Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

tiểu luận cao học ĐẢNG CỘNG sản TRONG hệ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.61 KB, 35 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu một bước quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và của nhân dân ta. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh phải
đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Đây là một bước đột phá quan
trọng trong tư duy lý luận của Đảng, tạo ra các tiền đề lý luận cho việc triển
khai đồng bộ và nhất quán các giải pháp cải cách kinh tế để giải phóng sức
sản xuất nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trên cơ sở chuyển đổi
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN.
Sau 25 năm vượt qua các thử thách và khó khăn to lớn, tiến hành công
cuộc đổi mới trên mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội..., đến nay, Việt Nam có đủ
cơ sở để khẳng định rằng đổi mới là sự lựa chọn đúng đắn, đã đặt Việt Nam vào
quỹ đạo phát triển mới về chất, phù hợp với xu thế của thời đại và với ý nguyện
của nhân dân. Ngày nay, công cuộc đổi mới đã chuyển sang giai đoạn phát triển
mới: đổi mới và hội nhập; đổi mới để giữ vững ổn định chính trị một cách tích
cực cho phát triển, bởi vậy, công cuộc đổi mới càng cần động lực mới từ chính
thực tiễn đổi mới HTCT nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN bảo
đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.
Đổi mới HTCT vừa là yêu cầu của phát triển kinh tế, dân chủ hoá xã hội
vừa là đòi hỏi của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế trong bối cảnh tòan cầu
hoá.
CHƯƠNG 1
ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
1.1. Hệ thống chính trị
1.1.1. Khái niệm
Hệ thống chính trị (HTCT) là một trong những phạm trù cơ bản và bao
trùm của Khoa học chính trị. Cho đến nay, tuỳ thuộc vào cách tiếp cận khác
nhau, nên vẫn còn nhiều cách hiểu chưa hoàn toàn thống nhất về HTCT.Có cách



tiếp cận từ góc độ cấu trúc quyền lực của nhân dân, xem HTCT là hình thức tổ
chức dân chủ để thực hiện quyền lực của nhân dân; quan niệm khác lại tiếp cận
từ góc độ cấu trúc quyền lực của giai cấp cầm quyền, cho rằng: HTCT là hệ
thống quyền lực của giai cấp cầm quyền, hay gọi là hệ thống chuyên chính của
giai cấp cầm quyền, nghĩa là HTCT chỉ bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội
do giai cấp cầm quyền lập ra để bảo vệ quyền lực và lợi ích của chính giai cấp
cầm quyền. Các tổ chức chính trị - xã hội khác không do giai cấp cầm quyền tổ
chức ra, thậm chí được xem là bất hợp pháp, không được coi là thành tố của
HTCT. Tổng hoà của hai quan niệm trên, cách tiếp cận thứ ba thực tế hơn, xem
HTCT vừa là hệ thống quyền lực của giai cấp cầm quyền vừa là hệ thống quyền
lực của nhân dân, quan niệm: HTCT không chỉ là hệ thống chuyên chính của
giai cấp cầm quyền mà là tất cả các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp hoặc trực
tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến quyền lực thống trị của giai cấp thống trị.
Đó là hệ thống tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, trong đó ưu thế cơ bản thuộc
về các tổ chức của giai cấp nắm quyền lực về kinh tế để tác động vào các quá
trình kinh tế - xã hội nhằm bảo vệ, duy trì, phát triển chế độ xã hội đương thời
và lợi ích của giai cấp cầm quyền .
Trong giới nghiên cứu ở nước ta cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về
HTCT. Có thể nêu ra một vài định nghĩa như sau:
Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức, các thiết chế chính trị - xã hội
và các mối quan hệ giữa chúng với nhau hợp thành cơ chế chính trị của một chế
độ xã hội. Cơ chế đó bảo đảm việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị trong quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác1
Hệ thống chính trị của một quốc gia là một cấu trúc của xã hội bao gồm
các tổ chức chính trị đặc trưng của xã hội (Nhà nước, các đảng phái chính trị,
các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể - phong trào chính trị...) tồn tại và
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật chính thức hiện hành, cùng với tổng thể
1.Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Dự thảo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.- NXB: Văn hoá- Thông tin, Hà Nội, 1991.- Tr 85.



