Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

vay ngắn hạn có tài sản đảm báo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.24 KB, 10 trang )

VAY NGẮN HẠN CÓ TÀI SẢN ĐẢM BẢO
I. Cơ sơ lí luận
Một công ty không dễ dàng gì nhận được nguồn tài trợ ngắn hạn của một ngân hàng
hay các nguồn khác khi không có đảm bảo,vì các hình thức tài trợ đó đem lại rất
nhiều rủi ro cho người cho vay.Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp cung cấp đủ sự đảm bảo
đối với khoản tiền vay theo yêu cầu thì họ sẽ dễ dàng nhận được khoản tín dụng cần
thiết từ một nhà tài trợ nào đó. Việc bảo đảm an toàn nhằm đảm bảo thanh toán cả
tiền vốn gốc và lãi của khoản cho vay là hình thức thế chấp(collateral). Các hình thức
thế chấp để đảm bảo cho khoản vay ngắn hạn bao gồm: Vay có thế chấp bằng khoản
phải thu, Mua nợ, Vay thế chấp bằng hàng hóa, Chiết khấu thương phiếu.

Giống trong GT
II. Thực trạng vay vốn NH có TSBĐ
Bị vạ lây bởi bất động sản và chứng khoán, thanh khoản hệ thống ngân hàng
từng rơi vào khủng hoảng từ đầu năm 2009 đến trước Quý I/2012. Tuy nhiên vào thời
điểm hiện tại, khi Chính phủ vào cuộc với chính sách tiền tệ thắt chặt, nội lực ngân
hàng hồi phục, thì doanh nghiệp vẫn than không thể tiếp cận vốn nhà băng để mở
rộng sản xuất kinh doanh
. Nhìn vào số liệu thống kê của VCCI, giai đoạn 2001 – 2005, số doanh nghiệp
tăng bình quân hàng năm là 9,8%; giai đoạn 2005 – 2010 lên tới 12%. Chính vì sự
gia tốc của các DN nhỏ và vừa (DNNVV), ngoài tín hiệu đáng mừng là kinh tế đi lên
nhưng năng lực của doanh nghiệp thì lại vô cùng khiêm tốn
Theo thống kê trên, ở khu vực tỉnh lẻ, trên 90% doanh nghiệp có vốn điều lệ
dưới 5 tỉ đồng, chỉ có trên 1% số doanh nghiệp có vốn tự có trên 200 tỉ đồng. Nhìn
vào quy mô của doanh nghiệp của ta đa phần nhỏ bé và yếu ớt như vậy, nhưng họ lại
muốn “đi tắt” trong kinh doanh để có thể nhanh chóng trở thành người khổng lồ. Do
đó xuất hiện tình trạng rất nhiều DNNVV khó khăn trong tiếp cận vốn vay và hiệu
suất kinh doanh trên đồng vốn cũng thấp.
Còn nguyên nhân từ chính các ngân hàng thương mại, rất nhiều ngân hàng
cũng có năng lực hạn chế, vốn của hầu hết các ngân hàng thương mại đều là vốn
ngắn hạn; do vậy, để đảm bảo sự sống còn của chính mình thì đối tượng DNNVV


không phải là đối tượng ưu tiên cho vay của họ.
1.thực trạng vay vốn có thế chấp bằng khoản phải thu
Điều kiện đối với doanh nghiệp
Cần được thanh toán ngay sau khi giao hàng nhưng vẫn duy trì và phát triển các
mối quan hệ với khách hàng thông qua các điều khoản ưu đãi về thời gian thanh
toán.
Cần có ngay tiền mặt để thu mua nguyên vật liệu nhằm hưởng các ưu đãi về giá

