Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

tìm hiểu hoành phi và câu đối tại một số chùa ở huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.14 KB, 85 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Khi nhắc đến những di sản văn hóa của Việt Nam nói chung, và đặc biệt
đối với Cố đô Huế nói riêng, thì không thể không nhắc đến hệ thống các
chùa chiền đã gắn liền với lịch sử của dân tộc, với lịch sử của Cố Đô. Mỗi
khi nghĩ đến Huế ngoài những lăng mộ, cung điện của triều Nguyễn ra, thì
người ta còn luôn nghĩ đến những ngôi chùa cổ trang nghiêm mà gần gũi
với đời sống tinh thần của người dân xứ Huế.
Đến với những danh lam cổ tự, bên cạnh thưởng ngoạn cảnh chùa trong
một thiên nhiên mỹ lệ hay tận hưởng một bầu không khí trầm lắng, thanh
thoát và nhẹ nhàng, người ta còn có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn những di
sản văn hóa phi vật thể, những cái đã làm nên phần hồn sâu sắc trong các
ngôi chùa, đó là những hoành phi và câu đối được bài trí tại đây.
Trong ý nghĩa bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, việc tìm hiểu
hoành phi câu đối ở các danh lam sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn một mảng
văn hóa tinh thần mà bao đời nay đã dày công sáng tạo và gìn giữ. Đó
cũng là một cách giới thiệu hiệu quả để nhiều người hiểu được một phần
nào thế giới tinh thần, tín ngưỡng của người dân Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lâu nay việc nghiên cứu về chùa Huế đã được rất nhiều giới quan tâm.
Nhiều công trình đã đi sâu khảo cứu về mặt lịch sử hình thành, những thế
hệ cao Tăng đã khai sáng ra chùa chiền, như Lịch sử Phật giáo xứ Hếu
của Thích Hải Ấn và Hà Kim Liên(2011); Những ngôi chùa nổi tiếng Việt
Nam của Võ Văn Tường (1994); Văn bia chùa Huế (lưu hành nội bộ) của
Giới Hương Việc khảo sát hoành phi, câu đối cũng đã được nhiều cán bộ
ở các trường Đại học trong và ngoài Huế quan tâm. Tuy nhiên đây là một
mảng nghiên cứu không mấy dễ dàng, bởi số lượng các chùa và các danh
lam ở Huế quá nhiều, việc dịch thuật không chỉ một lần là xong vì nội
dung uyên áo của giáo lý nhà Phật được thể hiện trong các hoành phi câu
đối đòi hỏi có sự hợp sức của nhiều người và nhiều thế hệ, mới mong có
được một hệ thống nghiên cứu thích đáng về mảng di sản văn hóa đáng


quý này.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
Do điều kiện thời gian, chúng tôi chỉ chọn khảo sát 8 ngôi chùa tạm gọi là
tiêu biểu nhất ở Huế. Qua công tác khảo sát thực tế, chúng tôi sưu tập các
hoành phi, câu đối tại các chùa trên và tiến hành phiên âm, dịch nghĩa,
phân tích nội dung cũng như đánh giá sơ bộ về giá trị của chúng trong
tổng thể kiến trúc chùa Huế. Do điều kiện về thời gian, chúng tôi chỉ tập
trung khảo sát hoành phi, câu đối trong không gian kiến trúc chính của
ngôi chùa như cổng, tiền đường, chánh điện, đông lan, tây lan
(1)
. Các câu
1
đối tại các mộ, bia ký
(2)
, bi đình
(3)
, tháp trong khuôn viên chùa xin được
phép khảo cứu trong một đề tài khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã vận dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Sưu tầm, phân loại, thống kê, dịch thuật để hoàn chỉnh tư liệu.
- Phân tích, chứng minh, so sánh và khái quát hóa để làm rõ đối
tượng khảo sát.
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: giới thiệu khái quát về hoành phi và câu đối truyền thống
1. hoành phi
1.1 cấu trúc hoành phi
Hoành phi (横横) thường được hiểu là tấm bảng có chữ viết được treo
theo hàng ngang. Hoành phi còn gọi là hoành phúc (横横), biển横横横, biển

ngạch横横横横 hoặc bài biển横横横横.
Hoành phi vốn là bức thư họa横横横横,
tức là bức “tranh chữ”. Thay vì viết
những nét chữ “rồng bay, phượng múa”
lên giấy, vải, lụa…, người xưa đã
chạm, khắc, sơn thiếp
(4)
… văn tự lên
những chất liệu bền vững như gỗ, đá…
để tạo ra những bức “tranh chữ” bề thế,
sang trọng. Người ta còn gọi là hoành
phi-đại tự, vì những chữ được thể hiện trên hoành phi thường rất to. Số
lượng chữ trong một bức hoành phi không bắt buộc nhưng phổ biến là
các hoành phi hai, ba và bốn chữ. Một hàng hoành phi hoàn chỉnh thường
có ba bức ( bức chính ở giữu và hai bức tả liên
(5)
, hữu liên
(6)
ở hai bên).
Khi đọc chữ hoành phi ta đọc từ phải sang trái.
Có hai loại hoành phi khá phổ biến ở nước ta: hoành phi trang trí và
hoành phi thờ tự. Hoành phi trang trí thường được treo ở phòng khách
hay ở chính đường (gian giữa của tòa nhà), vừa để trang trí, vừa thể hiện
một tín niệm nào đó của chủ nhân, có khi là một lời khuyên dạy của tiền
nhân với hậu duệ trong gia tộc. Hoành phi thờ tự là loại hoành phi phổ
biến trong các đình chùa, miếu vũ, nhà thờ họ tộc… Đó có thể là những
biển ngạch định danh những nơi này, hoặc là những danh ngôn, mỹ tự
được thờ phụng, tôn trí trang nghiêm.
1.2 Đặc điểm của hoành phi
Thường hoành phi, câu đối bao giờ cũng đi cùng một diềm gỗ sơn

thiếp trang trí cho gian giữa của một ngôi nhà cổ. Phần điểm xuyết mang
2
tính ước lệ để ngăn cách không gian giữa nhà chính với nơi thờ phụng
trong một ngôi nhà cổ này gọi là: Cửa võng. Cửa võng thường làm theo
lối chạm thủng
(7)
, cũng có khi thấy chỉ đục “nẩy nền”
(8)
. Nhưng dù cách
nào, cửa võng cũng là do các tay nghề lão luyện đục chạm với thiên hình
vạn trạng các mô típ trang trí từ hoa lá, cỏ cây đến chim muông, cầm
thú… Đa số cửa võng như một điểm nhấn của kiến trúc thường được
thiếp vàng hoặc bạc. Trải theo thời gian các cửa võng cổ đến nay vẫn còn
rất cổ kính, trang nghiêm.
Đa phần hoành phi là sơn thiếp, nhưng cũng có khi lại khảm trai, khảm
ốc
(9)
. Có bức khảm ốc cũ, lên nước đỏ rất quý; nhưng loại này rất hiếm.
Nền của hoành phi có khi chỉ là lớp sơn ta đen
(10)
hoặc thuần một màu son
sâu thẳm; nhưng cũng có khi chạy chữ vạn
(11)
hoặc cẩm quy
(12)
, điểm mây
lãng đãng rồi phủ vàng hoặc bạc trông thật quý phái.
Nội dung của hoành phi thường nghiêm túc, trang trọng. Hình thức của
hoành phi cũng rất phong phú:
có khi chỉ là một mảnh gỗ

