Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiẻu luận cao học quản lý nhà nước đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.6 KB, 31 trang )

TIỂU ḶN
MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỚI QUẢN LÝ XÃ HỘI
Đề tài:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................0
NỘI DUNG......................................................................................................3
Chuong I : Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với giáo dục-đào t3
1. Một số khái niệm...........................................................................................3
2. Một số tính chất của quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo......................4
3. Một số đặc điểm của quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo......................5
Chuong II : Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quản
lý giáo dục - đào tạo........................................................................................8
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quả lý giáo dục - đào tạo................8
2. Quan điểm của Nhà nước về quản lý giáo dục - đào tạo............................13
Chương III : Thực trạng công tác quản lý nhà nước về giáo dục-đào tạo
.........................................................................................................................16
1. Những thành tựu trong công tác quản lý nhà nước về giáo dục - đào
tạo...................................................................................................................16
2. Những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về giáo dục - đào
tạo...................................................................................................................20
3. Thời cơ và thách thức trong quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo................21
Chương IV : Giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
tại Việt Nam hiện nay...................................................................................25
1. Đổi mới quản lí nhà nước về giáo dục theo yêu cầu của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa...........................................................................25
2. Đổi mới phương thức đào tạo, thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội, gắn nhà
trường với doanh nghiệp, gắn giáo dục với nghiên cứu khoa học.......................26


3. Quản lí nhà nước đảm bảo sự thống nhất giữa phát triển giáo dục và kinh
tế......................................................................................................................27
KẾT LUẬN....................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................29

0


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng, quản lý của
Nhà nước, sự quan tâm của cả xã hội, nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, nhà quản lí, nhà
khoa học, sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ Việt Nam đã đạt
được những thành tựu quan trọng về quy mô, chất lượng giáo dục các cấp; công tác
quản lý; đội ngũ nhà giáo; công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ; tiềm
lực khoa học và công nghệ; thị trường và các dịch vụ khoa học công nghệ; hợp tác
quốc tế... Tuy nhiên, bên cạnh đó chất lượng giáo dục - đào tạo cịn bộc lộ những
hạn chế, thiếu sót và yếu kém, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề chưa đáp ứng
u cầu sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Giáo dục và đào tạo được Đảng và Nhà nước Việt Nam hết sức quan tâm, coi
đó là chìa khóa để thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện địa hóa đất nước.
Những hạn chế trong giáo dục - đào tạo một phần rất lớn xuất phát từ công
tác quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo. Chính vì vậy bên cạnh sự chỉ đạo của
Đảng, cơng tác quản lý nhà nước có vai trị hết sức quan trọng trong phát triển giáo
dục đào tạo của Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, xu thế hội
nhập và tác động của cách mạng cơng nghiệp 4.0 thì vai trị quản lý nhà nước đối
với giáo dục và đao tại càng phải được nâng cao.
Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cũng rất chú trọng phát triển giáo dục
và đào tạo để phục vụ sự nghiệp cách mạng của Lào hiện tại. Trong đó để phát triển
mạnh và đúng hướng thì vai trị quản lý nhà nước là hết sức quan trọng. Do vậy việc

học hỏi kinh nghiệm của Việt Nam trong công tác quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo là tất yếu. Học tập các kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với giáo dục - đào
tạo của Việt Nam và quá trình đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục vào đào tạo để
áp dụng vào thực tiễn của Lào hiện tại.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, em chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại Việt Nam hiện nay” để làm tiểu luận kết thúc học
phần hệ thống chính trị với quản lý xã hội.

1


2. Tình hình nghiên cứu
Bài viết đã phân tích các khái niệm liên quan đến quản lý nhà nước về giáo
dục - đào tạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó bài
viết đưa ra các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đề ra các giải pháp đổi
mới quản lý nhà nước về giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Bài viết Phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị cơ sở giáo dục và
đào tạo (2016) của tác giả Phạm Cơng Hiệp đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước.
Bài viết đã phân tích một số nội dung về quản lý nhà nước về giáo dục và
đưa ra một số giải pháp cần quan tâm trong công tác quan lý nhà nước về giáo dục.
Bài viết đã phân tích trách nhiệm trong cơng tác quản lý nhà nước về giáo
dục ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý
nhà nước về giáo dục - đào tạo đề phân tích thực trạng cơng tác quản lý nhà nước về
giáo dục - đào tạo và rút ra những giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo ở Việt Nam thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu : Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lỹ nhà
nước đối với giáo dục - đào tạo ; Tìm hiểu quản điểm của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về quản lý nhà nước đối với giáo dục - đào tạo ; Phân tích thực trạng quản lý
nhà nước về giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện nay ; Rút ra những giải pháp để đổi

mới quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo ở Việt Nam thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : quản lý nhà nước đối với giáo dục - đào tạo
- Phạm vi nghiên cứu : tại Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận : sử dựng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cụ
thể là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Phương pháp riềng : sử dựng tổng hợp các phương pháp phân tích tài liệu, so
sáng, phân tích - tổng hợp, logic - lích sử.