Hiện nay các doanh nghiệp VN ít vay theo hình thức này, vì các lí do:
- Từ phía doanh nghiệp:
- Từ phía ngân hàng:
2. Bán nợ
Ưu điểm:
 Đối với doanh nghiệp bán hàng:
 Cải thiện dòng tiền, tăng khả năng thanh khoản.
 Tăng doanh số bán hàng nhờ chính sách bán hàng trả chậm, tăng lòng tin
nơi khách hàng
 Giảm chi phí hành chính, quản lý công nợ.
 Có nguồn tài chính mới mà không phụ thuộc vào các khoản vay ngân
hàng,không yêu cầu phải có tài sản bảo đảm.
 Giảm thiểu nợ xấu, hạn chế rủi ro tín dụng.
 Đối với doanh nghiệp mua hàng:
 Có thể mua hàng theo điều khoản thanh toán sau.
 Sử dụng tín dụng người bán để tài trợ vốn lưu động.
 Cơ hội đàm phán điều khoản mua hàng tốt hơn.
 Đơn giản hóa thủ tục thanh toán nhờ tập trung thanh toán về một đầu mối là
ngân hàng
Nhược điểm:
 chi phí huy động ngân quỹ theo hình thức thảo thuận mua nợ khá cao, bởi nó
bao gồm nhiều loại chi phí như chi phí kiểm tra tư cách tín dụng của khách

hàng
 rủi ro không thu hồi được nợ.
Hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DN đã giúp nhiều DN phục hồi hoạt
động sản xuất, kinh doanh và tránh được thiệt hại tài chính do DN vay vốn mất khả
năng thanh toán. Tuy nhiên do đây là lĩnh vực còn rất mới nên các quy định hiện
hành chưa tạo động lực để các DN phát huy.
Tuy nhiên, do việc mua bán nợ ở nước ta hiện vẫn còn là vấn đề khá mới mẻ, hệ
thống pháp lý, chế tài cho hoạt động này còn thiếu, nên quá trình thực hiện gặp nhiều
khó khăn.

Tại Việt Nam, thị trường mua bán nợ đã manh nha hình thành từ năm 2003 với sự ra
đời của các công ty quản lý tài sản thuộc các ngân hàng và công ty mua bán nợ -
DATC thuộc Bộ Tài chính. Tuy nhiên theo các chuyên gia, năng lực tài chính hiện tại
của các thành viên thị trường chưa đủ để giải quyết lượng nợ xấu tăng mạnh lên đến
hơn 85 nghìn tỉ đồng, tương đương 3,39% của tổng dư nợ hiện nay.

Trong bối cảnh năng lực tài chính trong nước hạn chế, nhiều người hiện kỳ vọng
vào nguồn vốn nước ngoài. Thị trường mua bán nợ của Việt Nam được coi là cơ hội
hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng khuôn khổ pháp lý đang là rào
cản hạn chế nguồn vốn từ bên ngoài.

Thứ nhất là về cơ chế xoá nợ. Hiện nay Bộ Tài chính chưa có hướng dẫn cụ thể về
xoá nợ như thế nào đối với các khoản nợ tiếp nhận không còn khả năng thu hồi.

Thứ hai là do chưa có hướng dẫn cụ thể nên có nhiều ý kiến khác nhau trong việc
xác định đối tượng DN khách nợ như thế nào ? Chỉ mua DN nhà nước, hay áp dụng
cho mọi thành phần kinh tế ? Xu hướng hiện vẫn nghiêng về phía DN nhà nước. Trên
thực tế hiện nay pháp luật đã quy định mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng. Và nếu
như giải quyết được khó khăn cho DN dù là tư nhân hay nhà nước thì đều góp phần
tích cực làm lành mạnh hoá nền kinh tế. Sở dĩ có tâm lý trên là theo quy định hiện

hành việc mua bán dựa trên thoả thuận nên sợ phát sinh tiêu cực.

Thứ ba là cho vay bảo lãnh. Quy định hiện hành không cho phép Cty mua bán nợ
cho vay bảo lãnh. Trong khi đó phần lớn các nhà máy, DN muốn bán nợ đều trong
tình trạng “hấp hối” hoặc “chết”. Nếu không “bơm” tiền vào thì nhà máy không thể
hoạt động và cũng không thể tái cấu trúc bởi họ không thể đi vay ngân hàng được
nữa thì mới tìm đến các tổ chức mua nợ.

