Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Nghiên cứu giải pháp đắp đê bằng vật liệu địa phương và đắp đê trên nền đất yếu từ quảng ninh đến quảng nam quy định về công duy tu bảo dưỡng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.74 KB, 17 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆN KHOA HỌC THUỶ LỢI VIỆT NAM







BÁO CÁO TỔNG KẾT CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU
QUY ĐỊNH VỀ CÔNG DUY TU BẢO DƯỠNG


THUỘC ĐỀ TÀI:

NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẮP ĐÊ BẰNG VẬT LIỆU ĐỊA PHƯƠNG VÀ ĐẮP TRÊN
NỀN ĐẤT YẾU TỪ QUẢNG NINH ĐẾN QUẢNG NAM

Mã số: 05 Thuộc chương trình: NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂ
Y
DỰNG ĐÊ BIỂN VÀ CÔNG TRÌNH THUỶ LỢI VÙNG CỬA SÔNG VEN BIỂN
Chủ nhiệm đề tài: PGS. TS Nguyễn Quốc Dũng
Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam









7579-25
22/12/2009

Hà Nội 2009


1
Mục lục
1. Quy định chung 2

2. Tuần tra và bảo vệ đê biển trong mùa mưa lũ 2
3. Bảo dưỡng và sửa chữa công trình 3
4. Hướng dẫn duy tu, sửa chữa và xử lý sự cố đê 5

2
QUY ĐỊNH VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ, DUY TU VÀ BẢO DƯỠNG
1. Quy định chung
1.1. Phạm vi bảo vệ của đê biển là từ chân đê trở ra 100m về phía biển và 200 m về phía
đồng;
1.2. Đê biển được đầu tư xây dựng xong phải bàn giao cho cơ quan quản lý khai thác theo
quy định hiện hành.
Đê biển từ cấp III trở lên do lực lượng chuyên trách quản lý, dưới cấp III do lực lượng
quản lý đê nhân dân quản lý.
UBND các cấp có nhiệ
m vụ tổ chức thực hiện hộ đê ở địa phương mình để đảm bảo an
toàn cho đê theo tiêu chuẩn kỹ thuật.
1.3. Khi đê hư hỏng và sự cố cần quán triệt nguyên tắc:
- Phát hiện sớm, phân tích đúng nguyên nhân, xử lý đúng kỹ thuật ngay từ lúc
phát hiện các biểu hiện hư hỏng, không để phát triển và diễn biến phức tạp;
- Khi chọn các biện pháp xử lý và ti

ến hành xử lý phải đảm bảo các yêu cầu.
Giảm áp lực nước thấm, tạo điều kiện cho nước thấm thoát ra được dễ dàng, ngăn chặn
đất cát ở thân đê và nền đê chảy ra ngoài;
- Khi tổ chức xử lý phải quán triệt phương châm tự cứu là chính, tại chỗ là
chính, tích cực chủ động cứu nguy cơ cho đê trong mùa mưa lũ;
Bên cạnh các biên pháp chính cần có biện pháp phụ để
hỗ trợ. Phải chuẩn bị
đầy đủ vật liệu để đảm bảo thi công liên tục, và chủ động đề phòng những tình huống
xấu có thể xẩy ra.
Sau mưa lũ phải tiến hành khảo sát, đánh giá lại các nguyên nhân để tiến hành
xử lý triệt để, để đảm bảo an toàn lâu dài.
2. Tuần tra và bảo vệ đê biển trong mùa mưa lũ
1.4. Nguyên tắc:
Mọi sự cố
của công trình đê trong mùa mưa lũ đều có dấu hiệu báo trước, diễn biến từ
nhỏ đến lớn. Nếu không được phát hiện sớm và xử lý kịp thời thì từ những hư hỏng
nhỏ sẽ nhanh chóng phát triển, có thể gây nên những hiểm hoạ.
Công tác tuần tra bảo vệ công trình đê trong mùa mưa lũ có ý nghĩa kinh tế và
kỹ thuật to lớn:
- Ban đầu hư hỏng nhỏ, kỹ
thuật xử lý đơn giản và không tốn vật liệu và công;
- Xử lý kịp thời ngay từ giờ phút đầu chất lượng của công trình sẽ không bị
giảm.
1.5. Những yêu cầu công tác tuần tra, bảo vệ công trình đê trong mùa mưa lũ:
Công tác tuần tra, bảo vệ đê trong mùa mưa lũ phải đạt được các yêu cầu sau đây:

3
- Phải tiến hành một cách khẩn trương và tỷ mỷ trong bất kỳ điều kiện thời tiết
nào;
- Tất cả các điểm gần cũng như xa, đều phải được xem xét phát hiện kịp thời

ngay những biểu hiện đáng nghi ngờ;
- Các hư hỏng dưới đê, dù lớn hay nhỏ, dù bình thường hay nguy hiểm, đều
phải được theo dõi thường xuyên. Tuỳ mức độ nguy hiể
m mà sử dụng biện pháp thích
hợp, tổ chức xử lý kịp thời;
- Đơn vị làm nhiệm vụ tuần tra phải được trang bị đầy đủ dụng cụ và phương
tiện cần thiết;
- Mỗi điểm canh đê cần chuẩn bị sẵn một dụng cụ thông thường như cuốc,
xẻng, quang gánh, xe cải tiến, đèn và một số vật liệu cầ
n thiết dùng để xử lý cát thô,
sỏi, đá lát, đá dăm, , và các dụng cụ hàn khâu vải, ;
- Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ tuần tra bảo vệ đê đã quy định.
1.6. Phương pháp tuần tra:
Để đạt được các yêu cầu đã nêu ở trên, công tác tuần tra cần tiến hành như sau:
- Phân công cụ thể, trách nhiệm rõ ràng, mỗi người phụ trách một bộ phận công
trình. Người quan sát phát hiện đánh dấu vị trí hư h
ỏng ở mái đê phía đồng; người
quan sát phát hiện đánh dấu các vị trí hư hỏng ở mặt đê và mái đê phía biển.
Người chịu trách nhiệm chung ghi chép tình hình, sơ hoạ vị trí hư hỏng vào sổ
tuần tra. Sau mỗi đợt tuần tra phải báo cáo đầy đủ lên cấp trên, và bàn giao tỷ mỷ cho
kíp sau.
Ở những đoạn đê có công trình qua đê như cống, phai chắn, , phải được xem
xét tỷ mỷ
, nhất là ở chỗ tiếp giáp đê với công trình, tình hình làm việc của bộ phận
đóng mở, mức độ kín nước, hiện tượng mạch đùn, lở sủi ở sau công trình.
Phải thực hiện nghiêm túc chế độ bàn giao giữa các kíp và chế độ báo cáo đã
được quy định.
3. Bảo dưỡng và sửa chữa công trình
Công tác bảo dưỡng và sử chữa công trình cần tién hành định kỳ, nhằm đảm bảo chất
l

