Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

phân tích và đánh giá chất lượng cán bộ, công chức huyện nông sơn, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.28 KB, 49 trang )

GVHD : Nguyễn Đình Hoa Cương
SVTH : Phạm Hữu Dư


LỜI CẢM ƠN


Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong
suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, em đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý Thầy Cô ở Khoa
Hệ Thống Thông Tin Kinh Tế – Trường Đại Học Kinh Tế Huế đã cùng với
tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho
chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường. Và đặc biệt, trong học kỳ
này, Khoa đã tổ chức cho chúng em được tiếp cận với thực tế mà theo em
là rất hữu ích đối với sinh viên ngành Tin Học Kinh Tế cũng như tất cả
các sinh viên thuộc các chuyên ngành Kinh Tế khác. Đó là môn học
“chuyên đề cuối khóa”.
Em xin chân thành cảm ơn thầy “Nguyễn Đình Hoa Cương” đã tận tâm
hướng dẫn chúng em qua từng buổi nói chuyện, thảo luận về các phương thức hay
các nội dung hỗ trợ cho chúng em trong việc hoàn thành bài chuyên đề cuối khóa.
Nếu không có những lời hướng dẫn, dạy bảo của thầy thì em nghĩ bài thu hoạch này
của em rất khó có thể hoàn thiện được. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy.
Bài thu hoạch được thực hiện trong khoảng thời gian gần 3 tháng. Bước
đầu đi vào thực tế, tìm hiểu về môi trường làm việc bên ngoài, kiến thức của em còn
hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ. Do vậy, không tránh khỏi những thiếu sót là điều
chắc chắn, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý
Thầy Cô và các bạn học cùng lớp để kiến thức của em trong lĩnh vực này được hoàn
thiện hơn.
PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế nhà nước
Việt Nam, chính quyền cấp cơ sở luôn giữ một vị trí, vai trò rất quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Chính quyền cơ sở là nền tảng của toàn bộ hệ thống chính quyền,
là cấp gần dân nhất, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của hoạt động quản lý
nhà nước trên tất cả các mặt ở địa phương, đảm bảo cho chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên, chính quyền cơ sở không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình một
cách hiệu lực và hiệu quả nếu thiếu một đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở có đủ
trình độ để đảm nhận công việc được giao. Cũng như nhân tố con người trong mọi
tổ chức khác, đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở chính là hạt nhân, là nhân tố
quyết định đến chất lượng hoạt động của chính quyền cơ sở nói riêng cũng như
toàn bộ hệ thống chính trị cơ sở nói chung. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động của chính
quyền cấp cơ sở luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định 114/2003/NĐ – CP ngày 10 tháng
10 năm 2003 về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và một số văn bản khác
nhằm từng bước chuẩn hoá, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn. Tuy nhiên, một thực tế khách quan là chất lượng của đội ngũ cán
bộ, công chức cấp cơ sở, đặc biệt là cán bộ, công chức xã, thị trấn ở các vùng nông
thôn và miền núi tương đối thấp, không tương xứng với vị trí, vai trò của họ cũng
như đáp ứng đầy đủ các chức danh theo quy định của Nhà nước. Điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp cơ sở;
nghiêm trọng hơn là dẫn đến nhiều sai phạm, làm mất lòng tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước, gây ra tình trạng mất ổn định cục bộ tại một số địa phương như
một số vụ việc ở Đồ Sơn, Thái Bình, Phú Quốc, Tuần Châu,… Do đó việc phân tích
và đánh giá chất lượng của cán bộ, công chức ở huyện nhằm tìm ra phương hướng
cải cách và nâng cao chất lượng để đáp ứng tiêu chuẩn chức danh và đòi hỏi của
thực tế khách quan ngày càng cao là nhiệm vụ trọng tâm hiện nay trong công tác cán

bộ cấp cơ sở.
Trong đợt thực tập tốt nghiệp vừa qua tại Ủy Ban huyện Nông sơn ,tỉnh
Quảng Nam tôi có điều kiện tìm hiểu về tình hình và thực trạng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở của huyện. Chất lượng cán bộ, công chức còn thấp, trình độ
năng lực thực thi công vụ của đội ngũ này hiện còn nhiều bất cập so với yêu cầu
công việc và yêu cầu của thực tế đặt ra.
Với những lý do trên, em đã chọn đề tài: “phân tích và đánh giá chất lượng
cán bộ, công chức huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung vào việc phân tích thực trạng và đánh giá về chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở tại huyện
Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam góp phần vào việc nâng cao hiệu quả thực thi công vụ
của đội ngũ này cũng như chất lượng hoạt động của chính quyền cấp cơ sở của
huyện.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề nâng cao chất lượng của đội ngũ cán
bộ, công chức cấp cơ sở.
- Tìm hiểu trực trạng chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức huyện Nông
Sơn, tỉnh Quảng Nam.
- Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
2.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một khoá luận tốt nghiệp, đề tài tập trung vào nghiên
cứu về trình độ; hiệu quả thực thi công việc, đạo đức công việc và một số vấn đề
khác của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Nghiên cứu được tiến hành trên địa bàn huyện theo số liệu thống kê về cán bộ, công
chức cấp cơ sở của huyện.
2.4 Phương pháp nghiên cứu

Khoá luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp duy vật biện chứng;
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích;
- Phương pháp so sánh, đánh giá;
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Ngoài ra khoá luận còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như: phương pháp
phỏng vấn, phương pháp điều tra, khảo sát thực tế,…
2.5 Kết cấu của khoá luận :
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về cán bộ, công chức cấp cơ sở
Chương 2: Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Nông
Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Một số đề xuất và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng cán bộ
công chức cấp cơ sở huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CẤP CƠ SỞ
1. Quan niệm về cấp cơ sở
Từ khi Nhà nước xuất hiện và có sự phân chia lãnh thổ thì vấn đề phân chia
lãnh thổ thành các đơn vị hành chính – lãnh thổ luôn là vấn đề quan trọng. Ở Việt
Nam, vấn đề này được Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng và được quy định
trong Hiến pháp – văn bản có tính pháp lý cao nhất. Theo Hiến pháp năm 1992, sửa
đổi, bổ sung năm 2002 và Luật Tổ chức HĐND và UBND, chính quyền địa phương
được tổ chức thành 3 cấp:
- Chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp
tỉnh)
- Chính quyền cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
cấp huyện)
- Chính quyền xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) Chính quyền cấp xã
là chính quyền gần dân nhất, được gọi là chính quyền cơ sở trong hệ thống chính

quyền 4 cấp. Gọi chính quyền cấp xã là chính quyền cấp cơ sở bởi những lý do sau:
Thứ nhất, cấp này thoả mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của một cấp chính
quyền:
- Được Nhà nước trao cho chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để thay mặt cho
Nhà nước quản lý công việc địa phương.
- Có cơ chế bầu cử cán bộ địa phương.
- Có tính tự quản nhất định.
- Chịu sự kiểm soát của chính quyền cấp trên.
Thứ hai, đây là cấp chính quyền thấp nhất, không có cấp chính quyền nào
thấp hơn chính quyền xã, phường, thị trấn. Đây là cấp gần dân nhất, sâu sát nhân
dân nhất so với các cấp chính quyền khác.
Thứ ba, cấp xã là nền móng của bộ máy nhà nước, là cái gốc của hệ thống
chính quyền nhà nước 4 cấp.
Mặc dù là cấp thấp nhất nhưng chính quyền cơ sở có một vai trò rất quan
trọng trong hệ thống chính quyền 4 cấp và vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống
chính trị cơ sở nói riêng.
2. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp cơ sở.
Chính quyền cơ sở là cầu nối, là nơi giao lưu trực tiếp giữa Nhà nước và
nhân dân, đồng thời cấp cơ sở là nơi biểu hiện tập trung nhất, rõ nhất những ưu việt
hay hạn chế của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã dạy: “Cấp xã là cấp gần
dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được thì mọi việc đều xong
xuôi”. Chính vì vậy, chất lượng hoạt động của chính quyền cấp cơ sở ảnh hưởng
trực tiếp đến uy tín, lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Chính quyền cơ sở là nơi thể hiện tính hiệu lực, hiệu quả của chủ trương,
đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đây là nơi trực tiếp thực
thi, kiểm nghiệm và phản ánh tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống thể chế, chính
sách. Do đó, chất lượng của hệ thống thể chế chính sách phụ thuộc vào chất lượng
hoạt động của chính quyền cấp cơ sở.
Chính quyền cơ sở trực tiếp quản lý các hoạt động kinh tế xã hội của địa
phương. Những vấn đề của địa phương mà chính quyền cơ sở có thẩm quyền giải

