đại Lộc, Quảng Nam) chịu ảnh hưởng. Trên 40.000 người dân cùng hàng chục nghìn
hécta lúa, hoa màu thuộc các huyện Đại Lộc, Điện Bàn của Quảng Nam và Hoà Vang của
Đà Nẵng sẽ bị
thiếu nước, trong đó có Nhà máy nước Cầu Đỏ - cấp nước chính cho TP.
Đà Nẵng sẽ phải ngừng vận hành do bị nhiễm mặn.
Lưu vực sông Ba: Vấn đề chuyển nước sông Ba sang sông khác đã gây những tác
động đáng kể đến dòng chảy xuống hạ du. Ngoài ra vấn đề vận hành các nhà máy thủy
điện trong mùa lũ cũng gây tác động không nhỏ, làm gia tăng thiệt hại do lũ cho các khu
dân cư ở h
ạ du. Ngày 2 tháng 11 năm 2009, khi bão Mirinae đổ bộ vào Phú Yên gây mưa
rất to thì hồ thủy điện Sông Ba Hạ xả với lượng nước lớn. Mưa gây lũ lớn, kết hợp với
việc xả lũ tại thuỷ điện sông Ba Hạ đã nhấn chìm thị xã Sông Cầu và nhiều vùng ở huyện
Tuy An. Việc xả lũ của thuỷ điện sông Ba Hạ khi nước lũ dâng cao là do chưa có quy chế
điều tiết liên hồ, khi các hồ phía thượng nguồn xả lũ thì hồ phía hạ nguồn không thể tự
điều tiết lũ. Để đảm bảo công trình thuỷ điện sông Ba Hạ buộc xả lũ gây gập trên diện
rộng.
Ở Việt Nam hiện nay, nhằm hoàn thiện thêm về các chính sách và văn bản pháp lý,
gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 112/2008/NĐ-CP Về quản lý, bảo vệ
, khai
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 14
thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ chứa thủy điện, thủy lợi và Nghị định
120/2008/NĐ-CP Về quản lý lưu vực sông. Trong Nghị định đã nêu rõ nội dung của quản
lý lưu vực sông là cần có xây dựng quy hoạch lưu vực sông bao gồm Quy hoạch phân bổ
tài nguyên nước; Như vậy, có thể thấy rằng, Chính phủ đã từng bước hoàn thiện các văn
bản pháp lý nhằm thực hi
ện việc chia sẻ, phân bổ tài nguyên nước hợp lý. Mặc dù, hiện
nay chưa có quy hoạch lưu vực sông nào được phê duyệt, nhưng có thể thấy rằng, vẫn đề
quản lý, giải quyết mâu thuẫn trong khai thác sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông đang
được quan tâm sâu sắc. Chia sẻ, phân bổ tài nguyên nước là một nội dung quan trọng của
quy hoạch tài nguyên nước của lưu vực sông nhằm giải quyết các cạnh tranh trong sử
dụng nước. Đối với các lưu vực sông có tài nguyên nước dồi dào, phong phú, nhưng nhu
cầu sử dụng nước còn ít so với tiềm năng, thì vấn đề chia sẻ, phân bổ tài nguyên nước
chưa thật bức xúc. Tuy nhiên, đối với lưu vực sông khan hiếm nước thì vấn đề chia sẻ,
phân bổ tài nguyên nước là vô cùng cần thiết để làm giảm nhẹ các mâu thuẫn và xung
khắc trong sử dụng nước, khắc phục suy thoái nguồn n
ước và duy trì ổn định môi trường
của dòng sông. Giải quyết tốt vấn đề chia sẻ, phân bổ tài nguyên nước của lưu vực sông sẽ
góp phần bảo vệ quyền dùng nước chính đáng của người dùng, đem lại công bằng xã hội
và bền vững về môi trường.
Lưu vực sông Ba không phong phú về tài nguyên nước và nhu cầu sử dụng nước
không ngừng tăng lên những năm gần đây, nên đ
ã nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong sử dụng
nước, và trong một số trường hợp, mâu thuẫn trong sử dụng nước đã rất bức xúc đòi hỏi
phải có biện pháp giải quyết.