2


NỘI DUNG
Chương I : MỘT SỐ VẤN DỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHA NƯỚC
DỐI VỚI GIAO DỤC - DAO TẠO
1. Một số khái niệm

 Quan niệm về giáo dục
Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển
tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được
những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Giáo dục là quá trình đào tạo con
người có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham
gia lao động sản xuất và được thể hiện bằng cách tổ chức truyền thụ, lĩnh hội những
kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người. Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã
hội đặc trưng của xã hội loài người. Giáo dục nảy sinh cùng với xã hội loài người,
trở thành chức năng “sinh hoạt” không thể thiếu được và không bao giờ mất đi ở
mọi giai đoạn phát triển của xã hội.

 Quan niệm về quản lí :

Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân
hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan.

 Quan niệm về quản lí nhà nước :
Quản lí nhà nước là sự tác động tổ chức mang tính quyền lực - pháp lí của
các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, hoặc các tổ chức khi được Nhà nước
trao quyền tới ý thức, hành vi, xử sự của cá nhân, tổ chức, cơ quan, tới các quá trình
xã hội hướng chúng vận động, phát triển nhằm đạt được mục tiêu nhất định của
quản lý nhà nước và xã hội. Mục tiêu của quản lý nhà nước phải phù hợp với mục
tiêu phát triển của xã hội. Đây chính là ý nghĩa, giá trị của quản lý nhà nước.

 Quan niệm quản lí nhà nước về giáo dục :
Quản lý nhà nước về giáo dục là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực Nhà nước, trên cơ sở pháp luật đối với các hoạt động giáo dục, do các cơ
quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ

3


do Nhà nước uỷ quyền nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo; duy trì trật tự,
kỉ cương, thoả mãn nhu cầu giáo dục của nhân dân; thực hiện mục tiêu giáo dực đào tạo của Nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Hay, quản lý nhà
nước về giáo dục là việc Nhà nước thực quyền lực công để điều hành, điều chỉnh tất
cả các hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo
dục quốc gia. Nếu xem quản lý nhà nước như là một hệ thống, thì quản lý nhà nước
về giáo dục là một hệ thống bao gồm các thể chế, cơ chế quản lý giáo dục; tổ chức,
bộ máy quản lý giáo dục và đội ngũ cán bộ và công chức quản lý giáo dục các cấp.
Ba bộ phận này có mối liên hệ và tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ, chúng có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm lẫn nhau trong q trình vận hành, tác nghiệp.
2. Một số tính chất của quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo.

Quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo là quản lý nhà nước về một ngành,
một lĩnh vực cụ thể nhưng nó cũng có những tính chất của quản lý nhà nước và
quản lý hành chính nhà nước nói chung, ở đây chỉ xin nhắc lại năm tính chất cần
lưu ý, đó là :
Thứ nhất, tính lệ thuộc vào chính trị: quản lý nhà nước về giáo dục phụ tùng
và phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và nhà
nước.
Thứ hai, tính xã hội: giáo dục là sự nghiệp của nhà nước và của toàn xã hội.
Trong quản lý nhà nước về giáo dục cần phải coi trọng tính xã hội hố và dân chủ
hoá giáo dục. Giaos dục và đào tạo luôn phát triển trong mối quan hệ với sự phát
triển của kinh tế - xã hội vì vậy quản lý nhà nước về giáo dục cần lưu ý tính chất
này để có những điều chỉnh phù hợp.
Thứ ba, tính pháp quyền: quản lý nhà nước là quản lý bằng pháp luật; quản
lý nhà nước về giáo dục cũng phải tuân thủ hành lang pháp lí mà nhà nước đã quy
định cho mọi hoạt động quản lý các hoạt động giáo dục - đào tạo. Tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, tính chun mơn nghiệp vụ: Cơng chức hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục - đào tạo cần phải được đào tạo với các trình độ tương ứng với các ngạch,

