Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Giai đoạn từ 1945 đến 1959x

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.24 KB, 8 trang )

CHƯƠNG I:
NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN GIA
ĐÌNH VIỆT NAM
Điều 1: Nguyên tắc
1- Nguyên tắc các quy tắc xử sự do chủ thể đặt ra và yêu cầu phải thực thi trong
suốt quá trình hoạt động nhằm đạt hiệu quả hoạt động đó.
Điều 2: Những nguyên tắc cơ bản trong pháp luật hôn nhân - gia đình Việt Nam
Nguyên tắc của một ngành luật là những khung pháp lý chung, những quy tắc chung
được pháp luật ghi nhận, có tác dụng định hướng và chỉ đạo cho toàn bộ hệ thống các quy
phạm pháp luật của ngành luật đó.
Nguyên tắc cơ bản trong pháp luật hôn nhân – gia đình là những nguyên lý, những
tư tưởng, quan điểm chỉ đạo quán triệt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hôn nhân
và gia đình.
Nội dung của những nguyên tắc cơ bản trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam thể hiện
quan điểm pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ và các chức năng của các
thành viên trong gia đình, của các cơ quan hữu quan trọng trong việc thực hiện chế độ hôn
nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa. Các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình phải thể
hiện đúng nội dung của các nguyên tắc đó.
Điều 3: Phạm vi và thời hạn áp dụng
1. Giai đoạn từ 1945 đến ngày 24.3.1977
a.Ở miền Bắc: giai đoạn từ 1945 đến 01.01.1959
Văn bản pháp luật áp dụng trong giai đoạn này ở miền Bắc là: HP 1946; Bộ dân
luật Bắc Kỳ; Sắc lệnh 97/ SL ngày 22/5/1950 của chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng
hoà sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật; Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950 của
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về vấn đề ly hôn
Trong giai đoạn này đất nước mới thống nhất , chính quyền đang trong thời gian
củng cố nên ở Miền Bắc giai đoạn vẫn tiếp tục áp dụng Bộ Dân luật Bắc Kỳ, chưa có văn
bản pháp luật nào thể hiện nguyên tắc quan hệ hôn nhân một vợ một chồng.
Sau này trước tình hình đất nước thời ấy đã ban hành thêm một số sắc lệnh để điều
chỉnh quan hệ hôn nhân giai đoạn này. Nhưng tựu chung lại vẫn chưa có nguyên tắc cụ thể,
chẳng qua chỉ là sự ấn định một số tư tưởng thực hiện một số nguyên tắc, từ những qui


định trong các Sắc lệnh ta lọc ra ghi thành nguyên tắc.
b.Giai đoạn từ ngày 02.01.1959 đến ngày đến ngày 24.3.1977
Luật HNGĐ 1959 tại chương I ( Điều 1 đến Điều 3) đã qui định các nguyên
tắc chung trong pháp luật hôn nhân gia đình:Nhà nước bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chế
độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hoà thuận, trong
đó mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ; Xoá bỏ những tàn tích còn
lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con
cái; Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc
cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ.
Qua 3 điều luật trên, có thể nhận thấy có 4 nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc hôn
nhân tự do và tiến bộ; nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng; nguyên tắc nam nữ bình
đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong gia đình và nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con
cái.
Đây là văn bản đầu tiên trong hệ thống pháp luật hôn nhân gia đình có sự ghi nhận
các nguyên tắc để định hướng, chỉ đạo toàn bộ các qui định trong luật hôn nhân gia đình
giai đoạn này. Đồng thời, là cơ sở mới để từng bước xây dựng ngành Luật Hôn nhân và
gia đình trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Tuy nhiên, giai đoạn này thì
như trình bày ở trên, Luật HNGĐ 1959 chỉ được áp dụn ở miền Bắc.
c.Ở miền Nam: Văn bản pháp luật được áp dụng là: Luật Gia đình 1959 ngày 02.01.1959;
SL 15/64 ngày 23.7.1964 về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng; Bộ dân luật ngày
20.12.1972 của Việt Nam cộng hoà Trong giai đoạn này, văn bản pháp luật điều chỉnh
quan hệ hôn nhân gia đình đã bước đầu ghi nhận việc bãi bỏ chế độ đa thê, song vẫn thực
hiện các nguyên tắc bất bình đẳng giữa nam nữ, bảo vệ quyền gia trường, phân biệt đối xử
giữa các con… Toàn bộ các văn bản cũng chưa qui định những nguyên tắc chung được áp
dụng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân tại giai đoạn này.
2.Giai đoạn từ 25.03.1977 đến ngày 02.01.1987
25/3/1977, Hội đồng chính phủ đã ra Nghị quyết số 76/CP, qui định việc thực hiện
pháp luật thống nhất trong cả nước, trong đó có Đạo luật số 13 về hôn nhân gia đình được
chính thức áp dụng trong cả nước

