Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật việt nam-một số vấn đề về lý luận và thực tiễn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.07 KB, 40 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, những thành tựu
mới của công nghiệp hóa, cơ giới hóa đã làm thế giới ngày càng văn
minh, hiện đại hơn, cuộc sống con người ngày càng tốt đẹp hơn. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy nó cũng kéo theo sự gia tăng các tai nạn mang
tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con
người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản… của các
chủ thể trong xã hội.
Có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây
chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm
ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người
luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng vẫn
có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm
soát đó. Trong khoa học pháp lý xuất hiện thuật ngữ “nguồn nguy hiểm
cao độ” để chỉ những sự vật như vậy. Trên cơ sở mối liên quan giữa thiệt
hại xảy ra của “ nguồn nguy hiểm cao độ” và hành vi của con người, Pháp
luật Việt Nam đã ban hành các quy định nhằm điều chỉnh vấn đề này. Về
cơ bản, những quy định của Pháp luật về “nguồn nguy hiểm cao độ” đã
đáp ứng được tình hình chung của công tác áp dụng pháp luật, đảm bảo
cho các cơ quan tiến hành tố tụng nhận định hướng giải quyết rõ ràng,
đúng pháp luật, tạo cách giải quyết đồng bộ, thống nhất cao trước
những vụ việc liên quan đến “ nguồn nguy hiểm cao độ”.
Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng Pháp luật về “ nguồn nguy hiểm
cao độ” hiện nay vẫn còn một số vấn đề hạn chế và vướng mắc nảy sinh.
Vậy Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về “nguồn nguy hiểm cao
độ”? Những hạn chế nào còn tồn tại trong quy định của Pháp luật về “
1
nguồn nguy hiểm cao độ”? Thực tiễn áp dụng quy định của Pháp luật về
“nguồn nguy hiểm cao độ” ra sao? Những phương hướng và giải pháp
nhằm hoàn thiện Hệ thống quy phạm Pháp luật liên quan đến “nguồn


nguy hiểm cao độ”. Những câu hỏi đó chính là cảm hứng để thực hiện bài
Tiểu luận mang tên: Nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của Pháp
luật Việt Nam-Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và phương pháp nghiên cứu.
2.1 Mục đích nghiên cứu
-Tìm hiểu khái niệm về nguồn nguy hiểm cao độ cũng như các vấn
đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra.
-Hệ thống hóa các quy định của pháp luật về nguồn nguy hiểm cao
độ, từ đó rút ra được những ưu điểm, cũng như hạn chế khi áp dụng vào
thực tiễn
2
-Phân tích để làm rõ mối liên hệ giữa cơ sở lý luận và thực tiễn điều
chỉnh của Pháp luật về nguồn nguy hiểm cao độ.
-Nghiên cứu một số bất cập còn hạn chế trong quy định của pháp
luật về nguồn nguy hiểm cao độ như định nghĩa còn mang tính liệt kê dẫn
đến bỏ sót những nguồn nguy hiểm cao độ khác; một số vấn đề phát sinh
trong bồi thường trách nhiệm do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra…

-Nghiên cứu về Nguồn nguy hiểm cao độ còn là cơ sở để đúc rút
kinh nghiệm thực tiễn, từ đó đề ra những phương pháp hữu hiệu trong việc
giải quyết những vụ việc liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ trong thực
tiễn, đồng thời có cái nhìn bao quát và chi tiết nhằm tìm ra phương hướng
hoàn thiện hệ thống Pháp luật liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ
2.2 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này lấy quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở và phương pháp luận để nghiên cứu, lấy tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật để nghiên cứu và đánh giá
các vấn đề trong đề tài.
Ngoài ra, đề tài này sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:

- Phân tích
- Tổng hợp
- Liệt kê
- So sánh
- Thu thập dữ liệu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
3
Đề tài: “Nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của Pháp luật Việt
Nam-Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn” nghiên cứu hai đối tượng chủ
yếu sau:
- Thứ nhất: những quy định của pháp luật trong việc định nghĩa khái
niệm về “ nguồn nguy hiểm cao độ” cùng các vấn đề liên quan đến những
quy định này
- Thứ hai: những quy định của Pháp luật liên quan đến vấn đề Bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
- Thứ ba: đánh giá, nhận xét những tồn tại, hạn chế cũng như bất cập
dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn qua đó đề xuất những giải pháp
và phương hướng hoàn thiện hệ thống Pháp luật về Nguồn nguy hiểm
cao độ
3.2 Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi đề tải chỉ nghiên cứu những vấn đề bất cập trong quy định về
Nguồn nguy hiểm cao độ trong phạm vi của pháp luật Dân sự Việt Nam
trên góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật.
4. Bố cục
Đề tài này gồm 3 phần chính:
- Phần Mở đầu
- Phần Nội dung
- Phần Kết luận

