Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Bài Thu Hoạch Chính Trị.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.87 KB, 18 trang )

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC – CAO ĐẲNG HÀ NỘI
ĐẢNG ỦY TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI THU HOẠCH

LỚP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN ĐỐI TƯỢNG
KẾT NẠP ĐẢNG

Họ và tên: PHÙNG QUANG QUYẾT

Giới tính: NỮ

Ngày sinh: ngày 26 tháng 09 năm 1992
Quê quán: Xã Hợp Thịnh - Huyện Tam Dương - Tỉnh Vĩnh Phúc
Đơn vị:

Đội SVTN Đồng hương Vĩnh Phúc

Lớp:

Quản trị Kinh doanh Quốc tế 52a

Viện:

Thương mại và Kinh tế quốc tế

Khóa:

52


Hà Nội, ngày 09 tháng 06 năm 2013


ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC – CAO ĐẲNG HÀ NỘI
ĐẢNG ỦY TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI THU HOẠCH

LỚP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN ĐỐI TƯỢNG
KẾT NẠP ĐẢNG
Câu hỏi 1:

Chứng minh rằng sự ra đời của ĐCSVN ngày 3-2-1930 là một tất yếu khách
quan? Đồng chí hãy nêu nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của
ĐCSVN đối với dân tộc và cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?

Câu hỏi 2:

Phân tích luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng khơng
phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát
triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”. Trong quá trình phấn đấu vào ĐCSVN lời dạy trên của Chủ tịch Hồ
Chí Minh có ý nghĩa như thế nào đối với đồng chí?

Họ và tên: NGUYỄN THỊ THÙY LINH

Giới tính: NỮ

Ngày sinh: ngày 06 tháng 09 năm 1992

Quê quán: Xã Đồng Thịnh - Huyện Sông Lô – Tỉnh Vĩnh Phúc
Đơn vị:

Đội SVTN Đồng hương Vĩnh Phúc

Lớp:

Marketing 52B

Khoa:

Marketing

Khóa:

52

Hà Nội, ngày 09 tháng 06 năm 2013



Câu hỏi 1. Chứng minh rằng sự ra đời của ĐCSVN ngày 3-2-1930 là một
tất yếu khách quan?
Đồng chí hãy nêu nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo
của ĐCSVN đối với dân tộc và cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay?
Trả lời:
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 là một tất yếu
khách quan chịu ảnh hưởng tác động từ các yếu tố quốc tế và tình hình xã hội
Việt Nam thời kì đầu thế kỉ XX. Điều này đã được minh chứng rõ ràng thơng

qua vai trị tất yếu của giai cấp công nhân trong việc thực hiện cách mạng
theo khuynh hướng vơ sản ở trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng;
bên cạnh đó với tình hình xuất hiện các Đảng hoạt động riêng rẽ ở Việt Nam,
yêu cầu cấp thiết là thống nhất hoạt động của các tổ chức cộng sản này.
1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX
Cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân
ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ
ở các nước thuộc địa.
Đến giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát
triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư
cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp cơng nhân trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản. Trong hồn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được
Lênin phát triển trở thành chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu
tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân phải lập ra đảng
cộng sản. Sự ra đời đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã
lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước
thuộc địa vào phong trào cộng sản, trong đó có Việt Nam.
1


Vào tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Sự ra đời của Quốc
tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế cộng
sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc
thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường
cách mạng vô sản.

Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trị quan trọng trong việc
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nguyễn Ái Quốc không những đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc tế Cộng sản
đối với phong trào cách mạng thế giới, mà còn nhấn mạnh vai trò của tổ chức
này đối với cách mạng Việt Nam “An Nam muốn cách mệnh thành cơng, thì
tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”.

2. Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Với sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản tới giai đoạn thống trị tàn bạo
làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Năm 1858,
thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt
được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết
lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, đưa ra các chính sách cai trị về mọi mặt
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục…
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia
Việt Nam ra thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ
một chế độ cai trị riêng. Đồng thời với chính sách nham hiểm này, thực dân
Pháp câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị
đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột về kinh tế: tiến
hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây
dựng một số cơ sở công nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao thông, bến
2


cảng phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên sự chuyển biến của nền
kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế mới...) nhưng cũng dẫn
đến hậu quả là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm

trong vịng lạc hậu.
Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực
dân; dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu... Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác
của chế độ cai trị thực dân ở Đông Dương: “Chúng tôi không những bị áp bức
và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê
thảm... bằng thuốc phiện, bằng rượu... chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt
tối tăm vì chúng tơi khơng có quyền tự do học tập”.
Dưới tác động của các chính sách cai trị đó, xã hội Việt Nam diễn ra q
trình phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường
bóc lột, áp bức nơng dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này
có sự phân hóa, một bộ phận địa chủ có lịng u nước, căm ghét chế độ thực
dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác
nhau. Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị
thực dân và phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng
của giai cấp nơng dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và
phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu
tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do. Giai cấp công nhân có quan hệ
trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân do đa số công nhân Việt Nam trực
tiếp xuất thân từ giai cấp nông dân, là nạn nhân của chính sách chiếm đoạt
ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam. Họ cũng bị đế quốc, phong
kiến áp bức, bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã bị tư sản
Phảp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn ép, do đó, thế lực kinh tế và địa vị
chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé và yếu ớt. Tầng lớp tiểu tư sản
Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người làm nghề tự
do… Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp
tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở
thành những người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lịng u nước, căm thù
3



đế quốc, thực dân, đồng thời chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ
bên ngoài truyền vào.
Những mâu thuẫn chủ yếu tồn tại trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ đó
là: mâu thuẫn giữa tồn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược,
giành độc lập cho nhân dân, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong
kiến, giành lại dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân.
Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là mâu thuẫn lớn nhất, là nhiệm
vụ hàng đầu cần phải giải quyết.

 Vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp cơng nhân
Qua bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó, có thể thấy được rằng: giai cấp
cơng nhân là giai cấp hội tụ đủ điều kiện để có thể giải quyết cả hai mâu
thuẫn chủ yếu đó: lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng
lợi, đồng thời xóa bỏ chế độ phong kiến, xây dựng một xã hội dân chủ. Giai
cấp công nhân là giai cấp chịu áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc, phong
kiến, do vậy họ ln có ý chí mãnh liệt trong việc dành lại công bằng, tự do.
Đồng thời, giai cấp công nhân Việt Nam rất gần gũi với giai cấp nông dân –
là một lực lượng đông đảo trong xã hội Việt Nam; cũng chịu cảnh bị phong
kiến, đế quốc chèn ép, bóc lột. Do vậy khi cách mạng nổ ra, đây sẽ là hai lực
lượng chủ yếu đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng dân chủ.
Giai cấp tư sản Việt Nam luôn bị chèn ép, yếu ớt nên không thể đủ điều kiện
để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành cơng. Giai cấp địa
chủ tuy rằng đã có một số bộ phận có tư tưởng yêu nước, đấu tranh chống đế
quốc thực dân nhưng sự đấu tranh đó khơng quyết liệt bởi lợi ích của họ
khơng bị tổn hại trực tiếp. Cịn giai cấp tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu
nước, căm thù đế quốc, thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến
bộ từ bên ngoài truyền vào. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh thần cách mạng
cao và nhạy cảm chính trị. Họ dễ dàng đi theo phong trào cách mạng công
nông khi được giác ngộ. Do có những điều kiện thuận lợi như vậy, khi giai
cấp công nhân làm cách mạng sẽ tạo ra một sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với các

giai cấp khác, kết thành một khối đoàn kết vững chắc, một lực lượng đông
4


đảo phục vụ cách mạng thắng lợi bởi họ đều thấy rõ được những lợi ích của
mình khi cách mạng thành công.
Thực tế lịch sử cũng cho thấy việc thực hiện cách mạng của các giai cấp
khác là khơng có hiệu quả. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra
mạnh mẽ. Những phong trào tiêu biểu diễn ra trong thời kỳ này là: Phong trào
Cần Vương (1885 – 1896); Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ
năm 1884 - 1913. Cùng với phong trào đấu tranh là sự ra đời của các đảng
phái như Đảng lập hiến (năm 1923); Đảng Thanh niên (tháng 3 – 1926); Đảng
thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt Nam nghĩa đoàn (năm 1925), sau nhiều
lần đổi tên, tháng 7 -1928 lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng; Việt Nam
quốc dân Đảng (tháng 12-1927). Các phong trào và tổ chức trên, do những
hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ;
chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng xã hội cơ bản (công nhân và nông dân),
nên cuối cùng đã không thành công. Do vậy yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải
tìm một con đường cách mạng mới, một hệ tư tưởng mới, một tổ chức lãnh
đạo của một giai cấp có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ đi đến thành cơng.
Do vậy, sự ra đời của một chính đảng của giai cấp công nhân là một điều
tất yếu khách quan khi đáp ứng được các yêu cầu lịch sử này. Một chính đảng
của giai cấp cơng nhân – một giai cấp có thể nói là đại diện cho lợi ích của cả
dân tộc Việt Nam lúc đó. Do vậy giai cấp này có thể dễ dàng tìm thấy sự ủng
hộ của các giai cấp khác, điển hình là giai cấp nông dân – một lực lượng đông
đảo trong xã hội Việt Nam. Đồng thời, sự ra đời tổ chức Đảng của giai cấp vô
sản mở ra một khuynh hướng cách mạng mới trong lịch sử Việt Nam, nhằm
xóa bỏ tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước là nguyên nhân của sự