a.Văn bản pháp luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ HNGĐ:
Hiến pháp 1959; Hiến pháp 1980; Luật HNGĐ 1959
Luật HNGĐ 1959 tại Chương I có tên gọi là nguyên tắc chung. Trong đó có qui định
thành 3 Điều luật nhưng qui định tại Điều 2, 3 của Luật này cũng chỉ cụ thể hóa hơn qui
định tại Điều 1 của Chương I. Qua đó, có thể khái quát Luật Hôn nhân và gia đình dựa trên
4 nguyên tắc cơ bản là: Nguyên tắc hôn nhân tự do và tiến bộ; nguyên tắc hôn nhân một vợ
một chồng; nguyên tắc nam nữ bình đẳng và nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong
gia đình và con cái.
3. Giai đoạn từ 03.01.1987 đến ngày 31.12.2000
Hiến pháp 1980; Hiến Pháp 1992; Bộ luật Dân sự 1995; Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986; Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em (12/08/1992); Nghị quyết 01/NQ-
HĐTP ngày 20/01/1988 HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng 1 số qui định Luật HNGĐ.
4. Giai đoạn từ ngày 01.01.2001 đến nay
Hiến pháp 1992; Bộ luật Dân sự 2005, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (sđ
năm 2010); Luật nuôi con nuôi ; Luật bình đẳng giới; Luật phòng chống bạo lực gia đình;
NQ 35/2000/QH ngày 09/06 của Quốc hội về thi hành Luật HNGĐ
Điều 3: Nguyên tắc hôn nhân tự do và tiến bộ
Đây là nguyên tắc cơ bản của chế đô hôn nhân gia đình Việt Nam. Nguyên tắc này
được ghi nhận trong văn bản pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Điều 64 Hiến pháp 1980 “ Nhà nước bảo hộ hôn nhân. Hôn nhân theo nguyên tắc
tự nguyện tiến bộ, một vợ một chồng….”
Nguyên tắc này được khẳng định tại Điều 1 Luật HNGĐ 1959; và được cụ thể hóa
qua các điều 2, 3, 4,7,8, 14…chẳng hạn như: “Con trai và con gái đến tuổi, được hoàn toàn
tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình; không bên nào được ép buộc bên nào, không
một ai được cưỡng ép hoặc cản trở”- Điều 4 LHNGĐ 1959
Nội dung của nguyên tắc được hiểu là hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự do
tìm hiểu và tự quyết định hạnh phúc của mình, không ai có quyền ép buộc
Điều 4: Nguyên tắc một vợ, một chồng
Hôn nhân một vợ, một chồng được xem là hình thái hôn nhân tiến bộ nhất trong lịch
sử, được đại đa số các nước trên thế giới thừa nhận. Nguyên tắc được xây dựng dựa trên

