Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

điều kiện phát sinh các công cụ phái sinh ngoại hối ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.17 KB, 26 trang )

ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH
NGOẠI HỐI Ở VIỆT NAM
TĐiều kiện áp dụng chung đối với các công cụ phái sinh
Trước hết công cụ phái sinh ngoại hối ra đời là để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến
động theo một biên độ lớn và ngẫu nhiên, phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị
trường là điều kiện tiên quyết cho việc sử dụng các công cụ phòng chống rủi ro. Trên thị
trường ngoại hối, bên cạnh việc phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ thì thị trường còn
ẩn chứa các yếu tố đầu cơ và chênh lệch giá về ngoại tệ. Đây cũng là những yếu tố quan
trọng trong việc làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối biến động một cách khó
dự đoán. Chính vì sự không dự đoán trước được những thay đổi của tỷ giá trên thị trường
mà các doanh nghiệp cũng như các NHTM luôn có mong muốn bảo hiểm rủi ro để chống
lại những tổn thất có thể xảy ra đối với các dòng tiền ngoại tệ của mình.
Theo thông lệ quốc tế, trước khi giao dịch các sản phẩm phái sinh như hoán đổi, quyền
chọn hay tương lai, các bên tham gia phải ký kết với nhau bản thoả thuận chung của Hiệp
hội các nhà kinh doanh phái sinh và hoán đổi quốc tế ISDA. Thoả thuận này bao gồm các
điều khoản và điều kiện nhằm quy định phạm vi giao dịch, loại công cụ giao dịch, nghĩa
vụ của các bên tham gia; quy định các vấn đề về giải quyết tranh chấp, toà án hay các vấn
đề xử lý khi có bên tham gia bị mất khả năng thanh toán
Thị trường phái sinh và công cụ phái sinh ngoại hối rất đa dạng, phức tạp đòi hỏi các giao
dịch viên là các cán bộ ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao về lĩnh vực ngoại hối,
am hiểu các kỹ thuật nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Đặc biệt là cán bộ giao dịch phải có
khả năng vận dụng linh hoạt các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá đối với danh mục đầu
tư bằng ngoại tệ của bản thân ngân hàng. Ngoài ra họ còn phải có khả năng phát triển
(hay bán) các sản phẩm phái sinh tới các doanh nghiệp có hoạt động thương mại quốc tế.
Bên cạnh điều kiện về trình độ cán bộ thì vấn đề công nghệ ngân hàng cũng là điều kiện
cần thiết để ứng dụng nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Vì các công cụ phái sinh nói chung
và công cụ phái sinh ngoại hối nói riêng được xây dựng trên cơ sở sử dụng các thuật toán
phức tạp để dự đoán về các khả năng biến động của tỷ giá hối đoái trong tương lai. Do đó
đòi hỏi các NHTM cần phải có các phần mềm hiện đại để xử lý giao dịch cũng như quản
lý và tính phí đối với các công cụ phái sinh.
Thực trạng thị trường ngoại hối và việc sử dụng các công cụ phái sinh để phòng chống


rủi ro hối đoái ở Việt Nam
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách ngoại hối đóng vai trò rất quan
trọng, làm sao để vừa tranh thủ được các nguồn vốn quốc tế, thúc đẩy hoạt động thương
mại, đầu tư, du lịch, kiều hối, nhưng lại phải đảm bảo được chủ quyền của đồng Việt
Nam, thực hiện được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Trong thời gian qua, chính sách
ngoại hối đã có những thay đổi quan trọng, một số quy định đã thông thoáng hơn, mở ra
nhiều nghiệp vụ mới, đặc biệt là các nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Tuy nhiên cho đến
nay, ở Việt Nam các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn sơ khai, kém phát triển thể hiện ở
doanh số giao dịch thấp, thậm chí ở một số NHTM mặc dù đã triển khai nghiệp vụ option
nhưng không có giao dịch. Mặc dù trên thế giới các nghiệp vụ phái sinh để bảo hiểm rủi
ro tỷ giá như forward, swap, futures, option đã được sử dụng phổ biến từ rất lâu với
doanh số hàng ngày lên tới hàng trăm tỷ USD.
Chính vì vậy, việc ứng dụng các công cụ phái sinh nhằm bảo hiểm rủi ro tỷ giá tại Việt
Nam đang gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu là do:
Một là, thiếu nhu cầu thực sự từ phía khách hàng.
Đây là vấn đề cốt lõi, vì trước đây tỷ giá USD/VND thường xuyên ổn định tại mức trần
so với giá NHNN công bố, khách hàng không quan tâm tới vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
Tuy nhiên, sang năm 2007 và đầu năm 2008, thị trường chứng kiến sự biến động và đảo
chiều mạnh mẽ của VND so với đồng Đôla Mỹ, tỷ giá USD/VND giảm xuống giao dịch
tại mức sàn. Nguyên nhân là do lượng lớn ngoại tệ từ các hoạt động đầu tư trực tiếp, gián
tiếp nước ngoài, kiều hối đổ vào các NHTM làm xuất hiện dư thừa ngoại tệ do mất cân
đối cung cầu. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề rủi ro
tỷ giá, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu trong ngành thuỷ sản, dệt may, cà phê và
các ngành sản xuất, xuất khẩu khác. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa
có thói quen hay nói chính xác hơn là chưa quan tâm tới phòng chống rủi ro đối với các
hoạt động ngoại tệ của mình.
Hàng năm các doanh nghiệp Việt Nam đều phải vay ngoại tệ hàng trăm triệu USD hoặc
EUR để đầu tư vào các dự án lớn, các doanh nghiệp này sau khi vay ngoại tệ thường bán
số ngoại tệ này chuyển sang VND để tiến hành hoạt động đầu tư dự án, đến kỳ trả nợ họ
phải mua lại số ngoại tệ đó bằng VND. Trong thời gian tiến hành hoạt động sản xuất kinh

doanh, rõ ràng sẽ có sự biến động về cả lãi suất cho vay và cả tỷ giá hối đoái. Nếu sử
dụng công cụ phái sinh như hoán đổi lãi suất hoặc công cụ kỳ hạn hay quyền chọn về
ngoại tệ thì các doanh nghiệp sẽ bảo hiểm được rủi ro lãi suất trong trường hợp nếu lãi
suất vay là thả nổi và khi lãi suất thị trường đã tăng lên như hiện nay hoặc bảo hiểm được
rủi ro tỷ giá khi ngoại tệ có xu hướng giảm xuống vào thời điểm doanh nghiệp bán ngoại
tệ.
Hai là, thiếu cơ sở pháp lý.
Trong vài năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cho phép các NHTM được
thực hiện nhiều nghiệp vụ mới như quyền chọn ngoại hối, quyền chọn vàng, hoán đổi lãi
suất. Tuy nhiên cơ sở pháp lý cho nghiệp vụ phái sinh còn chưa đầy đủ, ngoại trừ chỉ có
giao dịch hoán đổi lãi suất đã có quy chế của NHNN là Quyết định số 1133/2003/QĐ-
NHNN, ngày 30/09/2003. Mặc dù hiện nay tất cả các NHTM đều được thực hiện nghiệp
vụ quyền chọn ngoại tệ, tuy nhiên chỉ được thực hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và ngoại
tệ, còn quyền chọn giữa ngoại tệ và VND thì phải được sự cho phép từ phía NHNN. Trên
thực tế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường chuyển đổi ngoại tệ ra VND để phục vụ
hoạt động đầu tư sản xuất trong nước mà hầu như không chuyển đổi từ ngoại tệ ra ngoại
tệ. Đây cũng là trở ngại lớn đối với các NHTM làm cho doanh số giao dịch quyền chọn
rất thấp.
Ba là, thiếu kiến thức, hiểu biết về công cụ phái sinh.
Sản phẩm phái sinh trong phòng chống rủi ro là một sản phẩm khá mới và phức tạp đối
với thị trường Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cũng như các NHTM phải có hệ
thống thông tin dự báo tỷ giá quốc tế nhanh, chính xác, cập nhật liên tục; phải có công cụ
đo lường và cảnh báo rủi ro tỷ giá, lãi suất; đội ngũ các nhà quản lý, các giao dịch viên
chuyên nghiệp, Thực tế có nhiều NHTM được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại hối
từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được. Đối với các doanh nghiệp thì việc hiểu
biết các công cụ phái sinh để phòng chống rủi ro còn nhiều hạn chế.
Điều kiện để phát triển các công cụ phái sinh ngoại hối tại Việt Nam
Từ thực tế trên, để ứng dụng và phát triển công cụ phái sinh tại Việt Nam cần phải có các
điều kiện sau:
Thứ nhất, về khách quan.

Tỷ giá thị trường phải biến động tới mức đủ để các doanh nghiệp phải quan tâm chú ý tới
vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Các NHTM cũng rất muốn triển khai các sản phẩm dịch vụ
mới nhưng không thể "cố ép" khách hàng sử dụng khi thực sự họ không có nhu cầu.
NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, tạo ra một thị trường ngoại hối phản
ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ. NHNN cần tiếp tục nới rộng biên độ dao động so
với tỷ giá bình quân và thường xuyên điều chỉnh linh hoạt biên độ này cho phù hợp với
thị trường hơn. Đây là cơ sở để NHTM cũng như doanh nghiệp quen dần với các công cụ
phòng chống rủi ro tỷ giá. Bên cạnh đó, NHNN cần nghiên cứu ban hành những quy tắc
cơ bản nhất trong giao dịch phái sinh, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp với điều
kiện thị trường của Việt Nam hiện nay, để có hành lang pháp lý chung cho hoạt động của
các NHTM. Cho phép các NHTM chủ động thực hiện quyền chọn ngoại hối giữa ngoại tệ
và VND khi có nhu cầu phái sinh. Tránh để các NHTM thực hiện nghiệp vụ mới một
cách riêng lẻ theo sự hiểu biết của ngân hàng, dẫn đến tình trạng không thống nhất, dễ
gây ra tranh chấp khi có sự cố xảy ra.
NHNN cần tăng cường hơn nữa vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành nhằm hình
thành một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên
thị trường. Ngân hàng Nhà nước tham gia thị trường với tư cách là người mua, người bán
cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Hai là, về phía các NHTM
Cần tiếp cận khách hàng, tổ chức hội thảo để giới thiệu và tư vấn nhằm mục đích vừa
nâng cao nhận thức của khách hàng về rủi ro tỷ giá vừa giúp cho khách hàng hiểu biết về
các công cụ phái sinh ngoại hối. Phát triển các công cụ phái sinh và thị trường phái sinh
là giúp cho các doanh nghiệp có thêm cơ hội lựa chọn loại hình giao dịch hối đoái phù
hợp với mục tiêu kinh doanh. Khi sử dụng các công cụ phái sinh doanh nghiệp có được
sự lựa chọn về tỷ giá mong muốn. Mặt khác, cần tập trung ưu tiên đào tạo và bồi dưỡng
cho các cán bộ trực tiếp kinh doanh trên thị trường hối đoái quốc tế về các công cụ phái
sinh nói chung và phái sinh ngoại hối nói riêng, vì đây là những sản phẩm mới, phức tạp
cả về lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng. Ngoài ra cần trang bị thêm những kiến thức và kinh
nghiệm về thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ quốc tế, kỹ năng phân tích kỹ thuật,