ượng công trình gồm các bước sau:
1.7. Kiểm tra, giám sát trạng thái làm việc của công trình và sự thay đổi điều kiện thuỷ lực:
1. Kiểm tra định kỳ:
Tiến hành một đến hai lần trong năm trên cơ sở các yếu tố sau:
- Mật độ và cường độ bão có thể xẩy ra trong khu vực (dự báo theo tính chất mùa của
từng khu vực);
- Tầm quan trọng và vị trí chiến lược chung của công trình;
- Tuỳ vị trí và tầm quan trọng của bộ phận công trình cần kiểm tra:

4
+ Tập trung ở vị trí chịu tác động thường xuyên tác động của tải trọng (như
thân mái kè, các vị trí chuyển tiếp, );
+ Kiểm tra mài mòn, rạn nứt, dịch chuyển hoặc bị phá vỡ của đê dưới tác động
của sóng và dòng chảy;
- Đê và mái kè nên kiểm tra và giám sát theo những hạng mục sau:
+ Chiều cao đỉnh đê, độ lún của thân đê;
+ Chất lượng bảo vệ mái, thân đê (độ ổn định mái, hang h
ốc động vật, );
+ Kích thước hình học mái kè (mặt cắt dọc ngang, chiều dày);
+ Vị trí các viên đá trên mái kè (chuyển vị trên mái kè so với ban đầu);
+ Cãc tính chất cơ lý của mái kè;
+ Chất lượng của các công trình chuyển tiếp (chân kè, vải bọc cuộn, lớp lọc, );
+ Sự phát triển của hố xói trước chân đê (nếu có).
- Vải gia cố nên kiểm tra và giám sát:
+ Vải không được để lộ thiên ra ngoài ánh nắng mặt trời, cần được ph
ủ bằng
các lớp đất, trồng cỏ, ;
+ Kiểm tra các vết thủng, các vị trí biến dạng quá mức lớp vải bọc cuộn mái đê,
đặc biệt đối với mái phía hạ lưu làm xuất hiện dòng, cát chảy, ;
+ Có thể sử dụng một số thiết bị chuyên dụng đê kiểm tra cường độ vải tại hiện

trường (nếu cần);
- Các bộ phận công trình nằm trên m
ực nước triều thấp, có thể kiểm tra định kỳ theo
thời gian ở bảng 4.1.
Bảng 4.1. Thời gian kiểm tra định kỳ bộ phận công trình nằm trên mực nước triều thấp
Hạng mục Chu kỳ dài nhất
Hạng mục mái kè 12 tháng
Vị trí các viên đá trên mái kè 12 tháng
Tính chất cơ lý của đá kè 12 tháng
Sự phát triển của hố xói 6 tháng
Vải gia cố 3 tháng
- Các bộ phận công trình nằm chìm lâu dưới nước, chu kỳ kiểm tra nên ít nhất một lần
trong năm.
2. Kiểm tra theo tình huống:
Theo tình huống cơn bão, trước khi bão đến (dự báo), nên
kiểm tra tình hình đê kè để chuẩn bị đối phó với các tình huống có thể xẩy ra. Sau cơn

5
bão, cần kiểm tra tình hình hư hỏng của đê, kè, vải gia cố bọc cuộn để có kế hoạch sử
chữa, khắc phục kịp thời.
3. Kiểm tra điều kiện thủy lực tác động đến công trình:
Cần có thiết bị theo dõi sự thay
đổi các điều kiện thủy, hải văn để làm cơ sở phân tích đánh giá chiều hướng thay đổi
(tốt hay xấu) của các tải trọng tác dụng lên công trình. Căn cứ vào các tài liệu này có
thể đề ra kế hoạch nâng cấp cải tạo đê, thiết bị bảo vệ trong tương lai.
1.8. Sửa chữa, thay thế các bộ phận công trình không còn phù hợp:
Các hư hỏ
ng thường dễ nhận thấy trên mái kè, khi có chuyển vị rất lớn cần phải xếp
đặt các viên đá lại để có đủ độ dày cần thiết cấu tạo hai lớp đá. Vật liệu đá có thể tái sử
dụng nhiều lần như: cần thay thế những viên bị vỡ, bị mài mòn, Nếu trên mái đê xuất