Phần nội dung bao gồm 2 chương:
4
- Chương 1: Những quy định của Pháp luật Dân sự Việt Nam về Nguồn
nguy hiểm cao độ
- Chương 2: Thực trạng, và giải pháp hoàn thiện Pháp luật về Nguồn nguy
hiểm cao độ
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
VỀ NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ
I.Khái quát về nguồn nguy hiểm cao độ
Nguồn nguy hiểm cao độ được quy định tại Khoản 1 điều 623 Bộ
luật Dân sự 2005:
5
“ Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải
cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí,
chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy
hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo
quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng
các quy định của pháp luật”.
Tại mục 1 phần III Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra của Nghị quyết 03/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân
dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định:
Xác định nguồn nguy hiểm cao độ
a) Khi có phương tiện giao thông, công trình, vật, chất hoặc loại thú
nào đó gây ra thiệt hại để có căn cứ áp dụng các khoản 2, 3 và 4 Điều
623 BLDS xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì phải xác định
nguồn gây ra thiệt hại có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không.

b) Để xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần phải căn cứ vào khoản
1 Điều 623 BLDS và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc
quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó. Ví
dụ: Để xác định phương tiện giao thông cơ giới đường bộ thì phải căn cứ
vào Luật giao thông đường bộ.
Theo quy định tại điểm 13 Điều 3 Luật giao thông đường bộ thì
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ôtô, máy kéo, xe mô tô
hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự, kể cả xe
cơ giới dùng cho người tàn tật .
6
Như vậy, ta có thể thấy các quy định của Pháp luật Dân sự Việt Nam
không đưa ra một định nghĩa mang tính khái quát chung về nguồn nguy
hiểm cao độ mà chỉ có quy định mang tính liệt kê: “Nguồn nguy hiểm cao
độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà
máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất
phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy
định”.

II.Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Quy định của Pháp luật

Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách
nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của
con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng
luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người
chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại
nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật
vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Pháp luật dân sự thế giới cũng
như Việt Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có thể

hiểu một cách khái quát, đó là loại trách nhiệm phát sinh cho người sở
hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ khi hoạt động của nguồn nguy
hiểm cao độ gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh.
7
Điều 623 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như sau:
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải
cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí,
chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy
hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo
quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng
các quy định của pháp luật.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác
chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường
hợp có thoả thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi,
trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế
cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
8
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao

độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt
hại.
Nghị quyết 03/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân
tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm
2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tại mục 2 phần III quy định
chi tiết về vấn đề này như sau:
Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra
a) Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ,
quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo
đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy
hiểm cao độ.
b) Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp
giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thỏa thuận
khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh
việc bồi thường.
Ví dụ: Các thỏa thuận sau đây là không trái pháp luật, đạo đức xã
hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:
9
- Thỏa thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại;
- Thỏa thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người
được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã
bồi thường;
- Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi

thường thiệt hại trước
- Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho
người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo
đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi
thường thiệt hại.
Ví dụ: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ôtô, nhưng vẫn
giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu
phải bồi thường thiệt hại.
c) Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao
chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các
trường hợp sau đây:
- Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
Ví dụ: Xe ôtô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của
pháp luật, thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người
này bị thương nặng hoặc bị chết. Trong trường hợp này chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ôtô đó
10
không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ôtô) gây
ra.
- Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp
thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần chú ý là trong
trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp bất khả kháng
hoặc tình thế cấp thiết thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực
hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
d) Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ
sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp
không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng

trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận
chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của
pháp luật).
Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử
dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy
định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra.
đ) Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy
hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong
trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải
11
là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác
định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ôtô đã giao xe ôtô đó cho B. B lái xe ôtô
tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân
biệt:
- Nếu B chỉ được A thuê lái xe ôtô và được trả tiền công, có nghĩa B
không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ôtô đó mà A vẫn chiếm hữu,
sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại.
- Nếu B được A giao xe ôtô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có
nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ôtô đó mà B là người chiếm
hữu, sử dụng hợp pháp; do đó B phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong
trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ôtô cho C thông qua hợp
đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe
ôtô đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.
Thực tế cho thấy, mục đích của nhà làm luật tách riêng các qui định
về Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thành một