4


bậc đã được quy định. Việc tuyển chọn công chức cần đáp ứng các chuẩn mà nhà
nước đã ban hành.
Thứ năm, tính hiệu lực, hiệu quả: Lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn nghiệp vụ để đánh giá cán bộ công chức, viên chức ngành giáo dục - đào tạo; Chất
lượng, hiệu quả và sự bảo đảm trật tự kỷ cương trong giáo dục - đào tạo là thước đo
trình độ, năng lực, uy tín của các cơ sở giáo dục - đào tạo và của các cơ quan quản
lý nhà nước về giáo dục - đào tạo.
3. Một số đặc điểm của quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo.
Ở phần tính chất nêu trên chúng ta đã điểm qua một số tính chất của quản lý

nhà nước về giáo dục và đào tạo, tuy nhiên trong mỗi tính chất có những nét đặc
biệt riêng có thể được nhấn mạnh hơn và chúng trở thành các đặc điểm cần lưu ý.
Trên cơ sở nhận thức đó cần nhấn mạnh ba đặc điểm chủ yểu sau:
- Thứ nhất, đặc điểm kết hợp quản lý hành chính và quản lí chun mơn trong các
hoạt động quản lý giáo dục.
Quản lý nhà nước về giáo dục vừa theo nguyên tắc quản lý hành chính nhà
nước đối với hoạt động của quản lý giáo dục, vừa theo nguyên tắc hành chính giáo
dục đối với một cơ sở giáo dục. Hành chính - giáo dục thực chất là triển khai chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn do Nhà nước qui định (phân cấp, phân công hoặc uỷ
quyền), Các cơ quan, tổ chức thay mặt Nhà nước triển khai sự nghiệp giáo dục - đào
tạo và điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục - đào tạo. Quản lý hành chính
thực chất là việc xây dựng các văn bản pháp quy và chấp hành các văn bản. Kết hợp
với quản lý giáo dục là đưa việc xây dựng các văn bản cho các hoạt động chuyên
môn của giáo dục và làm cho một người hiểu, biết được các qui định của văn bản để
thực hiện cho đúng.
Như vậy, Đặc điểm hành chính - giáo dục là đặc điểm quan trọng nhất trong
hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục - đào tạo nhằm bảo đảm môi trường sư
phạm thuận lợi cho việc thực hiện được mục tiêu giáo dục mà Nhà nước quy định.
Cần lưu ý rằng quan tâm thích đáng đến đặc điểm này sẽ giúp cho các cán bộ
quản lý giáo dục giải quyết tốt mối quan hệ ngành - lãnh thổ trong hoạt động quản
lý giáo dục. Chỉ đạo hay quản lý các hoạt động giáo dục - đào tạo trên một địa bàn

5


cần phải hiểu rõ nghiệp vụ sư phạm, đặc điểm của quá trình giáo dục để chỉ đạo,
quản lý chuyên môn. Chỉ trên cơ sở biết kết hợp quản lý hành chính và quản lý
chun mơn thì mới có thể chỉ đạo, quản lý tốt hoạt động giáo dục - đào tạo tiến tới
thực hiện tốt mục tiêu giáo dục - đào tạo của Nhà nước.
-


