Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận cao học môn llhcnn thực trạng của hệ thống cơ quan hành chính nước việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.22 KB, 29 trang )

TIỂU ḶN
MƠN: LÝ LUẬN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Đề tài:
THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NƯỚC VIỆT
NAM HIỆN NAY, NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM KIỆN TOÀN HỆ THỐNG
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TINH GỌN, HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................4
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNGCƠ
QUAN HÀNH CHÍNH....................................................................................4
1. Khái niệm hệ thống cơ quan..................................................................4
2. phân chia đơn vị hành chính..................................................................5
Chương 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CƠ QUAN HÀNH CHÍNHỞ
VIỆT NAM HIỆN NAY..................................................................................9
1. Chính phủ..............................................................................................9
2. Ủy ban nhân dân các cấp.....................................................................11
Chương 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TINH GỌN, HIỆU QUẢ, HIỆU
LỰC................................................................................................................20
1. Kinh nghiệm và định hướng................................................................20
2. Một số giải pháp kiện tồn hệ thống cơ quan hành chính nhà nước tinh
gọn, hiệu lực, hiệu quả............................................................................25
KẾT LUẬN....................................................................................................27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................28

1



MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam thời gian qua đã có
cơ cấu tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy
định. Bên cạnh đó hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam cơ
quan hành chính nhà nước có tính độc lập tương đối về cơ cấu - tổ chức (có
cơ cấu bộ máy và quan hệ cơng tác bên trong của cơ quan được quy định
trước hết quy định trước hết nhiệm vụ, chức năng, thể hiện vai trò độc lập.
Tuy nhiên bên cạnh đó hệ thống này cũng đã bộc lộ một số hạn chế
nhất định bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau đòi hỏi trong giai đoạn
tới cần thực hiện các giải pháp nhất định để Việt Nam có được hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả để góp phần thực hiện
thắng lợi những nhiệm vụ trong giai đoạn tới. Xuất phát từ những vấn đề trên
do vậy em đã lựa chọn đề tài số 8 về “Thực trạng của hệ thống cơ quan
hành chính nước Việt Nam hiện nay. Những giải pháp nhằm kiện toàn hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả” để làm
tiểu luận kết thúc môn với mong muốn hiểu rõ hơn về những vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu.
Bài viết đã phân tích các khái niệm liên quan đến thực trạng hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước nhằm kiện tồn hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước gọn gàng. Từ đó bài viết đưa ra các nội dung của việc cơ quan hành
chính nhà nước trong và những giải pháp một số vấn đề của sự định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Bài viết đã phân tích một số nội dung về việc hành chính nhà nước và
đưa ra một số giải pháp cần quan tâm trong công tác quan lý nhà nước.
Bài viết đã phân tích trách nhiệm trong cơng tác của cơ quan hành
chính nhà nước về thực trạng tinh gọn, hiệu, hiệu quả ở Việt Nam hiện nay.
2



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về
Thực trạng của hệ thống cơ quan hành chính nước Việt Nam hiện nay. Những
giải pháp nhằm kiện toàn hệ thống cơ quan hành chính nhà nước tinh gọn,
hiệu lực, hiệu quả đề phân tích thực trạng cơng tác của cơ quan hành chính
nhà nước và rút ra những giải pháp đổi mới ở Việt Nam thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu : Hệ thống hóa các vấn đề thực trạng của hệ
thống cơ quan hành chính nước ta hiện nay và những giải pháp nhằm kiện
toàn hệ thống cơ quan hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; Tìm
hiểu quản điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quản lý nhà nước đối với
hệ thống cơ quan hành chính nước; Phân tích thực trạng quản lý nhà nước ở
Việt Nam ; Rút ra những giải pháp để đổi mới quản lý nhà nước ở Việt Nam
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Thực trạng của hệ thống cơ quan hành chính
nước ta hiện nay. Những giải pháp nhằm kiện tồn hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
- Phạm vi nghiên cứu : Nghiên cứu các tài liệu hiến pháp, pháp luật và
các một số biện pháp tại Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận : sử dựng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin cụ thể là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp riềng : sử dựng tổng hợp các phương pháp
phân tích tài liệu, so sáng, phân tích - tổng hợp, logic - lích sử và hiện nay.