các mối quan hệ ràng buộc, gắn kết các tổ chức đó thành một chỉnh thể, thông
qua đó giai cấp cầm quyền thực hiện quyền lực chính trị của mình trong xã hội2
Dù sao, mỗi quan niệm cũng có những ưu thế và hạn chế nhất định. Khái
quát lại, có thể xem HTCT là một hệ thống các tổ chức chính trị hợp pháp bao
gồm: nhà nước, các đảng chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội, cùng các
quan hệ ràng buộc, gắn kết các tổ chức đó thành một chỉnh thể để tác động vào
các quá trình của đời sống xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ
đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền
Trong chủ nghĩa xã hội (CNXH), do có sự thống nhất về lợi ích giữa giai
cấp công nhân, giai cấp cầm quyền và nhân dân lao động, nên HTCT không chỉ
là hệ thống quyền lực của giai cấp công nhân mà còn là cơ chế xã hội mà nhờ
đó, nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, thực hiện
quyền lực của mình.
HTCT xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện bản chất của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ.
Đảng Cộng sản, với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đội tiền phong của nhân dân lao động, đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao
động và của toàn dân tộc, có sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ xã hội thông qua nhà
nước và các đoàn thể nhân dân; Nhà nước có chức năng quản lí mọi mặt đời
sống xã hội, công cụ, phương tiện để qua đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ;
các đoàn thể nhân dân có chức năng tập hợp các giai cấp, tầng lớp xã hội tham
gia việc quản lí nhà nước, quản lí xã hội.
Bởi vậy, có thể quan niệm HTCT nước ta là hệ thống các tổ chức: Nhà
nước CHXHCN Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam, Mặt trân tổ quốc và các tổ
chức CT-XH khác(Tổng Liên đoàn lao động, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội liên
hiệp thanh niên, Hội nông dân và Hội Cựu chiến binh), cùng các quan hệ giữa
chúng với nhau hợp thành cơ chế dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm và phát
2. Nguyễn Duy Quí, Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới, Nxb, CTQG, H 2008, tr15.



huy quyền làm chủ của nhân dân chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo
Đảng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh3.
Ngoài ra, trong xã hội ta còn nhiều tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, các tổ chức tôn giáo vv… có vai trò ngày càng tăng và
thường xuyên có đại diện trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân, song không phải
là thành viên độc lập của HTCT mà tham gia vào hệ thống với tư cách là thành
viên của Mặt trận Tổ quốc - một liên minh chính trị rộng lớn nhất của cả dân
tộc.
1.1.2. Chức năng của hệ thống chính trị
- Chức năng tổ chức quản lý xã hội
Loài người là một xã hội có tổ chức, tổ chức xã hội của loài người phát
triển từ hình thức cộng đồng nguyên thủy, lên các xã hội có nhà nước chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư sản, Xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó đi liền với quá trình
hoàn thiện pháp luật, phát triển dân chủ và phức tạp hóa HTCT. Đến nay chúng
ta đều thấy ở khắp mọi nơi ngoài nhà nước, HTCT bao gồm rất nhiều các tổ
chức chính trị xã hội đại diện cho quyền lợi, xu hướng, nguyện vọng…của các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội. HTCT được tổ chức xắp xếp theo những hình
thức, nguyên tắc khác nhau phản ánh bức tranh chính trị của xã hội.
Trong HTCT, Nhà nước là một bộ phận cơ bản giữ chức năng quản lý xã
hội. Đó là chức năng quản lý xã hội bằng công quyền, bằng pháp luật. Trong
chức năng này Nhà nước thực hiện quyền chuyên chính bằng những biện pháp
và công cụ đặc trưng như cảnh sát, tòa án…đối với những lực lượng chống đối
lại lợi ích chung của xã hội mà thực chất là lợi ích của giai cấp cầm quyền. Mọi
thành phần, tổ chức trong xã hội nói chung và trong HTCT nói riêng đều chịu sự
quản lý của Nhà nước. Sự ổn định phát triển của HTCT phụ thuộc vào sự ổn
3. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) Đổi mới mối quan hệ giữa Đảng, Chính quyền và các đoàn thể nhân dân cấp
phường trong điều kiện kinh tế thị trường, Nxb, CTQG, HN, 1995,; Dương Xuân Ngọc (chủ biên) Mối quan hệ
giữa Đảng, Chính quyền và các đoàn thể nhân dân cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb, CTQG, HN, 1997,; Dương

Xuân Ngọc, Lưu Văn An ( đồng chủ biên) Thể chế chiín trị thế giới đương đại, Nxb CTQG, HN, 2003 .