hiện những chỗ trũng với diện tích lớn, có thể do t
ầng lọc vải gia cố không đạt yêu
cầu, gây ra sự cố rửa trôi của vật liệu thân đê. Trong trường hợp này thân đê và mái kè
phải sửa chữa một cách kịp thời.
Hư hỏng của vải gia cố chủ yếu là: vải để lộ thiên nên làm giảm cường độ trường hợp
này phải phát hiện sớm để xử lý bằng các biện pháp tre phủ lại; vải bị thủ
ng, biến dạng
quá mức do biến dạng của thân đê gây ra, lún thân đê vải bọc cuộn bị trùng (không
căng), , vật liệu này đóng vai trò là cốt nên bất kỳ sự hư hỏng đối với loại vật liệu này
đều phải được xử lý ngay và triệt để.
Chân kè phải bảo dưỡng thường xuyên, đặc biệt trong trường hợp có hố xói phát triển
mạnh trước chân đê. Không để hố xói phát tri
ển quá sâu và tiến gần về phía chân kè.
Cần bổ sung đá đổ tại hố xói chân kè với kích thước đủ lớn và bề rộng thích hợp.
4. Hướng dẫn duy tu, sửa chữa và xử lý sự cố đê
1.9. Đối với các công trình đê, mọi hư hỏng của thân đê, hoặc nền đê, đe doạ trực tiếp đến
sự an toàn của đê đang làm nhiệm vụ ngăn nướ
c, lũ bão, dẫn đến nguy cơ vỡ đê, đều
được coi là sự cố. Xử lý sự cố đê điều là giải pháp tình thế, ứng cứu, không chỉ yêu
cầu biện pháp kỹ thuật đúng đắn, mà còn đòi hỏi công tác dự phòng, chuẩn bị nhân
lực, vật tư, thiết bị, năng lực tổ chức, chủ huy thực hiện xử lý sự cố thắng lợi.
1.10. Gia cố đê:
Thông qua kiểm tra đánh giá chất lượng, những đoạn đê đã từng xẩy ra sự cố nhưng
chưa được xử lý triệt để, những đoạn đê còn khuyết tật, ẩn hoạ chưa đảm bảo an toàn
phòng chống lũ bão thì cần được tiến hành gia cố.
Khi kiểm tra, đánh giá hiện trạng mức độ an toàn của đê cần so sánh, đố
i chiếu với tiêu
chuẩn thiết kế, làm rõ các nội dung khiếm khuyết, vị trí, tính chất, mức độ và nguyên
nhân gây ra mất ổn định chống trượt, ổn định thấm, ẩn hoạ bên trong thân đê.
Cần khảo sát, thu thập tài liệu đã có về địa hình, địa chất, hồ sơ thiết kế - thi công,

hoàn công, tài liệu quan trắc diễn biến công trình, thăm dò ẩn hoạ.
Khi thiết kế gia cố đê, cầ
n căn cứ vào đặc điểm, nội dung những vấn đề tồn tại của
từng đoạn đê để lựa chọn các biện pháp gia cố thích hợp và có tính chất khả thi cao.

6
Thông qua tính toán kiểm tra ổn định mái dốc, ổn định chống đẩy bục tần phủ, ổn định
thấm, và thông qua tính toán so sánh kinh tế - kỹ thuật để lựa chọn phương án hợp lý
nhất.
4.10.1. Đào đắp lại những chỗ sạt trượt cục bộ:
Khi xẩy ra sạt trượt cục bộ, nếu xác định nguyên nhân là do chất lượng đắp đê
không đảm bảo, thì có thể đ
ào hết khối đất trượt, đắp lại, đầm chặt, khôi phục lại mặt
cắt cũ, hoặc đắp theo mặt cắt thiết kế mới có độ dốc mái và cơ đê phù hợp.
4.10.2. San lấp ao hồ ở khu vực ven đê:
Ao hồ thùng đấu ở phía biển đóng vai trò như “các cửa sổ thấm nước” làm giảm hoặc
cắt ngắn chiều dài đường viền thấ
m, do đó làm tăng hoạt động của dòng thấm, dễ gây
ra biến hình thấm cho nền đê
Ao hồ thùng đấu ở phía đồng làm mỏng tần phủ, hoặc đục thủng tần phủ, dễ phát sinh
mạch đùn, mạch sủi, bục đất gây ra các hư hỏng và sự cố đê điều.
Vì vậy, những đoạn đê có ao hồ, thùng đấu, đâm lầy nằm sát chân đê có nguy c
ơ đe
doạ ổn định thân và ổn định nền thì cần phải được lấp lại.
4.10.3. Gia cố chống thấm thân đê:
Những đoạn đê đã bị thấm, rò rỉ ra mái, bị xói ngầm, bị mạch sủi thì đều phải xử lý
chống thấm.
Đối với thân đê, có thể sử dụng các biện pháp tường nghiêng chống thấm, phụt vữa tạo
màng chống thấm, đào đắp chân khay chống thấm. Các chỉ tiêu kỹ thuật thiết kế màng
chống thấm cho thân đê thực hiện theo Quy trình kỹ thuật phụt vữa gia cố đê 14 TCN

1-85; tường nghiêng chống thấm thực hiện theo quy phạm thiết kế đập đất.
4.10.4. Xử lý tổ mối:
Khi thân đê bị mối làm tổ, tạo thành các hang rỗng, các rãnh ngầm thì cần phải xử lý
gia cố.
Trườ
ng hợp đã khảo sát xác định được vị trí tổ mối chính và nhiều tổ mối phụ thì có
thể xử lý theo hai bước: Bước 1, khoan phụt thuốc diệt mối; Bước 2, khoan phụt vữa
tực tiếp vào tổ chính và khoan phụt vữa theo mạng hố khoan kiểu toạ độ hoa mai vào
khu vực có nhiều tổ phụ.
Độ sâu khoan được xác định trên cơ sở độ sâu của tổ mối. Khoảng cách hố khoan, áp
l
ực phụt vữa được thiết kế theo Quy trình kỹ thuật phụt vữa gia cố đê 14TCN-1-85.
Vật liệu làm vữa là bột sét có trộn thêm phụ gia theo tỷ lệ 0,5 đến 1,0% vôi hoặc xi
măng.
Trường hợp không xác định được chính xác vị trí tổ mối, có thể sử dụng nhân lực đào
tìm tổ mối chính, tiến hành diệt mối đắp lấp tổ mối bằng đất á sét, với đất đắ
p được
san rải thành từng lớp đậm nện chặt.
4.10.5. Xử lý đê bị nứt:

7
Khi đê bị nứt, cần khảo sát, thăm dò, đánh giá mức độ ảnh hưởng đến an toàn đê, xác
định nguyên nhân để lựa chọn biện pháp xử lý thích hợp.
Trong trường hợp chỉ có vết nứt đơn lẻ, không hình thành cung trượt thì có thể xử lý
bằng cách đào hố đào hình nêm đến hết độ sâu nứt với bề rộng đáy tối thiểu 0,5m, đắp
đất đầm chặt lại.
Trường hợp vết nứt biểu hiện hình thành cung trượt, thì xử lý nhưng với trường hợp
sạt trượt cục bộ với quy mô lớn hơn.
Nếu các vết nứt nhiều và theo diện rộng, sâu hơn 1,0m, ngoài biện pháp đoà ra đắp lại,
cần chú ý có thể sử dụng biện pháp xử lý bằng khoan phụt vữa gia cố.