3


NỘI DUNG

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG

CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm hệ thống cơ quan
Thứ nhất, hệ thống thể chế hành chính bao gồm Hiến pháp, Luật, Pháp
lệnh và các văn bản qui phạm về tổ chức, hoạt động của hành chính nhà nước
và tài phán hành chính
Thứ hai, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính
nhà nước các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu thực hiện quyền hành pháp.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính được đảm bảo về số
lượng và chất lượng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của nền hành chính.
Thứ tư, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm yêu cầu
thực thi công vụ của các cơ quan và công chức hành chính. Giữa các yếu tố
của nền hành chính có mối quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau trong một
khuôn khổ thể chế. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính nhà nước
cần phải cải cách đồng bộ cả bốn yếu tố trên. Hoạt động của nền hành chính
nhà nước được thực hiện dưới sự điều hành thống nhất của Chính phủ nhằm
phát triển hệ thống và đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội theo
định hướng. Trong q trình đó, các chủ thể hành chính cần thực hiện sự phân
cơng, phân cấp cho các cơ quan trong hệ thống nhằm phát huy tính chủ động,
sáng tạo và thế mạnh riêng có của từng ngành, từng địa phương vào việc thực
hiện mục tiêu chung của nền hành chính.
Cơ quan hành chính nhà nước là Cơ quan quản lý chung hay từng lĩnh
vực cơng tác, có nhiệm vụ thực thi pháp luật và chỉ đạo việc thực hiện các
chính sách, kế hoạch của nhà nước.
Ở Việt Nam, cơ quan hành chính nhà nước được hình thành từ các cơ
quan quyền lực nhà nước cùng cấp, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất và là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ do Quốc hội
4


thành lập, Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và

là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, do Hội đồng nhân dân và cơ
quan cùng cấp bầu vàmiễn nhiệm. Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp hợp
thành hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được hiểu là hệ thống các
cơ quan của Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp từ trung ương xuống địa
phương thực hiện nhiệm vụ trong cơng tác hành chính.
2. Phân chia đơn vị hành chính
Ngun tắc tổ chức quyền lực nhà nước biểu hiện rõ nét trong việc xác
định cơ cấu tổ chức các cơ quan nhà nước ở Trung ương gồm các nhánh
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trên thực tế đã có nhiều dạng thức khác
nhau khi vận dụng các nguyên tắc tổ chức thực thi quyền lực nhà nước, nhưng
phổ biến vẫn theo mơ hình “phân quyền” hoặc “tập quyền”.
Phần lớn nhà nước hiện đại được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền
và điều đó được vận dụng trong việc tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp
Trung ương. Còn ở cấp địa phương, chính quyền được tổ chức theo mơ hình
tự quản. Các đơn vị hành chính lãnh thổ được tổ chức theo nhiều cấp khác
nhau, với các tên gọi khác nhau, căn cứ vào sự khác nhau về mật độ dân cư,
địa lý… hay đặc điểm kinh tế - xã hội. Với mơ hình này, khả năng phát huy
sự tự chủ, năng động của địa phương là rất cao nếu cơ quan nhà nước ở
Trung ương đáp ứng được những đòi hỏi chung về khả năng kiến tạo và
quản lý vĩ mô. 
Theo nguyên tắc tập quyền, việc thiết lập các đơn vị hành chính về cơ
bản phải giống nhau ở mỗi cấp, từ đó thiết lập hệ thống các cơ quan quản lý
với thẩm quyền như nhau. Về mặt hình thức, đây là mơ hình lý tưởng cho sự
cơng bằng trong tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ. Đồng thời, nếu tính tự
quản ở địa phương được phát huy thì sẽ đảm bảo tinh thần “song trùng trực
thuộc” và tăng cường pháp chế trong quá trình vận hành quyền lực nhà nước.
Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc tập quyền chính là giới hạn sự tự chủ của
5



