Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiẻu luận cao học trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.17 KB, 32 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LÝ LUẬN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
ĐỀ TÀI:
TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC. THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.................................................................................... 1
NỘI DUNG.................................................................................2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI
ĐỨNG ĐẦU CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC..................2
1.1. Những lý luận về người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước

2

1.2. Những lý luận về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước..................................................................5
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI
ĐỨNG ĐẦU CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC................13
2.1. Những ưu điểm..................................................................13
2.2. Một số khuyết điểm...........................................................18
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN TRÁCH NHIỆM
CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC...................................................................................... 22
3.1. Hồn thiện thể chế về nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí và cơ chế
chịu trách nhiệm của người đứng đầu trong cơ quan hành chính
nhà nước.................................................................................. 22
3.2. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm sốt quyền lực theo Quy


định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị..............23
3.3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, bồi dưỡng nâng
cao năng lực đạo đức của người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước.................................................................................. 23
3.4. Tích cực đáng giá, kiểm tra và xử lý trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước..................................24


3.5. Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước không ngừng
nâng cao năng lực, tố chất của bản thân.................................25
KẾT LUẬN............................................................................... 28


MỞ ĐẦU
Hành chính nhà nước có vai trị đặc biệt quan trọng trong sự phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia. Thơng qua hoạt động hành chính nhà nước,
các quy phạm pháp luật đi vào đời sông xã hội, điều chỉnh, duy trì trật tự của xã
hội theo định hướng mong muốn của nhà nước. Bên cạnh đó, bộ máy hành chính
nhà nước cịn đảm bảo cung cấp các dịch vụ công thiết yếu phục vụ cho sự phát
triển của cộng đồng và xã hội. Thiếu những dịch vụ này, đời sống của người dân
không được đảm bảo, sự phát triển của xã hội không được duy trì và do đó có
thể làm lung lay vai trị thống trị của giai cấp thống trị
Để hoạt động hành chính nhà nước đạt được hiệu quả thì vai trị của người
đứng đầu cơ quan hành chính là vơ cùng quan trọng. Người đứng đầu cơ quan
hành chính có nhiệm vụ quản lý lãnh đạo toàn diện của cơ quan, đơn vị hành
chính nhà nước. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính cũng
được quy định rất rõ ràng, cụ thể. Những năm qua, thực trạng về trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan hành chính đã được thể hiện nhiều mặt tích cực
xong vẫn cịn tồn tại nhiều hạn chế. Trong thực tế, cơ quan hành chính nhà nước
có thực sự phục vụ nhân dân và làm tốt nhiệm vụ hành chính của mình hay

khơng phụ thuộc nhiều vào sự lãnh đạo và tinh thần trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan đó.
Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm quan trọng
như vậy cho nên tác giả đã lựa chọn đề tài “Trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan nhà nước. Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu tiểu luận của
mình nhằm phân tích rõ tình hình, thực trạng của vấn đề cũng như đưa ra những
giải pháp thích hợp nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI
ĐỨNG ĐẦU CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1.

Những lý luận về người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước

1.1.1. Khái niệm người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
Ở Việt Nam, không nhiều tác giả đưa ra quan niệm về “người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước”. Có quan niệm cho rằng, “Người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước được hiểu là những người đứng đầu Nhà
nước, Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân
dân (UBND) các cấp”. Có thể thấy cách hiểu này mới chỉ xác định người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước là ai mà chưa đưa ra một cách hiểu thế nào là
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
Quan niệm khác cho rằng: “Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước là một định chế pháp lý xác lập vị trí cơng tác cao nhất trong cơ quan

hành chính nhà nước với những thẩm quyền và trách nhiệm tương ứng để hồn
thành tốt vai trị là người đứng đầu”. Cũng có tác giả cho rằng, “Theo nghĩa hẹp,
người đứng đầu là cá nhân (Thủ trưởng) có quyền lực trong lãnh đạo, quản lý và
đứng đầu chỉ huy, tổ chức một đơn vị hoặc một tổ chức nhất định để thực hiện
mục tiêu lãnh đạo quản lý đã đề ra. Theo nghĩa rộng, người đứng đầu là chỉ cá
nhân hoặc tập thể có quyền lực nhất định trong lãnh đạo, quản lý, gánh vác
trách nhiệm nhất định và đứng đầu chỉ huy, tổ chức một đơn vị hoặc một tổ
chức nhất định để thực hiện mục tiêu lãnh đạo, quản lý đã đề ra”.
Chúng tơi đồng tình với một số điểm trong cách hiểu của hai tác giả trên
đây, khi các tác giả này cho rằng, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
là “một định chế pháp lý”; “xác lập vị trí cơng tác cao nhất”; “là cá nhân”; “có
quyền lực trong lãnh đạo, quản lý”. Tuy nhiên, các cách hiểu trên đây chưa xác
định thật đầy đủ nội hàm khái niệm người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
2