hình chữ nhật có khung bao
quanh, văn tự thể hiện chân
phương, sơn son thiếp vàng;
có khi hoành phi được thể
hiện kiểu cuốn thư
(13)
, văn tự
khắc nổi hay chạm sâu theo
các kiểu chữ triện, chữ lệ
(14)
rất cầu kỳ, được sơn thiếp rực rỡ, khung
ngoài có khắc chạm các đồ án trang trí rất tinh xảo.
2. Câu đối
2.1 Nguồn gốc
Câu đối có nguồn gốc từ người Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi
câu đối là Đối liên横横横横 nhưng tên gọi xưa của nó là Đào phù (横横).
Câu đối được xem là tinh hoa của văn hóa chữ Hán, người Trung
Quốc quan niệm: "Nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là
tinh hoa của tinh hoa".
Đối liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng
theo Tống sử Thục thế gia (宋史蜀世家)
(15)
, câu đối đầu tiên được ghi
lại do chính chúa nhà Hậu Thục (934-965) là Mạnh Sưởng viết trên
tấm gỗ đào vào năm 959
.

Nguyên bản:
新年納餘慶
3

嘉節號長春
Phiên âm:
Tân niên nạp dư khánh
Gia tiết hiệu trường xuân
Dịch thơ:
Năm mới thừa chuyện vui
Tiết đẹp xuân còn mãi
2.2 Những nguyên tắc cấu tạo của câu đối
2.2.1 Đối ý và đối chữ
• Đối ý: hai ý đối phải cân nhau mà đặt thành 2 câu sóng nhau.
• Đối chữ: phải xét 2 phương diện thanh và loại.
- Về thanh: thanh bằng đối với thanh trắc và ngược lại.
- Về loại: thực tự (hay chữ nặng như: trời, đất, cây ) phải đối
với thực tự; hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà, vậy, ru ) phải đối
với hư tự; danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với
động từ, rất chặt chẽ.
Vd:
横横横横横横横
横横横横横横横
Phúc mãn đường niên tăng phú quý
Danh Động Danh Danh Động Danh
Đức lưu quang nhật tiến vinh hoa
Danh Động Danh Danh Động Danh
2.2.2 Vế câu đối
Một đôi câu đối gồm hai câu đi song song nhau, mỗi câu là một
vế. Nếu câu ấy từ một người sáng tác gọi là vế trênvà vế dưới. Nếu
một người nghĩ ra một vế để người khác làm vế kia thì gọi là vế
ra và vế đối.
Khi một câu đối do một người làm ra cả hai vế, thì chữ cuối, vế
trên, câu bên phải (khi treo) là thanh trắc; còn chữ cuối, vế dưới,

câu bên trái là thanh bằng.
Vd: 横横横横横横横
横横横横横横横
4
(Câu đối chùa Quốc Ân-Huế)
Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt
( Trắc)
Vạn lý vô vân vạn lý thiên
( Bằng)
2.2.3 Số chữ và các thể câu đối
Số chữ trong câu đối không nhất định, theo số chữ và cách đặt
câu có thể chia câu đối ra làm các thể sau:
1 Câu tiểu đối: là những câu 4 chữ trở xuống.
Vd: 横横横 横横横
Tánh tương cận - Tập tương viễn
(Tam tự kinh)
2 Câu đối thơ: là những câu làm theo lối đặt câu của
thể thơ ngũ ngôn
(16)
hoặc thất ngôn
(17)
.
Vd: 横横横横横横横
横横横横横横横
Liên tọa đài tiền hoa hữu thực
Bồ đề thụ thượng quả thanh nhàn.
Dịch nghĩa:
Tòa sen đài trước hoa đầy đủ
Cổ thụ bồ đề quả thanh nhàn.
3 Câu đối phú: là những câu làm theo các lối đặt câu

của thể phú, gồm có:
- Lối câu song quan: là những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một
đoạn liền. Vd:
横横横横横横横横横
横横横横横横横横横
Di hiếu vi trung đắc kỳ môn nhi nhập,
Duyên tử ngộ thoát vu bỉ ngạn tiên đăng.
(câu đối chùa Từ Hiếu-Huế)
Dịch nghĩa:
Chuyển điều hiếu làm trung thành, được của này mà vào,
5
Dựa lòng từ hiểu giải thoát, ở bờ kia lên trước.
- Lối câu cách cú: là những câu mà mỗi vế chia làm 2 đoạn, một
đoạn ngắn, một đoạn dài. Vd:
横横横横横横横横横
横横横横横横横横横
Thảo ốc an cư, tích kim quang đắc đức
Bố y tùy phận, cầu phúc đắc lai tài.
( ST)
Dịch nghĩa:
Nhà cỏ ở yên, tích kim quang được phước
Áo vải an thân, cầu phúc đức đến tài.
- Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế có 3 đoạn trở
lên. Vd:
横横横横横横横横横横横横横横横横横横横
横横横横横横横横横横横横横横横横横横横
Biển chu mê vụ, cử trác kích kinh, đào thanh đoạn cửu thiên,
trường xướng vô sanh vô ngã
Kiều mộc tằng nham, phất vân khuy hạo, nguyệt ảnh phù không
dã, thùy tri tức vọng tức chân.

(Câu đối chùa Linh Mụ-Huế)
Dịch nghĩa:
Thuyền nhỏ sương mờ, nhấc chèo khua gậy, tiếng sóng dứt giữa
chín trời, xướng mãi vô ngã vô thanh,
Cây cao bên vực, vén mây nhìn tỏ,bóng trăng nổi chốn thinh
không, ai hay là giả là chân.
2.2.4 Luật bằng trắc
1. Câu tiểu đối:
- Vế phải: trắc-trắc-trắc
- Vế trái: bằng-bằng-bằng
VD: 横横横
横横横
Nhân chi sơ
Tánh bản thiện
6
2. Câu đối thơ: phải theo đúng luật bằng trắc của hai câu
thực và câu luận trong lối thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
3. Câu đối phú: Chữ cuối mỗi vế và chữ cuối mỗi đoạn
phải bằng đối với trắc hoặc trắc đối với bằng. Khi mỗi vế
đối có từ 2 đoạn trở lên thì nếu chữ cuối vế là trắc, các chữ
cuối các đoạn trên phải là bằng và ngược lại. Nếu đoạn đầu
hoặc đoạn dưới có đúng 7 chữ thì đoạn ấy thường theo luật
thơ thất ngôn.
2.3 Phân loại câu đối
2.3.1 Câu đối Trung Quốc
Người Trung Quốc phân loại câu đối theo cách dùng và đặc điểm nghệ
thuật:
Phân loại theo cách dùng
• Xuân liên (春聯): Câu đối xuân, chuyên dùng vào dịp Tết, gắn ở
cửa. Vd横

横横横横横横横
横横横横横横横
Tân niên hạnh phúc bình an tiến
Xuân nhật vinh hoa phú quý lai.