phân tích cơ bản trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp và phân tích thông tin để dự đoán xu
hướng diễn biến của thị trường nhằm sử dụng các công cụ phái sinh một cách hiệu quả
nhất. Thông qua đó để có thể tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ cho khách hàng của mình hiểu
biết hơn về thị trường ngoại hối.
Ba là, về phương tiện, thiết bị.
Ngoài những phương tiện, thiết bị hiện có của Reuters, Thomson, SowJones News hay
Metastock, cần trang bị thêm phần mềm xử lý, quản lý rủi ro và tính phí đối với các
nghiệp vụ phái sinh. Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trên thị
trường ngoại hối quốc tế, để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, về hệ thống phân tích quản
lý rủi ro đối với các công cụ phái sinh nói chung và công cụ quyền chọn ngoại hối, công
cụ tương lai ngoại hối nói riêng.
Quản trị rủi ro
Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của mình
chuyểngiao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những nhà đầu cơ. Vì vậy, thị
trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần
phải chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Và cũng vì thế mà họ sẵn
sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế
phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị
trường các sản phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ. Bởi ngưòi
muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình,
tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao
các giao dịch này lại có thể được thực hiện, khi mà thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì tất
yếu bên còn lại sẽ không thể tránh khỏi những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị
rủi ro” khác nhau, khả năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng có mong
muốn là giữ cho các khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Và thế là
họ gặp nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác.
Và cũng không giống như người ta thường nghĩ, thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền
kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu cơ không phải là những tay cờ
bạc. Chỉ đơn giản là thay vì giao dịch cổ phiếu, họ giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính
việc đầu tư vào công cụ tài chính phái sinh lại tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít

tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Bởi cần khẳng định chắc chắn rằng, thị trường phái sinh không
hề tạo ra mà cũng chẳng thể phá huỷ được tài sản, chúng chỉ là những phương tiện chuyển
giao rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có cuả thị trường tài sản, chuyển những khoản rủi
ro đó từ những không đủ khả năng chấp nhận nó sang những người sẵn sàng tiếp nhận nó,
chính là những nhà đầu cơ. Không có thêm bất kỳ một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường
này. Và lợi ích từ thị trường không chỉ bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả
ra toàn xã hội.
Thông tin hiệu quả hình thành giá
Các thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả. Đặc biệt, thị
trường tương lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay của tài sản. Điều
này không hề bất bình thường, bởi có rất nhiều hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương
lai nhưng thị trường giao ngay của nó rất rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định
được giá giao ngay của chúng. Ở đây, thường giá tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ
được xác định là giá giao ngay. Thêm nữa, thị trường giao sau, trên thế giới thường nhộn nhịp
hơn nên các thông tin do nó cung cấp có tính tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung cấp
trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá giao ngay
trong tương lai một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong
giới hạn chấp nhận của mình.
Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả.
Thứ nhất, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ các giao dịch giao
ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn.
Thứ 2, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết đó là yêu cầu một
mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Thêm nữa, tỷ suất sinh lời và rủi ro có thể
được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn.
Thứ 3, Các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể
tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất. Tất cả
các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận.
Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các nhà đầu cơ với ý
định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế, đặt bên cạnh thị
trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị

trường đó.
Như vậy công cụ tài chính phái sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại. Kỹ thuật tài chính
này đòi hỏi một trình độ hiểu hiết và phát triển nhất đinh của bất kỳ nền kinh tế nào. Việt Nam
đã gia nhập WTO, hòa chung vào hơi thở chung của nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, mức độ
và điều kiện áp dụng ở Việt Nam còn có những hạn chế nhất định. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần
có một hệ thống giải pháp tích cực để triển khai thành công kỹ thuật này trên thị trường tài
chính.
4. Mức độ áp dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam
Giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm bởi tính biến
động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách nào khác ngoài việc tự bảo
hiểm cho mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ 1 phần rủi ro cho thị trường bằng các Công
cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, mức độ áp dụng các Công cụ phái
sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu
chưa cho phép chúng áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập
quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các Công cụ tài chính phái sinh
ở Việt Nam.
Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam theo
quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong
hợp đồng mua bán USD và VND giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp xuất nhập khẩu
hoặc với các ngân hàng thương mại khác được phép của ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, Hợp
đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường liên ngân hàng ở VN chưa phát triển,
một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và những hạn
chế của NHNN. Vì thế, các giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7% khối lượng giao dịch của thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-NHNN13
ngày24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của thống
đốc NHNN. Tuy nhiên đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa NHNN và NHTM. Nó
chỉ được sử dụng trong trường hợp các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND.
Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở VN và được các ngân hàng
sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động ngân hàng

quốc tế. NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa
rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế
thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các NHTM và các TCTD, các
DN được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và
ngoại tệ giữa các ngân hàng với DN vay vốn tại NH; giữa NH với những DN vay vốn tại các tổ
chức tín dụng (TCTD) khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các NH trong nước với nhau và giữa
các ngân hàng thương mại trong nước với các TCTD nước ngoài. Trên cơ sở nới lỏng quản lý
của NHNN, nhiều NHTM đã triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh
nghiệp (DN), tìm kiếm đối tác là các TCTD nước ngoài để ký kết hợp tác. Tuy nhiên, giao dịch
phái sinh trong đó có hoán đổi lãi suất được coi là hoạt động ngoại bảng của NH do đó hướng
dẫn hạch toán từ phía NHNN đối với các nghiệp vụ này đang được xem là điều kiện đủ để các
NHTM đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách hàng.
Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt Nam (từ
1/2003), đã có một só ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi
đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền
USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có quy định chính thức của
ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi được NHNN cho phép, HSBC đã cung cấp gói
Swaps tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại trường
Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ
đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt được mức lãi suất
cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không
chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND.
Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau này.
Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa
hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng sử khi khách hàng vay ngoại
tệ. Và trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh nữa trên
thị trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường.
Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi suất cộng
dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện
trong tương lai …cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối trong thời gian gần

đây. Điều đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí điểm áp dụng tại Việt
Nam theo công văn 3324/NHNN-CSTT, tháng 4/2006 cho phép HSBC chi nhánh thành phố Hồ
Chí Minh thực hiện. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại
giống một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định
kỳ sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị
vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ.
Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của các loại
trái phiếu do chính phủ hoặc các DN Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, các
khoản vay dài hạn của DN Việt nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách
hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam
và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở nứơc ngoài. Thời hạn của giao dịch
không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này cũng giống như thực hiện một khoản đầu
tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm những
mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình thường, nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn vốn của các TCTD. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn góp phần nâng
cao mức độ tín nhiệm của chính phủ và các DN Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị trường
quốc tế.
Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh được thị trường
hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất
và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
(BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch
quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay và đi vay trung hạn
(dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ được thực hiện đối với các DN hoạt động tại
VN, các NHTM hoạt động ở VN được NHNN cho phép và các NH ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng
loạt các NHTM khác, bao gồm cả NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này.
Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển
hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân
hàng Hồng Kông bank chi nhánh thành phố HCM. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là
các DN và cá nhân được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ giá do
khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng

cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu
và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank và
Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên
công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế
giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị
trường đối với công cụ. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được phép của Ngân hàng nhà nước
cho phép thực hiện các nghiệp vụ Option. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước cũng đã cho phép
thực hiện các Options tiền Đồng tại BIDV, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng
cổ phần thương mại quốc tế. Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở rộng bởi khi
đó VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị thế của VND và Việt Nam cũng
qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm nên các ngân hàng này bị giới
hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt động này đang đem lại một cơ cấu sản phẩm
hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Hơn nữa, nhu cầu của khách hàng đối với
các giao dịch Options đang có xu hướng tăng, do vậy ngân hàng nhà nước đã tiến hành gia hạn
thí điểm hợp đồng các nghiệp vụ này.
Quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền
chọnmua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi
NHNN cho phép ACB, Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày
10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung
ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian
để đo lường mức độ đón nhận của thị trường đối với công cụ này.
Điểm lại nhưng mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở VN, dễ nhận thấy rằng nó
chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Thực
trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi. Phải chăng các DN chưa thực sự có nhu cầu phòng chống rủi ro?
Phải chăng khoảng cách giữa mong muốn phòng ngừa rủi ro của các DN và các công cụ phái
sinh còn quá lớn? Phải chăng sự hiểu biết của các DN đối với các Công cụ phái sinh, từ đó là
những chính sách sử dụng nó còn yếu kém? Phải chăng điều kiện kinh tế, đặc biệt là sự phát
triển ở VN còn hạn chế? Phải chăng là việc hạch toán những nghiệp vụ ngoại bảng này còn
nhiều bất cập khiến các ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc triển khai các dịch vụ phái
sinh ? Phải chăng những quy định pháp lý hiện nay còn hạn chế sự hoạt động của các công cụ

phái sinh?
5. Một số giải pháp vĩ mô
Nếu sử dụng sai mục đích và không được giám sát chặt chẽ, các công cụ phái sinh, từ chỗ là
công cụ phòng chống rủi ro sẽ mang đến những mầm hoạ khôn lường cho nền kinh tế. Do vậy,
để tránh điều đó, chúng ta cần xây dựng những trụ cột cơ bản đảm bảo việc triển khai các
công cụ tài chính phái sinh được bền vững.
Thứ nhất : Quy định về giới hạn và giá mua
Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá quá cao hay quá thấp làm
cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác, đây là những quy định nhằm kiểm
soát (không ngăn cấm) các nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Việc kết hợp các chiến lược phòng
ngừa rủi ro trong các quyền chọn tiền tệ là rất phong phú, nó cho phép các DN Việt Nam kết
hợp vừa phòng ngừa (tỷ giá) vừa tiến công khi có cơ hội (đặc biệt đối với các định chế muốn
tìm kiếm lợi nhuận). Dĩ nhiện là mặt trái của quyền chọn là đầu cơ rất cao. Các nhà đầu cơ có
thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các quyền chọn mua và bán.
Việc đầu cơ giá trên hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể làm cho tỷ giá biến động vượt ra khỏi
biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các DN và các nhà đầu tư vào hệ thống tỷ giá
mà chúng ta đã hoạch định. Mặc dù vậy, vẫn chưa có những chứng cứ nào cho thấy việc đầu
cơ vào các hợp đồng quyền chọn tiền tệ dẫn tới sự sụp đổ hoặc khủng hoảng tỷ giá ở các nước
trên thế giới. Chế độ tỷ giá phụ thuộc chủ yếu vàọ sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế quốc gia.
Trong những năm qua, Việt Nam được đánh giá rất cao về chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó,
nỗi lo về tính bất ổn của tỷ giá khi mở rộng biên độ sẽ giảm đi rất nhiều. Chính vì thế, chúng ta
có thể triển khai các quyền chọn có điều kiện phù hợp với điều kiện các nước như Việt Nam đã
từng áp dụng và thành công.
Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các quyền chọn phức tạp ở các
nước phát triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua lỗ tối đa cho các nhà đầu
tư và thậm chí các nhà đầu cơ có ham muốn sử dụng quyền chọn tiền tệ như một công cụ kiếm
lời. Các quyền chọn tiền tệ có điều kiện đưa ra những quy định về các mức tỷ giá trần (tối đa)
và sàn (tối thiểu). Nếu tỷ giá vượt quá các mức giá này thì quyền chọn sẽ không còn có giá trị.
Những rào cản này sẽ làm nản lòng các nhà đầu cơ và do đó giảm đi đáng kể tính bất ổn do
NHNN mở rộng biên độ dao động tỷ giá. Các khống chế nêu trên có thể áp dụng cho toàn bộ