nước. Ví dụ, như cách hiểu thứ hai cho rằng “theo nghĩa rộng người đứng đầu là
chỉ cá nhân hoặc tập thể”.
Chúng tơi cho rằng,“Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước” là
thuật ngữ dùng để chỉ thiết chế giữ vị trí pháp lý cao nhất trong cơ quan hành
chính nhà nước, thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước, có nghĩa vụ và quyền cao nhất đối với hoạt động cơ quan hành
chính nhà nước và chịu trách nhiệm về hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước đó.
Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước bao gồm Chính phủ, Bộ, cơ quan
ngang Bộ, uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan chun mơn thuộc uỷ ban
nhân dân. Do đó, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam bao
gồm các chức danh sau: Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp, Giám đốc Sở, Trưởng phòng và tương
đương.

1.1.2. Địa vị pháp lý của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước
Một là, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là vị trí mang tính
pháp lý.
Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước có đặc điểm là do Nhà nước
thành lập, việc tổ chức, hoạt động dựa trên cơ sở các quy định pháp luật, do đó,
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước phải là vị trí mang tính pháp lý.
Cá nhân ngồi vào cái “ghế” người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước được
pháp luật thừa nhận một cách chính thức. Tất cả các vấn đề liên quan đến quá
trình hình thành, hoạt động và kết thúc hoạt động của một chức danh người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước đều tuân thủ theo các quy định pháp lý.
Hai là, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước hoạt động nhân
danh nhà nước.
Nhà nước thành lập các cơ quan hành chính nhà nước để thực hiện những
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước trao cho các cơ quan
3


hành chính nhà nước và các chức vụ trong cơ quan hành chính nhà nước - trong
đó có chức vụ người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước những thẩm quyền
nhất định. Những thẩm quyền này là phương tiện pháp lý để người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện vai trị người đứng đầu. Thẩm quyền của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là tổng thể những quyền, nghĩa vụ
mang tính quyền lực - pháp lý do pháp luật quy định. Khi thực hiện các quyền,
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước nhân danh Nhà nước, đại diện
cho quyền lực nhà nước. Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước được sử
dụng quyền lực công cùng các nguồn lực công để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của mình. Đây là đặc trưng cơ bản để phân biệt người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước với người đứng đầu các tổ chức xã hội.
Ba là, địa vị pháp lý của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước

chịu sự chi phối của quan hệ hành chính mang tính mệnh lệnh, thứ bậc.
Để thực hiện được chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, hệ thống hành chính nhà nước của hầu hết các nước
trên thế giới đều mang tính thứ bậc, cấp trên cấp dưới và có sự phân công phân
cấp phù hợp với yêu cầu cơ quan hành chính nhà nước trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định. Ở Việt Nam, nền hành chính nhà nước được cấu tạo gồm một hệ
thống định chế tổ chức theo thứ bậc chặt chẽ và thông suốt từ trung ương tới các
địa phương, trong đó cấp dưới phục tùng cấp trên, nhận chỉ thị mệnh lệnh và
chịu sự kiểm tra, giám sát của cấp trên. Vì vậy, địa vị pháp lý của người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước chịu sự chi phối của quan hệ hành chính mang
tính mệnh lệnh, thứ bậc này.
Bốn là, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là người thực hiện
vai trò lãnh đạo, quản lý đối với cơ quan hành chính nhà nước mình đứng đầu.
Từ quan niệm và những quy định về người đứng đầu tổ chức, có thể hiểu
người đứng đầu tổ chức là người thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý trong tổ
chức. Đối với người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cũng không phải