Năm 2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hoàn thành giai đoạn 1 dự án xây
dựng “Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông Ba”. Hiện nay, Bộ đang tiến hành các thủ
tục cần thiết để phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước lư
u vực sông Ba, trong đó có nội
dung quy hoạch chia sẻ, phân bổ tài nguyên nước. Khi Quy hoạch chính thức phê duyệt,
chính phủ sẽ có một công cụ về mặt pháp lý để thực hiện quản lý lưu vực sông. Bên cạnh
đó, cũng cần có những công cụ về mặt kỹ thuật. Trước tiên, cần có công cụ hỗ trợ ra quyết
định bao gồm hệ thống các mô hình phục vụ công tác quản lý. Một công cụ khác, nhằm hỗ
trợ cho việc giải quyết mâu thuẫn đó chính là hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh chấp về tài
nguyên nước. Hệ thống này phải được vận hành dựa trên những ràng buộc chặt chẽ về mặt
pháp lý bởi cơ chế chia sẻ, phân bổ nguồn nước. Mặc dù những ràng buộc về mặt pháp lý
này chính là cơ sở chắc chắn buộc các ngành dùng nước phải tuân thủ, nhằm tránh đượ
c
những tác động xấu đến tài nguyên nước. Tuy nhiên, không phải lúc nào người dân cũng
tuân thủ theo những quy định này, cần thiết phải có công cụ hỗ trợ đàm phán giữa các hộ
sử dụng nước, nhằm đi đến thỏa thuận về chia sẻ nguồn nước trong trường hợp dòng chảy
đến không đáp ứng được các nhu cầu. Trên cơ sở này, nhóm thực hiện đề tài đã tiến hành
xây dựng h
ệ thống hỗ trợ về mặt kỹ thuật nhằm trợ giúp cho các nhà quản lý có thể giải
quyết các mâu thuẫn tiềm tàng có thể xảy ra trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên
nước, đặc biệt chú trọng mâu thuẫn giữa các hộ sử dụng. Công cụ cũng chỉ xác định hỗ trợ
về mặt kỹ thuật, do vậy, các phân tích tối ưu, chỉ đánh giá trên cơ sở phân tích về nguồn
nướ
c. Để có thể sử dụng hiệu quả, cần có sự kết hợp với các phân tích về kinh tế, để kiến
nghị được phương án sử dụng có lợi nhất về mọi mặt.
Việc nghiên cứu xây dựng hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước
lưu vực sông ở Việt Nam còn là một vấn đề mới. Hiện nay, chưa có một nghiên cứ
u nào
xây dựng hệ thống này. Cho đến nay, mới chỉ có một số nghiên cứu liên quan đến sử dụng
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 15
các công cụ riêng rẽ trong DSS (Hệ thống hỗ trợ ra quyết định) để quản lý tổng hợp tài
nguyên và môi trường cho lưu vực sông. Tuy nhiên, có thể nói rằng ở Việt Nam, chưa có
một nghiên cứu nào xây dựng một hệ thống hỗ trợ ra quyết định hoàn chỉnh cho một LVS.
Hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước chỉ là một hợp phần của một
DSS. Chính vì vậy, trên l
ưu vực sông Ba, khi Quy hoạch Tài nguyên nước được phê
duyệt, Tổ chức lưu vực sông được thành lập, cần thiết phải xây dựng một DSS hoàn chỉnh,
từ đó kết nối với Hệ thống hỗ trợ giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước để có thể giải
quyết được các mâu thuẫn về khai thác, sử dụng tài nguyên nước một cách khoa học và có
tính pháp lý cao.
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 16
CHƯƠNG II
ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN LƯU VỰC SÔNG BA
2.1 . Vị trí địa lý
Lưu vực sông Ba thuộc vùng Nam Trung bộ, là một trong những con sông lớn nhất
vùng ven biển miền Trung. Lưu vực sông có dạng dài và hẹp với tổng diện tích tự nhiên
khoảng 13900 km
2
(nếu tính cả nhánh sông Bàn Thạch thì là 14132 km
2
), nằm trong phạm
vi ranh giới hành chính của 3 tỉnh Gia Lai, Đăk Lăk và Phú Yên với 1 thành phố và 22
huyện:
− Tỉnh Gia Lai gồm các huyện: Kbang, thị xã An Khê, Đăk Pơ, Kông Chro, Đăk
Đoa, Mang Yang, Chư Sê, Ayun Pa, Ia Pa, Krông Pa;
− Tỉnh Đăk Lăk là: Ea Hleo, Krông HNăng, Ea Kar, Krông Buk, Ma Đrăk;
− Tỉnh Phú Yên là: TP Tuy Hòa, Đồng Xuân, Tuy An, Phú Hòa Sơn Hòa, Sông
Hinh, Tây Hòa, Đông Hòa.