Nếu đoạn đê bị nứt có mặt cắt thi
ết kế còn nhỏ hơn mặt cắt thiết kế tiêu chuẩn tường
ứng với cấp đê, cần chú ý có thể sử dụng biện pháp đắp áp trúc tường nghiêng chống
thấm, mở rộng mặt cắt đê. Nếu đê cao trên 6m cần bố trí thêm cơ đê hạ lưu.
1.11. Tôn cao, mở rộng và tăng cường ổn định đê:
4.11.1. Đắp mở rộng mặt cắt đê:
- Chiều rộng mặt đê sau khi
đắp: B

≥ 5m.
- Mở rộng hệ số mái theo yêu cầu ổn định, nhưng không được nhỏ hơn m
hl

= 3,0; m
tl
= 2,0.
- Chiều dầy áp trúc: T
at
≥ 0,5m (chỉ đắp áp trúc đối với những mặt cắt mà
có chiều dầy cần đắp T
at
≥ 0,5m).
- Trước khi đắp phải dãy cỏ, đánh cấp.
- Thiết kế cứ 1,5m chiều dầy lớp đất đắp tính từ nền trở lên phải có một lớp
vải lọc để tăng cường khả năng cố kết của đất (đất có cốt) và để chống việc thi
công không tuân theo việc phân lớp để đầm nện mà đổ đất thành đống từ đỉnh đê
xuống. Vật liệu đất đắp được lựa chọn theo đúng thiết kế. Đất đắp được rải theo
từng lớp và đầm nén theo quy định hiện hành.
- Trồng cỏ ở mái đê để chống xói lở.
4.11.2. Đắp cơ đê:

- Chỉ áp dụng với những đoạn đê có chiều cao so với mặt đất tự nhiên: H
đ

5m
- Trường hợp đê có chiều cao H
đ
< 5m nhưng sát chân đê phía đồng là ao,
hồ, đầm thì việc lấp đầm, ao phải kết hợp với đắp cơ và mở rộng mặt cắt.
- Chiều rộng mặt cơ sau khi đắp: B

≥ 3m.
- Thiết kế cứ 1,5m chiều dầy lớp đất đắp tính từ nền trở lên phải có một lớp
vải lọc như quy định ở mục 1 nêu trên.
- Trồng cỏ ở mái và mặt cơ để chống xói lở.

8
4.11.3. Tường chắn sóng:
Ở những nơi có nhu cầu xây tường chắn sóng hoặc tường thay thế con trạch
đất thì thống nhất chọn giải pháp kết cấu là tường bê tông cốt thép không dùng kết
cấu tường bằng đá xây (trong thực tiễn nhiều tường đá xây bị sập đổ khi có lũ, bão
đã bộc lộ rõ đá có cường độ tốt nhưng mạch vữa chất lượng kém thậm chí có nơi
không có vữa).
- Chiều cao tường chắn: H
tc
≤ 1,2m.
- Thi công theo đúng quy chuẩn kỹ thuật hiện hành.
4.11.4. Gia cố mặt đê:
a/ Gia cố mặt đê nhằm tăng cường bảo vệ mặt đê, tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác kiểm tra, quản lý đê điều và phục vụ công tác hộ đê kết hợp cải thiện giao
thông, môi trường góp phần phát triển kinh tế xã hội.

+ Về các giải pháp kỹ thuậ
t gia cố mặt đê bằng bê tông được quy định như
sau:
- Vật liệu gồm: Ximăng PC30; đá dăm đủ cường độ theo tiêu chuẩn và kích
thước 2x4cm; cát vàng (đá dăm và cát vàng phải được rửa sạch trước khi trộn cấp
phối).
- Mác bê tông ≥ 200.
- Chiều dầy lớp bê tông mặt đê: T
bt
= 25cm.
- Thiết kế khe co, dãn: Theo chiều dọc đê cứ 5m bố trí một khe ngang có
chiều rộng 1cm, sâu hết chiều dầy bê tông; cứ cách 5 tấm bê tông thì bố trí một
khe dãn chiều rộng 1,2cm, các khe phải được đổ nhựa đường. Trường hợp những
đoạn đê có chiều rộng phần gia cố bằng bê tông B
bt
≤ 5m thì không bố trí khe dọc
để tránh khi có phương tiện cơ giới lưu thông mặt đê có thể bị nứt dọc trùng với
khe dọc khó phát hiện để xử lý.
- Hồ sơ thiết kế phải thể hiện rõ khối lượng từng loại vật liệu, trong đó ghi
rõ số lượng bao xi măng cho toàn dự án và số lượng bao xi măng cho mỗi tấm bê
tông riêng lẻ.
+ Tổ chức thi công: đổ bê tông trự
c tiếp, đầm và bão dưỡng theo đúng quy
định về công tác thi công bê tông.
+ Công khai số lượng bao ximăng cho một tấm trên bảng tại vị trí thi công
để tổ chức, cá nhân giám sát.
+ Quá trình thi công ngoài sự giám sát của tổ chức, cá nhân theo quy định
phải có sự giám sát của chính quyền và nhân dân tại địa bàn thi công công trình
(giám sát cộng đồng).
b/ Lý do chọn kết cấu bê tông để làm mặt đê nhằm đảm bảo các mục tiêu sau:


9
+ Hạn chế được vỡ đê khi bị lũ lớn tràn qua mặt đê (chấp nhận tràn nhưng
không được vỡ).
+ Tăng độ nhám nên hạn chế được tốc độ xe cơ giới, nhằm giảm tải trọng
động phá vỡ kết cấu thân và nền đê.
+ Bê tông có độ bền cao và chịu được lũ tràn qua hơn nhựa asphan.
c/ Cải tạo mặt đê bằng bê tông asphan (không dùng nhựa thâm nhập) ch
ỉ áp dụng:
- Những vị trí mặt đê đã được cứng hóa bê tông nhưng bị xuống cấp.
- Mặt đê đã được trải nhựa nhưng bị hư hỏng.
Chiều dầy lớp asphan T
asp
≥ 7cm, nhựa hạt trung và phải thi công bằng máy
rải thảm.
d/ Rải cấp phối áp dụng đối với những đoạn đê:
- Mặt đê mới đắp, mặt đê vẫn bằng đất hoặc mặt đê đã được trải cấp phối
nhưng bị hư hỏng.
- Các đoạn đê mới được tôn cao, áp trúc hoàn thiện mặt cắt.
- Mặt đườ
ng hành lang chân đê.
Chiều rộng rải cấp phối B
cp
≥ 3m, chiều dầy rải cấp phối T
cp
≥ 14cm.
4.11.5. Làm đường hành lang chân đê (trường hợp có gia cố mặt đường hành lang
bằng bê tông):
- Chiều rộng gia cố bằng bê tông: B
hl

≥ 3m.
- Chiều dầy lớp bê tông gia cố: T
hl
≥ 15cm.
- Các yêu cầu kỹ thuật khác quy định như gia cố mặt đê bằng bê tông.
1.12. Xử lý mạch đùn sủi đê biển:
Nếu xuất hiện thẩm lậu, đê biển không những sẽ chịu ảnh hưởng đến trạng thái sử
dụng bình thường, nghiêm trọng hơn có thể uy hiếp an toàn của đê. Thẩm lậu thường
có những nguyên nhân sau:
- Trong loại đê hỗn hợ
p đất đá, giữa 2 lăng thể đá trong ngoài và khối đất chống
thấm, do thi công không chính xác, đá của 2 lăng thể nối thông nhau, sẽ gây ra thẩm
lậu;
- Đê đắp hoàn toàn bằng cát, không có lớp đật thịt đủ dầy phủ ngoài;
- Đối với đê biển có lớp đệm cát thoát nước, độ dài đường dòng thấm không đủ;
- Ở đoạn đê có cửa hợp long, do chưa dở bỏ hế
t các túi bảo hộ ở hai đầu cửa
hợp long, cũng có thể dẫn đến thẩm lậu.
Xử lý mạch đùn sủi đê biển gồm các phương pháp sau:
4.12.1. Lớp phủ đất sét:

10
Chiều dày lớp phủ cần thoả mãn yêu cầu không sản sinh “đất chảy”, thường
không nhỏ hơn 1m. Chiều rộng lớp phủ thường căn cứ vào đường bao khu vực xử lý
thấm trên mái dốc, kéo dài thêm (3÷6) lần chiều cao cột nước, để ngăn chặn sự dịch
chuyển của mạch đùn.
4.12.2. Tường đất sét ngăn nước:
Dọc theo chân đê phía trong, đào rãnh dọc theo trục đê, nh
ồi đất sét vào rãnh để
hình thành tường ngăn nước. Tường ngăn nước có chiều rộng không nhỏ hơn 1,0m,

cao trình đáy lấn vào lớp không thấm nước (0,3 ÷ 0,5)m. Chiều dài tường ngăn nước
cần dài hơn chiều dài khu vực xử lý từ (10 ÷ 20)m. Chiều cao của tường khoảng (2
÷3)m.
4.12.3. Ép cát bằng áp lực:
Dùng thiết bị áp lực để ép cắt vào các khe của khối đá đổ, có thể đạt được mục
đích giảm nhẹ thẩm lậu cho đê biển. Thông thường, nếu lượng ép cát đạt tới (35 ÷
40)% thể tích khối đá đổi, thì lượng thẩm lậu giảm được 30%. Áp lực ép cát khống chế
trong khoảng (1 ÷ 3) Kg/cm
2
, từ từ tăng áp lực, tránh hiện tượng đùn cát lên.
4.12.4. Giếng giảm áp:
Giếng giảm áp là một loại giếng vây xử lý mạch đùn ở nền đê. Dùng giếng này để
chứa nước, nâng cao mực nước ở khu vực mạch đùn, mạch sủi, giảm nhỏ độ chênh
lệch cột nước dòng thấm, làm cho dòng thấm không đủ sức mang theo các hạt đất cát,
đạt được mực đ
ích ngăng ngừa các ẩn hoạ phát triển xấu. Phương pháp này thích hợp
ở nơi cột nước thấm không lớn, vùng mạch đùn tập trung. Trong trường hợp này, bệ
của giếng không cần cao, sự ổn định của bản thân bệ giếng không thành vấn đề. Sử
dụng giếng giảm áp điều tiết mực nước trong và ngoài rất có hiệu quả.
1.13. Rò rỉ, sập tổ mối:
Nếu đê có tổ mối, nước rò rỉ thoát ra mang theo các mảnh đất nhỏ màu hung thẫm, có
điểm trắng. Tổ mối có lõi cấu tạo nhiều ngăn bằng đất màu hung thẫm có điểm trắng.
Tổ hình bán nguyệt, đường kính dài khoảng 1,0 ÷ 2,0m, thậm chí đến 3,0m, đỉnh vòm
tổ mối có khi chỉ cách mặt đất từ 0,5m đến 1,0m.
Sự cố tổ mối rất nguy hiểm, có thể diễn ra theo 2 khuynh hướng:
- N
ước rò rỉ qua các đường dẫn mối vào và các đường dẫn mối ra. Mức độ rò rỉ càng
ngày càng gia tăng cuốn theo đất cát rồi gây ra sập tổ, gây nên sự cố vỡ đê.
- Cũng có khi không thấy dấu hiệu rò rỉ cuốn theo các vụn đất nhỏ mầu hung thẫm, có
điểm trắng của lõi tổ mối, nức trong tổ mối càng ngỳa càng dâng cao áp không khí lên

vòm tổ, làm cho tổ mối đột ngột bị vỡ
sập xuống, gây nên sự cố vữ đê.
Để tránh sự cố tổ mối xẩy ra, nếu phát hiện thấy nước rò rỉ tổ mối, tiến hành làm khối
lọc thoát nước hoặc rãnh lọc thoát nước, kết hợp làm máng dẫn nước ra khỏi chân đê.
Mặt khác, dùng thuốn sắt đường kính từ 14mm đến 20mm để thuốn sâu từ 1,0m đến
2,0m tạo các lỗ cho không khí trong tổ mối thoát ra.