nguyên tắc hôn nhân tự do, tiến bộ. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 64 HP 1980,
Điều 1 Luật HNGĐ 1959. Và Luật HNGĐ 1959 cụ thể hóa qua một số qui định như: Điều
3 “ cấm lấy vợ lẽ”, Điều 5 cấm những người đang có vợ có chồng kết hôn với những người
khác.
Qui định này là hoàn toàn hợp lý và tiến bộ. Bởi bản chất của tình yêu là không thể
chia sẻ…nên hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính giữa người nam và nữ phải là hôn
nhân một vợ một chồng. Điều này góp phần tạo sự bền vững của hôn nhân gia đình.
Điều 5: Nguyên tắc nam nữ bình đẳng
Quyền bình đẳng nam nữ đã được ghi nhận trong Sắc lệnh 97 ở miền Bắc giai đoạn
trước. Nhưng chưa được thừa nhận là một nguyên tắc cơ bản. Đến Luật HNGĐ 1959 thì
quyền bình đẳng giữa nam và nữ được chính thức công nhận thành một nguyên tắc.
Nguyên tắc này được ghi nhận từ Hiến pháp 1959 tại Điều 24; và được tiếp tục ghi
nhận tại Điều 63, 64 HP1980; Điều 1 Luật HNGĐ 1959 và được cụ thể hóa trong các điều
luật như: Điều 2, 12,14,15,16,31…
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng không được qui định thành nguyên tắc riêng mà
nằm trong qui định nguyên tắc nam nữ bình đẳng. Chẳng hạn như theo qui định tại Điều 12
“Trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng về mọi mặt”. Trong quan hệ hôn nhân sự bình
đẳng giữa vợ, chồng được thể hiện ở việc vợ chồng có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về
nhân thân và tài sản. Về nhân thân, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, săn sóc
nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ, nuôi dạy con cái, lao động sản xuất, xây dựng gia đình hoà
thuận, hành phúc; Vợ và chồng đều có quyền tự do chọn nghề nghiệp, tự do hoạt động
chính trị, văn hoá và xã hội….
Những vấn đề này được quy định rõ trong Chương 3, tại Điều 12, 13 LHNGĐ 1959.
Về tài sản, Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài
sản có trước và sau khi cưới, vợ và chồng đều có quyền thừa kế tài sản của nhau, khi ly
hôn, nếu một bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng, thì bên kia phải cấp dưỡng tuỳ theo khả
năng của mình, vợ chồng đều có nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng con…( Qui định tại Điều
15, 16,29,30,32 Luật HNGĐ 1959).
Điều 6: Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong gia đình và con cái
Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 1, Điều 8, 27, 29, 32 Luật HNGĐ 1959; từ

Điều 17-24 Chương IV Luật HNGĐ 1959.
Nguyên tắc này mang tính tích cực nhưng trong quá trình thực hiện do quá chú trọng
đến việc bảo đảm quyền của người con mà không chú trọng bảo vệ quyền lợi của cha mẹ,
không chú trọng đến việc giáo dục con cái có trách nhiệm với cha mẹ.
Tóm lại, Luật HNGĐ 1959 là văn bản pháp luật đầu tiên trong hệ thống pháp luật
điều chỉnh quan hệ hôn nhân gia đình có qui định nguyên tắc chung nhằm .