Vị trí địa lý của lưu vực ở vào khoảng 12
o
55’ đến 14
o
58’ vĩ độ Bắc và 108
o
00’ đến
109
o
55’ kinh độ Đông, phía bắc giáp với lưu vực sông Sê San và sông Trà Khúc, phía nam
giáp với lưu vực sông Cái (Nha Trang) và sông Srêpôk, phía tây giáp với lưu vực sông Sê
San và sông Srêpôk, phía đông giáp với lưu vực sông Kôn, sông Kỳ Lộ và biển Đông.
2.2 . Đặc điểm địa hình
Nhìn tổng quan lưu vực sông Ba với đại bộ phận diện tích nằm ở phía Đông Nam
dãy Trường Sơn, nhưng ảnh hưởng của dãy đến khu vực này đã yếu d
ần và được thay thế
bằng phông chung của nền cấu trúc khối tảng cao nguyên.
Phần thượng lưu của lưu vực sông, chủ yếu là các nhánh núi bị chia cắt mạnh bởi
các dòng chảy thường xuyên và tạm thời với hướng địa hình chính kéo dài theo hướng á
kinh tuyến. Chiều dài phần trung lưu của lưu vực sông rất ngắn và có xu hướng như là
thực thể địa hình đồi núi trung bình, thấp phân cắt với phần h
ạ lưu dưới dạng chuyển tiếp
các bậc địa hình. Điều này làm cho sông gần như không có phần trung lưu, nước từ
thượng lưu đổ thẳng xuống vùng đồng bằng ven biển. Trên bề mặt đồng bằng này được
cấu thành bởi những gò đồi sót của các bề mặt địa hình cổ hơn bị bóc mòn, cùng với
những bậc thềm, bãi bồi, đụn cát, cồn cát nguồn gố
c biển, gió biển, sông-biển và sông.
Ngoài ra do tính định hướng của các nhánh núi đâm ngang ra biển, đặc biệt là ở phía Tây,
Tây Nam lưu vực nên dòng sông bị đổi hướng khá nhanh, từ chảy gần như hướng á vĩ
tuyến, qua sang gần như á kinh tuyến tại đoạn sông đi qua Ea Ba đến cửa Đà Rằng.
Nhìn chung, do chi phối bởi yếu tố các nhánh núi chạy sát ra biển, cùng với các
dòng sông trẻ đang đào sâu lòng thành những hẻm vực nên mặ
c dù diện tích lưu vực chủ
yếu là đồi núi thấp và trung bình, nhưng tính tương phản của địa hình khá lớn. Đặc điểm
đó của địa hình lưu vực được phản ánh thông qua các chỉ số về phân tầng độc cao, độ chia
cắt ngang, phân cắt sâu và độ dốc của địa hình.
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 17
Hình 2. 1 Bản đồ hành chính và mạng lưới sông suối lưu vực sông Ba
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 18
2.2.1 Tính phân tầng độ cao của địa hình
Nét nổi bật của địa hình khu vực nghiên cứu là tính phân tầng độ cao tạo thành các
vành đai liên tục, nhưng cũng bị phức tạp hóa do hoạt động cắt xẻ, mài mòn và phá hủy
cấu trúc ban đầu của hệ thống dòng chảy.
Với quy mô lưu vực trung bình, có dòng chảy đổ thẳng ra biển, nên độ cao địa hình
thấp nhất trùng với 0 m lục địa và coi như trùng vớ
i đường bờ biển hiện tại; điểm cao nhất
thuộc khu vực đường chia nước với lưu vực sông Đak Bla ở phần thượng nguồn sông,
thuộc huyện An Khê trong đó có một loạt các đỉnh cao trên 1000 m và cao nhất là đỉnh
Kon Ka Kinh cao 1748 m.