4


ngoại lệ. Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là người thực hiện vai
trò lãnh đạo, quản lý đối với cơ quan hành chính nhà nước do mình đứng đầu.
1.2. Những lý luận về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước
1.2.1. Các yếu tố cấu thành nên trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước
Trách nhiệm người đứng đầu cơ quan nhà nước được quy định tại Điều 7
Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định chế độ
trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước
trong thi hành nhiệm vụ, công vụ, như: chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động

của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; gương mẫu và nghiêm
chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và chỉ đạo của cấp trên; tổ chức, điều hành cơ quan, tổ chức, đơn vị thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có chất lượng và đúng thời hạn
được giao; quyết định chủ trương, giải pháp cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ và
chịu trách nhiệm về quyết định đó.
Trên cơ sở quan niệm này, có thể thấy trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan hành chính nhà nước bao gồm ba yếu tố cấu thành cơ bản là Nghĩa vụ,
Quyền, và việc Chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện các nghĩa vụ và quyền
đó. Cơng thức khái qt như sau:
Trách nhiệm = Nghĩa vụ + Quyền + Chịu trách nhiệm
Thứ nhất, Nghĩa vụ của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
Nghĩa vụ của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có thể được
hiểu là những hoạt động họ nên thực hiện, phải thực hiện hoặc không được
phép thực hiện trong hiện tại và tương lai. Theo cách hiểu này, nghĩa vụ của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước bao gồm các khía cạnh là những
việc nên làm, những điều phải làm và những điều không được làm.

5


Những việc nên làm là những việc người đứng đầu thực hiện xuất phát từ
sự ý thức một cách tự giác về sứ mệnh của bản thân. Trên phương diện pháp lý,
việc đặt vấn đề đâu là việc “nên làm” hay “không nên làm” đối với người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước là thiếu căn cứ. Tuy nhiên, trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước không chỉ được xem xét trên
phương diện pháp lý mà cịn được xem xét trên phương diện chính trị, phương
diện đạo đức. Điều này có nghĩa là những địi hỏi đối với trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có thể vượt qua những gì pháp luật quy
định. Với cách tiếp cận như vậy, nghĩa vụ của người đứng đầu cơ quan hành

chính nhà nước khơng chỉ dừng lại ở những việc phải làm, không được làm, mà
còn phải xem xét những việc họ “nên làm” với mục đích đạt đến hiệu quả cao
nhất trong hoạt động quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công.
Những điều phải làm là những nghĩa vụ cụ thể (hoặc công vụ cụ thể)
được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như nhiệm vụ, cơng vụ. Đó là những việc
mà người đứng đầu có bổn phận bắt buộc phải hồn thành theo quy định pháp
luật.
Những điều không được làm là những điều người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước bị hạn chế không được làm do đặc trưng của nền công vụ và của vị
trí người đứng đầu.
Nghĩa vụ của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có thể xem
xét dưới nhiều góc độ.
Dưới góc độ là người lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước có các nghĩa vụ mà bất cứ người nào ở vị trí cao nhất trong tổ
chức cũng phải thực hiện, đó là thực hiện vai trị của người lãnh đạo như: thiết
lập tầm nhìn cho tổ chức; tập hợp quần chúng; cổ vũ, động viên toàn bộ đội
ngũ; xây dựng chiến lược cho tổ chức; ra quyết định; tạo ra những sự thay
đổi; tạo dựng môi trường làm việc lành mạnh. đồng thời thực hiện vai trò của
người quản lý như lập kế hoạch, ngân sách, tổ chức, biên chế, kiểm soát, và giải
quyết vấn đề
6


Dưới góc độ là người làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước - một
loại hình tổ chức có tính chất, vai trò đặc biệt, người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước cịn phải thực hiện những nghĩa vụ mang tính đặc thù mà bất cứ
nền cơng vụ của quốc gia nào cũng quy định như: tuân thủ mệnh lệnh cấp trên,
phục vụ nhân dân, giữ bí mật nhà nước, khơng được thực hiện những điều
cấm...
Nhìn chung, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có những nghĩa vụ