điều luật là nhằm khẳng định và ràng buộc nghĩa vụ, cũng như bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan đến nguồn nguy
hiểm cao độ trong quan hệ xã hội thường ngày.
Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất đa dạng và do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi thỏa mãn hai dấu
hiệu sau:
-Thứ nhất: Những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ phải
đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông vận
12
tải cơ giới đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải
điện; nhà máy công nghiệp đang hoạt động… Trường hợp thiệt hại xảy ra
khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái “tĩnh” – không hoạt động thì
không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, ví dụ: xe ô tô
dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt
hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối
rữa gây dịch bệnh…
-Thứ hai: thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy
hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Có quan điểm cho rằng các vật là vô tri vô giác, vì vậy chúng không
thể gây thiệt hại nếu không có sự tác động của con người. Quan điểm này
cho rằng đằng sau việc gây thiệt hại của một vật bao giờ cũng có sự tác
động của con người. Chiếc xe gây tai nạn là do người lái xe làm cho nó
chuyển động. Quan điểm này đánh đồng tất cả các thiệt hại đều do con
người gây ra, vì vậy các thiệt hại đều quy về một nguyên tắc bồi thường
thiệt hại nói chung.
Tuy nhiên, không phải mọi thiệt hại do vật gây ra đều có sự tác động
của con người. Nhiều trường hợp, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ
nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người và tự thân nguồn nguy
hiểm cao độ gây thiệt hại. Việc xác định thiệt hại là do “tác động của

người” hay “tác động của vật” có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ
nhưng do “tác động của con người”, do hành vi của con người gây ra thì
chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Hầu hết các vụ tai nạn, thiệt hại đều có sự tham gia của vật với vai trò trung
gian như là công cụ, phương tiện mà con người sử dụng để gây thiệt hại
như: đặt mìn để gây thiệt hại cho người khác, để đánh cá; dùng súng sát
thương người khác; lái xe phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn; dùng chất độc
13
để đầu độc người khác; dùng nguồn điện để gài bẫy trộm; nhốt người vào
chuồng hổ cho con thú tấn công… Những trường hợp này thiệt hại hoàn
toàn do hành vi có chủ ý của con người chứ không phải do tự thân nguồn
nguy hiểm cao độ gây thiệt hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm
cao độ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con
người thì sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh,
mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ
trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật…
Một điểm cần lưu ý là hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm
cao độ phải có tính trái pháp luật. Hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi
phá dỡ các công trình xây dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật. Có
nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm cao độ mà việc gây
thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví dụ,
để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do
tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành
đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của

người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo
Điều 623 Bộ luật dân sự). Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại
trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do
hành vi của con người.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra
14
a) Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Khoản 1 Điều 623 Bộ luật D ân sự 2005 không đưa ra một định
nghĩa khái quát về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ có quy định mang tính
liệt kê: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải
cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí,
chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm
cao độ khác do pháp luật quy định”.
Khái niệm cụ thể của những loại nguồn nguy hiểm trên được quy
định trong nhiều văn bản khác nhau. Nguồn nguy hiểm cao độ theo Điều
623 được hiểu là những vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt động vận hành,
sản xuất, vận chuyển, bảo quản… chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt
hại cho môi trường và những người xung quanh. Tính nguy hiểm của nó
còn thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối
nguy cơ gây thiệt hại.
b) Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.