quyết thì chính quyền cơ sở đại diện cho nhân dân địa phương trực tiếp giải quyết.
Chính quyền cơ sở là nơi thể hiện đồng thời phản ánh tâm tư nguyện vọng
và lợi ích của nhân dân địa phương. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách đều
được xuất phát từ cơ sở và hướng về cơ sở. Không ai khác ngoài chính quyền cơ sở
hiểu rõ và đảm nhận vai trò thu thập, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân
địa phương; đồng thời giúp Nhà nước đề ra các biện pháp tổ chức, quản lý phù hợp
với đặc điểm của một địa phương, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân
địa phương.
II. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ
1. Quan niệm về cán bộ công chức cấp cơ sở
Trước khi có Pháp lệnh cán bộ công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003, cán bộ
chính quyền cơ sở là những người công tác tại bộ máy chính quyền xã, phường, thị
trấn. Đó là những người trực tiếp tham gia quản lý mọi mặt đời sống kinh tế – xã
hội của địa phương, tuy nhiên họ chưa được coi là cán bộ, công chức trong biên chế
nhà nước, lương của họ không phải từ ngân sách nhà nước mà do xã trả.
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của chính quyền cơ sở và đội ngũ cán
bộ chính quyền cơ sở, một yêu cầu khách quan đặt ra là: đội ngũ cán bộ xã,
phường, thị trấn cần được xếp vào đội ngũ cán bộ, công chức trong biên chế nhà
nước. Chính vì vậy, Pháp lệnh cán bộ công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003, tại tiết
(g) và (h) điều 1 chương I đã quy định cán bộ công chức cấp cơ sở bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau đây gọi
là cán bộ chuyên trách) gồm các chức danh sau:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, Thường trực Đảng uỷ cấp cơ sở (nơi không
có Phó Bí thư chuyên trách công tác Đảng); Bí thư, Phó Bí thư Chi bộ xã (nơi chưa
thành lập Đảng uỷ cấp cơ sở);
+ Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND;
+ Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND;
+ Chủ tịch UBMTTQ;
+ Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ, Chủ tịch Hội
Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.

- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã), gồm các chức
danh:
+ Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng – Thống kê;
+ Địa chính – Xây dựng;
+ Tài chính – Kế toán;
+ Tư pháp – Hộ tịch;
+ Văn hóa – Xã hội.
Với quy định mới này địa vị pháp lý của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở
có sự thay đổi lớn. Quyền hạn và trách nhiệm của họ được quy định chặt chẽ hơn,
đồng thời yêu cầu đối với họ cũng cao hơn để đảm nhận trách nhiệm do Đảng, Nhà
nước và nhân dân giao phó.
2. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
Cán bộ, công chức cấp cơ sở là một bộ phận không thể thiếu trong đội ngũ
cán bộ, công chức nước ta. Mọi hoạt động của chính quyền cơ sở đều do cán bộ,
công chức cấp cơ sở thực hiện. Đảng ta luôn coi cán bộ có vai trò quyết định đối
với sự nghiệp cách mạng. Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) khẳng định
trong công cuộc đổi mới đất nước thì: “Cán bộ cũng có vai trò cực kỳ quan trọng,
hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới. Cán bộ nói chung có vai trò rất
quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí nền tảng cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực
tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà
nước trong thực tế. Pháp luật của Nhà nước có được thực thi tốt hay không, có
hiệu quả hay không hiệu quả một phần quyết định là ở cơ sở. Cấp cơ sở trực tiếp
gắn với quần chúng; tạo dựng phong trào cách mạng quần chúng. Cơ sở xã,
phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội
ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn”.
Do địa bàn hoạt động, tính chất công việc và nhiệm vụ được giao nên người
cán bộ, công chức cấp cơ sở phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân để triển khai

thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
cũng như trực tiếp lắng nghe, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân địa
phương. Như vậy, cán bộ, công chức cấp cơ sở là mắt xích, là chất keo gắn kết
nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, để thực hiện tốt các công việc của mình người cán bộ, công chức
cấp cơ sở phải gương mẫu thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; có khả
năng lĩnh hội và thẩm thấu chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước để tổ chức tuyên truyền, giải thích để nhân dân hiểu và thuyết phục nhân dân
làm theo hay thi hành một cách nghiêm túc. Về khía cạnh này, có thể nói người cán
bộ, công chức cấp cơ sở không chỉ là người quản lý địa bàn mà còn phải đóng vai
trò như một tuyên truyền viên tích cực. Do đó chất lượng hoạt động của đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước khi đi vào cuộc sống.
Mặt khác, do tính chất công việc và vị trí công tác nên người cán bộ, công
chức cấp cơ sở phải đảm nhận quản lý mọi mặt hoạt động, nhiều lĩnh vực như:
quản lý hành chính, lĩnh vực tài chính, đất đai, an ninh trật tự, tư pháp, văn hoá – xã
hội… Vì thế, đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở không những quản lý tài sản của
quốc gia mà còn đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, là “quan toà”
trong việc giải quyết các khiếu kiện của nhân dân và giải quyết các tranh chấp
trong thẩm quyền của mình.
Thực tiễn cho thấy rằng đội ngũ cán bộ cơ sở có vai trò cực kỳ quan trọng.
Nơi nào quan tâm đầy đủ và làm tốt công tác cán bộ, có đội ngũ cán bộ cơ sở vững
mạnh thì nơi ấy tình hình chính trị xã hội ổn định, kinh tế, văn hoá phát triển, quốc
phòng an ninh được giữ vững, cán bộ được dân tin, mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước được triển khai có kết quả. Ngược lại, ở đâu đội ngũ cán bộ cơ
sở không được quan tâm, đội ngũ cán bộ không đủ năng lực, phẩm chất và uy tín,
có những biểu hiện về tham ô, tham nhũng, lãng phí, hống hách, cửa quyền với dân
thì ở đó tình hình sẽ gặp khó khăn thậm chí còn bị kẻ xấu kích động, gây rối trở
thành những điểm nóng phức tạp, kéo dài.
Đội ngũ cán bộ cơ sở cần thiết và có vai trò quan trọng như vậy nhưng

không phải tự nhiên mà có. Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ cơ sở tuỳ thuộc
vào quá trình tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tự rèn luyện một cách chủ động
sáng tạo của từng cá nhân và các cấp bộ Đảng, chính quyền đoàn thể. Quan điểm
này được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XIII nhấn mạnh: “Dành kinh phí thoả đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ cơ sở, chú ý kiện toàn và tăng cường đội ngũ cán bộ cốt cán”. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Tăng cường cán bộ cho cơ sở, có
chế độ chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn để
họ hoạt động ngày càng hiệu quả góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”.Do đó, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp
cơ sở thì trước hết phải nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền cấp cơ sở. Họ không những chỉ cần có nhiệt tình cách mạng, có
phẩm chất đạo đức tốt mà còn cần phải có tri thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
có năng lực công tác để hoàn thành nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Vì thế xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp cơ sở vững vàng
về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, trong đó nâng cao trình
độ của đội ngũ này để họ có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực là yếu tố
quan trọng nhất trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp cơ sở.
Tuy nhiên trên thực tế, trong nhận thức và cả việc làm chúng ta vẫn còn có những ý
niệm giản đơn về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở, chưa thấy hết vai trò, tính
phức tạp, tính quyết định của họ đối với hoạt động quản lý hành chính ở cơ sở.
Người cán bộ hàng ngày cọ sát với thực tiễn rất phức tạp thuộc nhiều lĩnh vực
nên họ cần phải có bản lĩnh, có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết để làm việc, song
họ lại ít được đào tạo, bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ và thông tin về chính sách pháp
luật. Việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với họ cũng chưa tương xứng.
Thực tế này là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng lực trình độ quản lý
điều hành của đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
3. Nguồn hình thành đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở
Đặc điểm cơ bản của chính quyền cơ sở là cấp gần dân nhất, trực tiếp quan
hệ với nhân dân, phạm vi công tác quản lý rộng bao quát nhiều lĩnh vực hoạt động