cơ bản sau:
 Tuân thủ pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của cấp trên;
 Phục vụ nhân dân;
Xác định tầm nhìn, lập kế hoạch hoạt động cho cơ quan hành chính nhà
nước;
Chỉ đạo, tổ chức, điều hành cơ quan thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động và toàn bộ hoạt động của cơ
quan được giao lãnh đạo, quản lý;
 Ra quyết định và chịu trách nhiệm về các quyết định đó;
Tổ chức bộ máy, phân công công việc;
Quản lý cán bộ, công chức;
Quản lý tài chính, tài sản;
 Quản lý thơng tin, bảo vệ bí mật nhà nước, giải trình khi có u cầu;
 Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công
chức, xử lý vi phạm trong phạm vi thẩm quyền;
Tạo động lực làm việc cho nhân viên;
 Không được thực hiện những điều cấm...
Thứ hai, Quyền của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
Quyền là khả năng xử sự nhất định của người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước nhằm thực thi nhiệm vụ được giao. Quyền của người đứng đầu
cơ quan hành chính nhà nước được cụ thể hóa bằng quyền hạn. Với tư cách là
người lãnh đạo, quản lý nói chung, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
7


nước cần có quyền hạn tương ứng để thực hiện các nghĩa vụ, ví dụ: tương ứng
với các nghĩa vụ quản lý cán bộ, cơng chức, quản lý tài chính, tài sản, quản lý
thơng tin, người đứng đầu cần có các quyền hạn trong các lĩnh vực này, thể hiện
tập trung trong quyền ra quyết định theo ý chí của bản thân. Như vậy, trong cơ
quan hành chính nhà nước, người đứng đầu là vị trí có quyền quyết định cao

nhất, bao quát các lĩnh vực, các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
Tuy nhiên, do cơ quan hành chính nhà nước có những đặc điểm như tính thứ
bậc và chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền theo quy định, nên quyền hạn
của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước chỉ được giới hạn trong phạm
vi được phân công, phân cấp theo quy định pháp luật.
Thứ ba, việc Chịu trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước.
Theo nghĩa rộng, “chịu trách nhiệm” là nhận trách nhiệm về sự thành, bại
của một công việc, một công tác đã nhận, là hệ quả một người phải nhận lấy từ
sự ràng buộc giữa quyền và nghĩa vụ: làm tốt thì được khen thưởng, làm hỏng
thì chịu phạt. Theo nghĩa này, được khen thưởng hay phải chịu phạt cũng đều có
nghĩa là chịu trách nhiệm. Theo nghĩa hẹp, chịu trách nhiệm đồng nghĩa với sự
trừng phạt, là việc phải gánh chịu một hậu quả bất lợi từ việc thực hiện không
đúng, không tốt các nghĩa vụ và quyền. Trong bài viết này, chúng tôi hiểu “chịu
trách nhiệm” theo nghĩa hẹp, là chế tài chịu trách nhiệm.
Nếu kết quả thực hiện những nghĩa vụ và quyền không tốt, người đứng
đầucơ quan hành chính nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm. Trong bài viết
này, quan niệm “kết quả” là những gì có được sau q trình quản lý, bao gồm
kết quả trực tiếp và kết quả cuối cùng. Kết quả trực tiếp được xác định về định
lượng khối lượng cơng việc hồn thành của người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước. Kết quả cuối cùng là tác động, ảnh hưởng đạt được các mục tiêu và
nhiệm vụ có ý nghĩa xã hội của cơ quan hành chính nhà nước
Tương ứng với quyền quyết định cao nhất, bao quát các lĩnh vực, các hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước, người đứng đầu cơ quan hành chính
8


nhà nước phải là người chịu trách nhiệm về các lĩnh vực, các hoạt động cũng
như về kết quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước phải chịu trách nhiệm trước các chủ thể khác nhau

với các hình thức chế tài khác nhau tùy thuộc vào đó là loại hình trách nhiệm
chính trị, pháp lý hay đạo đức.
1.2.2. Đặc điểm trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước
Một là, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
mang tính xã hội sâu sắc
Hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước mang tính chấp hành, điều
hành, có chức năng quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ cơng, do đó, có tác
động trực tiếp và rộng rãi đến các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, là cầu nối để
chính sách, pháp luật được hiện thực hóa trong thực tiễn. Do vậy, việc thực hiện
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp
hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới lợi ích của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp
trong xã hội. Vì vậy, có thể nói, hoạt động quản lý, lãnh đạo của người đứng đầu
cơ quan hành chính nhà nước tác động mạnh mẽ đến sự vận hành của xã hội,
gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội và đời sống của người dân ở từng địa
phương, từng ngành, từng lĩnh vực. Nếu địa phương, ngành, lĩnh vực kém phát
triển, thì xã hội trước hết quy trách nhiệm cho các cơ quan hành chính nhà nước,
mà đại diện là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Thực tiễn các
quốc gia trên thế giới và Việt Nam đã chỉ ra rằng, bằng các chính sách, quyết
định do mình đưa ra, những người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước,
đặc biệt người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương, có thể
làm thay đổi đời sống chính trị, xã hội, kinh tế của một cộng đồng dân cư, một
vùng của đất nước, của cả đất nước, trong nhiều trường hợp làm thay đổi hướng
đi của cả một dân tộc, quốc gia trong những giai đoạn, thời kỳ nhất định, thậm
chí làm thay đổi cả quan hệ với các quốc gia, dân tộc khác, cịn các nhà chính trị
9