15
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây
thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những
người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những
chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn
nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với

thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng
bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi
xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến
nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho
những người này.
Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả
năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính
mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt
hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi
tác động của nguồn nguy hiểm cao độ.
c) Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của
nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là
nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại
và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ.
Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu chốt quan trọng là
16
xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng
d) Điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
Theo quan điểm cổ điển, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng chỉ đặt ra khi có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình
mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới
phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải

chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Điều kiện này trong nhiều trường
hợp thực tế là không thể thực hiện được khi thiệt hại xảy ra không phải do
lỗi của ai cả. Khuynh hướng xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên ý
niệm lỗi nhiều khi không bảo đảm được một cách hiệu quả quyền lợi cho
nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một
đòi hỏi cấp thiết và chính đáng
Để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân chống lại việc gây ra
tai nạn, có quan điểm cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một
số trường hợp có thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Thực tế cho
thấy các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối,
điều khiển của con người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của
công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe,
tài sản của con người. Nếu trong mọi trường hợp xảy ra thiệt hại đều buộc
người bị hại dẫn chứng lỗi thì không khác gì gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi
thường thiệt hại của nạn nhân. Vì vậy, khi có việc gây thiệt hại, người bị
17
thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong trường hợp người gây
thiệt hại không có lỗi. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường
phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ
luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có
lỗi”. Quy định này trên thực tế hiện nay dẫn đến ba cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại, theo đó,
nếu thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bất kể có lỗi
hay không có lỗi của người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
Như vậy, những thiệt hại do phương tiện giao thông, công trình, thú dữ, do
sử dụng vũ khí, chất nổ, chất cháy, điện… gây ra đều được áp dụng trách
nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trường hợp thiệt hại

do hành vi của con người, không liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm
cao độ thì áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc xác định trách nhiệm theo quan điểm này có ưu điểm bảo vệ được
quyền lợi cho nạn nhân nhưng lại có khuynh hướng đè nặng trách nhiệm
cho người sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ, bởi lẽ có
nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra là do hành vi trái pháp luật, do lỗi của
người khác. Ví dụ: Do có mối thù với A, B đã bí mật tháo phanh xe ô tô
của A với mục đích gây tai nạn cho A. Khi A đang lái xe trên đường, do xe
mất phanh nên A gây tai nạn cho C là người đang tham gia giao thông.
Trong trường hợp này, A là chủ sở hữu đồng thời là người đang chiếm hữu
nguồn nguy hiểm cao độ nên theo quan điểm trên, A có trách nhiệm bồi
thường. Cách xác định trách nhiệm bồi thường như vậy là không hợp lý và
xác định không chính xác người phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường.
18
Quan điểm thứ hai cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm hoàn toàn loại trừ yếu tố lỗi
của người sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu thiệt hại
do nguồnnguy hiểm cao độ gây ra nhưng có một phần lỗi của người đang
trông giữ, vận hành, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn không
có lỗi của con người thì mới áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trên thực tế rất khó xác định thiệt hại xảy
ra hoàn toàn không có lỗi của con người và như vậy, dường như quy định
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khó
có thể áp dụng trên thực tế.
Quan điểm thứ ba theo hướng dung hòa hai quan điểm trên. Nếu như
các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên sự suy đoán lỗi
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dựa
trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn
nguy hiểm cao độ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm

cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy
hiểm cao độ nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm
hữu, vận hành và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại
xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận
hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp
dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không loại trừ khả năng thiệt
hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận
hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hành vi của người trông giữ, vận
hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định
đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ
không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp họ
19
chứng minh được mình không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận
hành nguồn nguy hiểm cao độ. Quan điểm của đề tài đồng tình với quan
điểm này bởi lẽ yếu tố lỗi không phải là một điều kiện tiên quyết làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của
nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết
định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ
có thể hoàn toàn không có lỗi của con người (như xe đang chạy trên đường
bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng
có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây
chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe
không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng
xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi
của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách
nhiệm này.
3. Một số vấn đề về xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

3.1 Về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường.
Trước hết, phải khẳng định chỉ xác định được ai đó có là chủ thể và
đảm bảo điều kiện trong trường hợp đó họ được xác lập tư cách đương
sự trong tố tụng dân sự thì mới bàn đến việc người đó có lỗi hay không
có lỗi, (giống như trong hình sự, mặt dù có hành vi vi phạm pháp luật
hình sự, có hậu quả xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại, có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả nhưng chủ thể chịu trách nhiệm hình
20
sự không có tư cách thì không truy cứu trách nhiệm hình sự (bị cáo dưới
14 tuổi, bị cáo phạm tội khi bị tâm thần ) do vậy khi một người không
được xác lập tư cách là chủ thể có nghĩa vụ bồi thường trong các dạng
phân tích dưới đây thì đương nhiên họ không có nghĩa vụ bồi thường,
không cần xét thêm yếu tố lỗi. Đây lại là một sự hạn chế nữa trong quy
định của pháp luật Dân sự Việt Nam.
Có các loại chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, gồm:
+ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ (thoả mãn 3 điều kiện):
a. Đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ:
Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm là đang
thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn
nguy hiểm cao độ nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai
thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ, khi
nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường, cả
khi không có lỗi gây ra tai nạn.
Ví dụ: Nguyễn Tấn Đạt dùng xe môtô của mình biển số 61F4-2362
chở Hoàng Thanh Bình đi bán nắp chai bia. Khi Đạt vào quán bán nắp
chai thì Bình ngồi trên xe, do Đạt không rút chìa khoá nên khi Đạt quay
trở ra thì Bình nói là để Bình đèo đạt về. Trên đường về Bình gây tai nạn
chết một người.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 318/HSST của TAND tỉnh B. về phần