các hàng hoá và tài sản trên thị trường Việt Nam.
Thứ hai: Yêu cầu về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh
Kể từ vụ sụp đổ của công ty Enron, các nhà kinh tế đã bắt đầu thảo luận để đặt ra những qui
định về thế chấp tài sản trên các hợp đồng phái sinh. Khi một công ty có những khó khăn về
mặt tài chính hoặc thậm chí đang còn hoạt động rất tốt vẫn phải đưa ra những khoản thế chấp
hay các mức duy trì đặt cọc cao để chắc chắn công công ty sẽ tuân thủ hợp đồng mỗi khi có
những biến động cao trong giá. Mức duy trì có thể là một khoản tối thiểu mà khi tài khoản ký
quỹ giảm xuống một mức nào đó, thì cách tham gia hợp đồng bổ sung vào.
Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất cao, có thể lên tới
30% hợp đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối với các nhà môi giới trên các
hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù họ chỉ là những ngân hàng hoặc
các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan
trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động
cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới.
Thứ ba : Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế
Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống ngân hàng thương mại trong nước không
được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc kỳ hạn. Các
ngânhàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau đó đem bán lại
trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng trong hầu hết các nứơc phát triển, nhưng
trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt buộc các ngân hàng về các giao dịch này còn hạn chế
nhiều, đó là chưa kể đến những yếu kém về vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét và khẩn trương tham gia vào các thoả thuận giao dịch hoán
đổi theo quy định quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký các hợp đồng tái bảo hiểm
từ các giao dịch phái sinh trong nước.
Thứ tư : Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng phái
sinh
Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ biến hiện nay là
chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí điểm” hiện nay là một
căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong những trường hợp như thế, giá trị hợp
lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao

hơn trên thị trường thế giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang
phía người mua gánh chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công
cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các
nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao
với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên những thị trường bất đầu cơ trên không
khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do, để
các định chế tài chính có đủ các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm phái sinh. Và dĩ nhiên
đi liền với đó là thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này.
Thứ năm: Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính
Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả thành viên tham gia
thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh phải hiểu hết về nhau trước khi
tiến hành các giao dịch với nhau Chẳng hạn như một ngân hàng Việt nam đồng ý thực hiện
một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng với người mua tương lai. Trong trường hợp này người
mua tương lai cần phải có những thông tin rằng hiện nay ngân hàng Việt Nam hiện đang ký
quỹ là bao nhiêu tại một ngân hàng nước ngoài để mua vàng thế giới bán lại cho ngươi từ trong
nước. Nói cách khác, trong cuộc chơi này trong cuộc chơi này ai cũng phải có thông tin lẫn
nhau, để cuộc chơi tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch.
Thứ 6: Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh khoản của
sản phẩm phái sinh
Hiện nay, các công cụ phái sinh chưa có thị trường giao dịch chính. Các hợp đồng kỳ hạn và
tương lai phải giao dịch trên có sàn nước ngoài như London hay NewYork. Còn lại là giao dịch
qua quầy, nhiều bất lợi đối với tính thanh khoản cũng như các loại rủi ro tín dụng. Các hợp
đồng quyền chọn và hoán đổi được giao dịch trên thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ. Nói
chung, hiện tại chúng vẫn còn thiếu nhiều cơ chế tạo ra các hành lang đảm bảo các hoạt động
được trôi chảy. Tuy nhiên, đi đôi với việc phát triển thị trường là việc nâng cao chất lượng hàng
hoá cho thị trường. Hàng hoá ở đây chính là các công cụ tài chính phái sinh, từ các công cụ
thuần nhất tới các công cụ lai tạp. Và vấn đề không chỉ nằm ở chỗ đa dạng hoá các sản phẩm,
đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Cần chú ý tới chất lượng hàng hoá. Ở đây, chính là tính
hợp pháp, tính thanh khoản, khả năng thích ứng với các loại rủi ro của các công cụ tài chính
phái sinh. Do vậy cần hoàn thiện các đặc trưng kỹ thuật của các công cụ tài chính phái sinh,

đáp ứng nhu cầu và mức độ phát triển của thị trường.
Đối với quyền chọn, các ngân hàng thương mại nên xác lập trong nội dung hợp đồng quyền
chọn quyền được mua ngoại tệ khi DN không thực hiện quyền lựa chọn, do đối với các DN nhập
khẩu của Việt Nam khi thực hiện hợp đồng quyền chọn ngoài ý nghĩa về phòng ngừa rủi ro tỷ
giá hối đoái còn có nhu cầu cần đảm bảo có đủ số lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng
nhập khẩu đến hạn.
Nhà nước nên hoàn chỉnh khung pháp lý xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp đồng
Optionslà một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng ngừa rủi ro hối đoái của
các DN không thuộc các tổ chức tài chính tín dụng, bảo hiểm, kinh doanh. Trên cơ sở này, Bộ
tài chính xác định phí giao dịch quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào
chi phí khi tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế.
Ngoài ra, đối với các Options chứng khoán, hiện nay chưa được áp dụng triển khai thì đây là
thời điểm chín muồi để triển khai Options chứng khoán vì tốc độ phát triển thời gian qua khá
nhanh, giá tăng – giảm đột biến, do đó nhu cầu về Options càng trở nên cấp bách. Nếu có công
cụ Options, nhà đầu tư không bị hoảng loạn vì gần như họ đã mua “bảo hiểm” về giá cho các
chứng khoán của mình.
Song song với việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh thuần nhất, nên có những tiếp cận
đối với các sản phẩm lai tạp. Các sản phẩm quản trị rủi ro lãi suất, tỷ giá, giá cả và cả rủi ro tín
dụng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Thời gian tới sẽ vẫn tiếp tục nâng cao hơn nữa
chất lượng của thị trường tài sản cơ cở . Từ đó, sẽ là cơ sở có thể định giá các sản phẩm phái
sinh hiệu quả nhất.
Trên đây là một số giải pháp mang tính vĩ mô,. Đó là những công việc mà nhà nước, chính phủ
và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy nhiên, để thị tr ư ờng ngày càng phát
triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ lực của tất cả các chủ thể kinh tế, các
DN, các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ thể cung cấp và sử dụng sản phẩm phái sinh.
Và vấn đề cốt lõi chính là nhận thức của chính các chủ thể tham gia trực tiếp chứ không phải là
các chủ thể quản lý.
1. Một số công cụ phái sinh độc lập:
Hợp đồng mua bán trước(còn gọi là công cụ kỳ hạn): Là một công cụ tài chính phái sinh đơn giản.
Đó là một thoả thuận mua hoặc bán một tài sản ( hàng hoá hoặc các tài sản tài chính) tại một thời điểm

trong tương lai với một giá đã xácđịnh trước.
Đặc điểm của hợp đồng này là:
• Thông thường hợp đồng này được thực hiện giữa các tổ chức tài chính (TCTC)với nhau, hoặc
giữa TCTC với các khách hàng là doanh nghiệp phi tài chính (các hợp đồng này thường được ký
kết song phương).
• Trong hợp đồng này người mua được gọi là người giữ thế trường vị (long position), người bán
được gọi là người giữ thế đoản vị (short position).
• Hợp đồng này chỉ được thực hiện khi đáo hạn: Đến thời điểm đáo hạn người giữ vị thế đoản vị
phải thực hiện bán tài sản cho người giữ vị thề trường vị và nhận một khoản tiền từ người mua với
mức giá cả đã định trước trong hợp đồng, cho dù vào thời điểm đó giá thị trường của tài sản đó có
cao hơn hoặc thấp hơn giá xác định trong hợp đồng. Nếu giá thị trường cao hơn giá hợp đồng thì
người giữ vị thế trường vị sẽ có lãi (có giá trị dương), còn người giữ vị thế đoạn vị bị giá trị âm; và
ngược lại.
Hợp đồng mua bán trong tương lai: là một công cụ tài chính phái sinh, tương tự như hợp đồng mua bán
trước:
MÔT SỐ ĐIẺM KHAC: HOP DONG TUONG LAI – HOP DÒNG KY HAN :
HOP DONG TUONG LAI :
- Được ký kết và thực hiện hợp đồng thông qua một môi giới trên thị trường chứng khoán;
- Người mua và người bán thường không quen biết nhau, do vậy đơn vị môi giới thường đưa ra một số
các tiêu chuẩn cho những hợp đồng này.
- Hiện nay, những thị trường chứng khoán mua bán hợp đồng trong tương lai là Hội đồng mậu dịch
Chicago - Chicago Board of Trade( CBOT), Sở thương mai Chicago- Chicago Mercantile Exchange
(CME) và Sở giao dịch các hợp đồng tương lai London.
- Các loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường chứng khoán mua bàn hợp đồng trong tương lai
gồm, heo, bò ,đường, len , sản phẩm tài chính gồm, chỉ số chứng khoán, ngoại tệ, trái phiếu công
ty, trái phiếu chính phủ.
Ngày giao hàng không được xác định một cách chính xác như hợp đồng mua- bán KY HAN, mà được
qui định theo tháng và khoảng thời gian của tháng phải giao.
- Văn phòng thị trường chứng khoán (người môi giới) xác định khối lượng, chất lượng của hàng hoá
giao dịch, cách giao hàng, giá hợp đồng, và cũng có thể xác định luôn giá trị hợp đồng mua bàn tương

lai có thể thay đổi trong một ngày.
Người mua, bán phải trả phí hoa hồng cho người môi giới, và giá rao bàn được xác định trên sàn giao
dịch chứng khoán.
Có hai loại thương nhân trên sàn giao dịch:
- Thứ nhất là những người môi giới ăn hoa hồng, họ sẽ thực hiện mua bán theo lệnh của nhà đầu tư và
tính hoa hồng;
- Thứ 2 là người tự đầu tư.
Để tránh những rủi ro khi thực hiện hợp đồng mua bàn trong tương lai, do người mua, hoặc người bán
tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi cho mình, hoặc do đến thời điểm
thanh toán, người mua không có khả năng tài chính.:
- Văn phòng chứng khoán phải đưa ra những qui định về yều cầu dự trữ tối thiểu đối với người ký hợp
đồng tương lai với nhà môi giới.
- Khoản tiền dự trữ này được giữ tại một tài khoản của người đầu tư mở tại văn phòng chứng khoán.
Ví dụ: Giả sử vào tháng 3 bạn gọi cho nhà môi giới của bạn tại CBOT,
và yêu cầu ông ta mua cho bạn 100 lượng vàng vào thời điểm tháng 7.
Những sự việc gì sẽ xẩy ra sau lệnh của bạn:
- Bước 1, người môi giới sẽ chuyển lệnh của bạn cho một đại diện tại
CBOT. ở đây lênh này sẽ do một người đưa tin chuyển đến cho một
thương nhân của bàn giao dịch. Người này sẽ cố tìm giá tốt nhất trên
thị trường và ra dầu hiệu bằng tay cho các thương nhân biết rằng có
người muốn mua một hợp đồng vàng tương lai với giá như vậy.
- Bước 2, Nếu có một thương nhân (bên bán) chấp nhận với mức giá
và thời gian bán như vậy, thì là đã kết thúc thương thuyết.Sau đó
người ta sẽ thông báo cho bạn biết thông qua người môi giới của bạn
là hợp đồng đã đựoc ký kết.
Kết thúc một hợp đồng tương lai, hiếm khi được diễn ra như ký kết
ban đầu, mà thường xảy ra sự hoàn đổi trong suốt thời gian đáo hạn:
Nếu như một người đầu tư ở thế trường vị đối với một hợp đồng
tương lai mua vàng vào tháng 7, nhưng vào ngày 6/3, anh ta có thể kết
thúc vị trí này vào ngày 20/4 bằng cách chọn vị trí đoản vị đối với hợp