định của Nhà nước và vai trò tổ chức quản lý xã hội của nó. Do vậy xây dựng
HTCT có một nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng Nhà nước.
Tuy nhiên xã hội càng dân chủ thì bên cạnh Nhà nước, cac tổ chức khác
cũng tham gia tích cực với những hình thức, phương pháp và mức độ khác nhau
vào việc quản lỹ xã hội. Việc tham gia quản lý của các tổ chức trong HTCT
mang tính chất phi chính phủ và phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản của
Nhà nước. Nó chỉ bổ sung làm phong phú, góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức
quản lý xã hội của HTCT. Trong phạm vi ấy nó biểu hiện mức độ dân chủ của
HTCT.
- Chức năng lãnh đạo, định hướng sự phát triển xã hội trị .
Trong HTCT, các Đảng chính trị là đội tiên phong, tích cực nhất, đại diện
cho lợi ích của các giai cấp, các nhóm, các tầng lớp trong xã hội. Sự hoạt động
của các Đảng chính trị đặc biệt là các Đảng cầm quyền là nhân tố chủ yếu lãnh
đạo, định hướng cho hoạt động và phát triển xã hội. Các Đảng chính trị lãnh
đạo, định hướng bằng nhiều cách, nhưng chủ yếu và hiệu quả nhất là bằng cách
trở thành Đảng cầm quyền, bởi vì ý chí, tư tưởng của nó tức là đường lối, chính
sách kinh tế, chính trị xã hội của Đảng cầm quyền được đảm bảo bằng quyền lực
Nhà nước đã thông qua bằng việc thể chế hóa bằng luật mà lãnh đạo, định
hướng sự phát triển xã hội.
Đồng thời với việc sử dụng Đảng, Nhà nước, các giai cấp tầng lớp trong
xã hội còn thông qua các tổ chức chính trị, các đoàn thể xã hội của mình là hình
thức gần gũi, rộng lớn nhất và dễ phát huy tính tích cực chính trị của mọi tầng
lớp nhân dân để lãnh đạo, định hướng sự phát triển xã hội.
1.2. Đảng trong hệ thống chính trị
- Sự hình thành các Đảng chính trị
Sự xuất hiện của các Đảng chính trị là biểu hiện của xã hội chuyển từ chế
độ quân chủ độc đoán sang chế độ dân chủ hoặc thừa nhân dân chủ. Dưới hình

thức hiện đại các Đảng chính trị xuất hiện vào thời kỳ giai cấp tư sản đấu tranh
giành quyền lực với giai cấp phong kiến đang suy tàn ( Thế kỷ 17 – 18 ở Châu


Âu). Gắn liền với xã hội phân chia giai cấp, cuộc đấu tranh của các đảng phái
chính là biểu hiện của cuộc đấu tranh giai cấp trong xội. Đảng chính trị là tổ
chức tiên phong đại diện cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Mục tiêu
của các chính đảng là giành, giữ quyền lực của Nhà nước để thực hiện mục đích,
lý tưởng giai cấp của mình. Trên thực tế cho thấy các Đảng chính trị càng đứng
vững trên lập trường giai cấp thì càng có vị trí chính trị vững vàng.
- Đảng cầm quyền
Mục tiêu của các Đảng chính trị là trở thành Đảng cầm quyền. Đảng cầm
quyền là Đảng nắm vững quyền lực Nhà nước mà trực tiếp là quyền hành pháp
nghĩa là nắm quyền tổ chức, điều hành chính phủ, điều hành hệ thống hành
chính Nhà nước. Do vậy mà các chủ trương, chính sách của Nhà nước chủ yếu
chịu sự chi phối của Đảng cầm quyền. Sự lãnh đạo của Đảng và định hướng
lãnh đạo của Đảng thông qua công cụ hữu hiệu và đắc lực đó là quyền lực Nhà
nước. Nhưng để đảm bảo vững vàng địa vị cầm quyền của mình, các Đảng cầm
quyền không chỉ chú ý củng cố quyền lực Nhà nước, thể chế pháp lý mà còn
phải tập hợp, lôi kéo sự ủng hộ của dân chúng bằng nhiều cách khác nhau.
Đường lối chính sách của Đảng không chỉ chú ý tới lợi ích giai cấp, tần lớp mà
mình đại diện mà trong chừng mực có thể phải quan tâm tới nhiều vấn đề xã hội
khác nhau để thỏa mãn một mức độ nhất định lợi ích của các giai cấp, tầng lớp
khác.
1.3. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền và lãnh đạo hệ thống
chính trị.
1.3.1. Hệ thống chính trị Việt Nam
- Hệ thống chính trị ở nước ta về bản chất là quyền lực thuộc về nhân dân
lao động.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