như hành chính, kinh tế, an ninh, văn hoá, xã hội ở cơ sở. Thực tế cho thấy rằng,
nguồn cán bộ cơ sở hiện nay chủ yếu là bộ đội trở về địa phương sau khi hoàn
thành nghĩa vụ quân sự, cán bộ Nhà nước nghỉ hưu, số còn lại trưởng thành từ
phong trào địa phương và một bộ phận rất nhỏ là cán bộ tăng cường từ cấp trên
xuống. Đây là một thực tế khách quan, bởi lẽ số thanh niên trưởng thành ở địa
phương ngoài số đi học nghề hoặc đi làm xa, thì số thanh niên đi làm nghĩa vụ quân
sự sau khi trở về địa phương họ sẽ trở thành nguồn cán bộ quan trọng của địa
phương. Họ là những người đã được rèn luyện thử thách trong môi trường quân đội
nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, lối sống trong sạch, giản dị, quan tâm, chăm lo
đến sự nghiệp chung. Tuy nhiên, cũng không thể không có những hạn chế nhất
định về trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ văn hoá ở
nguồn cán bộ này. Đây là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt
động của họMặt khác, đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền xã, thị trấn phần lớn
là người địa phương được hình thành chủ yếu bằng con đường bầu cử. Do tính cục
bộ nên các địa phương thường khó chấp nhận người ở địa phương khác chuyển đến.
Hơn nữa,sự ảnh hưởng của các quan niệm dòng họ (thường là những dòng họ lớn có
địa vị uy tín trong xã) và quan hệ huyết thống cũng tác động đến việc hình thành đội
ngũ cán bộ của chúng ta như hiện nay dẫn đến thực trạng về đội ngũ cán bộ còn
nhiều vấn đề cần phải quan tâm.
III. CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở đối
với sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước và công cuộc cải cách hành
chính, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Đây là cơ sở pháp
lý quan trọng để tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ
sở hiệu quả nhất.
a. Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998, sửa đổi, bổ sung năm 2003;
b. Nghị định số 114/2003/NĐ – CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính
phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn;
c. Thông tư số 03/2004/TT – BNV của Bộ Nội vụ ngày 16 tháng 01 năm
2004 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 114/2003/NĐ – CP của Chính phủ về cán

bộ, công chức xã, phường, thị trấn;
d. Quyết định số 04/2004/QĐ – BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ về việc quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn;
e. Nghị định số 121/2003/NĐ – CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính
phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn;
f. Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT/BNV – BTC – BLĐTBXH ngày 14
tháng 5 năm 2004 của Bộ Nội vụ – Bộ Tài chính – Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ – CP của Chính phủ về chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
IV. CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ MỘT SỐ HÌNH THỨC
BIỂU HIỆN CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1. Chất lượng cán bộ công chức
Khái niệm chất lượng
Chất lượng là một thuật ngữ đã tồn tại từ lâu trong lịch sử. Trong từng giai
đoạn phát triển của sản xuất đã xuất hiện nhiều định nghĩa về chất lượng.
Sau đây là một số khái niệm điển hình:
Theo Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa, trong tiêu chuẩn ISO 8402: 2000
(Quality Management and Quality Assurance): “Chất lượng là toàn bộ các đặc tính
của một thực thể, tạo cho thực thể đó khả năng thỏa mãn các nhu cầu đã được
công bố hay còn tiềm ẩn”.
Theo Tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Á (European Quality Control
Organization): “Chất lượng là mức độ phù hợp với yêu cầu người tiêu dùng”.
Theo tiêu chuẩn Pháp: “Chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch
vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử dụng”.
Theo Giáo sư P. B. Crosby: “Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu”.
Theo J. M. Juran, một chuyên gia về chất lượng nổi tiếng của Mỹ: “Chất
lượng bao gồm những đặc điểm của sản phẩm phù hợp với các nhu cầu của khách
hàng và tạo ra sự thỏa mãn đối với khách hàng”.
Nhưng dù tiếp cận theo cách nào cũng phải đảm bảo: phù hợp với tiểu chuẩn

đã được công bố, phù hợp với những đòi hỏi của người sử dụng, sự kết hợp cả tiêu
chuẩn và đòi hỏi của người tiêu dùng. Đó là yêu cầu không thể thiếu được để đánh
giá chất lượng của một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó.
1.2 Chất lượng cán bộ công chức
Chất lượng cán bộ, công chức không hoàn toàn giống với chất lượng của các
loại hàng hoá, dịch vụ, bởi con người là một thực thể phức tạp.
Theo Hồ Chí Minh, Người cho rằng người cán bộ, công chức có chất lượng
thì phải hội đủ các tiêu chuẩn đức và tài, phẩm chất và năng lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, phong cách, phương pháp công tác tốt trong đó phẩm chất, đạo
đức là yếu tố hàng đầu. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải luôn rèn luyện người
cán bộ, đảng viên có đủ đức và đủ tài, vừa hồng và vừa chuyên. Người luôn quan
tâm, động viên và dìu dắt đội ngũ cán bộ, đảng viên để họ thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô tư.
Đặt chữ “đức” lên hàng đầu, nhưng Bác Hồ vẫn luôn coi trọng cái “tài”.
Người nhìn nhận “đức” và “tài” trong mối quan hệ biện chứng, như hai mặt không
thể tách rời trong một nhân cách hoàn thiện: “Có tài mà không có đức là người vô
dụng”, nhưng “có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Theo đó, chất lượng cán bộ, công chức ở đây được xem xét một cách toàn
diện từ trình độ, năng lực; kỹ năng, phương pháp làm việc; hiệu quả thực thi công
vụ; phẩm chất, đạo đức cán bộ, công chức; văn hoá ứng xử cho đến sức khoẻ (thể
chất, tâm lý) của họ. Trong đó, yếu tố trình độ; yếu tố hiệu quả thực thi công vụ và
yếu tố phẩm chất, đạo đức cán bộ, công chức được xem là quan trọng nhất để xem
xét chất lượng cán bộ, công chức.
Ta có thể hiểu rõ hơn khái niệm về chất lượng cán bộ, công chức qua việc
tìm hiểu các hình thức biểu hiện chất lượng cán bộ công chức cấp cơ sở dưới đây.
2. Một số hình thức biểu hiện chất lượng của cán bộ, công chức cấp cơ sở
Trình độ của cán bộ, công chức cấp cơ sở
Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là mức độ đạt được về
bằng cấp và mức thành thạo ở lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương cấp cơ sở.
Căn cứ vào đặc thù hoạt động và phạm vi lĩnh vực công tác, cán bộ, công