đồng bán vàng vào tháng 7. Vào ngày 6/3 nếu một người ở vị trí đoản
vị đối với hợp đồng tương lai vào tháng 7 anh ta có thể kết thúc hợp
đồng này vào ngày 20/4 bằng cách chọn vị trí trường vị vào tháng 7.
Trong cả 2 trường hợp tiền lời hay lỗ của người đầu tư phản ánh
những thay đổi của giá cả giữa ngày 6/3 với ngày 20/4.
Trong hoạt động ngân hàng, các ngân hàng đã sử dụng nhiều nghiệp vụ này trong kinh doanh chứng khoán
và quản lý danh mục đầu tư để phòng chống rủi ro do biến động lãi suất trong tương lai. Để hạn chế rủi ro
biến động lãi suất trong tương lai, nhìn chung đòi hỏi các ngân hàng phải giữ vị thế trên thị trường trong
tương lai đối nghịch với vị thế hiện thời trên thị trường giao ngay. Bởi vậy, một ngân hàng có kế hoạch mua
trái phiếu “ tạo thế trường” trên thị trường giao ngay có thể bảo vệ được giá trị của những trái phiếu này
bằng việc ký hợp đồng bán trái phiếu trên thị trường tương lai tạo vị thế đoản.nếu ngay sau đó, giá trái
phiếu giảm trên thị trường giao ngay, thì sẽ có một khoản lợi nhuận được bù đắp xuất hiện từ thị trường
tương lai và điều này giúp cho ngân hàng tối thiểu hoá tổn thất gây ra do biến động lãi suất.
Hợp đồng quyền chọn (quyền chọn mua hoặc bán): Là một sản phẩm tài chính phái sinh rất được ưa
chuộng. Hợp đồng quyền chọn cổ phiếu được thực hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1973, từ đó thị trường
này phát triển tăng vọt và ngày nay được thực hiện trên khắp thị trường tài chính thề giới. Hợp đồng quyền
chọn được thực hiện với các hoạt động mua, bán: Cổ phiếu, chỉ số thị trường chứng khoán, ngoại tệ, công
cụ nợ, các hợp đồng mua bán tương lai và hàng hoá.
Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng quyền chọn mua (call option)và hợp đồng quyền chọn bán (put
option). Hợp đồng quyền chọn mua là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền mua sản phẩm
từ một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng. Còn hợp đồng quyền bán là
thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền bán sản phẩm cho một nhà đầu tư khác với mức giá
định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng.
Đặc điểm của hợp đồng lựa chọn: Khác với hợp đồng mua bàn trước và hợp đồng mua bán tương lai hợp
đồng quyền chọn không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm. Hợp đồng chỉ quy định quyền giao hay
nhận, mà không bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của mình. Người mua quyền có thể: Thực hiện quyền, hay
bán quyền cho một người mua khác; hay không thực hiện quyền . Để có quyền này, khi ký hợp đồng, người
cầm hợp đồng phải trả quyền phí ; giá trong hợp đồng được gọi là giá thực hiện hay là giá nổ (Strike price);
ngày định trong hợp đồng gọi là ngày đáo hạn hay hày thực hiện.
Có hai kiểu thực hiện hợp đồng quyền chọn, đó là thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ và theo

kiểu châu Âu. Theo kiểu Mỹ là thực hiện quyền chọn vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày đáo hạn. Theo
kiểu châu Âu là thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn. Hiện nay trên các thị trường chứng khoán
hầu hết thực hiện theo kiểu Mỹ.
Ví dụ: Một người đầu tư mua 100 cổ phiếu IBM dưới hình thức hợp đồng lựa chọn
kiểu châu âu với giá định trước là 100 USD/1 cổ phiếu, ngày đáo hạn là 2 tháng và
quyền phí là 5 USD. Giả sử đến ngày đáo hạn giá cổ phiếu cổ phiếu thấp hơn 100
USD, thì nhà đầu tư có thể sẽ từ chối không mua và chịu mất 500 USD quyền phí
(5x100). Trong trường hợp giá cao hơn nhà đầu tư sẽ thực hiện hợp đồng.
Một điểm đáng chú ý là: trong khi người mua hợp đồng lựa chọn call mong muốn giá
của sản phẩm hợp sẽ tăng lên trong ngày đáo hạn thì người mua hợp đồng lựa chọn
Put lại hy vọng giá xuống. Nếu cao hơn giá định trước họ sẽ từ chối quyền bán và
chịu mất quyền phí. Tất nhiên sự từ chối hay không từ chối quyền khi giá ngày đáo
hạn cao (hay thấp) hơn giá nổ sẽ được các nhà đầu tư tính toán trên cơ sở mức độ
chênh lệch giữa giá định trước với giá ngày đáo hạn và quyền phí.
Các hợp đồng quyền chọn thường được giao dịch trên thị trường chứng khoán hoặc
thị trường phi chính thức. Hiện nay, chủ yếu các hợp đồng quyền chọn được mua bán
rộng rãi tại văn phòng thị trường chứng khoán( Chicago board Option Exchange–CBOE, Philadelphia
Exchange–PHLX, The American Stock Exchange–AMEX, The Pacific Stock Exchange–PSE, The New York
Stock Exchange–NYSE ). Việc mua bán dưới hình thức hợp đồng chọn tại các văn phòng thị trường
chứng khoán có nhiều khía cạnh giống như mua bán hợp đồng tương lai. Văn phòng thị trường chứng
khoán phải xác định rõ các điều kiện, mức độ, thời gian đáo hạn và ấn định giá của hợp đồng quyền chọn
được mua bán trên thị trường của họ.Và để giảm rủi ro của việc thực hiện hợp đồng, lúc mua sản phẩm (cổ
phiếu chẳng hạn), người đầu tư mở tài khoản dự trữ bắt buộc với người môi giới của họ, mức độ dự trữ tuỳ
thuộc vào loại hàng hoá được giao dịch và tuỳ vào từng tình huống cụ thể.Đồng thời, cũng có những quy
định để kiểm soát thị trường hợp đồng quyền chọn, như những qui định kiểm soát ứng xử của thương
nhân, của những người tạo lập thị trường.
Nghiệp vụ hoán đổi: là một hợp đồng trong đó hai bên thoả thuận trao đổi nghĩa vụ thanh toán. Thông
thường giao dịch này bao gồm các thanh toán lãi, và trong một số trường hợp là thanh toán nợ gốc. Giao
dịch hoán đổi lãi suất và hoán đổi ngoại tệ là sản phẩm của thị trường phi tập trung (OTC) được kết hợp
trực tiếp giữa hai ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với khách hàng. Theo đó không có mẫu chuẩn của hợp

đồng giao dịch hoán đổi và các hợp đồng kiểu này sẽ khác nhau về một số nội dung.
Trước khi các giao dịch hoán đổi xuất hiện, bên vay và bên cho vay thường bị giới hạn ở lãi suất cố định
hoặc lãi suất thả nổi, cấp vốn hoặc cho vay trên cơ sở tiền mặt. Nhà đầu tư hoặc ngân hàng sẽ gặp phải sự
không tương xứng về lãi suất giữa tài sản có và tài sản nợ. Ví dụ công ty vay lãi suát cố định , nhưng lại
đầu tư vào thị trường lãi suất thả nổi, chắc chắn sẽ bị lỗ khi lãi suất giảm do không có khoản tăng thu nhập
từ tài sản có lãi suất thả nổi.
Giao dịch hoán đổi được tạo ra để xử lý những sự không tương xứng này, tạo cho ngân hàng, doanh
nghiệp kiểm soát tốt hơn các dòng lưu chuyển tiền tệ của mình. Khi mới xuất hiện công cụ này vào đầu
thập kỷ 1980, các ngân hàng dàn xếp các giao dịch hoán đổi cho các bên cụ thể có nhu cầu cần bổ sung
cho nhau. Các ngân hàng thu được phí do làm đại diện trong các giao dịch này. Thị trường càng phát triển,
ngân hàng tham gia với vai trò chủ chốt, thực hiện những bù trừ tất cả các trạng thái với các bên ngang
nhau và đối nghịch. Thu nhập được tạo ra từ sự chênh lệch giữa lãi suất hoán đổi thanh toán và nhận
được, hoặc phí trả trước để giàn xếp.
2. Các công cụ phái sinh không chuẩn (được gắn thêm):
Những năm gần đây, trên thị trường tài chính đã suất hiện nhiều công cụ tài chính phái sinh khác được thiết
kế dựa trên những nguyên lý cơ bản của các công cụ tài chính quyền chọn (call, put) và hợp đồng mua bán
tương lai, gọi là hợp đồng lựa chọn Exotics, hay còn gọi là những công cụ phái sinh không chuẩn. Các ví dụ
sau cso thể minh hoạ phần nào về công cụ phái sinh không chuẩn:
Ví dụ 1: Về trái phiếu của Standard Oils
Năm 1986 công ty Standard Oils phát hành loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi suất, nhưng
đến ngày đáo hạn người mua 1000 USD trái phiếu sẽ nhận được một số tiền phụ trội dựa trên giá của xăng
dầu lúc đó. Số tiền phụ trội này bằng tích số của 170 với mức giá dầu tăng vượt mức 25 USD/thùng, tuy
nhiên mức giá vượt lên không quá 40 USD/thùng. Tức lợi tức nhận được tối đa là 2.250 USD với 1000 USD
trái phiếu. Trường hợp giá dầu không tăng thì người mua chỉ nhận được gốc trái phiếu khi đến ngày đáo
hạn.
Ví dụ 2:Trái phiếu ICON
Năm 1985, tổ chức ngân hàng Banker Trust đã phát hành một loại trái phiếu mang tên ICONs (Index
currency notes). Lợi tức thu được từ trái phiếu này phụ thuộc vào tỷ giá với ngoại tệ. Ngân hàng thỏa thuận
trước với người mua trái phiếu 2 mức tỷ giá X1 và X2 (X1>X2). Nếu đến ngày đáo hạn, tỷ giá lớn hơn X1
thì người mua trái phiếu sẽ nhận được toàn bộ số tiền như đã thoả thuận trước, nếu tỷ giá nhỏ hơn X2

người chủ trái phiếu không nhận được một đồng nào ngoài tiền gốc. Nếu tỷ giá trong khoảng X1 và X2 sẽ
nhận được một phần nhỏ lợi tức nào đó.
Ví dụ 3: Hợp đồng lựa chọn trước trong một khoảng định
Hợp đồng loại này thường được sử dụng trong mua bán ngoại tệ. Một hợp đồng mua bán trước khoảng
định là quyền chọn mua ( hoặc bán) trong giới hạn dao động tỷ giá định trước. Giả sử ngày 8/5/2005 một
công ty Hoa kỳ sẽ cần đồng bảng anh trong vòng 90 ngày nữa. Công ty này có thể ký một hợp đồng mua
trước khoảng định bảng anh quanh mức tỷ giá 1,6056 trong 90 ngày nữa. Theo hợp đồng này, tỷ giá được
đặt dao động quanh mức 1,6056 (từ mức 1,5700 đến 1,6400). Nếu đến ngày đáo hạn tỷ giá nhỏ hơn 1,570
công ty sẽ trả theo mức tỷ giá 1,5700; nếu giá nằm trong khoảng 1,570-1,6400, công ty sẽ trả theo thời giá;
nếu thời giá lớn hơn 1,6400 công ty sẽ trả bằng mức 1,6400.
Hiện nay trên thị trường tài chính xuất hiện rất nhiều các loại công cụ phái sinh không chuẩn, như hợp đồng
lựa chọn bắt đầu trong tương lai, là loại hợp đồng ta phải trả ngay, nhưng chỉ bắt đầu tại thời điểm nào đó
trong tương lai; hợp đồng lựa chọn hỗn hợp là hợp đồng lựa chọn dựa trên các hợp đồng lựa chọn. Có 4
loại hợp đồng hỗn hợp chính: Call dựa trên Call, Put đựa trên Call, Put dựa trên Put, Call dựa trên Put; hợp
đồng lựa chọn có dào; giao dịch hoán đổi lãi suất chéo Cross Currency Swap - CCS là loại nghiệp vụ phái
sinh cơ bản giúp cho khách hàng có khả năng phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất. Có thể mô tả qui trình đó
như sau:
Bên A và bên B ký hợp đồng CCS với nội dung như sau:
+ Số tiền 10 triệu USD,
+ Tỷ giá 1 USD = 15.800 VND.
+ Ngày hiệu lực 1/6/2005;
+ Ngày đáo hạn 1/6/2010
+ Lịch trình dòng tiền: 3 tháng một lần, chia đều suốt thời hạn 5 năm
+ Lãi suất: Bên A trả 8% trên 158 tỷ VND, Bên B trả Libor 3 tháng trên 10 triệu USD. Định kỳ trả lãi 3 tháng
một lần.
Hợp đồng CCS có thể có hoặc không có trao đổi ban đầu, nhưng nhất thiết phải có trao đổi cuối cùng, hai
bên có thể thoả thuận trả lãi suất cố định hay thả nổi tuy theo yêu cầu.
Sơ đồ dòng tiền.
(1) Trao đổi ban đầu ( tỷ giá 1 USD = 15.800 VND) vào ngày 1/6/2005. Bên A chuyển cho NH ( bên B) 10
triệu USD, Bên B chuyển cho Bên A 158 tỷ VND.