của Đảng nêu rõ: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công


bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông quan hoạt động của nhà nước do nhân
dân cử ra bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ
cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm”. 4
- Hệ thống chính trị nước ta duy nhất do Đảng Cộng sản lãnh đạo, Đảng là
hạt nhân chính trị của các thành phần khác trong hệ thống chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, vị trí cầm quyền của Đảng
có cơ sở lý luận và thực tiễn cách mạng mà không một lực lượng chính trị nào
có thể đảm nhiệm được. Kể từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn là người duy nhất lãnh đạo Hệ thống
chính trị. Ngay trong thời kì mới gành được chính quyền năm 1945 – 1946 có 5
Đảng cùng tồn tại và đến năm 1998 khi các Đảng dân chủ và Đảng Xã hội tự
giải tán, thì Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là người giữ vị trí lãnh đạo, thống
nhất đoàn kết các thành phần trong Hệ thống chính trị.
- Thành phần và tổ chức Hệ thống chính trị nước ta hiện nay bao gồm nhà
nước, Đảng Cộng sản, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân do
Đảng Cộng sản lập ra.
+ Nhà nước là “tổ chức thể hiện và thực thi ý chí, nguyện vọng của nhân
dân , nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng đinh ra pháp luật và tổ
chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật ” 5. Nhà nước là trụ cột của
Hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ trọng
tâm xây dựng Hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
+ Vị trí và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá

nhân tiêu biểu các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
, Nxb Sự thật, Hn, 1991, tr.19.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
, Nxb Sự thật, Hn, 1991, tr.19.


chính trị của chính quyền nhân dân”6. Mặt trận bao gồm các tổ chức chính trị:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Liên đoàn Lao đông Việt Nam, Hội Nông dân Việt
Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội cựu chiến binh và các đoàn thể xã hội khác. Hình thức Mặt trận là
biểu hiện tính nhân dân rộng rãi, tính chất gắn bó giữa giai cấp và dân tộc cảu
Hệ thống chính trị nước ta. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là hình thức chính
trị biểu hiện hoạt đông dân chủ rộng rãi phù hợp với cách mạng Việt Nam.
Trong đấu tranh giành chính quyền giải phóng dân tộc trước kia và sự nghiệp
xây dựng bảo vệ tổ quốc hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn giữ vị trí là
liên minh chính trị và đóng góp vai trò to lớn trong Hệ thống chính trị nước ta.
+ Trong Hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là
thành viên vừa giữ vị trí lãnh đạo hệ thống: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc ” 7
- Hệ thống chính trị ở Việt Nam được tổ chức chặt chẽ từ câps trung ương
đến cấp địa phương và các cơ sở, tạo nên mạng lưới rộng khắp trong cả nước.
Hoạt động của mỗi tổ chức trong Hệ thống chính trị và của bản thân Hệ
thống chính trị theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên,
địa phương phục tung trung ương. Ở mỗi đơn vị hành chính đều có đầy đủ các tổ
chức chính trị xã hội và đặt dưới sự lãnh đạo tập trung của cấp ủy Đảng ở đơn vị
hành chính ấy. Đặc điểm này rất khác biệt so với Hệ thống chính trị ở các nước
Tư bản chủ nghĩa.
- Hệ thống chính trị Việt Nam có tính pháp lý ngày càng chắc chắn.

Hiến pháp Việt Nam ghi nhận vị trí vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam,
các tổ chức khác của Hệ thống chính trị. Các Luật Mặt trận, Công đoàn và nhiều
luật khác ngày càng thể chế hóa vai trò và hoạt động của các tổ chức trong Hệ
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
, Nxb Sự thật, Hn, 1991, tr.20.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
, Nxb Sự thật, Hn, 1991, tr.21.


thống chính trị. Nhờ đó tạo pháp lý thuận lợi cho Hệ thống chính trị hoạt động
tích cực hơn.
- Các thành viên của Hệ thống chính trị Việt Nam có lịch sử đấu tranh vẻ
vang luôn đoàn kết gắn bó chặt chẽ, có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Các tổ chức trong Hệ thống chính trị nước ta đều tự hào về mục tiêu và
quá trình hoạt động cách mạng của mình. Các tổ chức đoàn thể chính trị tập hợp
trong Mặt trận có vai tro to lớn trong đấu tranh giàng chính quyền và xây dựng
đất nước. Chưa bao giờ các lực lương chính trị của nhân dân đi ngược với mục
tiêu đấu tranh của Đảng.
Tóm lại tính nhất nguyên xã hội chủ nghĩa do một Đảng Cộng sản lanhx
đạo, tính đại diện rộng rãi cho nhân dân là đặc điemr nổi bật nhất của Hệ thống
chính trị Việt Nam.
1.3.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với HTCT.
Ở Việt Nam Đảng Cộng sản là Đảng cầm quyền. lãnh đạo xã hội, điều đó
đã được ghi vào Hiến Pháp, được xã hội thừa nhận. Nhiều nhà chính trị phương
Tây cũng khẳng định là hiện nay không có Đảng chính trị nào có thể thay thế
được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó được thể hiện ở
những khía cạnh sau:
- Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Hệ thống chính
trị đã được lịch sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc khẳng định, được

nhân dân lựa chọn.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là người sáng lập ra nhà nước và các tổ chức
chính trị, là người lãnh đạo, xây dựng hệ thống chính trị.
- Trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng Cộng
sản cầm quyền là điều kiện quyết định thắng lợi.
Tóm lại: vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Hệ thống
chính trị nói riêng và đối với xã hội nói chung không chỉ do hoàn cảnh lịch sử,
do năng lực, phẩm chất, sự hy sinh của Đảng mà còn do sự tin cậy của nhân dân


Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay càng đòi hỏi vai trò lãnh đạo cuả một
Đảng trong sạch, vững mạnh, một Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích
của nhân dân. Lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thực hiện sự nghiệp giải phóng
dân tộc làm cho dân giàu nước mạnh đi lên Chủ nghĩa xã hội theo nguyện vọng
của cả dân tộc thì không một Đảng nào có thể đảm nhiệm được ngoài Đảng
Cộng sản Việt Nam.


CHƯƠNG 2:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới
2.1.1. Quá trình hình thành đường lối đổi mới hệ thống chính trị
- Nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới hệ
thống chính trị
Đảng ta khẳng định đổi mới là một quá trình, bắt đầu từ đổi mới kinh tế,
trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính
trị. Phải tập trung đổi mới kinh tế trước hết, vì có đổi mới thành công về kinh tế
mới tạo được điều kiện cơ bản để tiến hành đổi mới hệ thống chính trị thuận lợi.
Mặt khác, nếu không đổi mới hệ thống chính trị, thì đổi mới kinh tế sẽ gặp trở

ngại. Hệ thống chính trị được đổi mới kịp thời, phù hợp sẽ là điều kiện quan
trọng để thúc đẩy đổi mới và phát triển kinh tế. Như vậy, đổi mới hệ thống chính
trị là đáp ứng yêu cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nhận thức mới về mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991) khẳng định “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Báo cáo chính trị
tại Đại hội VII (năm 1991) nhấn mạnh, thực chất của việc đổi mới và kiện toàn
hệ thống chính trị nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
- Nhận thức mới về đấu tranh giai cấp và về động lực chủ yếu phát triển
đất nước trong giai đoạn mới.
Về vấn đề này Đại hội IX cho rằng: “Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã
hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã


thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội
bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích gíai cấp công nhân thống nhất với lợi
ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung
chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc
phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống
áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành
động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống

phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành
một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực
của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”.
- Nhận thức mới về cơ cấu và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính
trị, vừa là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp, pháp luật. Không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; có chức năng thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường
lối, quan điểm của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của
các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã
hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt
động theo phương thức hiệp thương dân chủ, có vai trò quan trọng trong việc
thực hiện phản biện, giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà


nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội,
làm chủ thông qua Nhà nước và các cơ quan đại diện, đồng thời làm chủ trực
tiếp thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; làm chủ thông
qua hình thức tự quản.
- Nhận thức mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong hệ thống chính
trị
Trong tư duy về hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới tư duy về Nhà nước có
tầm quan trọng đặc biệt. Thuật ngữ “xây dựng nhà nước pháp quyền” lần đầu
tiên được đề cập tại Hội nghị Trung ương 2 khoá VII (1991). Đến Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1991) và các Đại hội VIII, IX và X,

Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và
làm rõ them nội dung của nó. Đó là: Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật; pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã
hội; người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền tự do sống và làm việc
theo khả năng và sở thích của mình trong phạm vi pháp luật cho phép.
Nhận thức mới về vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị.
Đảng Cộng sản cầm quyền là Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm
thay Nhà nước. Đảng quan tâm xây dựng củng cố Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội, phát huy vai trò của các thành tố này trong
quản lý, điều hành xã hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng
bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế.
2. Mục tiêu, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ
đổi mới
* Mục tiêu và quan điểm xây dựng hệ thống chính trị
- Mục tiêu:
Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn
bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là


nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân.
- Quan điểm:
Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước làm đổi mới chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính
trị.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới về tư duy chính trị
trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có
sự đổi mới đó thì không có sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập

trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ
vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo điều kiện
thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
không phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, có hiệu quả
hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước; đặc biệt là phù
hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của sự
công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức, với yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế.
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa,
có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống
chính trị với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác
động, thúc đẩy xã hội phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
* Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị
- Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.