Trong phạm vi lưu vực sông Ba, qua các tài liệu tham khảo có thể thấy tồn tại các
bậc địa hình sau:
− Bậc I (có độ cao 1500 ÷ 1700 m): Mực địa hình này phát triển rất hạn ch
ế, chỉ
quan sát thấy ở khu vực Tây Bắc thượng nguồn lưu vực, trong phạm vi khối núi
Kon Ka Kinh (1748 m) kéo dài xuống phía Nam tới khối núi Kon Boria (1502
m) dưới dạng đường chia nước dạng răng cưa của khối này hay các đỉnh núi
đơn độc.
− Bậc II (có độ cao dao động từ 800 ÷ 1200 m): Đây là bậc địa hình khá phổ biến
ở thượng nguồn và phần đỉnh của một số nhánh núi phân thủy đâm ngang ra
biể
n. Chúng tạo nên một mực địa hình rộng với độ cao 800 ÷ 900 m ở phần cuối
của thượng lưu lưu vực và cao dần lên thành bậc chuyển tiếp với bậc I kể trên.
− Bậc III (có độ cao dao động từ 400 ÷ 700 m): Phân bố rộng rãi nhất dưới dạng
bề mặt trũng trước núi bằng thoải ở khu vực chi lưu Ea Krông Hnăng, còn ở Ya
Hleo, Ayun Pa chúng thể hiện dưới dạng bề m
ặt bazan bằng rộng. Ngoài ra mực
địa hình này còn quan sát thấy ở dạng các bề mặt đỉnh không liên tục thành
vành đai kéo dài dọc thung lũng sông Ba và sông Ayun.
− Bậc IV (có độ cao phổ biến từ 200 ÷ 250 m): Phân bố ở phần trung lưu của lưu
vực. Trong địa hình hiện tại chúng là những bề mặt san bằng của địa hình đồi
cao, hoặc bề mặt chia nước của các lưu vực cấp II, cấp III; liên hệ vớ
i nhày
bằng chuỗi các chỏm đồi hoặc dãy đồi ngăn cách nhau bởi các yên ngựa uốn
lượn mềm mại.
− Bậc V (có độ cao trung bình từ 100 ÷ 150 m): Trong địa hình hiện tại là bề mặt
của các đồi và dãy đồi.
− Bậc VI (có độ cao từ 10 ÷ 30 m): Đóng vai trò chuyển tiếp từ địa hình đồng
bằng lên vùng đồi núi và chúng chính là các bề mặt thềm sông, thềm biển phân
bố khá rộng rãi.
− Bậc VII (có
độ cao < 10 m): Bao gồm toàn bộ địa hình đồng bằng. Trong thực
tế mực này có thể chia ra thành 2 phục bậc:
+ Phụ bậc VIIa (5 ÷ 10 m): Mang tính chất của đồng bằng cao, ít chịu tác
động của biển và lũ lụt.
+ Phụ bậc VIIb (< 5 m): Mang tính chất của đồng bằng thấp, còn chịu
nhiều ảnh hưởng từ hoạt động của sông, biển và nhất là lũ lụt.
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 19
Như vậy địa hình lưu vực có sự phân bậc khá rõ. Tính phân bậc của địa hình phù
hợp với tính phân bậc chung của địa hình địa khối Kon Tum và Trường Sơn Nam. Mỗi
bậc địa hình lớn đều tương ứng với một chu kỳ địa mạo và được đặc trưng bởi các bề mặt
san bằng tương ứng.
2.2.2 Đặc điểm chia cắt ngang của địa hình
Thuộc tính phân c
ắt ngang (chia cắt ngang) của địa hình là thể hiện giá trị độ dài
của dòng chảy thường xuyên và tạm thời trên một đơn vị diện tích. Theo những tài liệu
tham khảo đã phân chia vùng nghiên cứu thành những khu vực có các cấp độ chia cắt
ngang sau (mức độ chia cắt ngang tính theo đơn vị km/km
2
):
− Hầu như không bị chia cắt (< 0,5)
− Chia cắt ngang yếu (0,5 ÷ 1,5)
− Chia cắt ngang trung bình (1,5 ÷ 3,0)
− Chia cắt ngang mạnh (> 3,0)
Có thể thấy rằng những vùng được phân chia này mang tính quy luật chung và bao
gồm những đặc điểm sau:
− Địa hình hầu như không bị chia cắt chỉ phân bố ở vùng cát ven biển.
− Địa hình bị chia cắt yếu ở vùng núi.
− Địa hình bị chia cắt ngang trung bình tập trung
ở vùng đồi, đồng bằng và bề mặt
trũng trước núi ở phía Tây Nam lưu vực.