(2) Sự trao đổi cuối cùng (tỷ giá 1 USD = 15.800 VND) bắt đầu ngày 1/9/2005 cứ 3 tháng 1 lần cho đến
1/6/2010. Tổng cộng có 20 lần trao đổi.
- Bên A chuyển cho bên B 7,9 tỷ VND, Bên B chuyển cho bên A 0,5 triệu
USD;
- Lãi suất Bên A trả cho Bên B là 8%/năm, Bên B trả cho bên A lai suất
Libor 3 tháng.
Trên thực tế ở các nước trong khu vực, hợp đồng CCS như dạng trên rất
phổ biến và giúp cho khách hàng phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất.
- Hợp đồng quyền chọn lãi suất chặn trên và chặn hai đầu
+ Quyền chọn lãi suất chặn trên tối đa : được áp dụng khi khách hàng vay vốn theo lãi suất thả nổi nhưng
không phải trả vượt quá một mức lãi suất được xác định trước. Đến thời điểm đáo hạn nếu lãi suất thực tế
vượt mức lãi suất xác định trước, khách hàng chỉ phải trả lãi suất theo mức đã xác định trước trong hợp
đồng. Trường hợp lãi suất hiện thời thấp hơn lãi suất xác định trước khách hàng trả theo lãi suất hiện thời.
Để có quyền này, khách hàng phải trả một mức phí nhất định theo thoả thuận.
+ Quyền chọn chặn hai đầu, được áp dụng khi khách hàng vay lãi suất thả nổi với mong muốn phải trả lãi
suất trong một khung xác định trước.
- Nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ- Dual currency Deposit. Nghiệp vụ này có thể được mô
tả như sau:
+ Khách hàng và TCTD thoả thuận với nhau về một giao dịch tiền gửi thông thường kèm theo một hợp
đồng quyền chọn, theo đó đến ngày đáo hạn, nếu tỷ giá đồng tiền thấp hơn (hoặc cao hơn) tỷ giá thoả
thuận ban đầu thì người gửi tiền sẽ nhận được tiền gốc và tiền lãi bằng đồng tiền đã gửi ban đầu; nếu tỷ giá
lớn hơn (hoặc thấp hơn) mức tỷ giá thoả thuận ban đầu thì người gửi tiền sẽ nhận tiền gốc và tiền lãi bằng
đồng tiền khác theo tỷ giá và loại đồng tiền do khách hàng và TCTD thoả thuận ban đầu.
+ Có kỳ hạn cố định và thường là ngắn hạn;
+ Lãi suất của loại tiền gửi này có thể cao hơn lãi suất tiền gửi thông thường cùng kỳ hạn và gắn với quyền
chọn tiền tệ có thể phát sinh rủi ro
Trên thị trường tài chính ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh bắt đầu xuất hiện khoảng 5 năm trước đây và
đến nay xuất hiện nhiều loại công cụ phái sinh chuẩn và không chuẩn đang được thực hiện.Tuy nhiên, cơ
sở pháp lý các các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn lẻ, ngoại trừ giao dịch hoán đổi lãi
suất đã có qui chế của NHNN ( Quyết định sso 1133/2003/QĐ - NHNN, ngày 30/9/2003 ban hành kèm theo

qui chế). Đồng thời số lượng các giao dịch còn ít khoảng gần 15 hợp đồng hoán đổi lãi suất và một số ít
hợp đồng phái sinh không chuẩn khác đã được cho phép thực hiện( trong số đó có một số giao dịch đã
chưa phát sinh giao dịch). Có thể liệt kê một số TCTD đã được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện:
- Ngân hàng Citibank thực hiện thí điểm hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền từ ngày 1/3/2005 đến 2/2006.
- Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa 2 đồng tiền
chéo (Cross Currency Swap- CCS) đối với khoản vay ngoại tệ của khách hàng sau khi khách hàng vay
ngoại tệ;thực hiện cung cấp sản phẩm gắn với rủi ro tín dụng- lãi suất cơ cấu cho tiền gửi và giấy tờ có giá,
theo đó lãi suất của khách hàng được hưởng sẽ không cố định mà nằm trong một khoảng giao động nhất
định và phụ thuộc vào sự biến động của một số yếu tố thị trường , như tỷ giá, lãi suất, giá sản phẩm hàng
hóa nào đó
- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất đối với các
khoản cho vay hoặc đi vay trung hạn bằng USD hoặc euro. Đối tác thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất
là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động tại VN được NHNN cho phép thực hiện
thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các NH nước ngoài. Số gốc của hợp đồng quyền chọn lãi suất tối
đa bằng 15% vốn tự có của NHĐT&PT. Tổng số là hợp đồng trong thời gian thí điểm không vượt quá 50%
mức vốn tự có của NH. thời hạn hợp đồng không quá 5 năm; thực hiện nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền
chọn tiền tệ- Dual currency Deposit; thực hiện hoán đổi tiền tệ chéo. Đó là việc trao đổi các dòng tiền trong
tương lai bằng các đồng tiền khác nhau. Trong các
giao dịch hoán đổi chéo thường có việc hoán đổi thanh
toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền sang
thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng
tiền khác. Số tiền gốc trong giao dịch có thể được hoán
đổi vào kỳ đầu (nếu có) và kỳ cuối, hoặc nhiều kỳ trong
thời gian hiệu lực của giao dịch
- NHNT thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất kèm theo
điều kiện quyền chọn với các đối tác là TCTD hoạt
động tại Việt Nam và các pháp nhân khác hoạt động ở
trong nước và nước ngoài, phù hợp với các qui định của pháp luật. Quyền chọn thuộc về NHNT là quyền
kết thúc trước hạn hợp đồng Swap đối với các khoản vay của BTC.
- NH HSBC thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cộng dồn – Daily range accrual, thời hạn của hợp đồng tối

đa 5 năm. Theo thoả thuận hoán đổi này, khách hàng vay cuả HSBC sẽ trả Sibor cộng với phần chênh lệch
và tổng lãi suất phải trả này không vượt quá mức lãi suất cao nhất đã được định trước. Đổi lại HSBC sẽ trả
Sibor cộng với phần chênh lệch cho những ngày lãi suất Sibor giao động trong một khoảng được định
trước. Cụ thể, hợp đồng này thoả thuận giữa khách hàng vay vốn với thời hạn 6 năm lãi suất thả nổi. Nếu
đến ngày đáo hạn lãi suất Sibor không vượt quá mức lãi suất xác định trước (4,5%/năm ) thì HSBC sẽ trả
lãi suất cho khách hàng với mức lãi suất (Sibor + 1,1% ). Trường hợp vượt mức lãi suất định trước, thì
HSBC không phải trả mức lãi suất này. Đổi lại, khách hàng sẽ trả cho HSBC mức lãi suất (Sibor + 0,6%),
nhưng tối đa không vượt quá 5,1%/ năm; thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền
- Thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ (Option ngoại tệ/ VND): Đã cho phép thực hiện thí điểm
NHTMCP Quốc tế,), ngân hàng NT (8/2005); NHTM cổ phần Á Châu, NHĐT&PT, NHTMCP Kỹ thương,
NHTMCP Quân đội (12/2005).
- NH Calyon, citibank, ABN-AMRO thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện trong tương lai
(Forward Start Swap) là thoả thuận để tham gia giao dịch hoán đổi lãi suất vào một ngày cụ thể trong tương
lai theo một mức lãi suất đã được định trước.
- Cho phép NH TMCP kỹ thương thực hiện giao dich hợp đồng tương lai trên thị trương hàng hoá
(9/2004);Vinasin thực hiện giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Qua thống kê trên cho thấy, thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt Nam, tuy nhiên
còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ phát triển của thị
trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp, trên thị trường cón thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích
cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp vụ này. bên cạnh đó các nhà môi giới, các nhà cơ
lợi còn quá ít trên thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ
thị trường này. Sự kém phát triển của thị trường phái sinh là một thách thức không nhỏ trong quá trình hội
nhập và mở cửa thị trường tài chính ở Việt Nam. Khi mà rủi ro luôn là bạn đường của các nhà đầu tư và
ngày càng gia tăng trong quá trình hội nhập, thì phát triển thị trường các nghiệp vụ phái sinh được xem như
là là chắn quan trọng để hạn chế rui ro cuả thị trường đối với những nhà đầu tư. Vì vậy phát triển thị trường
phái sinh là rất cần thiết hiện nay.
Phòng CSTT- Vụ CSTT
Khái niệm và các loại công cụ phái sinh
( Bình chọn: 2 Thảo luận: 1 Số lần đọc: 4322)
I. Khái niệm:

Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đă có như cổ phiếu, trái
phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.
II. Các loại công cụ phái sinh:
1. Quyền lựa chọn (Option)
a. Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn
mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hoá với một mức giá xác định, và
trong một thời gian nhất định.
Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, đồng
tiền hay hợp đồng tương lai.
b. Những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn
- Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
- Loại quyền (chọn mua hay chọn bán).
- Thời hạn của quyền.
- Mức giá thực hiện theo quyền.
c. Những mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn:
- Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở.
- Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền.
- Giá quyền lựa chọn.
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của chứng khoán cơ sở, thì quyền đó
được gọi là đang được tiền (in the money), tức là người có quyền có thể có lợi từ việc thực hiện quyền. Nếu
giá thực hiện bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà vốn (at the money), và nếu cao hơn, gọi
là đang mất tiền (out of money).
Đối với quyền chọn bán thì ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá bán thực hiện quyền cao
hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất tiền nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường
của hàng hoá cơ sở.
Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện quyền được gọi là giá trị nội
tại (intrinsic value). Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị trường của một quyền
thường ít nhất là bằng giá trị nội tại. Giá bán quyền được gọi là phần phụ trội, chênh lệch giữa giá bán
quyền với giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang được tiền) được gọi là phần phụ trội giá trị theo thời
gian.