chức cấp cơ sở cần có các loại trình độ sau:
- Trình độ học vấn;
- Trình độ chuyên môn;
- Trình độ lý luận chính trị;
- Trình độ quản lý nhà nước;
- Trình độ tin học
a. Trình độ học vấn là mức độ đạt được trong hệ thống trình độ kiến thức phổ
thông, bao gồm các mức: Tiểu học, THCS và THPT. Đây là hệ thống kiến thức phổ
thông về tự nhiên, xã hội làm nền tảng cho nhận thức, tư duy và hoạt động của con
người. Trình độ học vấn không phải là yếu tố quyết định đến toàn bộ năng lực và
hiệu quả làm việc nhưng là yếu tố cơ bản ảnh hưởng, đồng thời cũng là chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá năng lực và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp cơ sở. Hạn chế về trình độ học vấn sẽ làm hạn chế khả năng của người
cán bộ, công chức trong hoạt động công tác như: hạn chế khả năng tiếp thu, lĩnh
hội đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, sự chỉ
đạo của cấp trên; làm hạn chế khả năng phổ biến những chủ trương, chính sách đó
cho nhân dân; làm hạn chế năng lực tổ chức triển khai, kiểm tra, đôn đốc, vận động
quần chúng…
b. Trình độ chuyên môn là mức độ đạt được về một chuyên môn, một ngành
nghề nào đó. Đây là những kiến thức trực tiếp phục vụ cho công việc chuyên môn
của người cán bộ, công chức, đặc biệt là công chức, những người thực hiện một
công vụ thường xuyên trong cơ quan hành chính nhà nước.
c. Trình độ lý luận chính trị là mức độ đạt được trong hệ thống những kiến thức
lý luận về lĩnh vực chính trị, lĩnh vực giành và giữ chính quyền, bao gồm các kiến
thức về quyền lực chính trị, đảng phái chính trị, đấu tranh chính trị… Hệ thống kiến
thức này trang bị và củng cố lập trường giai cấp, lập trường quan điểm của Đảng
lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó giúp cho mỗi cán bộ, công chức cấp cơ sở
có quan điểm và lập trường đúng đắn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
mình.
d. Trình độ quản lý nhà nước là mức độ đạt được trong hệ thống tri thức về lĩnh

vực quản lý nhà nước, bao gồm các kiến thức về hệ thống bộ máy nhà nước, pháp
luật, nguyên tắc, công cụ…quản lý nhà nước. Hệ thống kiến thức này giúp người cán
bộ, công chức hiểu rõ quyền hạn, nghĩa vụ của mình là gì và thực hiện như thế nào,
cụ thể là họ được làm những gì và không được làm những gì; công cụ quản lý, kỹ
năng và phương pháp điều hành ra sao, hiểu được sự vận hành của hệ thống tổ chức
bộ máy nhà nước nói chung và ở cơ sở nói riêng, từ đó thực thi công việc đúng pháp
luật và có hiệu quả.
e. Trình độ tin học là mức độ đạt được về những kiến thức, những kỹ năng
trong lĩnh vực tin học. Hiện nay, trong thời đại công nghệ thông tin, trong xu thế
hội nhập, toàn cầu hoá nền kinh tế quốc tế, việc trang bị kiến thức về tin học đối
với cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức cấp cơ sở nói riêng lại càng
trở nên cấp thiết. Bởi mọi công việc từ việc quản lý hồ sơ, văn bản đến việc giải
quyết công việc đều thông qua hệ thống máy tính và mạng internet. Máy tính và kỹ
thuật tin học là những công cụ có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả công việc, nó giúp cho công việc được tiến hành nhanh chóng và chính xác,
làm tăng năng suất lao động và giảm bớt công việc cho người cán bộ, công chức
cấp cơ sở. Những kiến thức tin học mà cán bộ, công chức cơ sở cần nhất hiện nay
đó là tin học cơ bản, tin học văn phòng (Word, Excel); những kiến thức về kế toán
máy, kế toán tổng hợp,…
Tóm lại, đây là những kiến thức cơ bản mà một người cán bộ, công chức nói
chung hoạt động trong lĩnh vực quản lý nhà nước trong hệ thống cơ quan nhà nước
cần phải có để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình theo yêu cầu của
vị trí công tác.
Hiệu quả thực thi công vụ của cán bộ công chức
Kết quả thực hiện nhiệm vụ là tiêu chí đánh giá đầu ra của quá trình thực thi
hoạt động quản lý nhà nước, là tiêu chí cơ bản phản ánh năng lực thực thi hoạt
động quản lý nhà nước của cán bộ, công chức. Kết quả thực hiện nhiệm vụ bao
gồm kết quả thực hiện nhiệm vụ riêng của cá nhân, kết quả thực hiện nhiệm vụ
chung của tập thể. Kết quả thực hiện nhiệm vụ còn được xem xét trên nhiều khía
cạnh khác nhau ví dụ như kết quả thực hiện một vụ việc; kết quả thực hiện nhiệm

vụ trong ngày, kết quả thực hiện nhiệm vụ trong tháng, trong năm, trong nhiệm kỳ.
Hoạt động quản lý nhà nước bao gồm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội vốn
rất phong phú và đa dạng. Chính vì vậy, đánh giá kết quả thực thi hoạt động quản lý
nhà nước cũng hết sức đa dạng. Có sản phẩm làm ra được kết quả ngay, ví dụ như
các quyết định xử phạt hành chính, nhưng cũng có những sản phẩm phải đến một
năm thậm chí phải một thời gian dài mới có thể đánh giá được kết quả ví dụ như kết
quả thực hiện Nghị quyết của HĐND về kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng hàng
năm hay như cho vay xoá đói giảm nghèo, đầu tư cơ sở hạ tầng.
Thông thường, việc đánh giá kết quả thực thi nhiệm vụ của một cơ quan hoặc
đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của một cán bộ, công chức được tổ chức đánh
giá trong thời gian một năm.UBND xã thực thi hoạt động quản lý hành chính nhà
nước thông qua hai hình thức cơ bản:
- Ban hành các quyết định quản lý hành chính nhà nước mà UBND xã được
phép ban hành.
- Triển khai các hoạt động quản lý hành chính cũng như cung cấp dịch vụ
công cho xã hội, công dân hay cho khách hàng có nhu cầu (hoạt động hành chính).
Chất lượng hoạt động của hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước nói chung và
của UBND xã nói riêng trong nhóm thứ nhất được quyết định bởi chất lượng của các
văn bản quản lý hành chính Nhà nước mà UBND xã ban hành. Như vậy, hiệu quả
thực thi công vụ của cán bộ, công chức xã chính là chất lượng của các loại văn bản
quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của UBND xã và các quyết định
hành chính của Chủ tịch UBND xã.
Trong nhóm thứ hai, hiệu quả thực thi công vụ của cán bộ, công chức xã
được thể hiện thông qua chất lượng của các dịch vụ công mà UBND xã phải cung
cấp theo quy định của pháp luật như: chứng thực, hộ tịch, đất đai,…Chất lượng của
những dịch vụ công này được đánh giá dựa trên những tiêu chí cụ thể như: Việc
thực hiện các hoạt động cung cấp dịch vụ công của cán bộ, công chức có tuân thủ
theo những quy trình bắt buộc theo quy định của pháp luật hay không; cách làm của
họ đã hợp lý, hiệu quả hay chưa; người dân (người sử dụng các loại dịch vụ này) có
nhận xét và đánh giá gì, mức độ hài lòng và thoả mãn của họ,…

Hiệu quả thực thi công vụ của cán bộ, công chức cũng phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, đó là:
- Năng lực của cán bộ công chức (trong đó có trình độ, kỹ năng làm việc,
phương pháp làm việc, tác phong);
- Kiến thức thực tế;
- Sức khoẻ (thể chất, tâm lý);
- Năng khiếu bẩm sinh;
- Các điều kiện khách quan như: cơ chế, chính sách, pháp luật; cơ sở vật
chất kỹ thuật; chế độ đãi ngộ;….
Như vậy hiệu quả thực thi công vụ của cán bộ, công chức thể hiện một cách
trực tiếp nhất việc nhận thức, khả năng giải quyết công việc, phương pháp và kỹ
năng làm việc cũng như kết quả giải quyết công việc của cán bộ, công chức.
Đạo đức công vụ
Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc xử lý các mối quan hệ trong gia
đình, cộng đồng hay xã hội, được thừa nhận rộng rãi. Đạo đức quy định hành vi,
quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội nói chung; Là những nguyên
lý (nguyên tắc) phải tuân theo trong quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân
với xã hội, phù hợp yêu cầu của mỗi chế độ chính trị và kinh tế xã hội nhất định.
Theo đó, đạo đức công vụ là đạo đức của cán bộ, công chức trong khi thực
thi nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật, những chuẩn mực quy định
nghĩa vụ của những người thừa hành. Người công chức có đạo đức công vụ là thể
hiện lương tâm và trách nhiệm của mình vì lợi ích chung và lợi ích của người khác,
ý thức rõ về cái cần phải làm và mong muốn được làm vì những lợi ích đó.
Ở nước ta, khái niệm này vẫn còn mơ hồ và chưa được luật hoá cụ thể. Đây
là vấn đề luôn được quan tâm, xem xét và nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, đạo đức công vụ là biểu hiện rất quan trọng của chất lượng cán bộ, công
chức nói riêng và tính hiệu quả của nền hành chính nói chung. Bởi nếu có đạo đức
công vụ và có ý thức cao về đạo đức công vụ thì cán bộ, công chức sẽ thực hiện
nhiệm vụ một cách trung thực và không vụ lợi cá nhân, bằng hết khả năng với tinh
thần tận tụy, nhiệt tình phải luôn đúng giờ và tận dụng tối đa thời gian cho công