cấp dưới ở địa phương có thể làm thay đổi được đời sống dân cư trên một đơn vị
hành chính nhất định.

Tính xã hội trong hoạt động của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước cịn thể hiện ở tính chất thường xuyên, liên tục của các hoạt động quản lý
và cung cấp dịch vụ công. Công việc của người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước rất khác với các vị trí người đứng đầu trong cơ quan lập pháp hay tư
pháp. Hoạt động chấp hành và điều hành được thực hiện hàng ngày, hàng giờ.
Trong khi đó, hoạt động lập pháp diễn ra theo định kỳ; hoạt động của cơ quan
xét xử chỉ tiến hành khi có tranh chấp về quyền hoặc có vi phạm pháp luật xảy
ra mà theo quy định của pháp luật thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án; còn hoạt
động kiểm sát, về nguyên tắc, chỉ chính thức được tiến hành khi đã phát hiện có
vi phạm pháp luật xảy ra (như kiểm sát điều tra, truy tố, kiểm sát xét xử, kiểm
sát thi hành án...).
Hai là, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là trách
nhiệm cá nhân.
Đặc điểm này có hàm nghĩa rằng: trong mỗi một cơ quan hành chính nhà
nước cụ thể, khi nói đến “người đứng đầu” đồng nghĩa với việc chỉ đích danh
một cá nhân duy nhất, người nắm giữ vị trí cao nhất trong cơ quan hành chính
nhà nước. Do đó, “người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước” khơng phải là
thuật ngữ dùng để chỉ tập thể, số nhiều. Trong công tác lãnh đạo, điều hành, có
ba chế độ lãnh đạo, điều hành (chế độ làm việc) cơ bản: Thứ nhất,lãnh đạo, điều
hành dựa trên vai trò cá nhân của người đứng đầu (cịn gọi là chế độ thủ trưởng)
- hình thành nên thiết chế người đứng đầu; Thứ hai, lãnh đạo, điều hành dựa trên
nguyên tắc quyền lực tập thể - là chế độ tập thể lãnh đạo; Thứ ba, lãnh đạo, điều
hành kết hợp giữa vai trò tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách… Như vậy, thiết
chế “người đứng đầu” là thiết chế thủ trưởng (cá nhân). Chế độ người đứng đầu
(một số thuật ngữ khác có hàm nghĩa tương đương: chế độ thủ trưởng, chế độ
một người đứng đầu...) là nguyên tắc quản lý trao cho cá nhân người đứng đầu
10