ST

Dịch nghĩa:
Năm mới hạnh phúc bình an đến
Ngày xuân vinh hoa phú quý về.
• Doanh liên (楹聯): Câu đối treo ở cột trụ, dùng trong nhà, cơ
quan, cung điện của vua và những nơi cổ kính. Vd:
横横横横横横横
横横横横横横横
Tiên tổ phương danh lưu quốc sử
Tử tôn tích học hiển gia phong.
(ST)
Dịch nghĩa:
Tiên tổ tiếng thơm ghi sử nước
Cháu con tích học rạng cơ nhà.
Hạ liên (賀聯): Câu đối chúc mừng, thường được dùng
để chúc thọ, chúc sinh nhật, hôn giá, thăng quan tiến chức,
có con, khai nghiệp v.v.
7
Vd: 横横横横
横横横横
Phúc như Đông hải
Thọ tỷ Nam sơn.
• Vãn liên (挽聯): Câu đối than vãn, dùng trong lúc ai điệu tử vong.
Vd:

横横横横横
横横横横横
Anh linh chiếu nhật nguyệt
Can đảm ánh sơn hà
(ST)
Dịch nghĩa:
Anh linh ngời nhật nguyệt
Can đảm ánh non sông
(câu đối phúng điếu anh hùng liệt sĩ)
• Tặng liên (贈聯): Dùng để tán thán, đề cao hoặc khuyến khích
người khác.
横横横横横
横横横横横
Hung hoài thiên lý chí
Cước đạp vạn trùng san
(ST)
Lòng mang chí ngàn dặm
Chân đạp núi muôn trùng
• Trung đường liên (中堂聯): Câu đối dùng để treo ở những
khách đường lớn, chỗ nhiều người lưu ý, và được phối hợp
với bút hoạch (thư pháp). Vd:
横横横横横横横
横横横横横横横
Hoa đường hỷ đối sơn hà tú
Phúc trạch hân nghinh nhật nguyệt huy.
(ST)
Dịch nghĩa:
Nhà hoa mừng ngắm non sông đẹp
Đất phúc hoan nghinh nhật nguyệt ngời.
Phân loại theo đặc điểm nghệ thuật

8
• Điệp tự liên (疊字聯): Một chữ xuất hiện liên tục.
VD:
横横横横横横横横横横横横横横横横横
横横横横横横横横横横横横横横横横横
Xích diện bĩnh xích tâm kì xích thố truy phong trì khu
thần vô vong xích đế
Thanh đăng quán thanh sử trượng thanh long uyển
nguyệt ẩn vi sứ bất quý thanh thiên
(Câu đối ở chùa Từ Hiếu, Huế)
• Phức tự liên (複字聯): Hai vế có chữ giống nhau nhưng không
xuất hiện một cách trùng phức liên tục.
VD: 横横横横横横横
横横横横横横横
Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt
Vạn lý vô vân vạn lý thiên
(Câu đối ở chùa Quốc Ân, Huế)
• Đỉnh châm liên (頂針聯): Chữ nằm phần đuôi của câu đầu lại là
chữ đầu của câu sau.
VD: 生生死死,死死生生,
先生先死,先死先生
Sanh sanh tử tử, tử tử sanh sanh,
Tiên sanh tiên tử, tiên tử tiên sanh
(ST)
• Khảm tự liên (嵌字聯): Bao gồm số, phương vị, tiết khí, niên
hiệu, họ người, nhân danh, địa danh, vật danh (ví như tên thuốc) v.v.
VD:
横横横横横横横横横横横横横横横横
横横横横横横横横横横横横横横横横
Hương Giang kỳ bắc Ngự lĩnh kì nam thiên vạn thế từ

phong truyền tự cổ,
Cảnh Hưng dĩ tiền Vĩnh Thịnh dĩ hậu sổ bách niên
phạm vũ tráng vu kim.
9
(Câu đối ở chùa Báo Quốc, Huế)
• Xích (sách) tự liên (拆字聯): Mỗi hợp thể tự bên trong câu đối
tách thành bao nhiêu chữ đơn thể, có người phân ra tinh tế hơn nữa là mở
chữ ra (xích tự 拆字), hợp chữ lại (hợp tự 合字), tách chữ ra (tích tự 析
字) v.v.
VD: 木木林森木
人人拆拆人
Mộc mộc lâm sâm mộc
Nhân nhân tùng chúng nhân
(ST)
• Âm vận liên (音韻聯): Bao gồm đồng âm dị tự, đồng tự dị
âm cùng với điệp vận.
VD: 白云峰,峰上拆,拆吹拆拆峰不拆
拆拆路,路拆拆,露打拆拆路未拆
Bạch vân phong, phong thượng phong, phong truy phong
động phong bất động.
Thanh tư lộ, lộ biên lộ, lộ đã lộ phi lộ vị phi.
(ST)
• Hài thú liên (諧趣聯): Hàm dung ý nghĩa khôi hài, ẩn kín.
VD: 童子看椽,一二三四五六七八九十;
先生拆命,甲乙丙丁戊已庚辛壬癸。
Đồng tử khán mục, nhất nhị tam tứ ngũ lục thất bát cửu
thập,
Tiên sinh giảng mạng, giáp ất bính đinh mậu kỷ canh tân
nhâm quý.
(ST)

• Hồi văn liên (回文聯): Đọc xuôi (thuận độc 順讀) hay đọc ngược
(đảo độc 倒讀) ý tứ hoàn toàn như nhau.
VD: 客上天然居 居然天上客
Khách thượng thiên nhiên cư Cư nhiên thiên thượng
khách
2.3.2 Câu đối việt nam
 Phân loại
10
Câu đối Việt Nam được Dương Quảng Hàm
(18)
phân loại theo ý
nghĩa, gồm các loại sau:
• Câu đối mừng: Làm để tặng người khác trong những dịp vui
mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới
Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.
Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm
(Nguyễn Khuyến, viết mừng một chánh tổng trước bị cách
chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)
• Câu đối phúng: Làm để viếng người chết.
Nhà chỉn nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt
lưng bó que, xắn váy quai cồng,
tất tưởi chân nam đá chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việc
Bà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ
hành, buông quần lá toạ,
gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm
năm.
(Nguyễn Khuyến: câu đối khóc vợ)
• Câu đối Tết: Dùng để dán ở trong nhà, cửa, đền, chùa về dịp Tết
Nguyên Đán.
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra

cửa.
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc
vào nhà.
(Nguyễn Công Trứ)
Tết đến không tiền vui chi Tết
Xuân về kết gạo đón chi Xuân.
• Câu đối thờ: Là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần
thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ.
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.
(Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng
mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu
thảo là cần trước hết)
hoặc:
Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh
11
Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang
(Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia)
Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh
tự tại.
Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.
(Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức, Huế).
• Câu đối tự thuật: Là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và
thường dán hoặc treo ở những chỗ thưởng ngoan sơn thủy, tân giao với
bạn bè.
Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc
bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.
Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm,
cầm, thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh
(Nguyễn Công Trứ, câu đối tự thuật)

• Câu đối đề tặng: Là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó
hoặc tặng cho người khác.
Nếp giàu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng
(Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán
giàu (trầu) nước)
• Câu đối tức cảnh: Là những câu tả ngay cảnh trước mắt.
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
(Hồ Xuân Hương, vịnh cảnh trượt chân, ngã
xoạc cẳng)
• Câu đối chiết tự (chiết: bẻ gãy, phân tích; tự: chữ): Là những câu
do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc từng phần mà đặt
thành câu.
Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai
con nấy?
Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa,
đứa nào đứa này?
• Câu đối trào phúng: Là những câu làm để chế diễu, châm chích
thời thế, sự việc, hiện tượng hay một người nào đó.
Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại.
12
Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi
(Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa
thi võ)
• Câu đối tập cú: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở tục
ngữ, ca dao.
Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối
xay không ngõng.
Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc

đứt đuôi.
• Câu đối thách (đối hay đố): người ta còn nghĩ ra những câu đối
oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối
này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm khác nghĩa
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc,
nó cạch đến già
Con công đi qua chùa kênh, nó nghe
tiếng cồng nó kềnh cổ lại
(Câu đối có bốn chữ : cóc cách cọc cạch đối
với bốn chữ công kênh cồng kềnh)
Có những vế câu đối rất khó đối như:
Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.
Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa "về
quê") và phụ tử (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời
lại là tên gọi các vị thuốc.
Vào vụ đông trường nam bón phân bắc trồng khoai tây,
Sang xuân hạ quyết tâm thu hàng tấn củ.
Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa
lý) và xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở Việt Nam).
 Đặc điểm câu đối của Việt Nam
Câu đối là một loại hình văn hóa rất được người Việt ưa thích, từ
tầng lớp thường dân cho đến các bậc thức giả, quyền quý. Câu đối
xuất hiện trong rất nhiều sinh hoạt đời thường của dân ta: đón Tết,
mừng xuân, tân gia, hôn sự, sinh con, đỗ đạt, thăng tiến, vinh danh,
tuyên dương, vịnh cảnh, bài trí ở các nơi thờ tự, tôn miếu, chùa
chiền… Thậm chí có cả những câu đối dùng để chê người, chửi
đời…
13
Câu đối ngày trước viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm. Câu đối
đời nay viết bằng chữ Quốc ngữ, theo kiểu “thư pháp Việt”. Câu

đối được viết, khắc, chạm trổ… trên rất nhiều chất liệu khác nhau:
giấy, lụa, gỗ, đá, kim loại… muôn hình vạn trạng.
Tương tự như hoành phi, câu đốithường có số chữ nhất định
gồm 5, 7 đôi khi là 11. Hoành phi câu đối có kiểu chữ chìm và
khắc nổi (vào gỗ hoặc các chất liệu khác). Sợ phạm vào chữ của
Thánh hiền nên nhiều hoành phi câu đối khắc nổi. Người thợ chỉ
dám đục đúng đến “mực” chân chữ rồi ngừng; để sau đó đi tiếp các
hoa văn khác như tản vân
(19)
, cẩm quy hoặc chữ vạn. Thường câu
đối hay khắc chìm, tức là đục băng đi cả chữ mẫu để lấy nền. Loại
này rất phổ biến trong các hoành phi câu đối xứ Huế và các miệt
vườn Nam bộ. Câu đối thường làm bằng một tấm gỗ phẳng, có
mộng ngang ở hai đầu để “trị” cong vênh. Nhưng cũng không ít
câu đối “lòng mo” có hình cong, ôm lấy thân cột. Loại này thường
gồm năm miếng gỗ ghép với nhau hàm ý “Ngũ phúc”
(20)
nhưng
cũng có khi chỉ là ba miếng gợi ý “Tam đa”
(21)
đều rất đẹp. Câu đối
lòng mo có khi được làm bằng thân cây cọ, nhưng dân trong nghề
chẳng hiểu sao cứ gọi là câu đối “móc”. Loại này khá phổ biến ở
vùng đồi núi Trung du Bắc Bộ, nơi đồi cọ, rừng chè!
Đa phần các hoành phi câu đối đều sử dụng chữ Hán vì theo văn
hóa của người Việt trước đây, chữ Hán là chữ chính thống; còn chữ
Nôm dù đích thực là chữ của nước Việt nhưng dùng chữ phiền hà,
rối rắm, chưa chính thống và tính thống nhất chưa cao nên ít được
dùng. Do đó, nay tìm thấy một đôi câu đối chữ Nôm thật khó.
Ba loại chữ thường được dùng trên hoành phi câu đối là:

“Chân”, “Lệ” và “Triện”. Tuy nhiên, chưa bao giờ thấy trên hoành
phi câu đối sơn thếp những nét “cuồng thảo”
(21)
.
CHƯƠNG II:
HOÀNH PHI VÀ CÂU ĐỐI TẠI MỘT SỐ CHÙA Ở HUẾ
1. Vài nét về lịch sử Phật giáo Huế và đặc điểm kiến trúc chùa
Huế
1.1 Vài nét về lịch sử Phật giáo Huế
Thuận Hóa – Huế nguyên là hai châu Thuận và Hóa thời Trần. Châu
Ô nguyên là đất Ô Mã và Rí nguyên là đất Việt Lý của vương quốc
Chiêm Thành. Đây là hai châu nằm phía cực bắc của vương quốc này,
tiếp giáp với vùng đất cực nam của nước Đại Việt, cụ thể là đất Ma
Linh, mà cùng với Địa Lý và Bố Chính đã được vua Lý Thánh Tông
(22)
sáp nhập vào Đại Việt khoảng năm 1064. Vấn đề hình thành châu
14
Thuận và châu Hóa liên quan đến việc vua Trần Nhân Tông
(23)
quyết
định gả con gái là công chúa Huyền Trân
(24)
cho vua Chiêm Thành là
Chế Mân. Điều này trong sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư nói đến rất
nhiều. Qua những ghi chép của Đại Việt Sử Kí Toàn Thư thì tên Thuận
Hóa xuất hiện đầu tiên vào tháng Giêng năm Đinh Mùi (1307), bằng
việc đổi hai châu Ô và Lý thành châu Thuận và châu Hóa. Người đầu
tiên được chính quyền cử đến tiếp quản vùng đất mới sáp nhập này là
Đoàn Nhữ Hài
(25)

. Ba nhân vật có tên tuổi trong lịch sử buổi đầu của
vùng Thuận Hóa – Huế chính là vua Trần Nhân Tông, công chúa Trần
Huyền Trân và Đoàn Nhữ Hài.
Như thế, từ thời nhà Trần, Thuận Hóa – Huế đã là vùng đất của Đại
Việt, thế nhưng trước đó nữa khi vùng này còn thuộc Chiêm Thành,
theo sử sách và dấu tích của các nhà khảo cổ, Phật giáo đã có mặt trên
vùng đất này mặc dù tín ngưỡng chính của nhà nước Chiêm Thành là
theo Bà-la-môn giáo
(26)
của Ấn Độ. Đến khi đổi thành Thuận Hóa thì
việc truyền bá Phật pháp tại đây có lẽ sẽ phát triển hơn vì vua Trần
Nhân Tông sau khi đi tu trở thành vị tổ sư đầu tiên của Thiền Phái
Trúc Lâm Yên Tử – một thiền phái Việt Nam đầu tiên, và nhà Vua rất
chú trọng việc truyền bá Thiền Phái này.
Thế nhưng, Phật giáo xứ Huế được phát triển mạnh thì phải đến thời
của các chúa, các vua triều Nguyễn
(27)
. Và ngày nay, khi nói đến Phật
giáo Huế, chúng ta thường nói Phật giáo từ giai đoạn đất Thuận Hóa
trở thành vùng đất của các chúa, vua triều Nguyễn về sau. Điều này
cũng không lạ, bởi vì Phật giáo xứ Huế được phát triển cho tới bây giờ
chính là do sự truyền bá của các vị Tổ sư đến từ Trung Quốc trong
thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh
(28)
. Vì thế khi nói đến Phật giáo Huế
chúng ta thường nghĩ ngay đến sự truyền bá của thiền phái Lâm Tế
(29)