các đơn vị hành chính lãnh thổ và chính nó dẫn đến nhiều hệ lụy trong sử
dụng quyền lực nhà nước cả cấp Trung ương và địa phương.  
Như vậy, phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ theo nguyên tắc phân
quyền hay tập quyền đều có những ưu điểm và nhược điểm, và do vậy, để một
nhà nước được tổ chức hợp lý, cần nghiên cứu việc kết hợp hài hòa hai
nguyên tắc trên.   
Thứ hai, tổ chức các đơn vị hành chính nhà nước phải tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật.
Việc tổ chức đơn vị hành chính trong một nhà nước pháp quyền buộc
phải được hiến định, nếu không sẽ tiềm ẩn sự chủ quan, duy ý chí, dẫn đến rủi
ro và thiệt hại cho nền quản trị quốc gia. Vì vậy, các vấn đề chung nhất về tổ
chức, sắp xếp, phân chia các đơn vị hành chính lãnh thổ phải được luật hóa
trước khi tổ chức thực hiện.
Thứ ba, tổ chức đơn vị hành chính phải bảo đảm tính kế thừa và sự ổn
định trong quản lý nhà nước trên toàn lãnh thổ. 
Việc tổ chức các đơn vị hành chính phải dựa trên yếu tố lịch sử là căn
cứ quan trọng để hạn chế tối đa sự biến động của đối tượng quản lý do quá
trình sáp nhập, chia tách. Kèm theo đó là những phức tạp, rủi ro trong quản lý
thơng tin lưu trữ có thể gây bất lợi cho quản lý nhà nước. Vì thế, những thơng
tin quản lý hành chính phải được lưu giữ cẩn thận, có tính kế thừa và được
bảo tồn liên tục qua các thời kỳ lịch sử.  
Thứ tư, tổ chức đơn vị hành chính phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện
tự nhiên và xã hội của từng vùng, lãnh thổ khác nhau.
  Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận của bộ máy nhà nước nên
cũng có các đặc điểm chung của cơ quan nhà nước như sau :
Cơ quan hành chính nhà nước cơ quyền nhân danh Nhà nước khi tham
gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiên các quyền và nghĩa vụ pháp lý
với mục đích hướng tới lợi ích cơng. Biểu hiện của tính quyền lực nhà nước
đó là: Cơ quan hành chính nhà nước có quyền ban hành các văn bản pháp luật

6


như nghị định, quyết định, chỉ thị và có thể được áp dụng những biện pháp
cưỡng chế hành chính nhà nước nhất định.
Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu tổ chức phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Nói cách khác, cơ
quan hành chính nhà nước có tính độc lập tương đối về cơ cấu – tổ chức (có
cơ cấu bộ máy, và quan hệ công tác bên trong của cơ quan được quy định
trước hết quy định trước hết nhiệm vụ, chức năng, thể hiện vai trò độc
lập)...Cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước được quy định cụ thể
trong các văn bản pháp luật như Luật tổ chức Chính phủ , Luật tổ chức hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
 Các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và hoạt động dựa
trên quy định của pháp luật, có chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền riêng và có
những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao với các cơ
quan khác trong bộ máy nhà nước mà quan hệ đó được quy định bởi thẩm
quyền nhất định do pháp luật quy định - đó là tổng thể những quyền, nghĩa vụ
chung và những quyền hạn cụ thể mang tính quyền lực - pháp lý mà nhà nước
trao cho để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của nhà nước.      
 Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt cơ quan nhà nước với cơ quan,
nhà nước khơng phải của nhà nước, vì những cơ quan, tổ chức khơng phải của
nhà nước, vì những cơ quan, tổ chức đó khơng có thẩm quyền đượ quy định
trong pháp luật.
Nguồn nhân sự chính của cơ quan hành chính nhà nước là đội ngũ cán
bộ, cơng chức, được hình thành từ tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bầu cử theo
quy định của pháp lệnh cán bộ, công chức. Ngoài những đặc điểm chung của
cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước có các đặc trưng được quyết
định bởi chính bản chất hoạt động chấp hành - điều hành thơng qua các đặc
trưng này, có thể phân biệt cơ quan hành chính nhà nước với các cơ quan nhà