một tổ chức quyền rộng rãi để thực hiện nhiệm vụ chức năng được giao, định rõ

trách nhiệm của cá nhân đó đối với kết quả cơng việc… Khác với chế độ người
đứng đầu, chế độ tập thể là nguyên tắc quản lý (lãnh đạo) mà quyền thuộc về
một tập thể bao gồm những cá nhân, mỗi người chịu trách nhiệm trên một lĩnh
vực. Dạng “thuần tuý” của nó là chế độ đồng thuận (quyết định chỉ được đưa ra
khi mọi thành viên tán thành); phổ biến hơn hiện nay là chế độ bình quyền giữa
mọi thành viên, mỗi người một phiếu, quyết định theo đa số…Do đó, chúng
tơi  khơng đồng tình với ý kiến cho rằng: “Theo nghĩa rộng,người đứng đầu là
chỉ cá nhân hoặc tập thể có quyền lực nhất định trong lãnh đạo, quản lý, gánh
vác trách nhiệm nhất định và đứng đầu chỉ huy, tổ chức một đơn vị hoặc một tổ
chức nhất định để thực hiện mục tiêu lãnh đạo, quản lý đã đề ra”... Quan điểm
này vừa thiếu hợp lý, vừa có thể gây ra sự nhầm lẫn giữa các chế độ lãnh đạo,
điều hành rất khác nhau về bản chất.
Chính vì vậy, trong một tổ chức cụ thể, dựa trên địa vị chính thức mang
tính pháp lý, vị trí người đứng đầu luôn luôn chỉ là một cá nhân duy nhất. Đây
là điểm khác biệt đặc biệt có ý nghĩa khi xem xét, thực hiện, quy kết trách
nhiệm của người đứng đầu. Có thể thấy, “người đứng đầu” là thuật ngữ có tính
xác định tuyệt đối và do đó, trách nhiệm của người đứng đầu cũng mang tính
xác định tuyệt đối. Đó là trách nhiệm đích danh của một người duy nhất, người
có vị trí pháp lý cao nhất trong tổ chức - người đứng đầu.
Ba là, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có
tính bao qt, thể hiện trên các mặt như sau:
Thứ nhất, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có nghĩa vụ đối
với mọi vấn đề trong q trình quản lý cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ hai, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước khơng chỉ có trách
nhiệm về những hoạt động của bản thân trong thực hiện nghĩa vụ, quyền mà cịn
phải có trách nhiệm về những hoạt động của cán bộ, công chức dưới quyền
trong thi hành nhiệm vụ (liên đới trách nhiệm).
11



Thứ ba, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước vừa phải có trách
nhiệm với tư cách là một cán bộ cơng chức bình thường, vừa phải có trách
nhiệm với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Nếu cùng
một hành vi vi phạm pháp luật công vụ, so với các cán bộ, công chức không giữ
chức vụ lãnh đạo quản lý, thông thường mức độ trách nhiệm của người đứng
đầu sẽ cao hơn một bậc.
Thứ tư, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước khơng chỉ có trách
nhiệm đối với nội bộ hệ thống các cơ quan trong bộ máy nhà nước mà cịn có
trách nhiệm đối với xã hội là các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Tóm lại, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là thuật ngữ dùng
để chỉ thiết chế giữ vị trí pháp lý, quyền và nghĩa vụ cao nhất trong cơ quan
hành chính nhà nước N, thực hiện vai trò lãnh đạo quản lý và chịu trách nhiệm
về kết quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước nên làm, phải làm, được làm với kết quả
tốt và những điều không được làm; nghĩa vụ, quyền và chịu trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trong tuân thủ pháp luật và phục
vụ nhân dân; trong lập kế hoạch, ra quyết định và điều hành chỉ đạo hoạt động
của cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước và nhân dân
giao phó.

12


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI
ĐỨNG ĐẦU CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
2.1. Những ưu điểm
2.1.1. Trách nhiệm trong việc nêu gương
Thấm nhuần lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Những năm qua, đội
ngũ những người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước đã tự giác rèn luyện,
giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên phát huy phẩm chất, đạo đức

cách mạng. Đa số những người đứng đầu luôn trau dồi và giữ được phẩm chất,
đạo đức cách mạng, tiên phong, gương mẫu, có lối sống trong sạch, lành mạnh.
Đặc biệt, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên nắm vị trí đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước đều đang vững vàng trước những biến động trong nước và thế
giới, kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng, Bác Hồ
và nhân dân ta đã lựa chọn, hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, hoàn thành
các nhiệm vụ được giao. Trong hai cuộc kháng chiến trường chinh vĩ đại của
dân tộc, đã có nhiều tấm gương tiêu biểu, hy sinh, cống hiến hết mình vì Đảng,
vì Dân. Việc tự giác rèn luyện, bồi dưỡng giáo dục đạo đức lẫn chuyên môn của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước đã phát huy được trách nhiệm nêu
gương của người đứng đầu, họ trở thành những tấm gương sáng về người tốt
việc tốt cho đội ngũ cán bộ công chức cấp dưới thuộc cơ quan mình.
Trong hơn 30 năm đổi mới, nhiều cá nhân đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước đã nêu cao tấm gương về bản lĩnh chính trị, ý thức rèn luyện, giữ gìn
phẩm chất đạo đức, lối sống, hết lịng, hết sức tận tụy với công việc, được quần
chúng yêu mến, tín nhiệm. Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước không
thực hiện những hành vi tham ô, tham nhũng, vụ lợi cá nhân, sử dụng quyền hạn
cho mục đích cá nhân hay cố ý thực hiện những hành vi trái với quy định và đạo
đức người cán bộ. Các bộ trưởng, thứ trưởng, chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp,
… đã thực hiện nghiêm túc việc thực hiện rèn luyện các tác phong đạo đức, thực