và Tào Động
(30)

của Trung Quốc, bên cạnh đó Thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử cũng có với sự truyền bá của Thiền sư Hương Hải
(31)
, nhưng
ảnh hưởng của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử rất ít và về sau dường như
không còn. Và có thể nói sự truyền bá thịnh hành nhất của Phật giáo
tại Huế là tông Lâm Tế.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là Phật giáo Huế hoàn toàn là
phiên bản của các thiền phái Trung Quốc. Điều này thấy rõ nhất sau sự
xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán
(32)
một người Việt Nam học đạo với các
vị Tổ sư Trung Hoa sang truyền đạo tại Huế như Ngài Giác Phong, Tế
Viên Về sau đắc pháp với Ngài Minh Hoằng Tử Dung
(33)
khai sơn
chùa Ấn Tôn, Từ Đàm, cũng là một vị Thiền sư Trung Hoa sang Việt
Nam truyền đạo. Phật giáo Huế thật sự phát triển mạnh chính là bắt
15
đầu từ sự xuất hiện của Ngài Liễu Quán, khai sơn chùa Thiền Tôn. Và
chúng ta có thể nói Ngài Liễu Quán là người đã khai sáng thiền phái
Việt Nam thứ hai tại Việt Nam và là thiền phái Việt Nam đầu tiên tại
Huế với dòng kệ “Thiệt tế đại đạo, tánh hải thanh trừng, tâm nguyên
quảng nhuận ”. Cho đến bây giờ thiền phái Liễu Quán là thiền phái
phát triển nhất từ Huế vào đến tận cực nam của Tổ quốc. Hiện nay tại
Huế trừ chùa Quốc Ân, Hải Đức, và một vài chùa thuộc hai tổ đình
này, còn lại tất cả đều được truyền thừa theo dòng kệ của Thiền phái
Liễu Quán.
1.2 Vài nét về đặc điểm kiến trúc chùa Huế
Nói đến tổng thể cảnh quang cố đô Huế, chúng ta không thể không

nói đến cảnh quang của các ngôi danh lam cổ tự. Thật vậy, Chùa Huế
với lối kiến trúc hòa hợp với thiên nhiên của mình đã góp phần làm
hoàn mỹ giá trị văn hóa của thành phố sông Hương núi Ngự.
Ngôi chùa đã đi sâu vào đời sống văn hóa của người dân xứ Huế.
Cảnh quang chùa Huế tạo cho mọi người cảm giác thanh bình, yên
tĩnh. Bước vào cổng chùa, mọi người cảm nhận như mình đã trút bỏ
tất cả những khổ đau, những lo toan, hơn thua, được mất của cuộc
sống đời thường, chỉ còn lại một sự thanh thản, nhẹ nhàng. Chính vì
thế mà từ xưa đến nay, từ vua quan đến dân thứ, từ tri thức đến bình
dân, từ người lớn đến trẻ nhỏ, từ thành thị đến nông thôn v.v ngôi
chùa luôn luôn có một vị thứ quan trọng trong đời sống của người dân
xứ này. Điều này cũng phần nào giải thích vì sao mật độ chùa ở Huế
lại cao như thế.
Về quá trình hình thành, chùa Huế được xây dựng do nhiều thành
phần: Có chùa được các vị Vua, Chúa chỉ định xây dựng, có chùa do
chư vị Tổ sư khai sáng, có chùa do dân tập hợp xây dựng nên. Đó là
ba dạng chùa chính được hình thành ở Huế. Ngoài ra còn có một số
chùa được hình thành ngoài ba dạng trên, đó là những ngôi chùa gọi là
“chùa tư”, hay được gọi là “cải gia vi tự”, tức là những ngôi chùa
được hình thành từ tư gia, và những Hội quán của người Hoa, một
dạng chùa của những người Hoa tha hương.
Về mặt kiến trúc, chùa Huế không có dáng vẻ đồ sộ phô trương mà
luôn khép mình hòa hợp vào cảnh quang thiên nhiên tạo cho mọi
người cảm giác nhu hòa, an tĩnh. Lối vào chính của chùa là cổng Tam
Quan
(34)
. Đó là cổng chính, ngoài ra hầu hết các chùa thường có những
lối ngõ bình dị, quen thuộc như ngõ nhà dân dã, đi thẳng vào tăng
xá
(35)

hay nhà bếp. Kiểu nhiều lối vào như thế cũng gợi lên ý nghĩa của
16
nhiều pháp môn có thể dẫn dắt tín đồ tùy duyên đến với đạo pháp.
Ngay giữa Tam Quan là trục chính đạo dẫn vào tiền đường và chính
điện ngang qua khuôn sân ngoài của chùa. Qua khỏi sân ngoài là tiền
đường, ngày xưa là kiểu nhà vỏ cua trải dài theo chiều ngang, về sau
thường là kiểu tiền đường đúc cốt thép có mái ngói. Hai bên là hai lầu
chuông trống kiểu tứ giác hoặc lục giác.
Sau tiền đường là chính điện, thường được gọi là Đại Hùng Bảo
Điện, đây là phần kiến trúc chính của ngôi chùa. Phần này thường là
một tòa nhà lớn gồm có ba gian hai chái, tòa nhà này thường có bề
ngang lớn hơn bề dài, tức là có dáng hình chữ nhật. Đây cũng là một
trong các đặc điểm của kiến trúc chùa Huế. Kết cấu của chính điện
theo lối nhà rường cổ với ba gian hai chái với kèo cột gỗ, sau này dù
có trùng tu sửa chữa bằng bê tông cốt thép nhưng cũng giữ gìn lối kiến
trúc này. Ba gian giữa là điện thờ Tam Thế Phật
(36)
vào Bồ Tát
(37)
, phía
sau là Tổ đường
(38)
. Hai chái tả hữu làm phương trượng của vị trụ trì,
cũng có lúc là nơi ở của tăng chúng và khách đường.
Sau chính điện là mảnh sân trong trồng hoa và cây cảnh, còn gọi là
hoa viên, hai bên của hoa viên này là hai dãy nhà gọi là Đông lan và
Tây lan. Phía trước hoa viên là Tổ đường và hậu đường, phía sau hoa
viên là hậu liêu. Phía sau hậu liêu, hoặc nối theo Đông lan, Tây lan là
tịnh trù (nhà bếp). Hai bên sân chùa và phía sau là vườn chùa. Chùa
Huế thường có vườn rất rộng, trong đó một phần trồng cây ăn trái, rau