Thứ tư là quy trình hướng dẫn thủ tục thoả thuận hiện rất chung chung nên thường
kéo dài. Bộ Tài chính cần phải có hướng dẫn cụ thể, tránh tình trạng mỗi nơi hiểu
một kiểu.
3. Vay bằng thế chấp hàng hóa
Bên cạnh các chứng từ bán hàng, các loại hàng hóa, tài sản cũng thường được
sử dụng để thế chấp cho những khoản vay ngắn hạn. Trị giá của khoản vay thuộc
loại thế chấp này tùy thuộc vào mức độ rủi ro, khả năng chuyển đổi nhanh, và tính
ổn định về giá cả của các loại hàng hóa thế chấp. Nếu những hàng hóa, tài sản này
không có rủi ro, có thể bán nhanh trên thị trường và có giá cả ổn định thì khoản vay
mượn sẽ chiếm một tỷ lệ khá cao so với giá trị ghi trên chứng từ.
Những công ty có hàng hóa, tài sản mà cần mốt số vốn ngắn hạng có thể dựa vào
nguồn tài trợ này. Vay thế chấp bằng hàng hóa gồm có các hình thức sau:
 Vay ký thác
 Vay thế chấp bằng ký hóa phiếu hàng di chuyển được
 Vay thế chấp bằng ký hóa phiếu hàng cồng kềnh
 Để đương
 Lãnh nợ hay bảo lãnh của bên thứ ba
3.1.Vay ký thác bằng hàng hóa
Vay ký thác là khoản vay do ngân hàng tài trợ trên cơ sở những hàng hóa đặc biệt
đang thuộc quyền sở hữu của công ty. Nó còn được gọi là vay bắc cầu hay tiền cho
vay trên hàng hóa.
Đặc trưng:

Chỉ được chấp nhận khi công ty đi vay có những hàng hóa thuộc loại có thể
dễ dàng nhận diện và, những hàng hóa này có giá trị lớn trên thị trường ví dụ như
xe hơi,các thiết bị âm thanh nổi…
Theo thỏa thuận cho vay ký thác, người đi vay phải ký nộp văn bản ủy thác
chỉ rõ những hàng hóa đang thuộc quyền sở hữu của họ được giao cho ngân hàng
quản lý. Đổi lại, công ty nhận được một hối phiếu có thời hạn để được rút tiền trong
một khoảng thời gian nhất định nhằm trang trải cho toàn bộ chi phí của giao dịch
mua hàng hóa. Sau đó cũng theo thỏa thuận này, ngân hàng ký phát những chứng
từ thích hợp cho phép công ty nhận lại quyền sở hữu hàng hòa và kết toán tài khoản
khi chúng được bán xong

Nhược điểm: những doanh nghiệp nhỏ và vừa khó có thể vay được bằng hình thức
này
3.2. Vay thế chấp bắng ký hóa phiếu hàng di chuyển được
Đối với những loại hàng hóa dễ dàng vận chuyển như xi măng hay bột mì chẳng
hạn, thì thỏa thuận cho vay đem lại nhiều rui ro cho ngân hàng, bởi những hàng hóa
đó có thể bị công ty vay tiền đem bán xong mà ngân hàng không hay biết cho tới
khi đã quá trễ. Do đó, ngân hàng cho vay có thể yêu cầu công ty chuyển những
hàng hóa của họ gửi vào mọt kho chứa hàng công cộng, trước khi chấp nhận cho
vay.
Theo hình thức thỏa thuận cho vay này, công ty vay tiền không được phép bán bất
cứ một phần nào thuộc những hàng hóa đã được gửi vào kho công cộng nếu
không được sự chấp thuận bằng văn bản của ngân hàng. Ngân hàng chỉ đồng ý cấp
giấy phép bán những hàng hóa thế chấp này khi họ được đảm bảo rằng, công ty
vay tiền sẽ thanh toán món nợ một cách nhanh chóng ngay khi nhận được tiền bán
những hàng hóa đó.
Nhược điểm: mất khoản chi phí cho việc thuê kho hàng bến bãi, thuê nhân viên và
không được phép bán bất cứ một phần hàng hóa nào khi chưa thanh toán tiền cho
ngân hàng, điều đó gây bất lợi cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp cần bán hàng
cho khách để thu hồi vốn