13


hiện tốt trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm của cơ quan mình, trở
thành tấm gương sáng cho cán bộ, đảng viên noi theo.
Hầu hết cán bộ, đảng viên đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước đã
nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần thẳng thắn, trung
thực, cầu thị, xây dựng, nêu cao ý thức trách nhiệm trong thảo luận, tham gia
đóng góp ý kiến xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, qua đó đã phần nào

khắc phục được cách làm mang tính hình thức, nể nang, né tránh, ngại va chạm.
Nêu cao tinh thần tự giác, trung thực cho cán bộ, đảng viên cấp dưới.
Nhiều cán bộ, đảng viên đứng đầu cơ quan hoạt động trong các môi
trường phức tạp, điều kiện khó khăn đã năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm trước dân, trước Đảng, mạnh dạn tìm tịi, thử nghiệm
nhiều cách làm mới, đạt hiệu quả cao, được quần chúng tin yêu, ca ngợi, góp
phần quan trọng trong việc tăng cường và củng cố niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo Đảng. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước có ý thức tổ chức kỷ luật cao, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, Điều lệ
Đảng, pháp luật của Nhà nước, những quy định của địa phương, cơ quan, đơn vị
như đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Vũ Đức Đam, Tô Lâm,… đều là những tấm
gương sáng về đạo đức lẫn trình độ chính trị, chun môn, nghiệp vụ và ý thức
cho đội ngũ cán bộ hành chính nhà nước noi theo.
2.1.2. Trách nhiệm trong việc ý thức thực hiện nhiệm vụ được giao
Hiện nay, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ta đã và đang
không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động thông qua việc thực hiện tốt, ý thức
trách nhiệm tốt trong việc thực hiện những nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước và
nhân dân giao phó. Điều này được biểu hiện ở việc:
Những người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước luôn Tuân thủ nội
quy, quy chế và các quy định của tổ chức dựa trên những cơ sở pháp lý và các
chuẩn mực đạo đức xã hội. Ở đây bao gồm cả các quy định hành vi lao động
trong lĩnh vực có liên quan đến thực hiện nhiệm vụ như số lượng, chất lượng
14


cơng việc, an tồn vệ sinh lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, các
hành vi vi phạm pháp luật lao động, các hình thức xử lý vi phạm kỷ luật…
Những nội quy, quy định này được ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh,
đôn đốc tinh thần tự giác và thực hiện những nhiệm vụ được giao theo đúng
những nội quy, quy định đó.

Tự giác thực hiện nhiệm vụ: thực hiện hiển khai các trách nhiệm đã quy
định hay được giao mà khơng cần phải có cấp trên hay bất kì ai giám sát, nhắc
nhở, đơn đốc, thúc giục mới chịu làm. Chính mình tự giám sát mình, làm việc
một cách tận tâm, cẩn thận, chu đáo và thực hiện đúng cam kết về kết quả, thời
gian, chất lượng công việc. Những nhiệm vụ được giao tự giác lên kế hoạch và
thực hiện một cách chu đáo hiệu qủa hơn.
Chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ: thực hiện công
việc không theo một khn mẫu cứng nhắc mà biết ứng phó linh hoạt tùy theo
tình huống, khơng chờ việc đến tay mới làm mà có những dự đốn trước để
chuẩn bị cho các yêu cầu mới. Trong triển khai thực hiện công việc, chủ động
nghiên cứu quy trình thực hiện cơng việc, tận dụng tối đa thời gian cá nhân. Khi
có các vấn đề phát sinh thì mạnh dạn và chủ động đề xuất, kiến nghị; nếu khó
khăn thì chủ động xin ý kiến chỉ đạo hoặc đề nghị sự hỗ trợ từ cấp trên nhằm
đảm bảo không phát sinh các sự cố gây hậu quả đáng tiếc trong cơng vụ.
Có tinh thần nỗ lực, cầu thị, hợp tác, chia sẻ: Người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước đã ln nỗ lực hết mình, tự giác khắc phục khó khăn và
hồn cảnh cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sẵn sàng đóng góp ý
kiến, chia sẻ kinh nghiệm, đóng góp cơng sức cho cấp dưới, đồng nghiệp một
cách tự nguyện, tự giác góp phần xây dựng, phát triển tổ chức. Có tinh thần hợp
tác cao trong cơng việc với các thành viên khác trong tổ chức, thúc đẩy sự phát
triển của cơ quan hành chính mà mình lãnh đạo.