Trước Đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Đại hội X đã bổ sung một số nội dung quan
trọng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc”.
Về phương thức lãnh đạo, Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Đảng lãnh
đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ

trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức
kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các
tổ chức khác trong hệ thống chính trị”.
Về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh năm 1991
xác định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ
thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
hành động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn luôn coi trọng việc đổi mưói
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Nghị quyết trung
ương 5 khoá X về “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị” đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và tăng cường
vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân
dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền
làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội;
làm cho nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến
hành đồng bộ đối với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng, với đổi mới
tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích ứng với những đòi hỏi của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của

Đảng, thục hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện dân chủ rộng rãi
trong Đảng và trong xã hội, đẩy nhanh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm
cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm
chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng
kết, vừa rút kinh nghiệm.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa
phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng
định và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Trong lịch sử
loài người chỉ có 4 kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là cách thức tổ chức
phân công quyền lực của nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được xây dựng theo 5 đặc điểm sau đây:


Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân.




Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và

phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lực lập
pháp, hành pháp và tư pháp.



Nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và

bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các
quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.


Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;

nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ,
đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một Đảng duy

nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.
- Để việc xây dựng Nhà nước pháp quyền cần thực hiện tốt một số biện
pháp lớn sau đây:


Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy

định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát
tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công
quyền.


Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ


chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Đổi mới quy trình xây
dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.


Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của

Chính phủ theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện
đại.


Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân

chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Xây dựng cơ chế phán
quyết về những vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp.




Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban

nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong phạm vi được phân cấp.
- Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất
quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân
dân; đại diện cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ
trương, chính sách về kinh tế, văn hoá xã hội; an ninh, quốc phòng.

Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội
thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội,
khắc phục tình trạng hành chính hoá, nhà nước hoá, phô trương, hình thức; nâng
cao chất lượng hoạt động; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân,
gần dân, hiểu dân, học dân và có ẩách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân
hiểu, làm dân tin.
2.2. Đánh giá sự thực hiện đường lối
2.2.1. Những kết quả to lớn đã đạt được
- Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta đã có nhiều đổi
mới góp phần xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Hoạt động của hệ thống chính trị
ngày càng hướng về cơ sở. Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân các cấp trong các khoá đã có nhiều đổi mới theo hướng phát huy dân
chủ, cải cách hành chính, công khai các hoạt động của chính quyền, tăng cường
đối thoại, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Dân chủ trong xã hội có
bước phát triển. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được
nâng lên.


- Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước được phân định rõ hơn,
phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh. Nhà nước được
từng bước kiện toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động trên các lĩnh vực
lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội đã có nhiều đổi mới về tổ chức,
bộ máy; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hoá các hình thức
để tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân; phát huy dân chủ; chăm
lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền; hướng mạnh hoạt động về cơ

sở, bước đầu thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội.
- Đảng đã thường xuyên coi trọng việc đổi mới và tự chỉnh đốn, giữ vững
và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta trong điều kiện mới. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị, phong cách công tác có nhiều đổi mới và tiến bộ; dân chủ trong Đảng
được phát huy, quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố.
- Tóm lại, hơn 20 năm qua, hệ thống chính trị đã thực hiện có kết quả một
số đổi mới quan trọng, đặc biệt là quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hoá được phát huy.
- Các kết quả đạt được đã khẳng định đường lối đổi mới nóichung, đường
lối đổi mới hệ thống chính trị nói riêng là đúng đắn sáng tạo, phù hợp thực tiễn,
bước đầu đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, khắc phục dần những khuyết,
nhược điểm của hệ thống chuyên chính vô sản trước đây. Kết quả đổi mới hệ
thống chính trị đã góp phần làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử của công cuộc đổi mới ở nước ta.
2.2.2. Những khuyết điểm thiếu sót trong hệ thống chính trị cần phải khắc
phục
- Từ tổ chức Đảng đến nhà nước và các đoàn thể chính trị xã hội cơ cấu
còn nặng nề, cồng kềnh, không đồng bộ, hoạt động kém hiệu quả. Hình thức tổ
chức của các tổ chức trong hệ thống còn mang nặng tính hành chính, rập khuôn.


Bộ máy hành chính nhà nước thiếu tính đặc thù theo chức năng của từng tổ chức
do vậy mà không phát huy được tính năng động, sáng tạo, tính đa dạng của các
tổ chức xã hội. Đặc biệt trong bộ máy hành chính nhà nước, tuy đang cải cách
nhưng vẫn còn nhiều tồn tại, Hội nghị trung ương lần thứ 7 khóa VIII đánh giá:
“ Tuy nhiên cho đến nay, nhìn chung tổ chức của bộ máy chính trị, nhất là bộ
máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh nhiều đầu mối, tầng lớp trung gian,
chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và
chế độ trách nhiệm của nhiều cơ quan và người đứng đầu chưa thật rõ, còn