− Địa hình bị chia cắt ngang mạnh tập trung thành cụm, điểm trên đồng bằng
thấp.
2.2.3 Đặc điểm phân cắt sâu của địa hình
Đây là thuộc tính thể hiện giá trị về độ chênh cao của địa hình trên mộ đơn vị diện
tích và nó cũng như độ dốc được gián tiếp th
ể hiện qua thuộc tính năng lượng của địa
hình. Việc thành lập bản đồ phân cắt sâu địa hình đã phân chia vùng nghiên cứu thành
những khu vực với các cấp độ phân cắt sâu khác nhau như sau (mức độ chia cắt ngang tính
theo đơn vị m/km
2
):
− Hầu như không bị chia cắt (< 10)
− Chia cắt sâu yếu (10 ÷ 20)
− Chia cắt sâu trung bình (20 ÷ 100)
− Chia cắt sâu mạnh (100 ÷ 300)
− Chia cắt sâu rất mạnh (> 300)
Nhìn chung độ chia cắt sâu địa hình lưu vực có những đặc điểm sau:
Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ 20
− Mức độ chia cắt sâu mạnh và rất mạnh chiếm diện tích lớn và thuộc về miền núi
của lưu vực.
− Mức độ chia cắt sâu trung bình chiếm tỉ lệ diện tích hạn chế dưới dạng vùng đồi
chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng.
− Mức độ chia cắt sâu yếu và hầu như không bị chia cắt chiếm tỉ lệ diện tích
không lớn.
Tuy vậy, ở khu vực miền núi nơi mà những dòng sông suối cắt xẻ vào bề mặt cao
nguyên bazan thì tại đó có sự biến động mạnh về độ chia cắt sâu, từ những giá trị rất lớn ở
phần sườn dốc xuống đáy thung lũng, máng trũng với hình thái dạng hẻm vực tới giá trị
khá nhỏ trên bề mặt cao nguyên.
2.2.4 Đặc điểm độ d
ốc địa hình
Vùng nghiên cứu có thể được phân chia thành các khu vực với các cấp độ dốc sau
(đơn vị độ góc):
− Hầu như nằm ngang (<3)
− Nghiêng thoải (3 ÷ 8)
− Dốc nghiêng (8 ÷ 15)
− Dốc (15 ÷ 25)
− Rất dốc (> 25)
Độ dốc lưu vực có sự biến đổi đột ngột rõ rệt, từ rất thoải ở vùng đồng bằng ven
biển, các bậ
c thềm sông biển đến rất dốc tại các hẻm vực, sườn dốc ở vùng núi. Thậm chí
có rất nhiều nơi ở miền núi Tây Bắc lưu vực có độ dốc lên đến trên 40
o
.
Ngoài những đặc điểm độ dốc trên vừa nêu, thì cũng phải đề cập đến vai trò độ dốc
nghiêng thoải tại các bề mặt phủ bazan cao nguyên và trũng bằng thoải trước núi trong
vùng nghiên cứu.
2.3 . Đặc điểm thổ nhưỡng
Điều kiện phát sinh và thành tạo đất cùng các quá trình thoái hóa đất đã hình thành
ở lưu vực sông Ba lớp phủ thổ nhưỡng đa dạng thuộc hai tổ h
ợp đất thủy thành và địa
thành.
Tổ hợp đất thủy thành là các đất hình thành trên sản phẩm bồi tụ của sông suối,
biển, hồ. Mẫu chất bồi tụ là những sản phẩm bị cuốn trôi theo nước và lắng đọng bồi tụ
chọn lọc. Có thể nói tổ hợp đất này gắn kết chặt chẽ với hệ thống sông và phần lớn chịu
hậu qu
ả của lũ lụt. Tổ hợp thủy thành của hệ thống sông Ba gồm 4 nhóm đất chính là:
- Nhóm đất cát biển: Bao gồm các cồn cát và bãi cát ven biển cửa sông của đồng
bằng Tuy Hòa. Hiện nay đất cát và các cồn cát ở hạ lưu sông Ba một số đã được trồng
rừng phi lao phòng hộ, trồng dừa, cây ăn quả và rau màu năng suất thấp. Đại bộ phận đất
cát biển bằng và cồn cát còn hoang tr
ống.