Thứ hai, đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí.
Đặc điểm thứ hai của quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo cũng là đặc
điểm nổi bật của quản lý nhà nước và quản lý hành chính nhà nước nói chung ở mọi
lĩnh vực, đó là tính quyền lực nhà nước trong các hoạt đóng quản lí. Đặc điểm này
biểu hiện ở 3 vấn đề cơ bản sau :
Một là, điều kiện để triển khai quản lý nhà nước là phải có tư cách pháp nhân
và yêu cầu về tính hợp pháp trong quản lý là yêu cầu trước hết. Muốn có tư cách
pháp nhân để quản lý phải được bổ nhiệm và khi đã được bổ nhiệm cần phải thực
hiện đúng, đủ chức năng, thẩm quyền. Không lạm quyền cũng không đùn đẩy trách
nhiệm; thực hiện đúng chế độ thủ trưởng trong việc ra quyết định và trong việc chịu
trách nhiệm về các quyết định quản lý trước tập thể và cấp trên. Trong quản lý nhà
nước sẽ khơng có tư cách pháp nhân để “ra quyền” khi chưa được bổ nhiệm. Tuy
nhiên, mỗi tư cách pháp nhân đều có trách nhiệm và quyền hạn tương ứng, việc
hiểu cho đúng, làm cho đủ “thẩm quyền” là thước đo khả năng “sử dụng quyền lực
nhà nước” của một tư cách pháp nhân. Trong thực tế “Phép vua thua lệ làng”, “thủ
kho to hơn thủ trưởng” đều phát sinh do khơng nhận thức đúng “tính quyền lực nhà
nước trong các hoạt động quản lý”. “Thoái quyền” và “lạm quyền” là hai thái cực
của sự vi phạm “thẩm quyền”, mặt khác khái niệm “thẩm quyền” cũng gắn với sự
phân cấp và tuân hủ thứ bậc chặt chẽ trong quản lý nhà nước.
Hai là, phương tiện quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo là các văn bản
pháp luật và pháp quy. Phương pháp chủ yếu để quản lý nhà nước là phương pháp
Hành chính - Tổ chức. Cần nhận thức rằng tháp luật, pháp quy là sự cụ thể hố chủ
trương, chính sách của Đảng và nhà nước; phản ánh lợi ích của tồn dân, vì vậy đây
chính là lành lang pháp lí cho việc triển khai các hoạt động quản lý giáo dục, bảo
đảm tính quyền lực nhà nước trong quản lí. Việc khơng tn thủ hành lang pháp lí

6



trong các hoạt động quản lý giáo dục tức là vi phạm trật tự kỳ cương và sẽ bị xử lí
theo tuy định của pháp luật.
Thứ ba, trong quản lý nhà nước phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động
quản lí theo sự phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh - phục tùng là biểu hiện rõ nhất của
tính quyền lực trong quản lý nhà nước. Tính quyền lực nhà nước ở đây cũng chính
là việc cán bộ quản lý giáo dục cấp phòng cần nhận thức đầy đủ rằng cấp dưới phải
phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương trong quá trình quản lý
giáo dục.
Thứ tư, đặc điểm kết hợp Nhà nước - xã hội trong quá trình triển khai quản
lý nhà nước về giáo dục.
Giáo dục và đào tạo là một hoạt động mang tính xã hội cao và Đảng Cộng
sản Việt Nam cũng đã nhấn mạnh tư tưởnggiáo dục và đào tạo là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Rõ ràng, dân chủ hố và xã hội hố cơng tác giáo dục là một tư tưởng có tính
chiến lược và nó có vai trị rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói chung và quản
lý giáo dục nói riêng; rất nhiều bài toán quản lý giáo dục sẽ rất khó giải quyết nếu
khơng có sự tham gia của đơng đảo lực trong xã hội. Đây cũng là một đặc điểm
quan trọng cần nhận thức trong quản lý giáo dục.

7


Chương II : MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quả lý giáo dục - đào tạo.
Giáo dục, đào tạo có vai trò quan trọng đối với quốc gia dân tộc, nhận thức

rõ vai trò của giáo dục, đào tạo đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, theo mục tiêu

“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn quan tâm chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực quan trọng này.
Kế thừa, phát triển các quan điểm của Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII,
nghị quyết của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI về giáo dục đào tạo, Hội nghị lần thứ tám ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ra Nghị quyết
“về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế” (Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 4-11-2013) hệ thống bảy quan
điểm chỉ đạo :
Một là, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi
trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo là đổi mới những vấn
đề cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương
pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của
Đang, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục – đào
tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới
ở tất cả các bậc học, ngành học.
Ba là, phát triển giáo dục - đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Bốn là, phát triển giáo dục - đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học - công nghệ, phù hợp quy luật khách
quan.

8


Năm là, đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thơng giữa
các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện
đại hóa giáo dục - đào tạo.
Sáu là, chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị

trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục - đào tạo.
Bảy là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục - đào tạo,
đồng thời giáo dục - đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất
nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) xác định: “Phấn đấu
trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả
giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện
và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình,
yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030,
nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Đại hội XII của Đảng
là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng, được thể hiện ở một số nội
dung như sau:
Thứ nhất, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Đại hội XI của Đảng đề ra 12 nhiệm vụ tổng quát trong đó
có nhiệm vụ “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân
lực”. Đây là quan điểm tổng quát, bao trùm của Đảng về giáo dục, đào tạo. Đổi mới
căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết,
từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính
sách, điều kiện bảo đảm thực hiện và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý nhà nước
đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục đào tạo; đổi mới ở tất cả các bậc học,
ngành học nhằm hướng đến phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nội dung quan điểm về phát triển nguồn nhân lực được thể hiện xuyên suốt trong
văn kiện đại hội XII của Đảng và được xác định là một trong sáu nhiệm vụ trọng
tâm trong nhiệm kỳ đại hội.