việc; bảo vệ và sử dụng an toàn, tiết kiệm tài sản công; có thái độ cư xử đúng mực
và phải luôn hoàn thiện; lấy hiệu quả công việc làm niềm vui, lẽ sống và là động cơ
để phấn đấu. Với những cán bộ, công chức như vậy sẽ góp phần xây dựng đội ngũ
cán bộ vững mạnh, nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và trong sạch.
Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ, công chức quan liêu, hách dịch, tham nhũng;
tha hóa về đạo đức, lối sống sẽ làm suy giảm uy tín của Đảng và niềm tin của nhân
dân đối với Nhà nước, làm suy yếu đội ngũ cán bộ công chức cũng như làm giảm
hiệu quả, hiệu lực của nền hành chính.
Phương pháp và kỹ năng làm việc của cán bộ công chức
Phương pháp giải quyết công việc là cách thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ
hay một chủ trương, chính sách, một công việc cụ thể. Nếu nhiệm vụ là việc phải
làm tức là trả lời cho câu hỏi “làm gì?” thì phương pháp là cách thức phải làm tức
là trả lời cho câu hỏi “làm như thế nào?” để đạt hiệu quả cao nhất.
Phương pháp để hoàn thành nhiệm vụ là tiêu chí đánh giá quá trình “xử lý”
để đạt được kết quả đầu ra của thực thi hoạt động quản lý nhà nước. Sẽ thật thiếu
sót nếu như đánh giá năng lực làm việc của cán bộ, công chức chỉ xem xét kết quả
mà không xem xét phương pháp làm việc. Nếu như trình độ kiến thức là nền tảng
giúp cán bộ quản lý, điều hành đạt “lý” thì phương pháp giúp cán bộ quản lý điều
hành đạt “tình”. Người cán bộ có trình độ kiến thức, có phương pháp hoạt động tốt
sẽ thực thi hoạt động quản lý nhà nước “thấu tình đạt lý”, hợp lòng dân, có khả
năng khơi dậy sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, được nhân dân tin yêu. Ngược
lại, nếu có trình độ kiến thức mà không có phương pháp hoạt động tốt, phù hợp thì
công việc khó hoàn thành, hoặc có hoàn thành nhưng khả năng phát sinh các vấn đề
khiếu nại, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc hoặt
mất lòng dân.
Phương pháp giải quyết công việc thể hiện phong cách, thái độ ứng xử và sự
sáng tạo của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ. Với mỗi việc phát sinh,
người cán bộ công chức có nhận định, đưa ra cách giải quyết hiệu quả nhất hoặc
với mỗi đối tượng có cách ứng xử phù hợp. Với kết quả giải quyết công việc như
nhau nhưng người có phương pháp tốt sẽ cho kết quả trong thời gian ngắn nhất, kết

quả đạt được sẽ có sức thuyết phục cao, được nhân dân hài lòng hơn, tin tưởng hơn.
Kỹ năng trong thực thi hoạt động quản lý nhà nước của cán bộ, công chức là
khả năng vận dụng khéo léo, thành thạo những kiến thức và kinh nghiệm thu được
trên một lĩnh vực nào đó vào thực tế. Trong thực thi hoạt động quản lý nhà nước
đòi hỏi rất nhiều kỹ năng như: kỹ năng quản lý (thu thập và xử lý thông tin, phân
tích, hoạch định, ra quyết định, tổ chức, kiểm tra, đánh giá); kỹ năng lễ tân giao
tiếp; kỹ năng vận động quần chúng; kỹ năng sử dụng các thiết bị văn phòng; kỹ
năng sử dụng các thiết bị nghiệp vụ; kỹ năng tác nghiệp. Mỗi công việc, mỗi chức
trách đòi hỏi có những kỹ năng khác nhau, ở những mức độ khác nhau.
Như vậy, phương pháp và kỹ năng của cán bộ, công chức thể hiện chất
lượng thực tế của cán bộ, công chức đó trong hoạt động công vụ của họ.
Một số hình thức biểu hiện khác
Chất lượng của cán bộ, công chức còn được thể hiện thông qua một số tiêu
chí thuộc về thể lực, thể chất của mỗi cán bộ, công chức như: Sức khoẻ (thể chất,
tâm lý), độ tuổi, thâm niên công tác,…
Những tiêu chuẩn này đã được quy định trong Pháp lệnh cán bộ, công chức
sửa đổi, bổ sung năm 2003.
Sức khoẻ của mỗi con người được đánh giá qua nhiều tiêu chí, song tiêu chí
cơ bản là thể lực và trí lực. Thể lực được đánh giá thông qua sức mạnh cơ bắp, còn
trí lực được đánh giá thông qua sự minh mẫn, linh hoạt trong phản ứng, trong giải
quyết công việc. Nếu chỉ có trình độ năng lực chuyên môn mà không có một sức
khỏe dẻo dai, bền bỉ thì cũng không thể biến năng lực chuyên môn ấy thành hoạt
động thực tiễn được. Một người có kiến thức, có năng lực được đào tạo cơ bản, có
nhiệt tình tâm huyết với công việc, có sự tín nhiệm của mọi người nhưng quanh
năm đau ốm, như vậy thì không thể đảm đương được công việc được giao. Hơn
nữa, cấp xã, phường là cấp trực tiếp giải quyết các công việc mà không qua một
cấp trung gian nào khác, mọi công việc phải tự mình đảm nhiệm. Bởi thế sự phát
triển bình thường về thể chất và tâm lý trong một cơ thể khoẻ mạnh cũng là một
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của người cán bộ ở cơ sở.
Mặt khác, độ tuổi hay thâm niên công tác cũng biểu hiện phần nào năng lực

của người cán bộ, công chức. Thông thường tuổi càng cao, thâm niên công tác càng
lâu thì kinh nghiệm của cán bộ, công chức càng nhiều, dày dạn, họ đã tích luỹ được
nhiều kiến thức, nhiều kỹ năng, phương pháp để giải quyết công việc nhanh chóng,
hiệu quả. Tuy nhiên, độ tuổi cũng chỉ là một tiêu chí phản ánh chất lượng cán bộ
công chức một cách tương đối. Một số những người trẻ tuổi họ cũng rất ham hiểu
biết, trình độ, năng lực của họ khá cao mặc dù họ chưa có nhiều kinh nghiệm thực
tế. Vì vậy cần phải nắm được những đặc điểm này để sử dụng cán bộ, công chức
cho phù hợp với từng vị trí và năng lực, trình độ của từng người trong mỗi cơ quan,
tổ chức.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở
Cơ chế hình thành đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
Đây được coi là nhân tố đầu tiên, ảnh hưởng đến chất lượng của đội ngũ cán
bộ, công chức cấp cơ sở. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy rằng việc lựa chọn cán
bộ, tuyển chọn công chức đúng tiêu chuẩn, khách quan thì sẽ xây dựng được một
đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở có trình độ, năng lực và ngược lại. Theo quy
định của pháp luật, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở được hình thành theo cơ chế bầu, đội
ngũ công chức cấp cơ sở được hình thành từ cơ chế tuyển dụng.Cơ chế bầu đội ngũ
cán bộ cấp cơ sởTheo Luật bầu cử HĐND và UBND năm 2003 thì có hai phương
thức để tham gia ứng cử vào HĐND cấp cơ sở là:
thứ nhất, do các tổ chức cơ sở giới thiệu và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến
hành hiệp thương để đưa vào danh sách bầu cử;
thứ hai, công dân địa phương từ đủ 21 tuổi trở lên và có đủ điều kiện theo quy
định thì được tự ứng cử và cũng được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến hành hiệp
thương để đưa vào danh sách bầu cử, công dân địa phương từ đủ 18 tuổi trở lên và
đủ năng lực pháp luật sẽ tham gia bầu cử lựa chọn ra những người ưu tú nhất vào cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Cơ quan hành chính cấp trên phê chuẩn kết
quả bầu cử. HĐND khoá mới sẽ tiến hành họp để bầu ra các thành viên của UBND,
Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND
Như vậy theo cơ chế hình thành đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở như trên
thì có thể thấy trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cơ sở phụ thuộc