11
Nếu phát hiện được vị trí tổ mối chính xác, cần nhanh chóng tiến hành khoan phụt vữa
xi măng để bịt tổ mối. Ngoài ra cũng cần dự trữ một khối lượng cần thiết khi các vật
liệu như đất, đá hộc, rọ thép, lưới thép, cọc tre, tao tải đất để phòng ứng cứu khi xẩy ra
sự cố tổ mối.
Sau mùa mữa lũ cần khảo sát đi
ều tra đầy đủ và tiến hành xử lý diệt mối triệt để, xử lý
bịt lấp tổ mối và gia cố đoạn đê có tổ mối.
1.14. Nước lũ tràn đỉnh đê:
Trong những trường hợp: đê có cao trình thấp, đê bị lún làm giảm cao trình đỉnh,
những đoạn đê có đường giao thông nông thôn đi qua, hoặc do lũ bão vượt quá mức
nước thiết kế, có thể xẩ
y ra nước lũ tràn qua đỉnh đê.
Biện pháp thường được sử dụng là đắp đê con trách theo các hình thức sau:
- Con trạch đắp bằng đất, bao tải đất, bao tải cát;
- Con trạch được đắp bằng rọ đát, đá hộc, thậm chí là các bó cành cây và cọc
ghim để chống sóng, phía sau đắp bằng đất, bao tải đất, bao tải cát;
- Con trạch có cọc và ván gỗ chống sóng, phía sau đắp bằng đất, bao tải đất, bao
tả
i cắt;
- Con trạch đắp đất ở giữa 2 hàng ván cọc.
1.15. Xử lý hư hỏng cống qua đê:
Các công trình xuyên đê thường là cống lộ thiên, cống ngầm, thậm chí là các hầm hố

lô cốt cũ. Trong mùa lũ, hư hỏng của các công trình này xẩy ra rất đa dạng, dưới đây
chỉ xin nêu một số trường hợp thường gặp:
4.15.1. Thấm qua mang cống (chỗ tiếp giáp giữa đê và thân c
ống)
1. Hiện tượng
Công trình, khi mực nước phía biển dâng cao, quan sát ở mang cống phía đồng
thấy nước rỉ rịn ra mái đê chỗ tiếp giáp giữa đê và cống có khi nước chảy thành vòi.
2. Nguyên nhân
+ Đất đắp 2 bên mang cống không theo quy định kỹ thuật như: Lây đất xấu lẫn
cát, bùn nhiều, quá khô hoặc quá ướt, đổ đất kê ba chồng đấu, không hoặc chỉ đầm qua
chạy theo thời gian và khối lượng.
+ Cống không
được thiết kế tường răng chống thấm.
+ Mực nước lên vượt quá mức thiết kế nên cả cống và đê không đủ chiều dài
chống thấm.
3. Cách xử lý
a. Lấp bịt phía sông, làm lọc và rãnh thoát nước ở phía đồng.

12
Nguyên tắc xử lý thấm chung cho công trình thuỷ lợi là: Thượng (lưu) bịt, hạ (lưu)
thoát, giống như xử lý thấm lậu, lỗ rò ở mái đê cụ thể như sau:
- Khi nước chảy thành vòi ở mang cống: Dùng bao tải đất hay đất hòn tốt đắp áp
trúc lấp bịt miệng lỗ rò ở phía thượng lưu, đắp lượn theo tường cánh gà. Cao hơn mực
nước lúc đó từ 0.5 – 1m và đủ chiều dài, chiều dày
để bịt tắc lỗ dò.
- Khi nước rỉ rịn ra mái đê mang cống ở phía đồng thì nên làm tầng lọc và rãnh
thoát nước.
b. Sửa chữa triết để:
+ Trường hợp đất mang cống là loại hạt rời, mực nước ngầm thấp thì có thể sử
dụng khoan phụt vữa đất sét trực tiếp vào 2 bên mang cống theo công nghệ

khoan phụt đê;
+ Trường hợp đất mang cống là
đất dính, mực nước ngầm cao thì có thể làm
tường hào Ximăng - Bentonite theo công nghệ đào hào hoặc công nghệ khoan
phụt cao áp;
Biện pháp này được dùng nhiều và rất có hiệu quả nhưng chỉ được phép tiến hành
trong mùa khô khi mực nước chưa ngập mang cống; do các đơn vị chuyên môn thực
hiện.
4.15.2. Mạch sủi, lỗ phụt ở trong lòng cống hoặc ở hạ lưu cống
1. Hiện tượng
Khi mực nước th
ượng lưu lên cao, cửa cống đã đóng kín nhưng ở trong lòng cống
hoặc ở sân tiêu năng hay ở đoạn kênh nối tiếp với sân tiêu năng phía đồng phát sinh
hiện tượng mạch sủi, lỗ phụt.
2. Nguyên nhân
Do địa chất nền móng xấu, cống ngắn không đủ chiều dài chống thấm.
Cống không có hàng cừ chống thấm ở thượng hạ lưu.
Mực nước vượt thi
ết kế, khớp nối bị hỏng, bản đáy cống bị gẫy do lún không đều.
Đào hay nạo vét kênh phía đồng sâu làm giảm hay làm mất hết tầng phủ chống
thấm nên khi gặp mực nước dâng cao, có áp lực thấm lớn dễ phát sinh các lỗ phụt làm
xói trôi và moi rỗng đất nền làm cống có thể bị sập vỡ.
3. Cách xử lý
a. Nếu nước ở trong cống và trên kênh không sâu thì nên làm tầng lọc trực tiế
p tại
chỗ có mạch sủi lỗ phụt là an toàn nhất.
b. Trường hợp nước trong cống, kênh sâu không thể tiến hành làm tầng lọc ở ngay
nơi có mạch sủi, lỗ phụt được thì nên chuyển sang giải pháp “lấy nước đè nước” bằng
cách nâng cao mực nước ở hạ lưu cống để giảm áp lực thấm làm cho đất, cát ở nền
cống không bị xói trôi.