9



Lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra quan điểm đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục, đào tạo gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao. Nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực quốc
gia, là nguồn nhân lực đáp ứng các tiêu chí về chất lượng cao và trình độ cao; đồng
thời là nguồn lực con người được đào tạo và sử dụng có chất lượng, hiệu quả cao
với tổng hợp các phẩm chất và nhân cách, năng lực và thể lực con người
Đại hội XII xác định: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho
đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ”, “Thực hiện
đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu kinh tế- xã hội”. Trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo lại
nguồn nhân lực trong nhà trường, trong sản xuất kinh doanh, chú trọng nâng cao
tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành. Phát triển hợp lý, hiệu qủa trường công
lập đối với giáo dục nghề nghiệp, và giáo dục đại học.
Thứ ba, giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Đảng Cộng sản Việt Nam ln khẳng định giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là những chính sách trọng tâm, có vai trị chính yếu, được quan tâm, ưu tiên đi trước
một bước so với các chính sách phát triển kinh tế- xã hội khác.
Kế thừa tư tưởng của các Đại hội Đảng và các nghị quyết về giáo dục đào tạo
trước. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Giáo dục đào tạo là quốc sách
hàng đầu”. Giáo dục đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Phát triển giáo dục đào tạo là phát triển nguồn
nhân lực là một bộ phận quan trọng của phát triển kinh tế- xã hội phải được ưu tiên
và quan tâm thật sự.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục
đào tạo theo hướng coi trọng phẩm chất, năng lực của người học : Đại hội XII của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ
các yếu tố cơ bản của giáo dục đào tạo theo hướng coi trọng phẩm chất, năng lực
của người học”. Đây là sự tiếp tục khẳng định quan điểm của Nghị quyết Trung
ương 8 khóa XI. Mục tiêu này thể hiện sự chuyển biến căn bản về chất lượng, hiệu


10


quả về giáo dục đào tạo, hướng đến xây dựng một nền giáo dục hiện đại, nhân văn
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo về tổ quốc thời kỳ mở cửa hội nhập
quốc tế.
Đổi mới những vấn đề cốt lõi, cấp thiết. Đổi mới chương trình, nội dung giáo
dục theo hướng tinh giản, hiện đại thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, ngành nghề. Đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, hình thức phương pháp thi, kiểm tra và đánh
giá kết quả giáo dục đào tạo bảo đảm trung thực, khách quan.
Quan điểm này của Đảng thể hiện mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi mới:
Chuyển quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học, chú trọng dạy chữ, dạy người, dạy nghề. Tập
trung dạy cách học khuyến khích tự học, tạo cơ sở đề người học tự cập nhật tri thức,
kỹ năng, phát triển năng lực. Giáo dục đào tạo phải thấm nhuần phương châm học
đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo
dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập : Đây là một chủ trương lớn
của Đảng, có vai trị quan trọng nhằm phát huy nguồn lực con người. Bản chất xã
hội học tập là môi trường giáo dục trong đó mọi người đều có điều kiện, cơ hội học
tập, với thiết chế giáo dục mở, mềm dẻo, linh hoạt, thích ứng với điều kiện học của
từng người, từng tổ chức. Xã hội học tập là một môi trường trong đó mọi lực lượng
xã hội, mọi tầng lớp xã hội đều tự giác học tập, cả xã hội trở thành một trường học
lớn.
Học tập suốt đời là quá trình học tập diễn ra trong suốt cuộc đời, dựa trên 4
trụ cột: học để biết, học để làm việc, học để làm người, học để cùng nhau chung
sống.
Yêu cầu này đòi hỏi quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
giáo dục đại học gắn với quy hoach phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch phát triển

nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho
từng ngành, từng lĩnh vực. phát triển hợp lý, hiệu quả các loại hình trường ngồi
cơng lập đối với giáo dục nghề nghiệp và đại học.