rất nhiều yếu tố.
Thứ nhất, phụ thuộc vào mặt bằng dân trí của nhân dân địa phương. Ở đâu
có mặt bằng dân trí cao thì ở đó có đội ngũ đại biểu HĐND có trình độ cao, từ đó
có đội ngũ cán bộ chủ chốt có trình độ cao và ngược lại. Vì thông thường đại biểu
HĐND là những công dân ưu tú của địa phương, đại diện cho nhân dân địa phương
tại cơ quan quyền lực nhà nước.
Thứ hai, phụ thuộc vào chất lượng công tác lựa chọn ứng cử viên và hiệp
thương vào danh sách bầu cử của các tổ chức có trách nhiệm. Việc giới thiệu và
tiến hành hiệp thương mà khách quan và lựa chọn được những người đủ tiêu chuẩn
thì chất lượng của đại biểu được đảm bảo và ngược lại.
Thứ ba, phụ thuộc vào sự lựa chọn sáng suốt của cử tri địa phương. Nếu cử
tri địa phương sáng suốt lựa chọn được những đại biểu ưu tú, đủ đức, đủ tài thì
chính quyền địa phương sẽ có đội ngũ cán bộ chủ chốt có chất lượng và ngược lại.
Tuy nhiên vấn đề này lại phụ thuộc vào đánh giá của cử tri đối với ứng cử viên và ý
thức của cử tri đối với cuộc bầu cử. Điều này lại phụ thuộc vào chất lượng của các
cuộc tiếp xúc giữa ứng cử viên và cử tri; phụ thuộc vào công tác vận động, tuyên
truyền về mục đích, ý nghĩa của cuộc bầu cử và trách nhiệm của cử tri.
Thứ tư, phụ thuộc vào sự lựa chọn sáng suốt của các đại biểu HĐND đối với
các chức danh chủ chốt trong các cơ quan chính quyền.
Cơ chế tuyển dụng công chức cấp xãTrước Nghị định 114/2003/NĐ – CP ngày 10
tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, cán bộ
chuyên môn cấp xã đã được hình thành bằng con đường tuyển dụng như công chức
các cấp, các ngành. Trình độ của đội ngũ công chức cấp xã phụ thuộc vào chất lượng
của quy trình tuyển dụng. Nếu công tác tuyển dụng đúng quy định, lựa chọn được
những công chức đủ tiêu chuẩn chức danh thì sẽ có một đội ngũ công chức có trình
độ chuyện môn, có kỹ năng nghiệp vụ… để hoàn thành tốt công vụ được giao.
Chính sách về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức cấp cơ sở
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao
trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở.
Đào tạo, bồi dưỡng là con đường duy nhất để nâng cao trình độ kiến thức

trong điều kiện đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở bị thiếu hụt nhiều về kiến thức
như hiện nay. Mặc dù trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở có ở mức
thấp nhưng nếu được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên thì họ sẽ có Khóa
chuyên môn vững vàng, trình độ lý luận chính trị và trình độ quản lý nhà nước đáp
ứng tiêu chuẩn. Mặt khác, đào tạo, bồi dưỡng cũng góp phần nâng cao hiệu quả
thực thi công vụ của cán bộ, công chức cấp cơ sở ở những lĩnh vực mà cán bộ,
công chức còn yếu và thiếu. Và nó giúp cho cán bộ, công chức nâng cao, nhận thức
rõ hơn về đạo đức công vụ, về những giá trị, chuẩn mực đạo đức mà họ phải làm.
Tuy nhiên, để đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở có thể tham gia các khoá
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thì chính sách đào tạo, bồi dưỡng của Nhà nước có vai
trò tác động rất quan trọng. Chất lượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng lại phụ
thuộc vào các vấn đề như: Hệ thống các cơ sở đào tạo, chương trình, giáo trình, đội
ngũ giảng viên; Chế độ cho người đi học như tiền ăn ở, đi lại, tiền học phí, thời
gian; Cơ chế đảm bảo sau khi đào tạo, để tránh lãng phí trong đào tạo.
Yếu tố văn hoá địa phương
Nền văn hóa của một địa phương được kết tinh từ nhiều yếu tố. Đó là những
giá trị, niềm tin, những thói quen, trong đó không thể không kể đến những truyền
thống tốt đẹp của địa phương đặc biệt là truyền thống hiếu học của các dòng họ.
Nền văn hoá địa phương tuy không ảnh hưởng trực tiếp nhưng nó gián tiếp ảnh
hưởng đến việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở.
Thực tế là ở đâu có truyền thống hiếu học thì ở đó có mặt bằng dân trí cao,
nguồn nhân lực có trình độ cao. Ở đâu có sự cạnh tranh giữa các dòng họ trong việc
tạo uy danh cho dòng họ thì ở đó đặt ra yêu cầu đối với những người thuộc dòng
tộc trong việc hình thành chí hướng phấn đấu, tiến thủ trên con đường sự nghiệp
công danh, trong việc đảm trách những chức vụ quan trọng trong chính quyền. Tuy
nhiên, nếu sự cạnh tranh này là lành mạnh thì sẽ tạo ra một cơ cấu đội ngũ cán bộ
công chức cấp cơ sở có trình độ, năng lực. Còn nếu có sự cạnh tranh thiếu lành
mạnh, thủ cựu thì sẽ tạo ra một cơ cấu chính quyền bè phái, tranh giành quyền lực
với mọi thủ đoạn. Ở đâu có nền văn hoá lạc hậu, an phận thủ thường thì ở đó sẽ
chậm đổi mới, không tiếp thu được những văn minh của xã hội hiện đại, chậm tiến.

Nền văn hoá như vậy cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến thói quen, tâm lý ỷ
lại, bảo thủ trì trệ… của các nhà lãnh đạo, nó làm cản trở tiến trình phấn đấu nâng
cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở. Có thể thấy các làng văn hoá,
xã văn hoá là những nơi có các gia đình văn hoá, nhân dân ở các địa phương đó có
trình độ dân trí cao, cùng đoàn kết nhất trí xây dựng đời sống văn hoá mới; có niềm
tin vào sự phát triển của làng, xã; có lối sống văn minh, tiến bộ. Những điều đó là
kết quả của việc lãnh đạo sâu sát của cấp chính quyền cơ sở; sự chỉ đạo sáng suốt,
nhiệt tình, và sự năng động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở cũng như nhận
thức tiến bộ của người dân. Chính những giá trị văn hoá tốt đẹp đó đã hình thành nên
một đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở vừa hồng vừa chuyên, vừa có trình độ cao
vừa có phẩm chất đạo đức tốt. Còn ở những nơi nhân dân không nhất trí, đồng
lòng; không hợp tác, giúp đỡ nhau; không có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và
chính quyền cơ sở chứng tỏ nội bộ chính quyền xã lục đục, chia rẽ, mất đoàn kết
hay năng lực cán bộ lãnh đạo yếu kém, nhiều hiện tượng tiêu cực xảy ra, hoạt động
công vụ của cán bộ, công chức không hiệu quả. Và những giá trị văn hoá không
tích cực đó đã sản sinh ra những con người, những cán bộ, công chức quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, cá nhân chủ nghĩa, sách nhiễu nhân dân; trở thành những
“quan tham cách mạng”.
Như vậy, nền văn hoá địa phương có thể ảnh hưởng tốt hoặc không tốt đến
khuynh hướng phấn đấu của mọi người dân địa phương nói chung và với đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở nói riêng.
3.4 Chế độ chính sách đảm bảo lợi ích vật chất đối với đội ngũ cán bộ,
công chức cơ sở
Chế độ chính sách đảm bảo lợi ích vật chất đối với đội ngũ cán bộ, công
chức cấp cơ sở bao gồm các chế độ, chính sách như: tiền lương, phụ cấp, tiền
thưởng, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội… Đây chính là một trong những yếu tố
thúc đẩy sự tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân cũng như là động lực, là điều kiện
đảm bảo để họ phấn đấu nâng cao trình độ, năng lực trong việc hoàn thành tốt công
việc được giao.
Khi các chế độ, chính sách đảm bảo lợi ích vật chất đối với đội ngũ cán bộ