quả, còn một phần là bảo tháp chư Tổ, các vị trú trì hoặc tăng chúng
quá cố.
Toàn bộ khuôn viên chùa như vậy là một tổng thể cảnh quan mà quá
khứ gắn liền với hiện tại, nhân tạo hòa hợp với thiên nhiên, nơi thờ
phụng gắn liền với nơi sinh hoạt, tu tập chiêm nghiệm của những
người đang sống. Nơi đây, tiếng cười huyên náo, những âm thanh ồn
ào, những bước chân dồn dập trở nên lạc lõng.
Dạng ban đầu của hầu hết chùa Huế mà thời điểm khai sơn vào các
đời các Chúa, vua triều Nguyễn thường là những am tranh khiêm tốn
kiểu nhà rường một gian hai chái. Về sau được trùng tu mở rộng
nhưng vẫn giữ nét kiến trúc xưa với ảnh hưởng của kiến trúc cung
đình và kiến trúc dân gian Huế, kể cả trang trí long, lân, quy, phụng
v.v Mặt khác chùa Huế cũng tiếp thu được lối cắt mái hai tầng tạo ra
dáng cổ lầu, làm cho mái chùa có phần thanh thoát, nhẹ nhàng. Chùa
Huế, như đã nói chịu ảnh hưởng của kiến trúc, trang trí cung đình
nhưng thực sự trang trí của chùa Huế không sặc sỡ như cung đình, mà
17
màu sắc, trang trí rất nhẹ nhàng và bình dị, tạo cảm giác gần gũi
nhưng không thiếu nét trang nghiêm. Bên cạnh đó, những câu đối treo
cân xứng, những hoành phi biển ngạch càng tô thêm vẻ đẹp cho kiến
trúc của ngôi chùa.
Huế – một kinh đô thơ mộng, núi đồi thấp và dòng Hương giang
luôn nhẹ nhàng lững lờ trôi, cái đẹp của Huế là cái đẹp tinh tế, đẹp
trong sự hài hòa, không đồ sộ khoa trương. Ngay cả kiến trúc cung
đình, nếu so với các nước khác thì cung đình Huế vẫn khiêm tốn. Vậy
thì chùa Huế càng không thể là những ngôi chùa đồ sộ, mà kiến trúc
chùa Huế luôn mang đậm nét bình dị, thân thiết gần gũi như chính con
người xứ này vậy.
2. Phân tích nội dung hoành phi
Hoành phi có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, như phân

loại theo số lượng chữ, theo vị trí trang trí, theo nội dung…nhưng dù
hoành phi được phân loại như thế nào đi nữa, thì nội dung chủ yếu của
hoành phi trong các chùa ở Huế thường mang những nội dung chủ yếu
sau:
2.1 Hoành phi tên chùa, điện các
Đây là loại hoành phi phổ biến nhất trong các chùa ở Huế, trên
hoành phi ghi tên của chùa, tên của các điện các hay các nơi thờ
phụng, tổ đường, thiền đường, tàng kinh các, bảo tháp, phương
trượng…
Nội dung loại hoành phi này thường là một danh từ chỉ nơi chốn
nào đó mà thôi, vì thế nội dung chỉ thường là hai chữ, ba chữ và không
quá bốn chữ ( ngoại trừ một số hoành phi đặc biệt).
Các hoành phi loại này thường được đặt ngay trên cửa chính ở lối ra
vào, hoặc ngay chính giữa gian nhà trung tâm. Thông thường mỗi khu
vực chỉ đặt duy nhất một bức hoành phi loại này mà thôi. Với chức
năng chủ yếu của nó là tạo thêm vẽ uy nghi, trang trọng và nhằm chỉ
cho mọi người biết chỗ đấy là chỗ nào ở trong khuôn viên chùa.
Trong các chùa ở Huế những khu vực thường được thiết trí kiểu
hoành phi này gồm các khu vực sau:
- Cổng chính
Là cổng nằm ngay chính giữa, đối diện với chánh điện. Cổng
chính của đa số các chùa ở Huế thường được xây theo kiến trúc
cổng “tam quan” một tầng hoặc hai tầng; hoặc theo kiểu kiến trúc “
trụ biểu”
(39)
, thường gồm bốn trụ, có chùa là bốn trụ độc lập nhau,
có chùa bốn trụ được liên kết lại với nhau.
Hoành phi cổng chính thường có các nội dung sau:
18
横横横 Bát Nhã Môn ( cách cửa của Bát Nhã), 横横横 Trí Tuệ Môn

(cách cửa của Trí Tuệ), 横横横 Từ Bi Môn (cách cửa của Từ Bi)……
hoặc tên chùa như:横横横 Linh Mụ Tự, 横横横横 Diệu Đế Quốc Tự
- Chánh điện
Là nơi thường có quy mô kiến trúc lớn nhất và được coi trọng
nhất trong khuôn viên các chùa ở Huế. Đây là nơi để thờ phụng tôn
tượng các Đức Phật, Chư Vị Bồ Tát, La Hán
(40)
, Hộ Pháp
(41)

cũng là nơi tụng kinh, lễ phật, tổ chức các nghi lễ của chư Tăng Ni
và các tín đồ Phật giáo.
Hoành phi ở chánh điện thường có một nội dung sau:
横横横横
Đại Hùng Bảo Điện ( ngôi điện tôn quý và uy hùng)
- Nhà tổ
Là nơi để thờ chư vị Tổ sư. Trong các chùa Huế nhà tổ thường
thờ đức tổ Bồ Đề Đạt Ma
(42)
và chư tổ khai sáng, tiếp nối trú trì của
chùa.
Hoành phi ở nhà tổ thường có các nội dung sau:
横横 Tổ Đường (nhà tổ), 横横横 Phụng Tổ Đường ( nhà để thờ
phụng chư tổ)
- Tháp
Tại các chùa ở Huế tháp thường có hai loại, tháp để thờ Phật,
kinh sách và tháp để thờ các vị Tổ, các vị trú trì sau khi các ngài đã
viên tịch.
Tháp thường có các nội dung sau:
横横 Bảo Tháp ( ngôi tháp quý), 横横横 Đại Bảo Tháp (ngôi tháp

lớn và quý báu) hay tên cụ thể của tháp ấy như:横横横 Phước
Duyên Tháp; 横横横 Vạn Phật Tháp ( tháp vạn Phật)
- Nhà thiền
Là nơi để chư Tăng Ni và các tín đồ tọa thiền tĩnh tâm. Nhà
thiền trong các chùa ở Huế không phổ biến lắm, thường thì các
chùa theo tông phái thiền tông và các thiền viện thì mới có xây
dựng nhà thiền.
Thường có các nội dung sau:
横横 Thiền Đường, 横横横 Tịnh Tâm Đường
- Phương trượng
Là nơi ở, nghỉ ngơi, sinh hoạt của vị trú trì trong chùa hay thiền
viện.
横横
19
Phương trượng
Ngoài ra các vị trí khác trong các chùa ở huế rất ít khi có đặt
hoành phi loại này.
2.2 Một số loại hoành phi đặc thù khác
• Hoành phi truyền đạt tư tưởng, quan điểm phật giáo
Đây là một trong những loại hoành phi rất phổ biến và quan
trọng trong các chùa ở Huế. Bên cạnh hoành phi mang tên chùa,
điện các thì trong các chùa vẫn không thể thiếu đi loại hoành
phi truyền đạt tư tưởng, quan điểm Phật giáo.
Hoành phi truyền đạt tư tưởng, quan điểm Phật giáo thường có các nội
dung sau:
横横横横
Từ bi vô lượng ( lòng thương không hạn lượng)
Thuật ngữ Từ bi trong Phật giáo được hiểu: “bi” là xót thương,
thương tưởng, nghĩa là chúng ta phải biết thương, biết nghĩ đến
những ai đang gặp đau khổ, hoạn nạn, khó khăn……( vì thế chữ