nước khác.
- Đặc điểm riêng của cơ quan hành chính nhà nước :
7


Thứ nhất, cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan quản lý hành chính
nhà nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành –
điều hành (đó là những hoạt động được tiến hành trên cơ sở luật và để thi
hành luật) nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Như vậy,
hoạt động chấp hành - điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính
nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà
nước.
Các cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện những hoạt động quản lý
hành chính nhà nước nhưng đó khơng phải là phương diện hoạt động chủ yếu
mà chỉ là hoạt động được thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành chức năng cơ
bản của cơ quan nhà nước đó như: Chức năng lập pháp của Quốc hội, chức
năng xét xử của tòa án nhân dân, chức năng kiểm sát của viện kiểm sát nhân
dân. Chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới thực hiện hoạt động quản lý
hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội…
Việc thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước là nhằm hồn thành
chức năng quản lý hành chính nhà nước.
 Thứ hai, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ
Trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống
nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc
nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà
nước.
 Thứ ba, thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được pháp
luật quy định trên cơ sở lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mang tính
tổng hợp. Đó là những quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính chỉ giới hạn

trong phạm vi hoạt động chấp hành - điều hành.
Thứ tư, các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp
trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo
công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước.
8


Chương 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Chính phủ.
Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp đóng vai trị quyết định trong
việc thành lập các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam. Chính phủ và cơ
cấu tổ chức của Chính phủ do Quốc hội quyết định thông qua kỳ họp đầu tiên
của từng nhiệm kỳ. Bên cạnh việc kế thừa Hiến pháp 1992 (tiếp tục khẳng
định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nước CHXHCN
Việt Nam, là cơ quan chấp hành của Quốc hội), Hiến pháp năm 2013 đã bổ
sung một quy định mới, quan trọng nhất, đó là Chính phủ thực hiện quyền
hành pháp.
 Quy định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp bao hàm cả vị trí của
Chính phủ trong phân cơng thực hiện quyền lực nhà nước và chức năng của
Chính phủ.
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội
hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa
mới thành lập Chính phủ. Trong đó, Điều 71 Hiến pháp năm 2013 quy định
nhiệm kì của mỗi khóa Quốc hội là 5 năm. Nhiệm kỳ Chính phủ đương nhiệm
tại Việt Nam hiện nay là 2016-2021.
Theo quy định tại Điều 96 Hiến pháp 2013 và Chương II Luật tổ chức
Chính phủ quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ thể hiện qua 20
nhóm, cụ thể:
- Quản lý thông tin và truyền thông;

- Quản lý y tế, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân và dân số;
- Cơng tác dân tộc;
- Cơng tác tín ngưỡng, tơn giáo;
- Quản lý về quốc phòng;
- Quản lý về cơ yếu;
9


- Quản lý về an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội;
- Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người,
quyền công dân;
- Đối ngoại và hội nhập quốc tế;
- Quản lý về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, chế độ cơng vụ, cán
bộ, công chức, viên chức và công tác thi đua, khen thưởng;
- Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp cơng dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí;
- Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với chính quyền địa
phương;
Cơ cấu tổ chức và thành viên của Chính phủ được quy định tại Điều 95 Hiến
pháp năm 2013 và Điều 2 của Luật tổ chức Chính phủ năm 2015, cụ thể:
Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ
trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm
các bộ, cơ quan ngang bộ. Hiện nay, Chính phủ nước Việt Nam gồm có 18 bộ
và 04 cơ quan ngang bộ. Bên cạnh các bộ, cơ quan ngang bộ, Chính phủ có
thể thành lập các cơ quan thuộc Chính phủ khơng thực hiện chức năng quản
lý nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm
trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao;
báo cáo cơng tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước

Theo quy định tại Điều Hiến pháp và Chương IV Luật tổ chức Chính
phủ quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ thể hiện qua 4 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn, cụ thể:
- Tư cách là thành viên Chính phủ;
- Với tư cách là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ;
- Trong mối quan hệ với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ;
10