Nói cách khác, khi đó:
Giá trị theo thời gian của quyền chọn mua = Giá quyền - (giá thị trường - giá thực hiện).
Ví dụ 1: Giá của một quyền chọn mua XYZ là 400.000 đồng, giá thị trường của XYZ là 42.000 đồng. Người
giữ quyền có thể chiếm lấy 200.000 đ ngay tức thì bằng cách thực hiện quyền, tức là mua 100 cổ phần
(mức giá được quyền ấn định) với tổng chi phí 4.000.000 đồng, cũng theo mức giá thực hiện theo quyền là
40.000 đ một cổ phần; sau đó bán ngay với giá thị trường, thu về 4.200.000 đ. Giá trị nội tại của quyền là
200.000 đ.
Mức phụ trội giá trị theo thời gian = giá quyền – giá trị nội tại = 400.000 đ - 200.000 đ = 200.000 đ
Người mua vẫn sẵn sàng trả phần phụ trội cho các quyền lựa chọn và họ nhận được nhiều lợi ích từ một
quyền lựa chọn.
d. Ứng dụng của quyền lựa chọn:
Quyền lựa chọn cho phép nhà đầu tư thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư cao nhất.
Ví dụ 2: Giả sử thị trường hiện nay của cổ phiếu XYZ là 42.000 VND/cổ phần, và bạn dự đoán sau nửa năm
nữa, giá cổ phiếu XYZ sẽ tăng mạnh, lên tới 50.000 VND. Giả sử các quyền lựa chọn có liên quan đến giao
dịch cổ phiếu XYZ được niêm yết, bạn có thể mua một quyền chọn mua cổ phiếu XYZ với giá 40.000
VND/cổ phần.
Trong vòng 6 tháng giá cổ phiếu XYZ tăng lên 50.000 VND/cổ phần. Bạn có thể buộc người bán giao 100
cổ phần XYZ cho bạn với giá 40.000 VND/cổ phần, sau đó bán chúng ra thị trường với giá 50.000 đồng.
Như vậy bạn đă tạo ra một lợi nhuận đáng kể. Trên thực tế bạn đă thu được lợi nhuận 60.000 đồng trên
khoản đầu tư 40.000 đồng, vậy lợi suất là 150%, trong khoảng thời gian là 6 tháng.
Quyền lựa chọn được sử dụng để bảo vệ lợi nhuận
Ví dụ 3: Với XYZ đang có giá thị trường là 44.000 đồng, người sở hữu 100 cổ phần XYZ bán một quyền
chọn mua XYZ 44.000 với giá quyền là 400.000 đồng.
Nếu giá thị trường của XYZ giảm xuống 40.000 đồng, người bán sẽ được bảo vệ trước khoản thua lỗ nhờ
có 40.000 đồng nhận được từ việc bán quyền chọn. Nếu XYZ tiếp tục giảm giá thì đương nhiên người bán
sẽ mất tiền. Như vậy khoản thu 40.000 đồng từ việc bán quyền lựa chọn tạo ra một sự bảo vệ cục bộ đối
với tình trạng sụt giá.
Nếu trong 6 tháng tới giá XYZ vẫn giữ nguyên, quyền sẽ không được thực hiện. Khoản thu phụ trội 40.000
đồng là một thu nhập bổ sung trên tổng đầu tư.
2. Quyền mua trước (right)

Quyền mua trước là một quyền lựa chọn mua có thời hạn rất ngắn, có khi chỉ vài tuần. Quyền này được
phát hành khi các công ty tăng vốn bằng cách phát hành thêm các cổ phiếu thường. Quyền cho phép một
cổ đông mua cổ phiếu mới phát hành với mức giá đã ấn định trong một khoảng thời gian xác định.
Loại quyền này thường được phát hành theo từng đợt, mỗi cổ phiếu đang lưu hành được kèm theo một
quyền. Số quyền cần để mua một cổ phiếu mới được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành mới.
Giá cổ phiếu ghi trên quyền thường là thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu. Giá của quyền tính bằng chênh
lệch giữa giá thị trường hiện hành của cổ phần đang lưu hành và giá mua cổ phần mới theo quyền, chia
cho số lượng quyền cần có để mua một cổ phần mới.
Ví dụ: cổ phiếu bán theo quyền (giá thực hiện) là 800.000 đồng/cổ phần, nhưng có giá thị trường là
1.000.000 đồng, nếu cứ 10 quyền được mua một cổ phần mới thì giá của quyền được xác định theo công
thức:
V
r
= P
0
- P
n
/r
Trong đó: V
r
là giá trị của một quyền, P
0
là giá thị trường của cổ phiếu đang lưu hành, P
n
là giá thực hiện cổ
phiếu mới và r là số quyền cần có để mua một cổ phiếu mới.
Vậy, giá quyền ở đây là V
r
= (1.000.000 – 800.000)/10 = 20.000 đồng.
Nếu không muốn thực hiện quyền, cổ đông thường có thể bán quyền trên thị trường trong thời gian quyền

chưa hết hạn. Giá quyền có thể lên xuống trong khoảng thời gian chào bán, tuỳ thuộc biến động giá thị
trường của cổ phiếu.

3. Chứng quyền (warrants)
Chứng quyền là quyền cho phép mua một số cổ phần xác định của một cổ phiếu, với một giá xác định,
trong một thời hạn nhất định. Quyền này được phát hành khi tiến hành tổ chức lại các công ty, hoặc khi
công ty muốn khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua những trái phiếu hay cổ phiếu ưu đăi nhưng có
những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối với
sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
Đặc điểm:
Khác với quyền mua trước, chứng quyền có thời hạn dài hơn, do công ty đã phát hành công cụ cơ sở phát
hành đồng thời với công cụ cơ sở. Khác với quyền lựa chọn (option), khi chứng quyền được thực hiện, nó
tạo thành dòng tiền vào cho công ty và tăng thêm lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường.
Chứng quyền có thể được giao dịch tách rời với trái phiếu hay cổ phiếu mà nó đi kèm.
Các điều kiện của chứng quyền được ghi rõ trên tờ chứng chỉ: số cổ phiếu được mua theo mỗi chứng
quyền (thường là 1:1); giá thực hiện cho mỗi cổ phiếu; tại thời điểm chứng quyền được phát hành, giá này
bao giờ cũng cao hơn giá thị trường của cổ phiếu cơ sở, và giá đó có thể cố định, có thể được tăng lên định
kỳ; và thời hạn của quyền, đa số trường hợp là 5 đến 10 năm.

4.Hợp đồng kỳ hạn
Hợp dồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một
giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá
được ấn định vào ngày hôm nay.
Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào; từ nông sản, các đồng tiền, cho tới các chứng khoán.
Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau,
dựa theo những ước tính mang tính các nhân. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm
giao nhận hàng hoá có thể thay đôỉ, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đă kư kết trong hợp đồng.
Khi đó, một trong hai bên mua và bán sẽ bị thiệt hại do đă cam kết một mức giá thấp hơn (bên bán) hoặc
cao hơn (bên mua) theo giá thị trường.
Như vậy bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng

như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Và chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho nên mỗi bên đều
phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi có thay đổi giá cả trên thị trường giao
ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, với mức giá
đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên rất có thể không chính xác.

5. Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai, nhờ đặc tính linh hoạt của nó, đã khắc phục được những nhược điểm của hợp đồng kỳ
hạn, và thường được xem là một cách thức tốt hơn để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh.
Những điểm khác biệt căn bản của hợp đồng tương lai so với hợp đồng kỳ hạn là:
1. Niêm yết trên sở giao dịch. Một giao dịch hợp đồng tương lai nói chung được xử lý trên một Sở giao dịch.
Điểm này cho phép giá cả được hình thành hợp lý hơn, do các bên mua bán được cung cấp thông tin đầy
đủ và công khai.
2. Xoá bỏ rủi ro tín dụng. Trong các giao dịch hợp đồng tương lai được niêm yết trên sở giao dịch, cả hai
bên bán và mua đều không bao giờ biết về đối tác giao dịch của mình. Công ty thanh toán bù trừ sẽ phục vụ
như một trung gian trong tất cả các giao dịch. Người bán bán cho công ty thanh toán bù trừ, và người mua
cũng mua qua công ty thanh toán bù trừ. Nếu một trong hai bên không thực hiện được hợp đồng thì vẫn
không ảnh hưởng đến bên kia.
3.Tiêu chuẩn hoá. Các hợp đồng kỳ hạn có thể được thảo ra với một hàng hoá bất kỳ, khối lượng, chất
lượng, thời gian giao hàng bất kỳ, theo thoả thuận chung giữa hai bên bán, mua. Tuy nhiên, các hợp đồng
tương lai niêm yết trên sở giao dịch đòi hỏi việc giao nhận một khối lượng cụ thể của một hàng hoá cụ thể
đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, theo một thời hạn được ấn định trước.
4. Điều chỉnh việc đánh giá theo mức giá thị trường (Marking to market). Trong các hợp đồng kỳ hạn, các
khoản lỗ, lãi chỉ được trả khi hợp đồng đến hạn. Với một hợp đồng tương lai, bất kỳ món lợi nào cũng được
giao nhận hàng ngày. Cụ thể là nếu giá của hàng hoá cơ sở biến động khác với giá đã thoả thuận (giá thực
hiện hợp đồng) thì bên bị thiệt hại do sự thay đổi giá này phải trả tiền cho bên được lợi từ sự thay đổi giá
đó. Trên thực tế, và không bên nào biết về đối tác của mình trong giao dịch, nên những người thua đều trả
tiền cho công ty thanh toán bù trừ, và công ty này sẽ trả tiền cho những người thắng
Công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam-mới hay cũ
( Bình chọn: 4 Thảo luận: 1 Số lần đọc: 6326)
Phát triển các công cụ tài chính mới được xem là một trong năm bài học rút ra

từ sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế Mỹ suốt 5 năm qua (2000-2005).
Theo kiến nghị của các chuyên gia, các công cụ tài chính mới đặc biệt là công
cụ tài chính phái sinh không chỉ cho phép các ngân hàng phòng ngừa rủi ro mà
còn là một trong những dịch vụ có tỉ lệ sinh lời cao nhất. Vậy tại sao những
công cụ này lại chưa được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam?
1. Một số nhận xét về Công cụ tài chính phái sinh
Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên
cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân
tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh
bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu,
chỉ số chứng khoán, lãi suất….Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại
bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts), hợp
đồng tương lai (future contracts). Những công cụ trên còn có thể kết hợp với nhau, với những khoản vay
hoặc những chứng khoán truyền thống để tạo nên các công cụ lai tạo.
Mặc dù, xuất hiện lần đầu tiên với tư cách là 1 công cụ phòng chống rủi ro nhưng cùng với sự lớn mạnh và
phức tạp của thị trường tài chính, các công cụ tài chính phái sinh cũng được sử dụng nhiều hơn để tìm kiến
lợi nhuận và thực hiện các hoạt động đầu cơ. Chính vì những biến thái như nên không phải lúc nào sử
dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro cũng có hiệu quả. Các công cụ phái sinh ngày càng
tinh vi và mang theo 1 số rủi ro gây gián đoạn lớn hơn độ rủi ro thông thường. Sự sụp đổ của thị trường tài
chính cổ phiếu Mỹ năm 1987 chính được đẩy nhanh nhờ sử dụng rộng rãi kỹ thuật tự bảo hiểm Delta, được
mua bán các hợp đồng bảo hiểm danh mục đầu tư. Những người bảo hiểm này đã đầu tư, mạnh hơn vào
thị trường mà nếu như không có kỹ thuật này thì có thể họ đã không làm như vậy. Khi sự sụt giảm của thị
trường kích hoạt bảo hiểm, khối lượng bán đột ngột gây ra một gián đoạn và thị trường sụp đổ. Hay như
Great Britain’s Bearing, một trong những ngân hàng lâu đời nhất thế giới đã phá sản năm 1995 khi đầu cơ
các hợp đồng tương lai trong một thương vụ ở Singapore. Tuy vậy, các công cụ tài chính phái sinh vẫn phát
triển mạnh mẽ và được sử dụng rộng rãi tại các thị trường tài chính lớn của thế giới. Nguyên nhân không
nằm ngoài việc đó là phương thức duy nhất để các chủ thể trên thị trường phòng chống rủi ro. Theo điều tra
đối với 500 công ty lớn nhất thế giới tai 26 quốc gia khác nhau thì có tới 92 % các công ty trả lời rằng họ
thường xuyên sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa và quản lí rủi ro.
2. Thị trường công cụ tài chính phái sinh?