chồng chéo, cơ chế vận hành và nhiều mối quan hệ còn bất hợp lý; Đội ngũ cán
bộ công chức còn hạn chế về năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm”8.
- Xu hướng phát triển của các tổ chức và các đoàn thể, các hội trong nhân
dân ngày một nhiều, đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải có sự định hướng của
Đảng và sự quản lý của nhà nước. Hiện nay cả nước có 166 đoàn thể và hội
quần chúng, ngoài Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Năm đoàn thể chính trị xã hội
lớn(Liên đoàn lao đông, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu
chiến binh) và 160 liên hiệp hội nghề nghiệp, nhân đạo, hữu nghị, ngoài ra còn
rất nhiều tổ chức hình thành tự phát đáp ứng những nhu cầu rất khác nhau9
- Hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Từ Đại hội VI (1986) Đảng ta đã chỉ ra những thiếu sót, khuyết điểm rất
cơ bản trong hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong
hệ thống chính trị.
+ Trong sự lãnh đạo của Đảng, khuyết điểm là mắc bệnh chủ quan. duy ý
chí không nhận thức đầy đủ quy luật khách quan, do đó dẫn đến nhiều sai lầm về
đường lối, chủ trương, chính sách. Trong công tác tổ chức cán bộ chậm đổi mới.
Trong lề lối, tác phong làm việc mắc bệnh quan liêu, bao biện, làm thay nhà
nước, không thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam , Văn kiện hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb CTQG,
Hà Nội, 1999, tr.33.
9. Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn Văn Thảo, Trần Xuân Sầm, Đổi mới và
tăng cường hệ thống chính trị nước ta giai đoạn mới, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.33


+ Trong hoạt động của nhà nước, khuyết điểm chủ yếu là chưa làm đúng
chức năng quản lý của nhà nước. Quốc hội chưa thể hiện là cơ quan quyền lực
cao nhất của Nhà nước, chưa làm tốt chức năng lập pháp và giám sát tối cao. Bộ
máy hành chính nhà nước cồng kềnh, tập trung quan liêu, vừa không đảm baoe
được sự chỉ đạo tập trung thống nhất từ trên xuống, vừa không phát huy được
tính chủ động ở địa phương.

+ Các đoàn thể quần chúng thiếu gắn bó với nhân dân. Trong hoạt động
biểu hiện tính rập khuôn máy móc, quan liêu, hành chính hóa, thụ động, không
phát huy được vai trò làm chủ của nhân dân.
Nhìn một cách tổng quát, cơ chế phối hợp giữa Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể còn chưa tốt. Hơn 25 năm qua, kể từ sau đổi mới hệ thống chính trị
nước ta có nhiều đổi mới. Những khuyếm khuyết đã được khắc phục rất nhiều.
Tuy nhiên cũng còn không ít thiếu sót, thậm chí lại nảy sinh nhiều tiêu cực mới
trong hệ thống chính trị. Một vấn đề bức xúc hiện nay là tệ nạn quan liêu, tham
nhũng, hối lộ, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của một bộ
phận Đảng viên đang trở thành nguy cơ đối với Đảng. Đó là sự thách thức của
bất cứ một Đảng cầm quyền và cả của một nhà nước nào.
2.3.


QUAN ĐIỂM CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC TIẾP TỤC ĐỔI MỚI,KIỆN
TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Đổi mới HTCT vừa là yêu cầu của phát triển kinh tế, dân chủ hoá xã hội
vừa là đòi hỏi của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế trong bối cảnh tòan cầu
hoá.
Trong giai đoạn phát triển mới của đát nước, đổi mới HTCT nhằm giữ
vững ổn định chính trị một cách tích cực, bảo đảm các điều kiện chính trị- xã hội
thuận lợi và an toàn cho phát triển kinh tế và dân chủ hoá xã hội; bảo đảm cho
việc thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vì một xã
hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hơn thế nữa, đổi mới
HTCT nước ta phải nhằm mục tiêu xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN,
bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động
của HTCT nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”
Là vấn đề phức tạp và nhạy cẩm, bởi vậy, để tiếp tục đổi mới, kiện toàn

hệ thống chính trị diễn ra theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và đạt kết quả
như mong muốn đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt một số quan điểm có tính
nguyên tắc sau.