13
Nâng cao mực nước ở hạ lưu cống có thể thực hiện bằng 2 cách sau đây:
- Nếu trên kênh phía đồng có công trình điều tiết ở gần cống thì cho đóng ngay
cửa cống điều tiết để nâng cao mực nước.
- Nếu không có công trình điều tiết thì cho đắp một đập dâng nước ngang kênh
phía đồng. Vị trí đập dâng phải cách xa sân sau và xa nơi có mạch sủi, lỗ phụt
50m ở
trên kênh, để phòng phát sinh mạch sủi mới ở ngay hạ lưu của đập
dâng.
Để giảm bớt thời gian thi công và khối lượng đất đắp, có thể cắm 2 hàng cừ tre
theo kiểu cắm cừ tre hàn khẩu đê (hàng cách hàng 2~3m, cụm cách cụm 0.5m) có
giằng chống néo thật vững chắc. Sau đó lót phên (nên lót 2 lượt phên) lót rơm rạ rồi đổ
đất vào giữa với mặt rộng 2~3m, cao trình đỉnh đập dâng phải cao hơn mực nướ
c cần
dâng từ 0.5~0.8m (mực nước cần dâng là mực nước làm cho mạch sủi, lỗ phụt bị giảm
mạnh không mang đất cát theo);
Nếu bờ kênh từ cống đến đập dâng còn thấp thì phải tôn cao bằng đỉnh đập;
Khi lỗ sủi chỉ ở trong lòng cống thì chỉ cần đóng bớt số tấm phai bên đồng. Nếu
thấy mạch sủi còn mạnh thì cho đóng cửa đập điề
u tiết hay làm đập dâng ở trên kênh
phía đồng như đã nêu ở trên.
c. Trường hợp tấm đan hay thân cống bị hỏng nước chảy qua các chỗ hổng đó vào
trong lòng cống rồi ra phía đồng phải cấp tốc cho hoành triệt cống ngay bằng thả bao
tải đất và đất rời phía trước cống, đồng thời cho đóng cửa cống điều tiết hoặc làm đập
dâng ở hạ lư
u để hỗ trợ cho việc hoành triệt cống.
Quy mô của việc hoành triệt cống nói trên tuỳ theo tình hình cụ thể mà quyết định,
nhưng phải đạt yêu cầu chung nhất là đủ để bịt tắc dòng chảy và an toàn chống lũ.
4.15.3. Sập vòng cống

1. Hiện tượng
- Khi cống bị sập vòng quan sát sẽ thấy nước chảy từ trong cống ra cửa phía đồng
nhiều và mạnh;
- Tiếng kêu của dòng n
ước rót qua lỗ sập xuống đáy cống là rất to;
- Mặt nước sông phía trước cống gần mái đê xuất hiện vùng xoáy do sự hút của
dòng chảy dưới lỗ sập trong cống;
2. Nguyên nhân
- Cống bị sập vòm thường là cống xây bằng gạch vữa cuốn vòm, sử dụng quá lâu
ngày. Chất lượng và khả năng chịu tải đã bị giảm sút đi rất nhiều.
- Tải trọng, áp lự
c tác động lên đỉnh vòm cống vượt nhiều so với thiết kế ban đầu
làm vòm cống mất cân bằng nên bị sập.
3. Cách xử lý

14
- Trường hợp phát hiện được ngay lúc mới phát sinh, lỗ sập còn nhỏ.
Các bước thực hiện như sau:
Bước 1: Dùng sào tre 1 đầu buộc ít rơm hay rạ, rà theo mái đê phía trên cống để
tìm vị trí, khẩu độ của lỗ sập; Đóng cống điều tiết hoặc làm đập dâng để nâng cao mực
nước ở phía đồng giảm dòng chảy trong cống để hỗ trợ cho việc xử lý.
Bước 2: Làm khung cử
a giả, có kích thước lớn gấp 2 ~ 3 lần miệng lỗ sập (coi
miệng lỗ sập như 1 cửa cống nhỏ) bằng các vật liệu tại chỗ như tre, cây bạch đàn, phi
lao…. Có thể dùng các cánh cổng sắt thanh, cây đứng không bưng đưa xuống đặt trên
miệng lỗ sập.
Bước 3: Đánh bí dòng chảy: đưa các bó rơm rạ xuống phía trước khung cửa giả để
lợi dụng dòng nướ
c hút vào bịt kín dần dần các khung ô của cửa giả. Yêu cầu của việc
đánh bí là làm sao cho lượng rơm, rạ được hút vào các khung ô; sau đó đưavải bạt