Trong các thị trường tài sản, việc mua bán hòi hỏi hàng hoá hoặc chứng khoán phải được giao nhận hoặc
là ngay lập tức hoặc là chỉ ít lâu sau đó. Việc thanh toán cũng thường được thực hiện tức thời mặc dù thỉnh
thoảng cũng có trường hợp sử dụng 1 số thoả thuận tín dụng. Do đặc điểm như vậy nên chúng ta thường
gọi là thị trường tiền mặt hoặc là thị trường giao ngay (spot market). Doanh số được thực hiện, khoản thanh
toán được hoàn trả và hàng hoá, chứng khoán được giao nhận. Trong tình huống khác, hàng hoá hay
chứng khoán vẫn được giao nhận vào một ngày sau đó, nhưng có các thoả thuận giúp cho ngưòi bán hoặc
người mua được chọn là có thực hiện bán hay không các loại thoả thuận này, và nghiệp vụ này được thực
hiện trong thị trường phái sinh.
Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái sinh, những công cụ mang tính hợp
đồng, mà thành quả của chúng được xác định trên 1 hoặc 1 số công cụ tài sản khác. Chúng ta xem các
công cụ phái sinh như là các hợp đồng, và giống như tất cả hợp đồng, chúng được thoả thuận giữa hai
bên, người mua và người bán, trong đó mỗi bên sẽ thực hiện nghĩa vụ gì đó cho bên kia. Các hợp đồng này
có giá cả và người mua sẽ cố gắng mua với giả rẻ và người bán cố gắng bán với giá cao nhất. Các loại
công cụ phái sinh khác nhau bao gồm: Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng giao sau, quyền chọn, hoán đổi và
chứng khoán lai tạp.
Hợp đồng kỳ hạn là công cụ lâu đời nhất, và có lẽ
vì lí do đó mà nó ít phức tạp nhất. Hợp đồng kỳ hạn
là hợp đồng giữa 2 bên. Người mua và người bán,
để mua hoặc bán tài sản vào một ngày trong tương
lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Nếu vào
ngày đáo hạn, giá thực tế cao hơn giá thực tế thì
người sở hữu hợp đồng sẽ kiếm được lợi nhuận;
nếu ngược lại thì người sở hữu hợp đồng sẽ chịu
một khoản lỗ. Bản thân hợp đồng kỳ hạn mang
trong mình 3 loại rủi ro. Thứ 1: nếu giá thực tế vào ngày đáo hạn hợp đồng cao hơn giá mong đợi, rủi ro
vốn có của công ty sẽ làm giảm giá trị công ty nhưng sự sụt giảm này sẽ được đền bù bằng lợi nhuận của
hợp đồng kỳ hạn. Vì vậy, hợp đồng kỳ hạn cung cấp một cách phòng ngừa rủi ro hoàn hảo.
Thứ 2, rủi ro tín dụng hay rủi ro không có khả năng chi trả của hợp đồng. Rủi ro này có hai chiều, người sở
hữu hợp đồng hoặc là người nhận được hoặc là người chi trả, phụ thuộc vào biến động giá cả thực tế của
tài sản cơ sở.

Thứ 3, giá trị của hợp đồng kỳ hạn chỉ được giao nhận vào ngày nào đáo hạn của hợp đồng, không có
khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết hoặc trong thời hạn của hợp đồng. Vậy nên, bản thân
những hợp đồng kỳ hạn có chứa nhiều rủi ro nhất trong các công cụ phái sinh.
Hợp đồng giao sau cũng là một hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để mua bán tài sản vào
một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Hợp đồng giao sau tiến triển từ hợp đồng kỳ
hạn nên có những điểm giống với hợp đồng kỳ hạn. Về bản chất, chúng giống tính thanh khoản của hợp
đồng kỳ hạn. Tuy vậy, khác với hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau được giao dịch trên thị trường có tổ
chức, được gọi là sàn giao dịch giao sau. Người mua hợp đồng giao sau là người có nghĩa vụ mua hàng
vào một ngày trong tương lai, có thể mua lại hợp đồng giao sau trên thị trường giao sau. Điều này làm cho
họ thoát khỏi nghĩa vụ mua hàng. Và tương tự đối với người bán hợp đồng giao sau, là người có nghĩa vụ
bán hàng vào một ngày trong tương lai, có thể mua lại hợp đồng trên thị trường giao sau, và điều này cũng
làm cho họ thoát khỏi nghĩa vụ bán hàng. Đặc trưng này giúp những người tham gia mua bán công cụ tài
chính phái sinh tránh được những thiệt hại kinh tế đáng kể nếu trong thời hạn hợp đồng giá cả của tài sản
cơ sở có sự biến động không có lợi cho mỗi bên.
Giống như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau cũng có rủi ro hai chiều, rủi ro tín dụng, tức người sở hữu
hợp đồng hoặc là người được nhận hoặc là người phải chi trả. Nhưng khác biệt rõ nhất với thị trường kỳ
hạn là thị trường giao sau sử dụng 2 công cụ để loại bỏ rủi ro này.
Thứ nhất, thay vì giao nhận giá trị hợp đồng vào 1 ngày thông qua mua bán đơn thuần vào ngày đáo hạn,
thay đổi trong giá trị hợp đồng giao sau được thực hiện thanh toán vào cuối ngày giao dịch. Điều này có
nghĩa hợp đồng giao sau có tính chất thanh toán tiền mặt hay điều chỉnh theo ngày, tức thời hạn giao sau
được rút ngắn lại. Nhờ thế mà rủi ro trong thanh toán
được giảm đi. Thứ 2, hợp đồng giao sau yêu cầu tất cả
các thành viên tham gia thị trường, người bán và người
mua đều như nhau, phải thực hiện một khoản ký gửi gọi
là ký quỹ. Nếu hợp đồng giao sau của bạn tăng giá trị
trong ngày giao dịch, mức tăng này sẽ được công vào tài
khoản ký quỹ của bạn vào cuối ngày. Ngược lại, nếu hợp
đồng của bạn giảm giá trị, thua lỗ sẽ được trừ ra.Và nếu
số dư tài khoản ký quỹ của bạn giảm xuống mức tối thiểu
đã thoả thuận trước đó, bạn sẽ bị yêu cầu nộp một khoản

ký gửi bổ sung, tài khoản ký quỹ của bạn phải được bổ
sung như cũ hoặc là vị thế của bạn sẽ bị đóng.
Hợp đồng giao sau rất giống với một danh mục các hợp
đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, hợp đồng giao sau và một danh
mục các hợp đồng kỳ hạn chỉ giống nhau khi lãi suất là có thể xác định trước, tức là biết được một cách
chắc chắn. Vào lúc đóng cửa mỗi ngày, các hợp đồng giao sau mang tính kỳ hạn đang tồn tại sẽ được
thanh toán cũng như 1 hợp đồng mới được ký kết. Tính chất thanh toán hàng ngày kết hợp với yêu cầu ký
quỹ cho phép hợp đồng giao sau giảm thiểu đáng kể rủi ro tín dụng vốn có của hợp đồng kỳ hạn .
Quyền chọn: Là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó cho người mua quyền nhưng
không phải nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào
ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn. Người bán
quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo điều khoản của hợp đồng nếu người mua
muốn thế. Một quyền chọn để mua tài sản gọi là quyền chọn mua (call), một quỳên chọn bán một tài sản gọi
là quyền chọn bán (put). Mặc dù các quyền chọn được giao dịch trong một thị trường có tổ chức nhưng
phần lớn các giao dịch quyền chọn được quản lý riêng rẽ giữa hai bên. Những người này tự tìm đến với
nhau, loại thị trường này gọi là thị trường OTC, đây chính là loại thị trường quyền chọn xuất hiện đầu tiên.
Hầu hết các quyền chọn chúng ta quan tâm là mua bán các loại tài sản tài chính chẳng hạn như cổ phiếu,
trái phiếu… Mặc dù vậy, chúng ta cũng thấy xuất hiện loại thoả thuận tài chính khác như hạn mức tín dụng,
đảm bảo khoản vay, và bảo hiểm cũng là một hình thức khác của quyền chọn. Ngoài ra, bản thân cổ phiếu
cũng là quyền chọn trên tài sản công ty. Quyền chọn cũng có những nét giống với một hợp đồng kỳ
hạn nhưng quyền chọn không bắt buộc phải thực hiện giao dịch còn người sở hữu hợp đồng kỳ
hạn bắt buộc phải thực hiện giao dịch. Hai bên trong hợp đồng kỳ hạn có nghĩa vụ phải mua và bán hàng
hoá, nhưng người nắm giữ quyền chọn có thể quyết định mua hoặc bán tài sản
với giá cố định nếu giá tri của nó thay đổi.
Hoán đổi là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền, một
giao dịch mà cả hai bên đồng ý thanh toán cho bên còn lại một chuỗi các dòng
tiền trong một khoảng thời gian xác định. Ví dụ, một bên đối tác đang nhận
được một dòng tiền từ một khoản đầu tư, nhưng lại thích một loại đầu tư khác
với dòng tiền mà mình đang thị hưởng. Bên đối tác này sẽ liên lạc với một
dealer hoán đổi, thường là một công ty hoạt động trên OTC, và họ sẽ thực hiện

vị thế đối nghịch trong giao dịch. Tuỳ thuộc vào lãi suất hay giá sau đó thay đổi
như thế nào mà 1 bên sẽ thu được lợi nhuận hay là bị lỗ. Lãi của bên này chính
là lỗ của bên kia. Có 4 loại hoán đôỉ là hoán đổi tiền tệ, hoán đổi lãi suất, hoán
đổi chứng khoán và hoán đổi hàng hoá. Và cũng giống như hợp đồng kỳ hạn,
các hoán đổi cũng gánh chịu những rủi ro nếu một bên bị vỡ nợ. Hoán đổi được xem như là kết hợp giữa
các hợp đồng kỳ hạn. Nó là cải tiến tài chính mới nhất nhưng về thực chất không phức tạp hơn một danh
mục các hợp đồng kỳ hạn và rủi ro tín dụng hiện diện trong hoán đổi cũng có phần thấp hơn so với rủi ro tín
dụng của hợp đồng kỳ hạn có cùng kỳ hạn.
3.Vai trò của các công cụ tài chính phái sinh
Quản trị rủi ro
Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro
của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là
những nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối
lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro
không phù hợp với bản thân mình. Và cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp
nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế
phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên
cạnh đó, thị trường các sản phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho
hoạt động đầu cơ. Bởi ngưòi muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người
khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, tức là rủi ro của người muốn
phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao các giao dịch
này lại có thể được thực hiện, khi mà thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì tất
yếu bên còn lại sẽ không thể tránh khỏi những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có
một “khẩu vị rủi ro” khác nhau, khả năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy
nhiên, ai cũng có mong muốn là giữ cho các khoản đầu tư của mình ở một mức
rủi ro có thể chấp nhận được. Và thế là họ gặp nhau và tiến hành việc chuyển
giao một phần rủi ro của mình cho đối tác.
Và cũng không giống như người ta thường nghĩ, thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền kinh tế vào
những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu cơ không phải là những tay cờ bạc. Chỉ đơn giản là
thay vì giao dịch cổ phiếu, họ giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính

phái sinh lại tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Bởi cần khẳng
định chắc chắn rằng, thị trường phái sinh không hề tạo ra mà cũng chẳng thể phá huỷ được tài sản, chúng
chỉ là những phương tiện chuyển giao rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có cuả thị trường tài sản,
chuyển những khoản rủi ro đó từ những không đủ khả năng chấp nhận nó sang những người sẵn sàng tiếp
nhận nó, chính là những nhà đầu cơ. Không có thêm bất kỳ một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này.
Và lợi ích từ thị trường không chỉ bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn xã hội.
Thông tin hiệu quả hình thành giá
Các thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả. Đặc biệt, thị trường tương
lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay của tài sản. Điều này không hề bất bình
thường, bởi có rất nhiều hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay của
nó rất rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định được giá giao ngay của chúng. Ở đây, thường giá
tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá giao ngay. Thêm nữa, thị trường giao sau,
trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên các thông tin do nó cung cấp có tính tin cậy cao hơn. Những thông
tin được cung cấp trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá giao
ngay trong tương lai một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong giới
hạn chấp nhận của mình.
Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả.
Thứ nhất, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ các giao dịch giao ngay sang
phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn.
Thứ 2, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết đó là yêu cầu một mức vốn để
tham gia thị trường là tương đối thấp. Thêm nữa, tỷ suất sinh lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ
mức độ nào như mong muốn.
Thứ 3, Các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể tìm kiếm
được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất. Tất cả các
chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận.
Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các nhà đầu cơ
với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế, đặt bên
cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao tính lành
mạnh cho thị trường đó.
Như vậy công cụ tài chính phái sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại. Kỹ thuật tài

chính này đòi hỏi một trình độ hiểu hiết và phát triển nhất đinh của bất kỳ nền kinh tế nào.
Việt Nam đã gia nhập WTO, hòa chung vào hơi thở chung của nền kinh tế toàn cầu. Tuy
nhiên, mức độ và điều kiện áp dụng ở Việt Nam còn có những hạn chế nhất định. Điều đó
đòi hỏi chúng ta cần có một hệ thống giải pháp tích cực để triển khai thành công kỹ thuật
này trên thị trường tài chính.
4. Mức độ áp dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam
Giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm bởi tính
biến động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách nào khác ngoài việc
tự bảo hiểm cho mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ 1 phần rủi ro cho thị trường
bằng các Công cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, mức độ áp dụng các Công cụ
phái sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho
phép chúng áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập quán kinh doanh là
những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các Công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam.
Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam theo quyết định số
65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD
và VND giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các ngân hàng thương mại
khác được phép của ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, Hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị
trường liên ngân hàng ở VN chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng
chống rủi ro tỉ giá và những hạn chế của NHNN. Vì thế, các giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7% khối
lượng giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày 24/12/1997 và sau
này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của thống đốc NHNN. Tuy nhiên đây chỉ là những
giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa NHNN và NHTM. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp các NHTM dư
thừa ngoại tệ và khan hiếm VND.
Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở VN và được các ngân hàng sử dụng do
nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động ngân hàng quốc tế. NHNN đã cho phép
các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết
định số 1133/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở
rộng danh mục các NHTM và các TCTD, các DN được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất
được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với DN vay vốn tại NH; giữa NH với những