11


Thứ sáu, đổi mới căn bản công tác giáo dục, đào tạo : Văn kiện Đại hội XII
của Đảng khẳng định: “Đổi mới căn bản công tác giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân
chủ, thống nhất; tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo
dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng”.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của
hội đồng nhà trường. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã
hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp; bảo đảm
dân chủ, công khai, minh bạch.
Thứ bảy, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục và đào tạo : Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định “Phát triển đội
ngũ nhà giáo và cán bộp quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo.
Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo cấp học và trình độ đào tạo”.
Có cơ chế tuyển sinh để tuyển chọn những người thực sự có phẩm chất, năng
lực vào ngành sư phạm. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và
trình độ đào tạo. Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình
độ chuyên mơn nghiệp vụ.
Thứ tám, đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng
góp của tồn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục, đào tạo : Giáo
dục, đào tạo có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội, an ninh, quốc
phịng, là nguồn lực trí tuệ trong nguồn lực phát tiển của đất nước. Phát triển giáo
dục, đào tạo góp phần quan trọng vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, hội nhập quốc tế,

những nội dung, quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát
triển giáo dục, đào tạo cần được tuyên truyền, tổ chức thực hiện để nhanh chóng
đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đi vào cuộc sống.
2. Quan điểm của Nhà nước về quản lý giáo dục - đào tạo.
Luật Giáo dục năm 2019 đã thể hiện quan điểm của nhà nước Việt Nam về
quản lý giáo dực - đào tạo cụ thể như sau :

12


-

Về nội dung quản lý nhà nước về giáo dục : Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục.
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; ban
hành điều lệ nhà trường, chuẩn cơ sở giáo dục, quy chế tổ chức và hoạt động của cơ
sở giáo dục, điều lệ ban đại diện cha mẹ học sinh; quy định hoạt động dạy học và
giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà trường; quy định về đánh giá kết quả học
tập và rèn luyện; khen thưởng và kỷ luật đối với người học.
Quy định tiêu chuẩn chức danh, chế độ làm việc của nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục; danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc
trong các cơ sở giáo dục; tiêu chuẩn người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu
các cơ sở giáo dục; tiêu chuẩn chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng
đầu cơ quan chun mơn về giáo dục thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện;
chuẩn nghề nghiệp nhà giáo; ban hành quy tắc ứng xử của nhà giáo, của cơ sở giáo
dục; quy định về điều kiện, tiêu chuẩn và hình thức tuyển dụng giáo viên.
Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; khung trình độ quốc
gia; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn, định mức sử dụng cơ sở vật chất, thư viện và
thiết bị trường học; việc biên soạn, sử dụng sách giáo khoa, giáo trình; việc thi,
kiểm tra, tuyển sinh, liên kết đào tạo và quản lý văn bằng, chứng chỉ; việc công

nhận văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp được sử dụng tại Việt Nam.
Quy định về đánh giá chất lượng giáo dục; tổ chức, quản lý việc bảo đảm
chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục.
Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục; Tổ
chức bộ máy quản lý giáo dục; Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để
phát triển sự nghiệp giáo dục; Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa
học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục; Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế,
đầu tư của nước ngoài về giáo dục.
- Về cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục : Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về giáo dục. Chính phủ trình Quốc hội trước khi quyết định chủ trương lớn có
ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, chủ

13


trương về cải cách nội dung chương trình của một cấp học; hằng năm, báo cáo Quốc
hội về hoạt động giáo dục và việc thực hiện ngân sách giáo dục; trình Ủy ban
Thường vụ Quốc hội trước khi quyết định việc áp dụng đại trà đối với chính sách
mới trong giáo dục đã được thí điểm thành cơng mà việc áp dụng đại trà sẽ ảnh
hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, trung cấp sư
phạm, cao đẳng sư phạm, giáo dục thường xuyên.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, trừ trung cấp sư phạm, cao
đẳng sư phạm.
Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có
trách nhiệm phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục.

Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục theo phân
cấp của Chính phủ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các
nhiệm vụ sau đây :
- Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục của cơ sở giáo dục trên địa bàn.
- Bảo đảm các điều kiện về đội ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thư viện và
thiết bị dạy học của trường công lập thuộc phạm vi quản lý.
- Phát triển các loại hình nhà trường, thực hiện xã hội hóa giáo dục, mở rộng quy
mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục tại địa phương.
- Thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước để bảo đảm quyền tự chủ, trách
nhiệm giải trình về thực hiện nhiệm vụ và chất lượng giáo dục của cơ sở giáo
dục thuộc phạm vi quản lý.
- Chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển giáo dục tại địa phương.