“bi” còn có nghĩa là “bi ai, đau khổ”); “từ” là thương yêu, cứu
giúp, giúp đở. Phật giáo luôn đề cao, khuyến hóa mỗi con người
chúng ta phải biết thực tập và nuôi dưỡng chất liệu từ bi ngay trong
cuộc sống hiện tại này, nghĩa là chúng ta phải luôn biết giúp đở,
quan tâm đến những ai đang gặp những hoàn cảnh khó khăn, hoạn
nạn… không những trong đời sống vật chất mà còn trong cả đời
sống tinh thần.
“Từ bi vô lượng” là lòng thương và sự giúp đở mọi người không
có hạn lượng và giới hạn, lòng thương vĩ đại của một trái tim trong
đời sống
横横横横
Trí tuệ vô biên ( trí tuệ không bờ bến)
Trong phật giáo Trí tuệ không chỉ được hiểu là sự hiểu biết, bác
học, am tường mà còn là sự biết phân biệt phải trái, thị phi, đúng
sai một cách rõ ràng không nghi hoặc và biết chọn lựa đúng đắn.
横横横横
Hỷ xả vô biên
Hỷ là vui vẽ, hoan hỷ; xả là buông bỏ, cho đi, mở ra… “ hỷ xả”
là vui vẽ, hoan hỷ buông bỏ những gì nên buông bỏ, cho qua những
gì cần cho qua như sự thù hận, những chuyện quá khứ, những
phiền muộn… và phải biết cho đi, trao tặng cho người khác những
gì họ đang cần mà mình có khả năng đáp ứng, như của cải, vật chất
cho đến tinh thần ( sự động viên, an ủi, khuyên bảo….).
20
Từ bi, trí tuệ và hỷ xả là một trong những tư tưởng, quan điểm
xuyên suốt và quan trọng trong nhân sinh quan của Phật giáo. Nếu
Nho giáo lấy Ngũ thường là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín làm khuôn mẫu
đạo đức cho xã hội, thì có thể nói Phật giáo lấy triết lý về từ bi, trí
tuệ và hỷ xả làm nền tảng cho nhân sinh quan của xã hội.
Nếu toàn nhân loại đều biết nuôi dưỡng từ bi, trí tuệ, hỷ xã và

dùng từ bi, trí tuệ, hỷ xã để đối xữ với nhau, giữa các quốc gia, dân
tộc đều có thể dùng từ bi, trí tuệ và hỷ xã để đến với nhau thì thế
giới sẽ không bao giờ có khói lửa chiến tranh, nghèo đói, bất
công tồn tại trong xã hội loài người.
横横横横
Báo phật ân thâm ( đền đáp ân đức thâm sâu của đức Phật)
Đây là thể hiện quan điểm và tinh thần tri ân-báo ân trong Phật
giáo. Trong cuộc sống mỗi chúng ta ai cũng đang mang ơn của bốn
bậc ân đức mà chúng ta cần phải biết ơn và đền trả, Phật giáo gọi là
Tứ đại trọng ân, tức là ân cha mẹ sinh thành, nuôi nấng; ân thầy
bạn dạy dỗ, chỉ bày; ân của những người đã từng giúp đỡ, cứu giúp
mình; ân của các bậc lãnh đạo quốc gia, đất nước đã cho ta có được
một đất nước hòa bình, an ninh, nhân dân được an cư lạc nghiệp.
Báo Phật ân thâm là phải luôn luôn biết ơn và báo ơn đức Phật-
một trong tứ đại trọng ân ở trên, bởi đức Phật chính là người thầy
cao quý nhất đã đưa đường chỉ lối cho chúng sinh giải thoát ra khỏi
những khổ đau, phiền não và hệ lụy trong cuộc sống nhân sinh.
横横横横
Công viên quả mãn( sự tu hành đạt đến chánh quả viên mãn)
Đây là quan điểm báo đáp ân thâm của đức Phật trong Phật giáo,
muốn báo đáp ân đức đấng giác ngộ mà mình đang tôn kính Phật
giáo không đặt nặng vấn đề phải cung phụng hay sùng bái quá mức
vào đức Phật, mà Phật giáo chủ trương chính mình hãy cố gắng nỗ
lực tu tập, thực hành giáo pháp để giải thoát, đạt đến chánh quả
viên mãn cho chính mình và mọi người thì đấy mới chính là đền
đáp công ơn của đức Phật thật sự. Trong Thủy sám
(43)
văn do ngài
Thích Trí Quang dịch có đoạn viết: “ Muốn báo ơn Phật, thì ngay
đời này cố gắng nỗ lực, chịu khó chịu nhọc, không tiếc thân mạng

hộ trì Tam bảo
(44)
, cảm hóa chúng sinh, đồng vào biển giác….”
• Hoành phi mang ý nghĩa cầu nguyện tâm linh
Hoành phi mang ý nghĩa cầu nguyện tâm linh là những loại
hoành phi có nội dung không mang nặng ý nghĩa truyền bá tư
tưởng hay quan niệm của nhà Phật, mà chỉ mang đậm ý nghĩa
21
cầu nguyện, gửi gắm những tâm tư, nguyện vọng của mọi người
lên trên các bậc Chí Tôn
(45)
mà mình đang kính ngưỡng.
Hoành phi mang ý nghĩa cầu nguyện tâm linh thường có các
nội dung sau:
横横横横
Pháp luân thường chuyển ( Bánh xe chánh pháp thường
thường xoay chuyển)
Đây là một lời cầu nguyên cho chánh pháp của Phật giáo
muôn đời luôn được truyền bá rộng khắp, được kế thừa trọn
vẹn, không bị trì trệ và không bị ngưng đứng lại một chỗ.
横横横横
Tổ ấn trùng quang ( Dấu ấn của chư tổ rạng ngời mãi mãi)
Nguyện cầu cho tất cả những gì mà chư vị Tổ sư từ xưa đã
dày công xây dựng, vun đáp, những giá trị từ vật chất cho đến
tinh thần, trong đó đặc biệt là những giá trị tâm linh mà các ngài
đã để lại muôn đời đều được rạng rỡ, không bị mai một, và
được phát dương quang đại.
横横横横
Phong điều vũ thuận ( Mưa thuận gió hòa)
Cầu nguyện cho đất nước thiên thời địa lợi, mưa thuận gió

hòa, không có thiên tai, hoạn nạn cho mọi người.
横横横横
Quốc thái dân an
Cầu nguyện cho tổ quốc luôn được thái bình, thịnh vượng,
không có khói lửa binh đao của chiến tranh, nhân dân được an
cư lạc nghiệp, sống ấm no hạnh phúc.
• Hoành phi mang ý nghĩa tán thán, ca tụng
Nội dung của loại hoành phi này có thể mang ý nghĩa ca
tụng, khen ngợi về Phật Pháp, Đức Phật, Chư Tổ hay các bấc
bậc Trưởng lão, Cao tăng có công hạnh và oai đức lớn lao mà
mọi người đều kính ngưỡng.
Hoành phi mang ý nghĩa tán thán, ca tụng thường mang các
nội dung sau:
横横横横
Quảng đại thế giới ( Thế giới rộng lớn)
Ca tụng sự lớn lao và rộng lớn bao la của Phật pháp. Phật
pháp như một thế giới rộng lớn, không biên giới, không rào cản,
bất kỳ ai cũng đều có thể hòa mình, đều có thể bước vào trong
thế giới bao la như vũ trụ ấy. Trong Phật pháp là “ tối bình
đẳng” không còn ranh giới của giai cấp, chủng tộc, địa vị…
22
横横横横
Vô thượng y vương ( Bậc đại phu cao thượng nhất)
Ca tụng đức Phật là người đã giác ngộ và đêm sự giác ngộ ấy
đến với mọi người, mọi loài chúng sinh. Đức phật được ví như
là “ vị vua trong tất cả các bậc đại phu”, bởi ngài có thể chữa trị
hoàn toàn tất cả các bệnh tật của chúng sinh, đấy chính là tâm
bệnh. Ngài như một bậc đại phu khéo léo và tài ba nhất trong
thế giới, ngài có thể làm xoa dịu, xóa tan đi những phiền muộn
và đau khổ của chúng sinh, giác ngộ, thức tỉnh những ai hữu