dân sự đã xử buộc Bình và Đạt liên đới bồi thường cho bị hại
30.000.000đồng. Bình và Đạt kháng cáo. Tại bản án hình sự phúc thẩm
số 647/HSPT của TAND Tối cao tại thành phố Đ đã giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
21
Tại quyết định giám đốc thẩm số 10/2007/HS-GĐT của Chánh án
TAND Tối cao đã xử huỷ toàn bộ hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm nêu
trên về phần trách nhiệm dân sự với lý do cấp sơ thẩm và phúc thẩm
buộc Bình bồi thường liên đới cùng Đạt là không đúng pháp luật, bời vì
khi Bình điều khiển xe thì Đạt vẫn ngồi sau, Đạt vẫn đang là người chiếm
hữu, sử dụng xe môtô này nên Đạt là người hoàn toàn chịu trách nhiệm
đối với hậu quả do xe môtô của mình gây ra.
Ta thấy trong trường hợp thuộc vụ án này, chủ sở hữu là anh Đạt
đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nên phải có nghĩa vụ
bồi thường theo quyết định giám đốc thẩm số 10/2007/HS-GĐT của
Chánh án TAND Tối cao là hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật.
Như vậy chỉ với việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cũng đã có sự thiếu thống nhất giữa các cơ quan với nhau, dẫn tới sự
lúng túng trong quá trình diễn ra tố tụng, khiến cho tính nghiêm minh
của pháp luật không được đảm bảo.
b. Giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử
dụng:

Trước hết phải nhận định thế nào là giao cho người khác chiếm
hữu, sử dụng. Về lý luận, quyền chiếm hữu tài sản của người không phải
là chủ sở hữu tài sản được qui định tại 182, Điều 185 (chiếm hữu theo uỷ
quyền), Điều 186 (chiếm hữu do giao dịch dân sự), còn quyền sử dụng tài
sản của người không phải là chủ sở hữu được qui định tại Điều 192, Điều
194 BLDS. Theo đó, nội hàm các nội dung trên có nhiều yếu tố khác nhau,
quyền sử dụng và quyền chiếm hữu trong trường hợp này có khác nhau

căn bản về quyền và nghĩa vụ của chủ thể (chiếm hữu là nắm giữ, quản lý
tài sản; sử dụng là khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức). Một chủ
22
thể có quyền chiếm hữu nhưng có thể hạn chế quyền sử dụng (theo
phạm vi ủy quyền, giao dịch), nhưng cũng có chủ thể chỉ có quyền sử
dụng mà không có quyền chiếm hữu. Do vậy, trên thực tiễn đã có sự nhận
thức không thống nhất. Có quan điểm cho rằng: “ giao cho người khác
chiếm hữu, sử dụng “ có nghĩa là một trong hai quyền, hoặc là giao chiếm
hữu, hoặc là giao sử dụng. Quan điểm khác cho rằng đây là sự sai sót của
nhà làm luật, lẽ ra dấu phẩy giữa từ chiếm hữu và từ sử dụng phải được
thay bằng từ “và” (chiếm hữu và sử dụng). Cần hiểu rõ rằng, quyền của
người được giao chiếm hữu tài sản và quyền của người được giao sử
dụng mặc dù phải tuân thủ phạm vi nội dung giao dịch, nội dung uỷ
quyền nhưng trong nhiều trường hợp diễn biến ngang nhau, khó phân
biệt. Do đó, để xác định nghĩa vụ bồi thường phải nhận thức rõ là khi chủ
thể được giao quyền chiếm hữu thì đã phát sinh nghĩa vụ bồi thường
tương ứng với nội dung uỷ quyền hoặc nội dung giao dịch, còn chỉ được
giao quyền sử dụng nhưng không có quyền chiếm hữu thì không phát
sinh nghĩa vụ bồi thường đối với người sử dụng (trừ trường hợp các chủ
thể có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội).