- Trong mối quan hệ với chính quyền địa phươn
Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được quy định cụ thể
tại Chương V Luật tổ chức Chính phủ năm. Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ
quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về một hoặc một
số ngành, lĩnh vực và dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn
quốc. Các quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của mỗi bộ ngành đều
được quy định tại các nghị định cụ thể của Chính phủ.
Hiện nay, Chính phủ nước ta gồm có 18 bộ: Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng
an, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài
chính, Bộ Cơng Thương, Bộ NN&PTNT, Bộ Giao thông - Vận tải, Bộ Xây
dựng, Bộ Tài nguyên - Môi trường, Bộ Thông tin - Truyền thông, Bộ LĐTB&XH, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học - Công nghệ, Bộ
Giáo dục - Đào tạo, Bộ Y tế và 04 cơ quan ngang bộ gồm: Ủy ban Dân tộc,
Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Văn phịng Chính phủ.
Cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ gồm: Vụ, Văn phòng, Thanh
tra, Cục, Tổng cục, Đơn vị sự nghiệp công lập.
2. Ủy ban nhân dân các cấp.
Nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng
cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên. Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến

pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng
nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
- Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
- Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường và xã; quận chia thành phường. Uỷ ban nhân dân - Cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương có hai tư cách:
11


Một là, cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân; chịu trách nhiệm thi
hành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và báo cáo công việc trước Hội
đồng nhân dân cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp trên. Hội đồng nhân dân có
quyền bãi miễn các thành viên của Uỷ ban nhân dân, giám sát các hoạt động
và bãi bỏ những quyết định khơng thích. Uỷ ban nhân dân chịu sự giám sát
của Hội đồng nhân dân và đôn đốc của Thường trực Hội đồng nhân dân. 
Hai là, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân)
chịu trách nhiệm không chỉ chấp hành những nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cùng cấp mà các quyết định của các cơ quan chính quyền cấp trên, thi
hành luật thống nhất trên cả nước. Uỷ ban nhân dân các cấp chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất. Để tăng cường tính
hệ thống thứ bậc của bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương xuống địa
phương, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn việc bầu cử, miễm nhiệm, điều
động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, các thành
phố trực thuộc trung ương. Nhiệm vụ, quyền hạn chung của Uỷ ban nhân dân
được quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Uỷ
ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ
chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ
do cơ quan nhà nước cấp trên giao.

  - Thực hiện quản lý hành chính trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội tại địa phương;
- Chấp hành Nghị quyết của HĐND cùng cấp bầu ra. UBND phải chịu
sự giám sát và báo cáo thường xuyên hoạt động của mình với HĐND cùng cấp.
- Đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật và các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên tại địa phương;
- Bảo đảm sự thống nhất sự lãnh đạo của nhà nước từ trung ương tới
cơ sở.
+ Các cơ quan chuyên môn của UBND: Các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND là cơ quan tham mưu, giúp UBND cùng cấp thực hiện chức
12


năng quản lý nhà nước ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền
hạn theo sự uỷ quyền của UBND cùng cấp và theo quy định của pháp luật,
góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ
trung ương đến cơ sở.
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức,
biên chế và công tác của UBND cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra
về nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên. Thủ trưởng cơ quan chuyên
môn thuộc UBND chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước UBND, cơ
quan chuyên môn cấp trên và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp khi
được yêu cầu.
Các sở và tương đương là cơ quan chun mơn thuộc UBND cấp tỉnh.
Các phịng và tương đương là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện.
Các ban là tổ chức chuyên môn thuộc UBND cấp xã. Ủy ban nhân dân
gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên, số lượng cụ thể Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các cấp do Chính phủ quy định. Không phải UBND các cấp đều
giống nhau về số lượng thành viên. UBND cấp tỉnh có từ 9 đến 11 thành viên
(UBND thành phố Hà Nội và UBND thành phố Hồ Chí Minh có khơng q