công chức cấp cơ sở được đảm bảo sẽ tạo nên những tiền đề và động lực sau: Thứ
nhất, đảm bảo thu nhập và các điều kiện sống cần thiết cho cán bộ, công chức cấp
cơ sở và gia đình họ; Thứ hai, đây là điều kiện để mỗi cán bộ, công chức cấp cơ sở
có thể học tập để nâng cao trình độ; Thứ ba, nó là mục tiêu, động lực phấn đấu,
cạnh tranh của nhiều người trong việc nâng cao trình độ, năng lực.
Thực tế cho thấy chỉ khi con người được đảm bảo các nhu cầu tối thiểu cho
cuộc sống hàng ngày thì con người mới nghĩ đến những nhu cầu cao hơn. Cũng
vậy, chỉ khi người cán bộ, công chức cấp cơ sở được đảm bảo về kinh tế, đảm bảo
về các phúc lợi xã hội họ được hưởng thì họ mới có thể nghĩ đến việc học tập để
nâng cao trình độ. Ngoài ra, khi cán bộ, công chức cấp cơ sở đã có các điều kiện
thuận lợi hay đảm bảo; có động lực để phấn đấu thì cũng thúc đẩy được việc học
tập nâng cao trình độ của họ.
Chính vì vậy, chế độ, chính sách đảm bảo lợi ích vật chất vừa là điều kiện,
vừa là động lực đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở trong việc nâng cao
trình độ.
Yếu tố nhận thức của cán bộ, công chức
Đây chính là yếu tố cơ bản và quyết định nhất chất lượng của mỗi cán bộ,
công chức nói riêng và đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở nói chung bởi vì nó là yếu
tố chủ quan, yếu tố nội tại bên trong của mỗi con người. Nhận thức đúng là tiền đề,
là kim chỉ nam cho những hành động, những việc làm đúng đắn, khoa học và
ngược lại. Nếu người cán bộ, công chức nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của
việc phải nâng cao trình độ để giải quyết công việc, để tăng chất lượng thực thi
công vụ thì họ sẽ tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng một cách tích cực, ham mê
và có hiệu quả. Họ sẽ có ý thức trong việc tự rèn luyện, trau dồi, học hỏi những
kiến thức, kỹ năng mới, những phương pháp làm việc có hiệu quả. Nếu họ biết
được vấn đề nâng cao đạo đức công vụ là hết sức quan trọng, là cái mà nhìn vào đó
người ta có thể đánh giá được chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, tính hiệu
lực, hiệu quả của nền hành chính hiện có thì họ sẽ luôn có ý thức để rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức, phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ, giữ vững đạo đức, phẩm chất
cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm.

Ngược lại, khi cán bộ, công chức còn xem thường những chuẩn mực đạo
đức, nhân cách, nên thiếu nghiêm khắc với bản thân, không thường xuyên rèn
luyện, tu dưỡng, dùi mài tinh thần trách nhiệm sẽ dẫn đến việc mắc bệnh quan liêu,
mệnh lệnh, chủ quan, tự tư, tự lợi, tư tưởng cục bộ, địa phương; phai nhạt lý tưởng,
mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, tha hóa về đạo đức, lối
sống. Từ đó, dẫn đến tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà đối
với nhân dân và lợi dụng chức trách, thẩm quyền được Nhà nước và nhân dân giao
phó để nhận hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, làm biến dạng những giá trị và tiêu
chuẩn đích thực của người cán bộ, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng làm
suy giảm uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước.
Như vậy, nhận thức là vấn đề đầu tiên cần quan tâm trong việc nâng cao chất
lượng cán bộ công chức cấp cơ sở cũng như các cấp khác trong bộ máy nhà nước
hiện nay.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ
HUYỆN NÔNG SƠN TỈNH QUẢNG NAM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI
HUYỆN NÔNG SƠN TỈNH QUẢNG NAM
Nông Sơn là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam được chia tách từ
huyện Quế Sơn theo Nghị định số 42/2008/NĐ-CP ngày 08/4/2008 của Chính phủ,
có điều kiện địa lý: Phía Bắc giáp với huyện Duy Xuyên và Đại Lộc, phía Nam giáp
với huyện Hiệp Đức và huyện Phước Sơn, phía Đông giáp với huyện Quế Sơn, phía
Tây giáp với huyện Nam Giang; có diện tích 457,92 km². Toàn huyện có 7 xã, 39
thôn, dân số là 31.662 người. Trung tâm hành chính huyện đặt tại thôn Trung Phước
1, xã Quế Trung.
Bản đồ huyện Nông Sơn
Nông Sơn có tỉ lệ hộ nghèo (55,88%), hộ cận nghèo (27,76%) cao. Trong
những năm qua, được sự hỗ trợ của trung ương, tỉnh cùng với sự nỗ lực phấn đấu
của Đảng bộ và nhân dân trong huyện, nhiều chương trình phát triển kinh tế-xã hội
được đầu tư và triển khai thực hiện đạt được một số kết quả nhất định trên các lĩnh

vực kinh tế, xã hội; an ninh quốc phòng; công tác xây dựng Đảng Việc thực hiện
Nghị quyết TW5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”đã góp phần xây dựng các thiết chế văn hóa, sự hưởng
thụ các giá trị văn hóa được nâng lên; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày
càng được cải thiện. Sau gần 5 năm (2008-2012) tiếp tục triển khai thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về “Xây dựng và phát triển nền Văn hoá Việt Nam
tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, huyện Nông Sơn đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thực
hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là hướng vào thực hiện Cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Đồng thời,
củng cố xây dựng và hoàn thiện môi trường văn hóa, các thiết chế văn hóa, tập trung
xây dựng con người văn hóa, môi trường văn hóa. Qua đó, đã góp phần tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hành động của các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các ngành, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong toàn huyện. Nếu như năm
2008, sau khi chia tách huyện Quế Sơn để thành lập mới huyện Nông Sơn, toàn
huyện có 5.692 hộ đạt “Gia đình văn hóa” (bằng 81% số hộ đăng ký); 12/31 thôn
được công nhận danh hiệu “Thôn văn hoá” cấp huyện (38,7%); 22 cơ quan đạt tiêu
chuẩn cơ quan văn hóa thì đến năm 2012 có 6.805 hộ đạt “Gia đình văn hóa” (bằng
88,3%), 26/39 thôn đạt “Thôn văn hóa” (bằng 66,7%) và 70 cơ quan đạt tiêu chuẩn
“Đơn vị cơ sở có đời sống văn hóa tốt”. Đến nay, toàn huyện có 30/39 thôn có nhà
sinh hoạt cộng đồng; 16 sân bóng đá, 28 sân bóng chuyền, trong đó có 13 sân được
bê tông hóa, 4 sân cầu lông, 7 đội bóng đá, 14 đội bóng chuyền nam, nữ nòng cốt
của các xã, 62 đội văn nghệ quần chúng; 3/7 xã có trạm truyền thanh với trên 50 loa
phóng thanh, 82 cổng chào kiên cố, 3/7 xã có Bưu điện văn hóa xã, có 7 tủ sách
pháp luật tại UBND các xã. Nông Sơn là nơi hội tụ của nhiều phong tục, tập quán.
Phong phú về văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh và lễ hội. Nơi đây cũng là vùng đất học
với nhiều nhà tri thức nổi tiếng như “Tứ kiệt” Nguyễn Đình Hiến, bác sỹ Bùi Kiến
Tín, giáo sư Hoàng Châu Ký, nhà thơ Tường Linh v.v…Nông Sơn xưa là căn cứ địa
cách mạng. Những địa danh lịch sử như: Tân Tỉnh -Trung Lộc, của cụ Hường Hiệu,
thời kỳ 1885-1887; Khu chiến Hoàng Văn Thụ, thời kỳ 1946-1954…ghi dấu một