Thứ nhất, kiên định đường lối đổi mới, đổi mới HTCT trên nền tảng chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Sự nghiệp đổi mới diễn ra gần 25 năm đã thu được những kết quả to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Nguyên nhân có nhiều, song trong sâu thẳm của những
thắng lợi ấy, nguyên nhân cơ bản là nhờ Đảng và nhân dân ta tiến hành công
cuộc đổi mới trên cơ sở kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
xuất phát từ điều kiện thực tiễn của đất nước và xu thế của thời đại, từ nhận thức
đúng và phát triển sáng tạo lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN; từ việc kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Tổng kết 20 năm tiến hành đổi mới, Đại hội X của Đảng khẳng định vai
trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho công cuộc đổi mới: “Trong quá trình đổi
mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu
CNXH mà là làm cho CNXH được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng
có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm
nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”10
Kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưỏng Hồ Chí Minh có nghĩa là
chúng ta phải vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưỏng
Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam đổi mới và hội nhập,
từ đó xác lập tư duy lý luận mới và phương pháp tiếp cận đa chiều, tổng hợp,
thực tế và hiệu quả hơn.
Trong vô vàn sự phức tạp giữa tư duy cũ và tư duy mới, chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là thế giới quan, phương pháp luận, đồng

thời là lý luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề vốn đã phức tạp song trở
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H., 2006, tr.70.


nên phức tạp hơn trong điều kiện phát triển KTTT, Đảng Cộng sản duy nhất
cầm quyền thực hiện sự nghiệp đổi mới, hội nhập. Bởi thế, kiên trì chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhận thức và đổi mới HTCT là vấn
đề có tính nguyên tắc. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
điều kiện mới để nhận thức và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực
tiễn đổi mới HTC. Đổi mới HTCT không có nghĩa là thay đổi chế độ chính trị,
mà là làm cho bản chất giai cấp, bản chất dân chủ của HTCT và tính ưu việt của
chế độ XHCN được phát huy. Bởi vậy, trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin, chúng ta cần “gặn đục, khơi trong” chắt lọc những giá trị của
truyền thống dân tộc và kế thừa những kinh nghiệm quí từ các nước trên thế giới
để đổi mới HTCT vừa là yêu cầu vừa là mệnh lệnh của cuộc sống trong bối cảnh
toàn cầu hoá, đổi mới và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, đổi mới HTCT phải bảo đảm giữ vững ổn định chính trị một
cách tích cực để phát triển kinh tế và dân chủ hoá xã hội.
Giữ vững ổn định chính trị là một thành công của đổi mới do Đảng lãnh
đạo, là tiền đề và cũng là thành quả do đổi mới HTCT trực tiếp tạo ra; là bài học
quý báu, làm phong phú kinh nghiệm chính trị của Đảng cầm quyền, giúp ích
cho chúng ta trong những chặng đường đổi mới tiếp theo và gợi ra nhiều vấn đề
Đáng phải nghiên cứu để phát triển và hoàn thiện đường lối đổi mới, lý luận đổi
mới và xây dựng CNXH ở nước ta.
Thực tế cho thấy, ổn định cũng có nghĩa là lòng dân yên, mà lòng dân yên
thì người dân mới dốc sức cho phát triển cũng như người dân tin tưởng vào
Đảng. Ổn định chính trị mà Đảng và nhân dân ta tạo dựng được, giữ vững được
trong những năm qua là ổn định chính trị tích cực, hợp quy luật, thuận lòng dân,
do đó được dân ủng hộ, dân góp sức xây dựng và bảo vệ. Giữ vững ổn định

chính trị phải trên quan điểm biện chứng duy vật, ổn định nhưng là ổn định tích
cực, ổn định trong quan hệ với đổi mới và phát triển. Ổn định là tiền đề, đổi mới
là động lực, phát triển là mục đích.Tất nhiên, mối quan hệ này phải được nhận


thức một cách biện chứng. Sau 25 năm đổi mới, việc tiếp tục đổi mới toàn diện,
triệt để lại trở thành tiền đề, phát triển vừa là mục tiêu vừa là động lực và ổn
định chính trị một cách tích cực vừa là điều kiện vừa là mục tiêu. Đổi mới
HTCT nhất thiết phải bảo đảm giữ vững ổn định chính trị một cách tích cực để
tiếp tuục đẩy mạnh công cuộc đổi mới; đến lượt mình đổi mới HTCT để phát
triển bền vững và ổn định chính trị cho phát triển kinh tế và dân chủ hoá xã hội.
Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người
tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý
kiến của nhân dân. Hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở
cơ sở; phát huy vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công
quyền, phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng. Quyền làm chủ của
nhân dân cần được thể chế hoá bằng pháp luật và tổ chức. Dân chủ đi đôi với
kỷ luật, quyền hạn và lợi ích đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ. Mỗi người
đều phải làm chủ lao động của mình, làm việc có kỷ luật, với năng suất và
hiệu quả cao, đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Đối với
độ ngũ cán bộ các cấp các ngành cần nêu cao ý thức phục vụ nhân dân phải
thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đảng ta đại biểu cho lợi ích
chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không phải
mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào"11.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị một cách đồng bộ, triệt để, có kế thừa,
có bước đi, hình thức và cách làm thích hợp

Tại Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định: “Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế
thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H., 2002, T. 9, tr. 288


×