13 thành viên); UBND cấp huyện có từ 7 đến 9 thành viên; UBND cấp xã có
từ 3 đến 5 thành viên. Cách thức thành lập:
- Chủ tịch UBND do HĐND cùng cấp bầu ra tại kỳ họp thứ nhất của
mỗi khóa theo sự giới thiệu của Chủ tịch HĐND.
- Phó chủ tịch và các ủy viên do HĐND cùng cấp bầu ra theo sự giới
thiệu của Chủ tịch UBND. Phó chủ tịch và các ủy viên không nhất thiết phải
là đại biểu HĐND. Số lượng thành viên và số Phó chủ tịch UBND của mỗi
cấp do Chính phủ quy định.
- Kết quả bầu các thành viên của UBND phải được Chủ tịch UBND cấp
trên trực tiếp phê chuẩn (đối với cấp tỉnh phải được Thủ tướng phê chuẩn).
- Chủ tịch UBND cấp trên có quyền điều động, cách chức Chủ tịch,
Phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp.
13


Trên cơ sở đánh giá việc sắp xếp cơ cấu tổ chức Chính phủ các nhiệm
kỳ (từ khóa XII đến nay)(1) và tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khoá X(2), thực trạng cải cách hành
chính, thu gọn đầu mối và tinh giản biên chế khu vực hành chính, sự nghiệp(3)
và một số kết quả bước đầu triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội
nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XII (Nghị quyết số 18-NQ/TW)… có thể đánh
giá chung về những kết quả đạt được trong việc sắp xếp, kiện tồn tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước từ năm 2011 đến nay như sau:
Một là, cơ cấu tổ chức của Chính phủ được giữ ổn định, khơng tăng
đầu mối (gồm 18 bộ, 04 cơ quan ngang bộ). Các bộ, cơ quan ngang bộ thực
hiện việc sắp xếp, điều chỉnh theo mơ hình bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực
và chuyển tất cả các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước
vào các bộ thích hợp để bảo đảm thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà
nước, phù hợp với Hiến pháp, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và
các quy định có liên quan. 

Hai là, giữ ổn định số lượng các cơ quan thuộc Chính phủ (08 cơ quan)
(4). Để bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước đối với các hoạt động
của các cơ quan thuộc Chính phủ, đã phân cơng các thành viên Chính phủ
trực tiếp chỉ đạo và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh
vực về hoạt động của các cơ quan thuộc Chính phủ.
Ba là, chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ tập trung vào
quản lý vĩ mơ; ban hành chính sách, chiến lược, quy hoạch đối với ngành, lĩnh
vực; hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm thuộc phạm vi quản lý
theo phân cơng của Chính phủ và quy định của pháp luật; từng bước tách
chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực với chức năng quản lý, giám
sát của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và quản lý sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bốn là, cơ cấu tổ chức bên trong của bộ, cơ quan ngang bộ được kiện
toàn, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý, tính chất
14


hoạt động và tiếp tục được đổi mới, sắp xếp theo hướng tinh gọn, giảm cấp
trung gian theo đúng tinh thần Nghị quyết số 18/NQ-TW và Nghị quyết số
56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về tiếp tục cải cách tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (Nghị quyết
số 56/2017/QH14). Cụ thể là:
- Quy định cụ thể các tiêu chí (gắn với quy định về biên chế tối thiểu)
để thành lập vụ, cục, tổng cục thuộc bộ; tiêu chí thành lập các vụ, cục thuộc
tổng cục. Việc thành lập mới các tổ chức từ cấp vụ, cục trở lên nếu làm tăng
số lượng tổ chức thì phải báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến trước khi trình
Chính phủ xem xét, quyết định.
 - Quy định cục thuộc bộ chỉ có một loại với tiêu chí thành lập được áp
dụng thống nhất đã thể hiện sự đổi mới trong cách thức tiếp cận và thiết kế cơ
cấu tổ chức bộ máy thuộc bộ.

- Quản lý chặt chẽ số lượng phòng trong vụ, số lượng phòng và chi cục
thuộc cục thuộc bộ; số lượng chi cục thuộc cục của tổng cục thuộc bộ đã góp
phần hạn chế được tổ chức trung gian không cần thiết để nâng cao hiệu quả
hoạt động của tổ chức. Theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, Chính phủ ban hành
tiêu chí thành lập các tổ chức này và phân cấp cho bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ quyết định thành lập.
- Đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm người đứng đầu các
tổng cục và tổ chức tương đương; cục, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ
được quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh lãnh đạo,
quản lý của các đơn vị thuộc cấp mình quản lý, bảo đảm nguyên tắc cấp nào
quản lý, sử dụng cán bộ, cơng chức, viên chức thì cấp đó quyết định bổ
nhiệm, cách chức để gắn thẩm quyền với trách nhiệm. 
- Các đơn vị sự nghiệp cơng lập hiện có hoạt động phục vụ công tác
quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc bộ như: nghiên cứu chiến
lược, chính sách về ngành, lĩnh vực; báo; tạp chí; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức; thông tin hoặc tin học được quy định tại Nghị định của
15


Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
bộ; các đơn vị sự nghiệp cơng lập khác hiện có thuộc bộ được rà soát, sắp xếp
phù hợp với quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành,
lĩnh vực và định hướng đổi mới cơ chế tự chủ và đẩy mạnh xã hội hóa hoạt
động cung ứng dịch vụ sự nghiệp.
- Về tổ chức bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc.
Năm là, số lượng các tổ chức quản lý chuyên ngành có xu hướng
chuyển đổi từ các tổ chức chỉ thực hiện chức năng tham mưu (vụ) sang loại
hình tổ chức vừa thực hiện chức năng tham mưu, vừa tổ chức thực thi (cục)
theo phân cấp, ủy quyền của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ để đáp
ứng yêu cầu phát triển thực tế và nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

nhà nước các chuyên ngành, lĩnh vực.
Sáu là, đẩy mạnh trao quyền cho chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp
huyện quyết định sắp xếp tổ chức các cơ quan chuyên mơn thuộc cấp mình
quản lý trên cơ sở phù hợp với quy định khung của Chính phủ, bảo đảm thu
gọn đầu mối, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, phân định rõ hơn chức
năng và mơ hình tổ chức của chính quyền ở đơ thị với chính quyền ở nông
thôn và hải đảo. 
Thời gian qua, việc sắp xếp, kiện tồn tổ chức bộ máy đạt được kết quả
tích cực, đã khắc phục được nhiều bất hợp lý trong tổ chức bộ máy của hệ
thống hành chính nhà nước, tuy nhiên vẫn cịn một số hạn chế, đó là:
Thứ nhất, tổ chức bộ máy bên trong của một số bộ, cơ quan ngang bộ
vẫn cồng kềnh, còn tầng nấc trung gian; chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền,
trách nhiệm giữa các cơ quan hành chính nhà nước tuy đã cơ bản khắc phục
được sự chồng chéo, nhưng trên một số lĩnh vực vẫn cịn giao thoa, đan xen
hoặc phân cơng chưa thực sự phù hợp hoặc chưa đủ rõ, dẫn đến khó xác định
trách nhiệm khi có vấn đề xảy ra. 
Thứ hai, công tác phối hợp thực hiện chức năng, nhiệm vụ giữa các
bộ, cơ quan ngang bộ còn hạn chế, chưa thực hiện nguyên tắc một việc chỉ
16


giao cho một cơ quan, một người chủ trì, chịu trách nhiệm chính. Thủ tục
hành chính trong một số lĩnh vực vẫn còn phức tạp, rườm rà, chậm được
khắc phục.
Thứ ba, việc quy định về tổ chức trong các văn bản quy phạm pháp luật
chuyên ngành không thuộc lĩnh vực tổ chức nhà nước làm phát sinh việc tăng
đầu mối tổ chức, gây trở ngại cho việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy theo
yêu cầu cải cách hành chính.
Thứ tư, số lượng cấp phó tại một số tổ chức hành chính vượt so với quy
định, cịn mất cân đối giữa số lượng người giữ chức danh lãnh đạo, quản lý và