14


Chương III : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1. Những thành tựu trong công tác quản lý nhà nước về giáo dục-đào tạo.
Giáo dục và đào tạo luôn được coi là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu
tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết
số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nêu rõ mục tiêu: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh
mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân.
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào;

sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp,
dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây
dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện
đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo;
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030,
nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.
Sau khi Nghị quyết số 29-NQ/TW ra đời, mặc dù trong bối cảnh đất nước
cịn nhiều khó khăn và nguồn lực còn hạn hẹp, song với sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, sự nghiệp giáo dục
đào tạo việt nam đã có những chuyển biến căn bản về chất lượng và hiệu quả, được
các tổ chức giáo dục thế giới ghi nhận, đánh giá cao. Cụ thể :
Thứ nhất, hệ thống cơ chế, chính sách về giáo dục và đào tạo tiếp tục được
chú trọng hoàn thiện nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, giải quyết những “nút
thắt” trong hoạt động đổi mới giáo dục, tạo hành lang pháp lý để các địa phương,
các cơ sở giáo dục và đào tạo thực hiện. Bộ Diáo dục và Đào tạo đã trình và được

15


Quốc hội thơng qua hai luật quan trọng, đó là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục năm 2019.
Chất lượng giáo dục mầm non có nhiều chuyển biến tích cực; chất lượng
chăm sóc, giáo dục trẻ được quan tâm. Nếu như năm học 2013 - 2014, cả nước mới
có 18 tỉnh được cơng nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi
thì đến năm 2017, tất cả 63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ em 5 tuổi. Chất lượng phổ cập ngày càng được nâng cao. Tháng 8/2018,
Chính phủ đã thống nhất chủ trương thực hiện chính sách miễn học phí đối với trẻ
em mầm non 5 tuổi và hỗ trợ đóng học phí cơ sở ngồi cơng lập đối với trẻ em diện
phổ cập, nhất là đối với các thơn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết số 29NQ/TW.

Chất lượng giáo dục phổ thông được nâng lên, được quốc tế ghi nhận và
đánh giá cao. Theo báo cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát triển
cơng bằng ở Đơng Á - Thái Bình Dương” năm 2018 của Ngân hàng Thế giới đã
khẳng định 7 trong số 10 hệ thống giáo dục đổi mới hàng đầu của thế giới nằm ở
khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, trong đó sự phát triển thực sự ấn tượng là ở hệ
thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc. Báo cáo Phát triển 2018 của Ngân
hàng Thế giới “Learning to realize education’s promise” tái khẳng định đánh giá
trong nhiều nghiên cứu là năng lực học sinh lứa tuổi 15 Việt Nam – một nước thu
nhập trung bình thấp, có kết quả vượt mức trung bình của học sinh các nước khối
OECD.
Việc triển khai chương trình, sách giáo khoa mới được tích cực thực hiện;
thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, đổi mới kiểm tra,
đánh giá học sinh theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực. Công tác giáo dục
hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh có bước chuyển biến.
Đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hồn thành và ban hành Chương trình
giáo dục phổ thơng tổng thể, tổ chức thực nghiệm chương trình mơn học trong
chương trình giáo dục phổ thơng mới. Chương trình phổ thông mới thay đổi căn bản
cách tiếp cận từ “theo nội dung” sang theo hướng “phát triển năng lực và phẩm

16


chất”, dạy học “tích hợp” ở cấp dưới, dạy “phân hóa” ở cấp trên, tăng cường các
mơn tự chọn. Mặc dù chương trình chưa áp dụng chính thức, nhưng các yếu tố về
phương pháp giáo dục, dạy học và kiểm tra đánh giá đã được áp dụng từng phần ở
các bậc học.
Chất lượng giáo dục đại học ngày càng được quan tâm, văn hóa chất lượng
từng bước được hình thành trong các cơ sở giáo dục đại học. Một số trường đại học
đã triển khai đào tạo hiệu quả nguồn nhân lực theo các chương trình tiên tiến được
chuyển giao từ các nước phát triển; đẩy mạnh việc triển khai thực hiện hỗ trợ khởi