DN vay vốn tại các tổ chức tín dụng (TCTD) khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các NH trong nước với
nhau và giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các TCTD nước ngoài. Trên cơ sở nới lỏng quản
lý của NHNN, nhiều NHTM đã triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh nghiệp (DN),
tìm kiếm đối tác là các TCTD nước ngoài để ký kết hợp tác. Tuy nhiên, giao dịch phái sinh trong đó có
hoán đổi lãi suất được coi là hoạt động ngoại bảng của NH do đó hướng dẫn hạch toán từ phía NHNN đối
với các nghiệp vụ này đang được xem là điều kiện đủ để các NHTM đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho
khách hàng.
Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt Nam (từ 1/2003), đã có
một só ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày 1/3/2005
tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã
được thực hiện, từ trước khi có quy định chính thức của ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi
được NHNN cho phép, HSBC đã cung cấp gói Swaps tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên
tới 15 triệu USD trên tại trường Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách hàng, tới
tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt được
mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay
vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không chịu bất cứ một rủi ro nào
về tỷ giá USD/VND.
Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các
giao dịch hoán đổi sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi
nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa hai
đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng sử
khi khách hàng vay ngoại tệ. Và trong tương lai, Standard
Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh nữa trên thị
trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường.
Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán
đổi như hoán đổi lãi suất cộng dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt
đầu thực hiện trong tương lai …cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối trong thời gian gần
đây. Điều đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí điểm áp dụng tại Việt Nam theo
công văn 3324/NHNN-CSTT, tháng 4/2006 cho phép HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực hiện.
Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn.

Tức một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định kỳ sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái
phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối
tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ.
Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của các loại trái phiếu do
chính phủ hoặc các DN Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của DN
Việt nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho
HSBC là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC
ở nứơc ngoài. Thời hạn của giao dịch không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này cũng giống như
thực hiện một khoản đầu tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm
kiếm những mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình thường, nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn vốn của các TCTD. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn góp phần nâng cao mức
độ tín nhiệm của chính phủ và các DN Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế.
Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh được thị trường hoan nghênh
và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng luôn
ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép
thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với
những khoản cho vay và đi vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ được thực hiện
đối với các DN hoạt động tại VN, các NHTM hoạt động ở VN được NHNN cho phép và các NH ở nước
ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các NHTM khác, bao gồm cả NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện
nghiệp vụ này.
Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển hình là
BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân hàng Hồng Kông
bank chi nhánh thành phố HCM. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các DN và cá nhân được
quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá
thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó
quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi
NHNN cho phép ACB, Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB
là ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước
và quốc tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị
trường đối với công cụ. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được phép của Ngân hàng nhà nước cho phép

thực hiện các nghiệp vụ Option. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước cũng đã cho phép thực hiện các Options
tiền Đồng tại BIDV, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng cổ phần thương mại quốc tế. Với
nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở rộng bởi khi đó VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài
chính thế giới. Vị thế của VND và Việt Nam cũng qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí
điểm nên các ngân hàng này bị giới hạn bởi thời gian thực hiện.
Nhìn chung, hoạt động này đang đem lại một cơ cấu sản phẩm hiện
đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Hơn nữa, nhu cầu
của khách hàng đối với các giao dịch Options đang có xu hướng
tăng, do vậy ngân hàng nhà nước đã tiến hành gia hạn thí điểm hợp
đồng các nghiệp vụ này.
Quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà
xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và
quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho
phép ACB, Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân
hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc
tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị trường đối
với công cụ này.
Điểm lại nhưng mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở VN, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị
trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Thực trạng đó đặt ra nhiều câu
hỏi. Phải chăng các DN chưa thực sự có nhu cầu phòng chống rủi ro? Phải chăng khoảng cách giữa mong
muốn phòng ngừa rủi ro của các DN và các công cụ phái sinh còn quá lớn? Phải chăng sự hiểu biết của
các DN đối với các Công cụ phái sinh, từ đó là những chính sách sử dụng nó còn yếu kém? Phải chăng
điều kiện kinh tế, đặc biệt là sự phát triển ở VN còn hạn chế? Phải chăng là việc hạch toán những nghiệp vụ
ngoại bảng này còn nhiều bất cập khiến các ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc triển khai các dịch vụ
phái sinh ? Phải chăng những quy định pháp lý hiện nay còn hạn chế sự hoạt động của các công cụ phái
sinh?
5. Một số giải pháp vĩ mô
Nếu sử dụng sai mục đích và không được giám sát chặt chẽ, các công cụ phái sinh, từ chỗ là công cụ
phòng chống rủi ro sẽ mang đến những mầm hoạ khôn lường cho nền kinh tế. Do vậy, để tránh điều đó,
chúng ta cần xây dựng những trụ cột cơ bản đảm bảo việc triển khai các

công cụ tài chính phái sinh được bền vững.
Thứ nhất : Quy định về giới hạn và giá mua
Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá
quá cao hay quá thấp làm cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói
cách khác, đây là những quy định nhằm kiểm soát (không ngăn cấm) các
nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Việc kết hợp các chiến lược phòng ngừa
rủi ro trong các quyền chọn tiền tệ là rất phong phú, nó cho phép các DN
Việt Nam kết hợp vừa phòng ngừa (tỷ giá) vừa tiến công khi có cơ hội
(đặc biệt đối với các định chế muốn tìm kiếm lợi nhuận). Dĩ nhiện là mặt
trái của quyền chọn là đầu cơ rất cao. Các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá
lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các quyền chọn mua và bán.
Việc đầu cơ giá trên hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể làm cho tỷ giá
biến động vượt ra khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các DN và các nhà đầu tư vào hệ
thống tỷ giá mà chúng ta đã hoạch định. Mặc dù vậy, vẫn chưa có những chứng cứ nào cho thấy việc đầu
cơ vào các hợp đồng quyền chọn tiền tệ dẫn tới sự sụp đổ hoặc khủng hoảng tỷ giá ở các nước trên thế
giới. Chế độ tỷ giá phụ thuộc chủ yếu vàọ sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế quốc gia. Trong những năm
qua, Việt Nam được đánh giá rất cao về chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó, nỗi lo về tính bất ổn của tỷ giá
khi mở rộng biên độ sẽ giảm đi rất nhiều. Chính vì thế, chúng ta có thể triển khai các quyền chọn có điều
kiện phù hợp với điều kiện các nước như Việt Nam đã từng áp dụng và thành công.
Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các quyền chọn phức tạp ở các nước phát
triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua lỗ tối đa cho các nhà đầu tư và thậm chí các nhà
đầu cơ có ham muốn sử dụng quyền chọn tiền tệ như một công cụ kiếm lời. Các quyền chọn tiền tệ có điều
kiện đưa ra những quy định về các mức tỷ giá trần (tối đa) và sàn (tối thiểu). Nếu tỷ giá vượt quá các mức
giá này thì quyền chọn sẽ không còn có giá trị. Những rào cản này sẽ làm nản lòng các nhà đầu cơ và do
đó giảm đi đáng kể tính bất ổn do NHNN mở rộng biên độ dao động tỷ giá. Các khống chế nêu trên có thể
áp dụng cho toàn bộ các hàng hoá và tài sản trên thị trường Việt Nam.
Thứ hai: Yêu cầu về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh
Kể từ vụ sụp đổ của công ty Enron, các nhà kinh tế đã bắt
đầu thảo luận để đặt ra những qui định về thế chấp tài sản
trên các hợp đồng phái sinh. Khi một công ty có những khó

khăn về mặt tài chính hoặc thậm chí đang còn hoạt động
rất tốt vẫn phải đưa ra những khoản thế chấp hay các mức
duy trì đặt cọc cao để chắc chắn công công ty sẽ tuân thủ
hợp đồng mỗi khi có những biến động cao trong giá. Mức
duy trì có thể là một khoản tối thiểu mà khi tài khoản ký quỹ
giảm xuống một mức nào đó, thì cách tham gia hợp đồng bổ sung vào.
Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất cao, có thể lên tới 30% hợp
đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối với các nhà môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu
cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù họ chỉ là những ngân hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham
gia vào các giao dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các ngân hàng
Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất khả năng
thanh toán của nhà môi giới.
Thứ ba : Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế
Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống ngân hàng thương mại trong nước không được gánh
chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc kỳ hạn. Các ngân hàng chỉ là trung gian,
đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau đó đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này
được áp dụng trong hầu hết các nứơc phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt buộc các
ngân hàng về các giao dịch này còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến những yếu kém về vốn trong hệ
thống ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét và khẩn trương tham gia vào các thoả
thuận giao dịch hoán đổi theo quy định quốc tế thì mới có đủ điều kiện
có thể tham gia ký các hợp đồng tái bảo hiểm từ các giao dịch phái
sinh trong nước.
Thứ tư : Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế
triển khai các hợp đồng phái sinh
Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng
phổ biến hiện nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí
điểm. Có thể nói “thí điểm” hiện nay là một căn bệnh của các cơ quan
hoạch định chính sách. Trong những trường hợp như thế, giá trị hợp lý
của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị

trường thế giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người mua gánh
chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế,
do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng
tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên những
thị trường bất đầu cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để tạo ra
một thị trường tự do, để các định chế tài chính có đủ các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm phái sinh.
Và dĩ nhiên đi liền với đó là thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này.
Thứ năm: Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính
Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả thành viên tham gia thị trường.
Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch
với nhau Chẳng hạn như một ngân hàng Việt nam đồng ý thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng
vàng với người mua tương lai. Trong trường hợp này người mua tương lai cần phải có những thông tin
rằng hiện nay ngân hàng Việt Nam hiện đang ký quỹ là bao nhiêu tại một ngân hàng nước ngoài để mua
vàng thế giới bán lại cho ngươi từ trong nước. Nói cách khác, trong cuộc chơi này trong cuộc chơi này ai
cũng phải có thông tin lẫn nhau, để cuộc chơi tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch.
Thứ 6: Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh khoản của sản
phẩm phái sinh
Hiện nay, các công cụ phái sinh chưa có thị trường giao dịch chính. Các hợp đồng kỳ hạn và tương lai phải

×