số công chức tham mưu tại một số tổ chức hành chính. 
Thứ năm, số lượng các sở được tổ chức thống nhất tại các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cịn nhiều và chưa phù hợp với đặc điểm nơng
thơn, đơ thị và điều kiện, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa
phương theo yêu cầu của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
Một số chi cục thuộc sở chưa được tổ chức lại cho phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ được giao, tạo ra tầng nấc trung gian. 
Thứ sáu, việc chuyển giao một số nhiệm vụ từ cơ quan hành chính nhà
nước cho các tổ chức xã hội thực hiện còn hạn chế. Tổ chức bộ máy và biên
chế công chức tại các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa
phương chưa giảm, tinh giản biên chế cịn gặp nhiều khó khăn.
Thứ bảy, một số nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương
chưa được quy định rõ, vẫn còn một số nhiệm vụ cả cấp tỉnh, cấp huyện hoặc
cấp xã cùng thực hiện nhưng chưa rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp
trong quản lý.
Thứ tám, việc thành lập và quản lý theo quy hoạch mạng lưới các đơn
vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực chưa được coi trọng, dẫn đến làm
tăng cả về tổ chức và biên chế (số lượng người làm việc) trong các đơn vị sự
nghiệp công lập. 
17


Thứ chín, một số chính sách là điều kiện quan trọng để thực hiện
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp cơng lập (như học
phí, viện phí…) cũng như nhiều định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn ngành
còn thiếu (định mức giờ giảng, định mức biên chế theo lĩnh vực, theo ngành,
nghề...) chưa được ban hành hoặc sửa đổi kịp thời; các định mức chi và cơ
chế quản lý chi chậm đổi mới, chưa gắn với kết quả hoạt động nên hạn chế
tính tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp. Đây cũng là nguyên nhân làm
chậm quá trình đẩy mạnh xã hội hóa đối với một số lĩnh vực dịch vụ sự

nghiệp công.
Một là, luật và một số văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành trước
thời điểm có Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, các nghị quyết, kết luận
của Trung ương nên chưa kịp cụ thể hóa các chủ trương, định hướng lớn và
mới được ban hành của Đảng, Quốc hội. Một số bộ luật chưa thể hiện được
hết tư tưởng mới của Hiến pháp năm 2013.
Hai là, vấn đề giáp ranh, đan xen, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ
giữa một số bộ, ngành là do bản thân những vấn đề quản lý rất phức tạp nên
không đơn giản phân định về mặt hành chính, nhất là trong điều kiện thiếu cơ
chế phối hợp hiệu quả, nên vẫn chưa giải quyết được dứt điểm các vấn đề bất
hợp lý trong quá trình tổ chức thực hiện.
Ba là, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công
tác của nhiều cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước chưa cụ thể hoá đầy đủ;
thiếu quy định khung về việc thành lập cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước.
Bốn là, mơ hình tổng thể về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp chưa được hoàn thiện, một số
quy định của pháp luật chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới,
đặc biệt là việc phân định rõ mơ hình tổ chức, hoạt động của chính quyền đơ
thị với chính quyền nơng thơn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. 
Năm là, quy định về thành lập tổ chức hành chính chưa được tuân thủ
nghiêm, vẫn cịn tình trạng quy định thành lập tổ chức bộ máy ngay trong các
18


luật chuyên ngành và các nghị định gây khó khăn trong việc hướng dẫn tổ
chức thực hiện, sắp xếp, kiện tồn các tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
Sáu là, chưa quy định cụ thể, đầy đủ tiêu chí xác định số lượng cấp phó
trong các tổ chức hành chính nhà nước, dẫn đến thiếu thống nhất trong tổ
chức thực hiện.
Bảy là, hạn chế trong việc phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chủ yếu là

do còn trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm; hạn chế trong việc chia sẻ thông tin quản lý và thiếu các quy định về
quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm phối hợp trong thực thi nhiệm vụ quản lý nhà
nước đối với ngành, lĩnh vực.
Tám là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, triển khai cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm ở một số bộ, ngành và địa phương chưa được quan
tâm đúng mức. Nhiều đơn vị sự nghiệp công lập chưa chủ động xây dựng
phương án tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính trong từng giai đoạn trình
cơ quan chủ quản cấp trên xem xét thẩm định, phê duyệt. Một bộ phận cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động trong đơn vị sự nghiệp công lập
nhận thức chưa đầy đủ về nội dung, mục đích và yêu cầu về thực hiện giao
quyền tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập, vẫn cịn tâm lý ỷ lại, trơng
chờ bao cấp của nhà nước, không muốn thay đổi cơ chế quản lý.

19



×