15


Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm: tích cực và tự giác thực hiện
công việc đảm bảo yêu cầu về kết quả, sẵn sàng giải trình kết quả khi được yêu
cầu hoặc có các ý kiến trái chiều về q trình thực hiện. Q trình thực hiện
cơng việc nếu phát sinh hậu quả thì biết nhìn nhận thiếu sót, có ý thức khắc phục
và rút kinh nghiệm, khơng đùn đẩy trách nhiệm cho người khác hoặc cho tập

thể. Khi cấp dưới của mình mắc sai lầm, vi phạm thì người đứng đầu biết nhận
lỗi sai về mình, trách nhiệm trong việc thực hiện xử lý vi phạm, khắc phục hậu
quả mà cấp dưới gây ra.
Trong mối quan hệ với quần chúng, người đứng cầu cơ quan hành chính
nhà nước luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân; lắng
nghe ý kiến góp ý của quần chúng; tiếp xúc, làm việc với quần chúng nhân dân
với thái độ khách quan, công tâm; kiên quyết đấu tranh với biểu hiện vô cảm,
quan liêu, cửa quyền, hách dịch và các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà cho
nhân dân; tích cực tham gia các hoạt động của khu dân cư, gương mẫu thực hiện
nghĩa vụ công dân, giữ mối liên hệ với cấp uỷ nơi địa phương mình.
2.1.3. Trách nhiệm trong việc tổ chức phòng chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí
Có thể khẳng định, bộ phận lớn những người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước các cấp đã đặc biệt quan tâm, kiên quyết chỉ đạo đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, "lợi ích
nhóm", nói khơng đi đôi với làm.
Một số người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước đã định hướng và
đề ra mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao hiệu quả trong việc phát hiện,
xử lý vụ việc, những vụ án tham nhũng. Đồng thời những người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước đã cam kết làm gương trong việc thực hiện và xác
định trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo phịng, chống tham nhũng, lãng phí, chủ động
16


tự phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa
phương do mình phụ trách và thực hiện xử lý các hành vi tham nhũng theo thẩm
quyền mà mình được giao.
Ví dụ, Thành ủy TP. Hồ Chí Minh xác định kết quả phịng, chống tham

nhũng là tiêu chí, thước đo đánh giá phẩm chất, năng lực và mức độ hoàn thành
nhiệm vụ của người đứng đầu. Thực hiện kịp thời điều chuyển cán bộ quản lý
lãnh đạo có nhiều dư luận, uy tín giảm sút và có dấu hiệu tham nhũng khơng
hồn thành nhiệm vụ. Đồng thời, xử lý kịp thời nghiêm minh người đứng đầu,
nếu không chủ động phát hiện để xảy ra tham nhũng tại cơ quan phụ trách hoặc
bao che, ngăn cản việc phát hiện xử lý tham nhũng.
Công tác phòng, chống tham nhũng đến nay đã được người đứng đầu cơ
quan hành chính chỉ đạo ráo riết, quyết liệt, có bước tiến mạnh, đạt được nhiều
kết quả quan trọng. Đấu tranh phịng, chống tham nhũng đã gắn với cơng tác cán
bộ, kiên quyết xử lý nghiêm những người vi phạm theo quy định. Việc xử lý
theo pháp luật được thực hiện nghiêm túc. Căn cứ vào việc thi hành kỷ luật về
Đảng, các cơ quan nhà nước đã xử lý kỷ luật đối với nhiều cán bộ, công chức vi
phạm kỷ luật Đảng và pháp luật. 
2.1.4. Trách nhiệm trong việc kiểm tra, hướng dẫn và xử lý các hoạt
động thi hành công vụ của cơ quan
Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp hiện
nay đã và đang tích cực hơn nữa thực hiện kế hoạch thanh tra,
kiểm tra hoạt động hành chính cơng vụ hàng năm của các cơ
quan hành chính nhà nước và các đơn vị đều có nội dung thanh
tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, chấp hành các quy định
của các cơ quan hành chính nhà nước về thực hiện nhiệm vụ,
cơng vụ đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc trách nhiệm,
thẩm quyền quản lý của người đứng đầu.

17



×