3.3. Vay ký thác bằng chứng từ lưu kho hàng cồng kềnh
Loại thỏa thuận này tương tự như thoản thuận vay có thể bằng ký hóa phiếu hàng di
chuyển được, chỉ khác là những tài sản trên của công ty vay tiền được thay thế bằng
một hóa đơn lưu kho nội bộ của công ty.
Thông thường ngân hàng chỉ chấp thuận loại cho vay này đối với những hàng hóa
quá cồng kềnh, không thuận tiện khi chuyển vào kho công cộng…Những loại hàng
hóa này có thể là gỗ chưa xẻ, ván ép, hay sắt thép…
Nhược điểm: như vay thế chấp bằng ký hóa phiếu hàng di chuyển được
3.4. Để đương
Theo thỏa thuận này, công ty đi vay lập một bảng danh mục tất cả các loại tài sản
của họ, mà không có bất cứ sự chỉ dẫn rõ ràng loại nào được dùng làm tài sản thế
chấp và chỉ xét cho vay dựa trên những tài sản thuộc danh sách đã chọn trong
khoảng thời gian đã định. Vật thế chấp theo hình thức cho vay này vẫn được quyền
quản lý của người vay tiền và ngân hàng chỉ giữ giấy phép sở hữu chúng.
Tuy nhiên, từ khi cho vay dưới hình thức để đương trở thành phổ biến và ngân hàng
nhận thấy rất khó giám sát loại giao dịch tín dụng này nên họ thường tránh không tài
trợ với số lượng lớn. Một lý do nữa khiến các ngân hàng chỉ cho vay một số lượng
nhỏ đối với hình thức này là do chi phí và sự phiền phức liên quan đến việc phát mãi
tài sản thế chấp khi công ty vay tiền không trả được nợ. Nhược điểm: doanh nghiệp
chỉ vay được lượng vốn nhỏ so với lượng tài sản hiện có.
3.5. Lãnh nợ hay bảo lãnh của bên thứ ba
Một công ty cũng có thể vay được những khoản tiền ngắn hạn nếu được những cổ
đông chính hay một bên thứ ba khác có tư cách tín dụng tốt đảm bảo với ngân hàng
là đồng ý làm người bảo đảm cho món nợ. Những người bảo lãnh này sẽ viết một
cam kết gửi ngân hàng, khẳng định trách nhiệm trả món nợ thay cho người vay
trong trường hợp người này bị mất khả năng chi trả.
Sự bảo lãnh này có thể là riêng biệt hay bảo lãnh nối tiếp. Nếu là bảo lãnh riêng biệt
thì nó chỉ bảo đảm cho một món nợ duy nhất, còn nếu là bảo lãnh nối tiếp thì nó bao
trùm lên hàng loạt giao dịch vay mượn. Ngoài ra, bảo lãnh có thể là bảo lãnh toàn
phần hay bảo lãnh từng phần đối với khoản tiền vay.

Nhược điểm: doanh nghiệp chỉ vay được lượng vốn nhỏ so với lượng tài sản hiện có.
Tóm lại, doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng hình thức vay nợ bằng hàng hóa
của chính doanh nghiệp. Nhưng hình thức vay này có nhược điểm chung là doanh
nghiệp khó vay được lượng vốn lớn, thời hạn vay ngắn, thủ tục rườm rà…
4. Chiết khấu thương phiếu (phần này ko có slieu nên t chọn ra các sản phẩm trên tt)
Hiện nay thương phiếu vẫn chưa phổ biến ở Việt nam nên hình thức này thường được
cacDN XNK sử dụng trong thanh toán quốc tế dưới dạng chiết khấu hối phiếu.
Các dòng sảm phẩm được ngân hàng cung cấp trên thị trường: chiết khấu miễn truy
đòi theo L/C và chiết khấu có truy đòi theo L/C, nhờ thu, TTR, Tradecard.

Với sản phẩm đầu tiên, bằng việc mua lại hối phiếu cùng với chứng từ xuất khẩu theo
L/C trước hạn thanh toán, ngân hàng sẽ trả cho người thụ hưởng một số tiền để nhận
quyền đòi nợ ghi trên hối phiếu; theo đó, NH chấp nhận rủi ro trong trường hợp ngân
hàng nước ngoài từ chối thanh toán. Mức chiết khấu tối đa cho doanh nghiệp khi sử
dụng sản phẩm có thể lên tới 100% giá trị hối phiếu. Doanh nghiệp nhờ đó được cung
cấp vốn lưu động một cách nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu sản xuất phục vụ xuất
khẩu, đồng thời tăng năng lực cạnh tranh bằng việc cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu
thông qua hình thức trả chậm.