xuống trải và đặt trùm lên khung cửa giả để bít hẳn dòng chảy vào lỗ sập. Sau cùng
nên dùng 1 số cây bạch đàn, phi lao…. để đưa xuống đè lên vải bạt mục đích giữ cho
vải bạt không bị cuộn, trôi.
Bước 4: Bảo vệ và theo dõi: Bố trí ng
ười theo dõi chặt chẽ để xử lý kịp thời khi sự
cố tái diễn.
a. Thi công đê đá ở phía ngoài
Bước 1: Chọn và cắm tuyến đê đá: Giống như nguyên tắc chọn tuyến hàn khẩu đê
là nên đi qua nơi có địa chất nền móng tốt, nông, lưu tốc dòng chảy nhỏ, chiều dài
ngắn nhất, giao thông thuận lợi mặt bằng thi công tốt. Tuyến được bố trí theo hình
cung 2 đầ
u kéo dài quá sang 2 bên mang cống sập vòm từ 5 ~ 10m.
Dùng sào tre đầu trên buộc cờ tiêu, đầu dưới đẽo nhọn để cắm xuống bãi sông xác
định tim của tuyến đê đá.
Bước 2: Thi công đê đá, đây là bước quyết định nhất.
Phải cố gắng cao nhất, huy động số lượng tầu, thuyền và đá hộc cũng với mức cao
nhất, ở 2 bên sông nơi gần công trường nhất để vận chuy
ển về nhanh nhất tập trung thả
đá vào tuyến đê quai đã được xác định sao cho đá nổi lên trên mặt nước với thời gian
ngắn nhất.
Bước 3: Tôn cao, đắp dầy
Khi đê đá đã nổi lên khỏi mặt nước là lúc dòng chảy cơ bản đã được chặn lại,
nhưng phải tôn cao đắp dầy để đảm bảo an toàn cho đến hết mùa lũ. Đê đá phả
i được
tôn cao bằng mặt đê chính và mái 2 bên phải đảm bảo m = 1.5
÷
2.
Bước 4: Lấp bịt rò rỉ (chỉ phải làm ở mái thượng lưu)
Dùng bao tải đay hay gai cho chứa đất tốt (chỉ chứa 2/3 dung tích bao) khâu bịt
miệng lại rồi bố trí người đã được huấn luyện đem bao tải đất xuống chân mái đê đá

phía sông xếp lần lượt từ dưới lên trên (theo kiểu lợp ngói mái nhà) dùng chân dậm

15
mạnh để các bao đất bám liền vào nhau tăng độ kín nước giảm lượng nước thấm qua
đê đá. Bao tải lấp bịt rò rỉ đê đá được xếp cao tới đỉnh và phủ trùm lên mặt đê đá 1~2
lớp để đi lại được dễ dàng.
b. Lấp bịt dòng chảy qua cống sập ở phía trong
Mục đích lấp bịt cống sập phía trong là để giảm khó khăn trong thi công, tă
ng
thêm ổn định cho đê đá, cùng đê đá bảo đảm an toàn tuyệt đối cho đoạn đê đã bị tổn
thương lớn. Các bước tiến hành như sau
Bước 1:
Tạo dựng một lưới chắn chống trôi vật liệu trước cống sập:
Nếu cống bị sập mất hết cửa thì sẽ không còn điểm tựa để đặt khung giả thì phả
i
tạo dựng 1 lưới chắn trôi vật liệu ở trước cống thay cho khung cửa giả bằng cách:
Dùng 5~6 thanh ray (nhỏ) và thép hình đặt xiên (45
0
) theo hàng ngang và cố gắng tạo
thành mặt phẳng (các thanh cách nhau từ 1~1.5m) ở phía trước cống. Lấy cánh cổng
hàn bằng thép cây không bưng hoặc phên thép
φ
10 dài rộng 2m x2m hàn thành các
khung ô vuông 0.15m x 0.15m hay 0.2m x 0.2m rồi đánh trượt theo các thanh ray, sắt
hình tạo thành lưới chắn.
Bước 2: Lấp bịt dòng chảy bằng rọ đá
Do bị vướng đê đá phía ngoài nên không thể dùng các loại phương tiện khác để
lăn rọ đá trực tiếp ngay trước lưới chắn mà phải thi công lấn dần từ 2 đầu vào giữa.
Nhờ có lưới chắn mà rọ đá không trôi, và đê đá phía ngoài hỗ tr
ợ nên việc lấp bịt

dòng chảy thuận lợi chóng hoàn thành
4.15.4. Các hư hỏng khác của cống
Ngoài các hư hỏng chính trên còn một số hư hỏng thường gặp khác đối với công trình
xuyên đê
- Kẹt cửa van, không đóng kín được;
- Gẫy phai, bục cửa van;
- Nứt và rò rỉ thân cống, tường cánh;
- Hỏng khớp nối;
Các hư hỏng khác của công trình xuyên qua đê có nhiều loại, tuỳ theo loại hư
hỏng, nguyên nhân, mức độ hư hỏng mà đề ra các biện pháp xử lý phù hợp, hiệu quả.
4.15.5. Hàn khẩu đê bị vỡ:
Hàn khẩu đê là công tác cấp cứu đê, đòi hỏi phải hết sức nhanh chóng, liên tục
và kiên quyết, trên cơ sở tận dụng mọi khả năng về sức người, vật tư, trạng thiết bị
hiện có. Dưới đây là một số biệ
n pháp kỹ thuật chủ yếu tương ứng theo quy mô đê vỡ
ở từng giai đoạn:

16
- Khi chiều sâu nước còn nhỏ hơn 0,8m, bề rộng cửa vỡ còn nhỏ hơn 10m. Có
thể dùng cọc tre, phên tre, báo rào, bao tải đất, rọ đá, để chặn dòng chảy;
- Khi chiều sâu nước đã lớn hơn 0,8m đến 1,5m. Cần phải thả rồng tre, rồng
đất, rồng đá, rọ đá, lưới thép, đồng thời phải cắm cọc tre, cọc gỗ kè chắc 2 đầu miệng
vỡ không cho dòng chảy phá r
ộng thêm, mới có thể ngăn được. Theo kinh nghiệm,
rồng tre đường kính 0,6m dài 8,0m có thể chịu được lưu tốc 4,0m/s. Rồng đá, rọ đá 2
m
3
có thể chịu được lưu tốc 6,0m/s;
- Khi chiều sâu nước đã lớn hơn 1,5m, lưu tốc đã lớn hơn 6m/s cần phải dùng
đến biện pháp đánh đắm thuyền chở đầy đá và rọ đá, kết hợp với biện pháp thả rồng

tre, rồng đất, rồng đá, rọ đá, lưới thép, cắm cọc gỗ, cọc tre, kè chắc 2 đầu cửa vỡ mới
có thể chặn miệng đê vỡ được.

×