nghiệp đối với sinh viên. Những năm qua, chất lượng giáo dục đại học từng bước
được thế giới công nhận thông qua kiểm định chất lượng và xếp hạng đại học quốc
tế. Nếu như trước năm 2014, chỉ có 15 chương trình đào tạo của Đại học Quốc gia
Hà Nội và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh được các tổ chức của khu vực
ASEAN hay quốc tế đánh giá thì đến năm 2018 đã có tổng số 104 chương trình đào
tạo từ 13 trường đại học khác của Việt Nam được các tổ chức quốc tế (AUN-QA
của ASEAN, CTI của Pháp, ABET và AACSB của Hoa Kỳ) đánh giá và cơng nhận.
Đồng thời, có 05 cơ sở GDĐH tham gia kiểm định cấp trường, được Hội đồng Cấp
cao về đánh giá nghiên cứu và GDĐH Pháp và Mạng lưới bảo đảm chất lượng các
trường đại học ASEAN đánh giá và công nhận. Thứ hạng trong các bảng xếp hạng
đại học quốc tế của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam ngày càng được cải thiện.
Nếu như trước năm 2014, cả Việt Nam chỉ có duy nhất Đại học Quốc gia Hà Nội lọt
vào bảng xếp hạng đại học châu Á của Tổ chức xếp hạng đại học QS với vị trí trong
nhóm 250 trường hàng đầu thì đến năm 2018, có 7 cơ sở giáo dục đại học lọt top
500 của bảng xếp hạng đại học QS châu Á. Trong đó, Đại học Quốc gia Hà Nội xếp
vị trí 124 của châu Á. Đặc biệt, năm 2018, lần đầu tiên lĩnh vực Vật lý của Đại học
Quốc gia Hà Nội được xếp hạng 502 trên thế giới theo US News. Ngoài ra, cũng có
3 trường đại học đạt mức 3 sao, 1 trường đạt mức 4 sao theo chuẩn gắn sao đại học
thế giới (QS Star Rating).
Tự chủ đại học được đẩy mạnh thông qua việc triển khai Nghị quyết số
77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ. Kể từ khi được giao quyền tự chủ, số
lượng các đề tài khoa học đấu thầu thành công, số lượng các công bố trong nước,

17


quốc tế, các chương trình mở mới của các trường đại học đều tăng, quy mô đào tạo
ổn định, thu nhập của giảng viên, người lao động tăng.
Thứ hai, chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp
được nâng lên và chuẩn hóa. Tính đến ngày 15/8/2018, tồn quốc có 1.161.143 giáo

viên mầm non, phổ thơng (cơng lập 858.772, ngồi cơng lập 23.691). Trong đó,
mầm non: 309.770 người (cơng lập 262.155, ngồi cơng lập 47.615); tiểu học:
395.848 người (cơng lập 390.873, ngồi cơng lập 4.975); trung học cơ sở: 305.815
người (cơng lập 300.990, ngồi công lập 4825; trung học phổ thông: 149.710 người
(công lập 135.819, ngồi cơng lập 13.891). Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục tăng mạnh về số lượng, đồng thời đạt chuẩn, trên chuẩn trình độ đào tạo. Tỷ lệ
giáo viên đạt chuẩn, trên chuẩn với mầm non là 96,6%; tiểu học: 99,7%; trung học
cơ sở: 99%; trung học phổ thông: 99,6%; đại học: 82,7%, tạo tiền đề để Bộ Giáo
dực và Đào tạo đề xuất nâng chuẩn trình độ đào tạo cho giáo viên trong sửa đổi
Luật Giáo dục.
Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ Đề
án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học
và các trường cao đẳng sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo giai đoạn 2018 – 2030. Xây dựng khung năng lực giáo viên phổ
thông các môn học đặc thù; xây dựng chuẩn nghề nghiệp giảng viên sư phạm; xây
dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý với trường sư phạm và trường phổ
thông trong bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục. Đồng thời, rà sốt mạng
lưới, quy mơ, phương thức đào tạo của các cơ sở đào tạo giáo viên; triển khai
Chương trình phát triển các trường sư phạm để nâng cao năng lực đội ngũ giáo
viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông (ETEP); khảo sát nhu cầu sử dụng
giáo viên của địa phương làm căn cứ xác định chỉ tiêu đào tạo giáo viên, nâng cao
chất lượng đầu ra sư phạm.
Khung năng lực giáo viên ngoại ngữ, bộ tiêu chí đánh giá các đơn vị tổ chức
bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ, các hệ thống trực tuyến bồi dưỡng giáo viên về
năng lực ngoại ngữ và năng lực sư phạm đã được hoàn thành; số lượng giáo viên
đạt yêu cầu về năng lực ngoại ngữ của các cấp học được nâng lên.

18




×