Với sản phẩm thứ hai, NH tài trợ sau giao hàng cho các doanh nghiệp thông qua việc
chiết khấu có truy đòi hối phiếu xuất khẩu theo các hình thức thanh toán khác nhau
như tín dụng thư (L/C), nhờ thu, chuyển tiền điện, Tradecard. Mức chiết khấu tối đa
lên đến 98% giá trị bộ chứng từ, bên cạnh đó, doanh nghiệp còn được hưởng lãi suất
chiết khấu ưu đãi và sử dụng dịch vụ hỗ trợ lập bộ chứng từ hàng xuất theo L/C.
Năm qua, ngân hàng ACB đã dành 3.000 tỷ đồng cho đối tượng là các doanh
nghiệp theo các hình thức như tài trợ trước khi giao hàng, chiết khấu hối phiếu kèm
theo bộ chứng từ và cho vay đảm bảo bằng khoản phải thu từ bộ chứng từ hàng xuất
khẩu. Với các doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm và uy tín trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu có thể được tài trợ tín chấp nếu thỏa mãn các tiêu chí của ACB với mức tài trợ
đến 90% giá trị hợp đồng ngoại thương và mức chiết khấu lên đến 98% trị giá bộ

chứng từ. Doanh nghiệp có thể vay bằng USD hoặc VND với lãi suất USD.


III. GIẢI PHÁP vay ngắn hạn
 Trước tiên các ngân hàng cần nhanh chóng phát triển đồng bộ các sản phẩm,
vừa tăng cường huy động nguồn, tạo điều kiện cung cấp nguồn vốn cho DNNVV,
đồng thời phát triển các sản phẩm ràng buộc, tạo điệu kiện để các DNNVV đang
thiếu các điều kiện về tài sản bảo đảm vẫn có thể vay được vốn.
Việc kết hợp nhiều sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho các DNNVV cũng là một
trong các cơ sở để hạ lãi suất cho vay, hỗ trợ các doanh nghiệp quản trị hiệu quả hơn,
nắm bắt các điều kiện thị trường đầy đủ hơn, kịp thời hơn.
Các ngân hàng cũng có thể tăng cường tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ chính thức
hoặc thông qua các chương trình, dự án của các tổ chức, tạo nguồn với lãi suất thấp
Bên cạnh đó. có thể xem xét cơ cấu lại nợ, giãn nợ, ưu đãi tín dụng cho
các DNNVV kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nếu những doanh nghiệp này
chứng minh được các nguồn thu để trả nợ ngân hàng; phát triển hình thức thuê tài
chính để giúp doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới công nghệ.
 Về phía DNNVV, ngoài các vấn đề về phân tích, tìm hiểu thị trường, các cơ
chế chính sách hội nhập cần phải chủ động đổi mới hệ thống quản trị nội bộ, tăng
cường công tác phân tích, lập kế hoạch chiến lược, tăng cường quản lý tài chính
vừa chủ động tìm kiếm, nắm bắt, hiện thực hóa cơ hội, đồng thời củng cố các điều
kiện để tiếp cận các nguồn vốn.
Doanh nghiệp cần chủ động trong việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù
hợp với năng lực về vốn, công nghệ và con người. Đặc biệt là cần phải minh bạch
vấn đề tài chính để sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn, giảm thiểu chi phí, rủi ro cho cả
doanh nghiệp và ngân hàng.

 Giải pháp mua bán nợ

Trong cuộc hội thảo về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng mới đây, các chuyên gia đã

chia sẻ kinh nghiệm xử lý nợ xấu thành công của nước láng giềng như sau: “Cần phát
triển thị trường trái phiếu để công ty mua bán nợ quốc gia mua nợ rồi bán cho nước
ngoài, hoặc tổ chức đầu tư khác để tổ chức đầu tư đó dùng tài sản đảm bảo phát hành
trái phiếu ra thị trường, hay là chứng khoán hóa tài sản xấu.
Thời điểm này sẽ có không ít các công ty mua bán nợ tham gia, nhưng nhiều dự án
không dễ bán được. Bởi lẽ thị trường bất động sản vẫn chưa phục hồi. Do vậy Chính
phủ và NHNN cần có cơ chế, chính sách kích thích các công ty này, trong đó nếu các
công ty mua bán nợ được hỗ trợ như miễn giảm thuế sẽ là phương án tốt nhất để
khuyến khích họ tham gia giải quyết một phần nợ xấu của các NHTM.