duyên với phật pháp.
横横横
Vô tận đăng (Ngọn đèn vô tận)
Ca ngợi những bậc cao tăng thạc đức, công hạnh và trí tuệ
của các ngài giống như một “Ngọn đèn vô tận”, ánh đèn cứ soi
sáng mãi không bao giờ tắt, không bao giờ ngừng. công hạnh và
trí tuệ của các ngài cũng như thế, là tấm gương là ánh sáng bất
tận soi đường cho mọi người trong đêm dài tăm tối.
3. Phân tích nội dung câu đối
So với hoành phi thì nội dung của câu đối có phạm vi và dung
lượng lớn hơn rất nhiều. Với số lượng các câu đối mà chúng tôi đã
thu thập được trong quá trình khảo sát tại một số chùa ở Huế, sẽ
được dựa vào vị trí bài trí của chúng để phân nhóm câu đối, cụ thể
gồm 3 nhóm: Câu đối ở cổng cửa; Câu đối ở điện các, nơi thờ tự và
Câu đối ở tổ đường. Đây cũng chính là ba vị trí chủ yếu có bài trí
câu đối trong các chùa ở Huế. Trong số các câu đối đó chúng tôi sẽ
chọn ra một số câu đối được xem là tiêu biểu để tiến hành giải
thích và phân tích làm rõ nội dung của chúng.
3.1 Câu đối ở cổng, cửa
Câu đối ở cổng cửa thường có các nội dung chủ yếu sau:
3.1.1 Tán dương phật pháp
横横横横横横横横横横横横横横横横横
横横横横横横横横横横横横横横横横横
An dưỡng am trác tích y thử đạo dĩ truyền pháp vũ tường
vân tùy tự tại,
Từ Hiếu tự khai sơn đắc kỳ môn nhi nhập Phật ân quốc trạch
cộng viên dung.
23
Chống gậy am An Dưỡng, dựa đường này luôn tự tại để
truyền mưa lành mây pháp,

Khai sơn chùa Từ Hiếu, được cửa đây thêm viên mãn mà
hưởng quốc trạch Phật ân.
(Câu đối ở cổng chùa Từ Hiếu)
Tổ sư Nhất Định lên núi dựng thảo am gọi là am An Dưỡng để
nuôi bệnh mẹ già. Phụng dưỡng mẹ già không ngần ngại sớm hôm
mưa gió khiến tiếng lành vang rộng muôn nơi. Cũng nhờ thế mà
mọi người lấy đây làm gương hiếu hạnh học theo điều lành. Ngài
cũng nhờ đó mà có duyên hóa độ rộng rải quần chúng nhân dân. Về
sau thảo am được vua ban “sắc tứ Từ Hiếu tự” nhằm ca ngợi một
con người hiếu thảo, đạo cao đức trọng, hạnh nguyện độ tha cao cả.
Cũng tại cổng chùa Từ Hiếu chúng ta còn có thể thấy nhiều câu đối
khác cũng có nội dung mang ý nghĩa tán dương Phật pháp, như:
横横横横横横横
横横横横横横横
Tứ hải danh nhân ghi cổ tự
Nhất sơn phong vật mị thiền tâm
Danh nhân bốn biển ghi cổ tự,
Phong cảnh một núi đẹp thiền thâm.
Xa gần trong bốn biển, có biết bao danh nhân đã từng một lần đặt
chân lên cõi an lạc của chốn thiền môn. Ngắm cảnh làm thơ để tâm
hồn lạc bước như đi vào cõi thần tiên. Giữa người và cảnh hòa
đồng vào nhau, ăn nhập vào nhau. Ở giữa chốn không người chìm
đắm không muốn quay về, giữa chốn phong cảnh núi rừng, dù
nhìn vào là sự u tịch nhưng nơi đó là cõi của sự an lạc, là đất lành
để tâm hồn lắng động, thanh tịnh. Trên một dãy núi đẹp, bên một
bờ suối trong, chắc chắn xuất hiện một ngôi chùa đẹp. Cảnh thiền
môn hòa vào vào trong cảnh đẹp thiên nhiên làm cho giá trị của sự
hài hòa tăng lên khiến khách viếng cảnh thăm chùa không muốn
rồi gót quay về.
Hay tại cổng chùa Thuyền Tôn có câu:

24
横横横横横
横横横横横
Tuệ nhật phá chư ám,
Từ nhãn thị chúng sinh.
Trời tuệ trừ tăm tối,
Mắt từ nhìn chúng sanh.
Trí tuệ của chư Phật, chư đại Bồ Tát được ví như ánh mặt trời, có
công năng chiếu sáng, soi rọi, phá vỡ mọi nơi tăm tối, mang ánh
sáng đến cho mọi người. Bất kỳ ở đâu, địa vị nào, thời gian nào các
ngài cũng luôn thương tưởng, nghĩ nhớ đến chúng sinh, luôn nhìn
đời, nhìn người bằng đôi mắt của từ bi, của sự hiểu biết và yêu
thương. Đấy chính là những hạnh nguyện cao cả và vĩ đại của quý
ngài.
Do đây là thể loại câu đối dùng để ca tụng, tán dương vì thế ngôn
ngữ, chữ nghĩa trong câu thường rất mượt mà, bống bẫy, mang đậm
âm hưởng của thơ ca và âm nhạc.
3.1.2 Truyền đạt tư tưởng của Phật giáo
Tại cổng của các chùa ở Huế cũng có khá nhiều các câu đối mang
nội dung truyền đạt tư tưởng của Phật giáo. Tiêu biểu như cặp đối
tại cổng chùa Tường Vân:
横横横横横
横横横横横
Trang nghiêm tòng tuệ giác
Giải thoát tại không môn
Trang nghiêm theo tuệ giác
Giải thoát tại không môn
Trong ca dao Việt Nam chúng ta có câu “ Đói cho sạch, rách cho
thơm” cái “sạch” cái “thơm” mà trong câu ca dao này nói đến
không phải là cái sạch cái thơm được tạo ra hay được mang lại từ

những thứ làm sạch làm thơm mà hằng ngày chúng ta thường sử
dụng như hoa tươi, phấm thơm, sáp thơm, nước hoa mà chính là
cái sạch cái thơm của sự trong sạch, thanh liêm, ngay thẳng, vì chỉ
có những thứ “trang sức” này mới có thể làm cho bản thân chúng ta
25

×