thời oanh liệt của bao thế hệ cách mạng anh hùng đã lập nên nhiều chiến công vang
dội; góp phần tô thắm thêm những trang sử vẻ vang của quê hương, dân tộc, làm cho
kẻ thù khiếp vía. Bia chiến thắng Nông Sơn – Trung Phước (18/7/1974) là minh
chứng cho tinh thần chiến đấu quật cường, dũng cảm, khó khăn không sờn lòng,
hiểm nguy không lùi bước, của quân và dân Nông Sơn trong cuộc kháng chiến
trường kỳ…
Ngoài ra huyện còn có các đơn vị trực thuộc gồm 12 phòng, ban quản lý
Nhà nước, 6 đơn vị sự nghiệp, trường THCS, Tiểu học, Mầm non và các tổ chức
xã hội khác. Với đặc điểm tự nhiên và xã hội như vậy thực hiện chức năng quản lý
nhà nước UBND huyện đã làm tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đồng
thời nâng cao chất lượng trong việc sắp xếp cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ
quan, cũng như nâng cao hiệu quả làm việc của toàn bộ bộ máy trong đó đội ngũ
cán bộ, công chức giữ vai trò quan trọng đặc biệt là đối với công tác tổ chức cán
bộ. Với hơn 90% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, trong điều kiện
hội nhập hiện nay sử dụng hợp lý và phát huy có hiệu quả năng lực đội ngũ cán bộ
công chức hiện có là yếu tố quan trọng hàng đầu để thúc đẩy sự phát triển kinh tế
xã hội của huyện. Đó là công việc nhằm giải quyết, quản lý các hoạt động kinh tế
xã hội của huyện sao cho hợp lý và hiệu quả nhất, phát huy được những điểm
mạnh, lợi thế của huyện đồng thời khắc phục những hạn chế, khó khăn mà huyện
đang gặp phải. Huyện ủy Nông Sơn đã đề ra 6 nhiệm vụ và 7 nhóm giải pháp chủ
yếu nhằm tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khoá VIII) gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về phát
triển văn hoá nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển kinh tế-
xã hội. Trong đó, chú trọng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng đối
với công tác văn hoá, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền gắn với “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tăng cường công tác quản lý nhà nước
trên lĩnh vực văn hoá
II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ
HUYỆN NÔNG SƠN
Toàn huyện Nông Sơn có 275 cán bộ, công chức cấp cơ sở, trong đó có 142

cán bộ chuyên trách và 133 công chức cấp xã; trung bình mỗi xã có trên 19 cán bộ,
công chức là mức đạt chuẩn về số lượng theo Nghị định số 121/2003/NĐ – CP
ngày 21/10/2004 của Chính Phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ công chức
cấp xã, phường, thị trấn.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY UBND HUYỆN
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện Nông Sơn có một số đặc điểm sau
đây:
a. Về nguồn cán bộ:
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện được hình thành từ 2 nguồn
chủ yếu là nguồn tại chỗ và hưu trí. Theo số liệu thống kê của Ban Tổ chức huyện
uỷ và Phòng Nội vụ thuộc UBND huyện, có 95% số cán bộ, công chức
cấp cơ sở trong huyện thuộc nguồn tại chỗ. Đó là những người trưởng thành từ
phong trào địa phương, bộ đội xuất ngũ được bầu cử vào HĐND (chiếm 51% cán
bộ, công chức cấp cơ sở của huyện). Nguồn hưu trí tập trung ở cán bộ chủ tịch Hội
Cựu chiến binh. Đây không chỉ là đặc điểm riêng của huyện mà là đặc
điểm chung của cán bộ, công chức cấp cơ sở vùng nông thôn nước ta hiện nay.
Cũng chính đặc điểm này ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ cán bộ, công chức cấp
cơ sở của huyện.
b. Về giới tính:
Cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Nông Sơn có sự chênh lệch khá lớn về
giới: Số lượng cán bộ, công chức nam có 229/275 người chiếm 83,5%; số lượng
cán bộ, công chức nữ là 46/275 người chiếm 16,5%. Tuy nhiên, tỉ lệ cán bộ, công
chức nữ ở các xã, thị trấn trên địa bàn huyện đã tăng lên so với những năm trước và
cao hơn so với mặt bằng chung trong cả nước. Cán bộ, công chức nữ thường làm
công tác vận động, tuyên truyền trong các đoàn thể, các hội như: Hội Phụ nữ, Đoàn
Thanh niên, Hội Nông dân,…và công tác chuyên môn như: Văn phòng – Thống kê,
Tư pháp – Hộ tịch, Tài chính – Kế toán, Văn hoá – Xã hội. Những năm gần đây,
đã xuất hiện một số cán bộ, công chức nữ giữ các vị trí chủ chốt trong hệ thống
chính quyền cơ sở của huyện. Đây chính là dấu hiệu đáng mừng trong xu thế hội
nhập, dân chủ hoá đời sống kinh tế chính trị xã hội của huyện Nông Sơn nói riêng và

của cả nước nói chung.
c. Về độ tuổi:
Theo thống kê có 34/275 người dưới 35 tuổi, chiếm 12,5% ; 71/275 người
trong độ tuổi 36 – 45, chiếm 25,9%; 137/275 người trong độ tuổi 46 – 55, chiếm
50%; 33/275 người trên 55 tuổi, chiếm 11,6%. Về thâm niên công tác của cán bộ,
công chức cấp cơ sở huyện Nông Sơn như sau: Dưới 5 năm là 69/275 người, chiếm
25,3%; từ 6 – 10 năm là 75/275 người, chiếm 27,4%; từ 11 – 20 năm là 76 người,
chiếm 36,6%; trên 20 năm là 30/275 người, chiếm 10,7%. Với hai tiêu chí trên có
thể thấy cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Nông Sơn chưa được trẻ hoá, độ tuổi
trên 50 còn chiếm tỷ lệ cao. Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng
của cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện. Tất cả những đặc điểm trên là một số
yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng trình độ nói riêng và chất lượng nói chung của cán
bộ, công chức cấp cơ sở của huyện sẽ được phân tích dưới đây.
1. Thực trạng trình độ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Nông Sơn
Bảng 1: trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Nông Sơn
Số lượng
275
(người)
Dưới THPT Tốt nghiệp
THPT
Chưa qua
bồi dưỡng
sơ cấp trung cấp
– cao
đẳng
cử nhân
Về trình
độ học
vấn
39 (14%)

236
(86%)
Về trình
độ lý
luận
chính trị
70
(25,6%)
10
(3,7%)
195
(70,7%)
Về trình
độ
chuyên
môn
67
(24,3%)
8
(3,0%)
153
(55,8%)
47
(16,9%)
Về trình
độ quản
lý nhà
nước
221
(80,5%)

54
(19,5%)
Trình độ tin học và ngoại ngữ :

Có 60/275 người có trình độ tin học, chiếm 21,9% tổng số cán bộ, công chức
cấp cơ sở của huyện. Chưa có cán bộ, công chức nào có trình độ ngoại ngữ. Đây là
một hạn chế rất lớn về trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Nông
Sơn đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập và mở cửa hiện nay.
Qua các số liệu trên ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, trình độ học vấn của cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Nông Sơn
là khá cao (tốt nghiệp THPT 86%) so với mặt bằng xã hội, đặc biệt ở vùng nông
thôn. Đây là tiền đề thuận lợi cho việc tiếp thu, lĩnh hội các kiến thức khác cũng

×