Ví dụ: Anh Nguyễn Văn Anh giao xe môtô của mình cho chị
Nguyễn Thị Kim Phượng (có giấy phép lái xe) mượn. Chị Phượng đưa xe
này cho chị Thu điều khiển chở chị Phượng phía sau và gây tai nạn làm
anh Điền bị thương 61 %.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 07/HSST của TAND huyện P.về
phần dân sự đã buộc chị Thu bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Điền.
Tại bản án Hình sự phúc thẩm số 24/HSPT của TAND tỉnh Q. đã
huỷ phần dân sự của bản án số 07 nói trên. Tại bản án Hình sự sơ thẩm
23

số 06/HSST của TAND huyện P. đã buộc chị Thu và anh Nguyễn Văn
Anh liên đới bồi thường thiệt hại cho anh Điền.
Tại bản án Hình sự phúc thẩm số 07/HSPT của TAND tỉnh Q. đã xử
huỷ bản án hình sự sơ thẩm số 06 nói trên, do sai sót về phần dân sự.

Ở vụ án này ta thấy, chị Phượng giao xe cho chị Thu trong điều
kiện chị Phượng ngồi sau xe, đang chiếm hữu, sử dụng xe. Chị Thu gây tai
nạn thì Phượng có nghĩa vụ bồi thường. Trong trường hợp này chị Thu
liên đới bồi thường bởi chị là người có lỗi gây ra tai nạn. Anh Nguyễn
Văn Anh chủ sở hữu xe, giao xe cho chị Phượng mượn xe là giao dịch dân
sự đúng pháp luật. Trong trường hợp này chị Phượng có quyền chiếm
hữu (nắm giữ, quản lý) và quyền sử dụng xe nên anh Anh hoàn toàn
không có nghĩa vụ bồi thường.
Chủ ở hữu giao người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ phải bồi thường cả khi chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu,
sử dụng không có lỗi trong việc gây tai nạn trong ba trường hợp(điều
kiện kèm) sau:
-Một là chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng đúng
pháp luật nhưng có thoả thuận khác là bồi thường trước hoặc liên đới
bồi thường.
Ví dụ: A giao cho B mượn xe đi công tác, giữa A và B thoả thuận nếu
xe gây thiệt hại thì A bồi thường trước, B hoàn trả sau hoặc B và A cùng
liên đới bồi thường cho bị hại.
24
-Hai là chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng không
đúng qui định của pháp luật.
Ví dụ : A giao xe môtô cho B đi học (B chưa đủ 18 tuổi, chưa có giấy
phép lái xe). Khi B gây tai nạn thì A phải bồi thường.
-Ba là người được chủ sở hữu giao nguồn nguy hiểm cao độ chưa đủ
yếu tố xác định là người chiếm hữu, sử dụng. Thuộc trường hợp người

được giao nguồn nguy hiểm cao độ nhưng đang sử dụng nó trong tầm
quản lý, nắm giữ của chủ sở hữu (không có quyền chiếm hữu) nếu gây
thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường.
Ví dụ : A thuê B lái xe trả tiền lương cho B hằng tháng, B gây tai nạn
thì A phải bồi thường
c. Chủ sở hữu có lỗi trong việc trông coi, vận chuyển, quản lý, sử
dụng để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật
thì phải chịu bồi thường liên đới với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật cả khi chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng không có lỗi
trong việc gây tai nạn.

Tùy theo mỗi loại nguồn nguy hiểm cao độ mà mức độ, phạm vi, biện
pháp trông coi, quản lý, vận chuyển, sử dụng khác nhau. Do vậy để nhận
định thế nào là có lỗi trong việc trông coi, vận chuyển, sử dụng phải căn
cứ vào các qui định liên quan đến việc trông coi, bảo quản, vận chuyển,
sử dụng một đối tượng nguồn nguy hiểm cao độ cụ thể (Xe máy thì bảo
quản, trông coi theo qui định Luật giao thông đường bộ; thuốc nổ, vũ khí
thì trông coi, bảo quản theo quy định của Nghị định 175 của Hội đồng
25

×