Luật HNGĐ 1986 gồm 10 chương, 57 điều. Trong đó, Chương I có tên gọi Qui định
chung với 4 Điều luật. Nhìn một cách tổng quan, có thể nhận thấy một số thay đổi như
sau: Thứ nhất, có sự thay đổi về mặt ngôn ngữ lập pháp trong cách đặt tiêu đề cho Chương
I, theo đó, từ “ Nguyên tắc chung” tại chương I Luật HNGĐ 1959 được sửa thành” Qui
định chung” –Chương I Luật HNGĐ 1959. Và từ những qui đinh chung và qui định cụ thể
chia ra các vấn đề thành những nguyên tắc cơ bản. Thứ hai, số lượng điều luật cũng có sự
thay đổi: Chương I Luật HNGĐ 1956 chỉ có 3 điều đến Luật HNGĐ 1986 đã tăng thêm 1
điều, nghĩa là có 4 điều luật. Thứ ba, có sự tăng thêm về số lượng nguyên tắc ( từ 4 nguyên
tắc thành 6 nguyên tắc ). Thứ tư, nội dung các nguyên tắc đã có sự kế thừa và thay đổi nhất
định. Từ sự thay đổi về qui định chung dẫn đến việc thay đổi nội dung trong các qui định
cụ thể hóa của Luật HNGĐ 1986 ( cụ thể sự thay đổi nhóm sẽ phân tích ở phần sau).
Luật HNGĐ 1986 có 6 nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và
tiến bộ; nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng; nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, hôn nhân
không phân biệt giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo
tôn giáo với người không theo tôn giáo; nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con;
nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em; Nguyên tắc vợ chồng có nghĩa vụ thực
hiện sinh đẻ có kế hoạch.
CHƯƠNG II:
MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ÁP DỤNG TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA
ĐÌNH NĂM 2000
Điều 6 a. Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ
Đây là nguyên tắc cơ bản của chế đô hôn nhân gia đình Việt Nam. Nguyên tắc này
được ghi nhận trong văn bản pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là Điều 64 HP 1980 , tiếp tục được ghi nhận tại HP 1992“ Nhà nước bảo hộ hôn nhân
và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng….”; Đ7 BLDS 1995. Nguyên tắc này được khẳng định tại Điều 1 Luật HNGĐ
1980; và được cụ thể hóa qua các điều 4, 6, 13…
Nguyên tắc này được xây dựng dựa trên nguyên tắc kế thừa và sửa đổi về thuật ngữ
pháp lý trong tên gọi nguyên tắc so với Luật HNGĐ 1959, cụ thể: chuyển từ “ nguyên tắc
tự do và tiến bộ” thành” nguyên tắc tự nguyện và tiến bộ”. Khái niệm tự do hôn nhân trong
Luật HNGĐ 1959 dễ gây hiểu lầm trong quá trình thực hiện pháp luật, người ta dễ nhầm
lần với tự do yêu đương, tự do kết hôn mà không suy nghĩ chín chắn, điều này ảnh hưởng
đến việc bảo đảm tính tiến bộ của hôn nhân. Luật HNGĐ 1986 đã khắc phục thiếu sót này
bằng cách sửa đổi thành tự nguyện. Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi nhà nước đảm bảo
nguyên tắc tự do ( tự do kết hôn, tự do ly hôn) nhưng không có nghĩa tự do ngoài vòng
pháp luật,được làm tất cả những điều chủ thể đó thích, mà tự do trong quan hệ hôn nhân
nhưng tuân theo qui định pháp luật.
Điều 7: Nguyên tắc một vợ, một chồng
Hôn nhân một vợ, một chồng được xem là hình thái hôn nhân tiến bộ nhất trong lịch
sử, được đại đa số các nước trên thế giới thừa nhận. Nguyên tắc được xây dựng dựa trên
nguyên tắc hôn nhân tự do, tiến bộ. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 64 HP 1980,
Điều 64 HP 1992, Điều 1 Luật HNGĐ 980. Và Luật HNGĐ 1959 cụ thể hóa qua một số
qui định như: Điều 4, 7, 9 Luật HNGĐ 1959.
Nhìn một cách tổng quan, về mặt tên gọi nguyên tắc thì không có sự thay đổi nhưng
nội hàm bên trong của nguyên tắc này có sự mở rộng hơn, cụ thể là: Luật HNGĐ 1959 tại
Điều 5 qui định cấm kết hôn “giữa người đang có vợ có chồng với người khác” thì Luật
HNGĐ 1986 qui định thêm trường “ cấm chung sống như vợ chồng với người khác” . Qui
định này, góp phần củng cố hơn nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng góp phần xây
dựng sự bền vững trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Điều 8: Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, hôn nhân không phân biệt giữa công dân Việt
Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn
giáo
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật HNGĐ 1986 trên cơ sở nguyên