Giải pháp chung
Do phần lớn các doanh nghiệp ở việt Nam là DNVVN, có qui mô vốn nhỏ nhưng
nhu cầu sd vốn cao, lại chịu nhiều rào cản trong quá trình xin vay, nên chúng tôi đi
sâu vào nhóm giải pháp làm thế nào để nhóm DN này tiếp cận được nguồn vốn vay
và vốn ngắn hạn nói riêng
5.1 Đối với giải pháp từ phía chính phủ:
- Xây dựng chính sách hỗ trợ về vốn, tín dụng và đầu tư cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ: Việc hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải có một hệ
thống đồng bộ các chính sách, trong đó coi chính sách hỗ trợ bằng tín dụng là một
trong các chính sách hỗ trợ có hiệu quả nhất.
- Đa dạng hóa các hình thức cho vay phù hợp với tính chất sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là tạo ra các sản phẩm tín dụng mới (cho vay
thấu chi, bao thanh toán, chiết khấu thương phiếu, tín dụng thuê mua,…) để tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận gần hơn với hoạt động của các ngân
hàng khi chưa đủ các điều kiện vay vốn bắt buộc.
- Xây dựng cơ chế tín dụng phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ: cơ chế cho vay đối với các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ nói riêng cần phải sửa đổi và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của đất

nước trong từng giai đoạn cụ thể. Ở giai đoạn trước mắt cơ chế tín dụng cần tập
trung giải quyết hai vấn đề cơ bản đó là: các thủ tục pháp lý và các vấn đề có liên
quan đến bảo đảm tiền vay, quyết định cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
nên tập trung vào nội dung căn bản của phương án sản xuất kinh doanh và các dự án
đầu tư của các doanh nghiệp.
- Khuyến khích thành lập các tổ chức đại diện hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
5.2 Đối với các giải pháp từ phía các tổ chức tín dụng:
- Đối với các Ngân hàng thương mại: cần thành lập riêng quỹ cho vay doanh
nghiệp vừa và nhỏ và cần phân bổ cho các chi nhánh để các doanh nghiệp vừa và
nhỏ dễ dàng vay vốn của các NHTM hơn.
- Đối với các tổ chức tín dụng nhà nước: hoàn thiện chính sách tín dụng và các
chính sách có liên quan tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
tiếp cận nhiều hơn các nguồn vốn của tín dụng nhà nước, đồng thời thực hiện bình
đẳng hóa giữa các doanh nghiệp trong việc vay vốn tín dụng nhà nước.
- Đối với các hoạt động tín dụng phi chính thức: nâng cao hiệu suất tiếp cận các
nguồn vốn tín dụng từ các hoạt động tín dụng phi chính thức, từng bước xây dựng
cơ chế hoạt động cho loại hình tín dụng này và thừa nhận đó là một kênh dẫn vốn
quan trọng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
5.3 Đối với các giải pháp từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần mở rộng và tăng cường hơn việc huy động
vốn thông qua thị trường chứng khoán, các nguồn vốn từ nước ngoài để vừa tiếp cận
được các nguồn lực tài chính, lại đồng thời có thể tranh thủ được công nghệ và kinh
nghiệm tiên tiến của nước ngoài.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải tăng cường năng lực quản trị đi đôi với
việc tăng cường khai thác các nguồn lực, nhất là các nguồn lực từ các quan hệ tín
dụng của doanh nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên
tập trung để hoàn thiện bộ máy quản lý để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
đồng thời với việc nâng cao khả năng dự báo, phân tích trước các biến động bất
thường của nền kinh tế thị trường.

- Xây dựng mối quan hệ liên kết trong sản xuất kinh doanh: Các doanh nghiệp vừa
và nhỏ vốn dĩ bị hạn chế về năng lực và quy mô sản xuất kinh doanh. Vì vậy để
đứng vững và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải tranh thủ mối quan
hệ với các doanh nghiệp lớn để tạo ra sự liên kết, phân phối cần thiết cho sự phát
triển của doanh nghiệp trong sự phát triển chung của cả nền kinh tế.

Bọn t tìm hết mọi tlieu rồi lọc ra đc bằng này, có những phần không thể tìm thấy đc
nên chỉ có lí thuyết thôi. Mấy phần giải pháp thì chung chung quá, do thực trạng
từng cái ko có nên giải pháp lại càng không. Có gì thì dung nấy thôi m nhá.





×