tắc bình đẳng nam nữ mà Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 ghi nhận. Nguyên tắc này được
xây dựng dựa trên nguyên tắc kế thừa và phát triển của Luật HNGĐ 1959.
Nguyên tắc này được ghi nhận từ Hiến pháp 1959 tại Điều 24; và được tiếp tục ghi
nhận tại Điều 63, 64 HP1980; HP1992; Điều 1 Luật HNGĐ 1980 và được cụ thể hóa qua
một số điều luật như: Điều 10,15, 17,18,…
Điều 9: Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con
Đây cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật HNGĐ 1959. Quy
định này đã góp phần đảm bảo quyền lợi của người con hơn. Nguyên tắc được ghi nhận tại
Điều 64 HP 1980, HP 1992 và từ Điều 17-24 Chương IV của Luật HNGĐ 1986 đã cụ thể
hóa nguyên tắc này như Điều 21 “Các con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia
đình.Con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, lắng nghe những lời
khuyên bảo của cha mẹ”… Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em năm 1991 đã có các qui định thể
hiện nguyên tắc này, chẳng hạn như : Điều 2,3,4,6,8,10,16…
Nguyên tắc này có sự kế thừa và phát triển nguyên tắc của Luật HNGĐ 1959. Có sự
bổ sung thêm về bảo vệ quyền lợi của cha mẹ trong mối quan hệ với con cái. Sự qui định
đã có sự phát triển, qui định rõ trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái và ngược lại.
Điều 10:Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật HNGĐ 1986. Nguyên tắc này
được ghi nhận tại Điều 3 Luật HNGĐ 1986: “Nhà nước và xã hội bảo vệ bà mẹ và trẻ em,
giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ”. Ngoài ra, có nhiều qui
định trong Luật HNGĐ 1986 đã cụ thể hóa nguyên tắc này, có thể ví dụ như tại Điều 3,
“Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con đã thành niên mà không có khả năng lao động để tự
nuôi mình” …
Điều 11: Nguyên tắc vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện sinh đẻ có kế hoạch
1.Đây là một nguyên tắc mới được ghi nhận lần đầu tiên tại Luật HNGĐ 1986. Tuy
nhiên, chỉ được ghi nhận tại đoạn 1 Điều 2 Luật HNGĐ 1986 mà chưa có một điều luật nào
qui định rõ về vấn đề này. Tuy vậy, có thể khẳng định đây là nguyên tắc cơ bản có tính
quan trọng. Bởi dân số là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự sinh tồn và phát
triển của một quốc gia. Việc thực hiện tốt chính sách dân số sẽ góp phần thực thi tốt các
chính sách khác nhằm đảm bảo mục tiêu xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa.

2. Luật HNGĐ 1986 được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát triển
những nguyên tắc chung của Luật HNGĐ 1986. Những qui định này đã góp phần quan
trọng trong việc ban hành các quy phạm pháp luật hôn nhân gia đình có hệ thống, chặt chẽ
hơn so với Luật HNGĐ 1959, qua đó đã điều chỉnh tốt hơn các quan hệ HNGĐ trong giai
đoạn này.
Điều 12:Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng; vợ- chồng bình đẳng:
Đây là nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Nhà nước ta, nguyên tắc
này có tính kế thừa và khẳng định trong các Luật Hôn nhân - gia đình được ban hành từ
1959 đến nay ( Điều 1 Luật HNGĐ 1959; 1986; Điều 2 Luật HNGĐ 2000). Và là nguyên
tắc được áp dụng xuyên suốt trong pháp luật HNGĐ từ 1959 đến nay.
Cơ sở pháp lý: Điều 64 Hiến pháp1992; khoản 1Điều 2, Điều 4,9 và Điều 89 luật
HNGĐ 2000; Điều 4 BLDS 2005
Điều 13: Nguyên tắc hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo,
giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài được tôn trọng và pháp luật bảo vệ
Cơ sở pháp lý: Điều 63, 64 Hiến pháp 1992; Khoản 2 Điều 2 Luật HNGĐ năm 2000
Bổ sung thêm phạm vi của nguyên tắc “giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài “. Trước đây quan hệ hôn nhân giữa Công dân Việt Nam và người nước ngoài được
điều chỉnh bởi Pháp lệnh HNGĐ giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. Và Luật
HNGĐ 1986 cũng qui định thành một chương trong Luật về vấn đề này. Nhưng quan hệ
này chưa được ghi nhận thành một nguyên tắc cụ thể. Tuy nhiên, Luật HNGĐ 2000 ra đời
đã bổ sung quan hệ hôn nhân giữa Công dân Việt Nam và người nước ngoài vào trong
phạm vi những quan hệ được Luật HNGĐ 2000 tôn trọng và bảo vệ. Đây là một sự quy
định tiến bộ và phù hợp xuất phát từ thực tiễn ngày càng nhiều công nhân Việt Nam có nhu
cầu kết hôn với người nước ngoài hay nói rộng hơn là xuất phát từ thực tiễn xã hội ngày
càng mở rộng giao lưu quốc tế.
Điều 14: Nguyên tắc vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá
gia đình
Cơ sở pháp lý: Điều 2 Luật HNGĐ 2000; Pháp lệnh dân số có hiệu lực pháp luật ngày 01/
5/ 2003

Tên gọi của nguyên tắc này có sự thay đổi: từ "vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện sinh
đẻ có kế hoạch" thành “vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch
hoá gia đình” . Nguyên tắc này kế thừa và phát triển các quy định của Luật Hôn nhân - gia
đình 1986. Việc quy định nguyên tắc này khẳng định rằng việc thực hiện chính sách kế
hoạch hoá của vợ chồng là thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm giảm
tỷ lệ dân số. Có như vậy thì mới thực hiện được mục tiêu xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững góp phần xây dựng xã hội công bằng văn minh. Tuy
nhiên, việc thực hiện vấn đề này cần phối hợp với nhiều biện pháp, phương thức khác nhau
mới có thể đạt được yêu cầu đặt ra.
Tuy nhiên, hiện nay Pháp lệnh dân số có hiệu lực pháp luật ngày 01/ 5/ 2003 quy
định mỗi cặp cợ chồng có quyền: quyết định thời gian sinh con, số con và khoảng cách
giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, thu
nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng; lựa chọn, sử dụng
các biện pháp kế hoạch hóa gia đình ( Điều 10, khoản1)
Điều 15: Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ, các con cũng như các thành viên khác
trong gia đình: (khoản 4 Điều 2)
Cơ sở pháp lý: Khoản 4 Điều 2; Điều 34,35,47,48 Luật HNGĐ 2000
Nội dung:
Đây cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật HNGĐ 2000 được xác
định theo tinh thần mới. Nguyên tắc này có sự bổ sung trong tên gọi dẫn đến nội hàm của
nguyên tắc được mở rộng.
Điều 16: Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, quyền lợi của bà mẹ và trẻ em
Cơ sở pháp lý: khoản 6 Điều 2; Điều 41, 42, 85 Luật HNGĐ 2000
Nội dung:
Kế thừa nguyên tắc quan trọng của Luật Hôn nhân - gia đình 1986 nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em, Điều 2 - khoản 6 quy định: "Nhà nước, xã
hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt
chức năng cao quý của người mẹ".
"Trong trường hợp người vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người
chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn"

Ngoài ra, Luật HNGĐ 2000 còn qui định nhiều chế định bảo vệ quyền lợi trẻ em
như chế định giám hộ, xác định cha mẹ, con; chế định về nghĩa vụ, quyền cha mẹ con.
Điều 17: Nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các con trong gia đình
Cơ sở pháp lý: k2D5 LHNDGKhoản 1 Điều 24 Luật nuôi con nuôi năm 2011:
Không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con.
Toàn bộ Luật HNGĐ không có qui định nào phân biệt con trai, con gái, con trong giá thú
và ngoài giá thú. Điều này chứng tỏ các con đều hưởng quyền ngang nhau.

×