thất bại các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng phong kiến và tư sản
trước đó. Những cuộc đấu tranh giờ đây đã có khuynh hướng chính trị rõ rệt,
có sự liên kết với nhau và được ủng hộ rộng rãi chứ khơng cịn diễn ra nhỏ lẻ
như trước. Sự tất yếu về một tổ chức lãnh đạo của giai cấp cơng nhân đã được
hình thành.
5


 Yêu cầu thống nhất tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng
Sự ra đời của các đảng của giai cấp vô sản đã thúc đẩy phong trào yêu
nước phát triển. Tuy nhiên việc ra đời quá nhiều đảng, sự phân hóa trong nội
bộ các đảng đã tác động tiêu cực đến cách mạng. Tại Đại hội lần thứ nhất của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929) đã xảy ra bất đồng giữa các
đoàn đại biểu về vấn đề thành lập đảng Cộng sản, mà thực chất là sự khác
nhau giữa những đại biểu muốn thành lập ngay một đảng cộng sản và giải thể
tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn
thành lập đảng cộng sản, nhưng “không muốn tổ chức đảng ở giữa Đại hội
thanh niên và cũng không muốn phá thanh niên trước khi lập được đảng”.
Trong bối cảnh đó, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương
Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Ở Bắc Kỳ: những hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh
Niên đã thành lập Đông Duơng Cộng Sản đảng (17-6-1929). Tổ chức đã đáp
ứng yêu cầu của cách mạng nên đã được đông đảo nhân dân ủng hộ.
Lúc này, các hội viên tiên tiến trong bộ phận Hội Việt Nam Cách Mạng
thanh niên ở Trung Quốc và Nam Kỳ thành lập An Nam Cộng sản đảng (71929 tại Hương Cảng - Trung Quốc).
Ở Trung Kỳ : sự ra đời của 2 tổ chức cộng sản kia đã tác động mạnh mẽ
đến Tân Việt Cách mạng đảng. Các đảng viên tiên tiến của Tân Việt từ lâu đã
chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh niên cũng tách ra thành
lập Đông Duơng Cộng Sản Liên Đoàn (9-1929).
Như vậy trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã xuất hiện 3 tổ chức

Cộng Sản Đảng. Sự ra đời của 3 tổ chức này phản ánh xu thế thành lập Đảng
là tất yếu của phong trào cách mạng Việt Nam. Các tổ chức này đã nhanh
chóng gây dựng cơ sở ở nhiều địa phương và trực tiếp tổ chức lãnh đạo phong
trào đấu tranh của quần chúng góp phần cho phong trào cơng nhân với phong
trào nông dân chống thuế, phong trào bãi khố của học sinh, bãi thị của tiểu
thương… Vì vậy làm cho làn sóng đấu tranh dân tộc dân chủ phát triển. Tuy
nhiên sự tồn tại của 3 tổ chức này và hoạt động biệt lập của nó đã dẫn tới sự
6


chia rẽ lớn của phong trào cách mạng Việt Nam. Do đó yêu cầu thành lập một
Đảng thống nhất trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Trước bối cảnh đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc. Sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan bởi không chỉ
giải quyết được tình trạng khủng hoảng đường lối lãnh đạo mà còn giúp thống
nhất các tổ chức đảng, nâng cao phong trào cách mạng Việt Nam.
3. Vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với dân tộc và cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, trong giai đoạn cách mạng mới, thế giới đã có nhiều thay đổi và
diễn biến phức tạp, khó lường. Vì vậy mà vai trò lãnh đạo của Đảng lại càng
quan trọng trong việc dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi tới thành công. Hịa
bình, hợp tác, phát triển và hội nhập vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc
tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay
gắt; các yếu tố đe dọa an ninh, các nước lớn dùng mọi thủ đoạn tinh vi, thậm
chí cả hành động quân sự dưới mọi chiêu bài để can thiệp, lấn lướt các quốc
gia nhỏ, yếu thế và tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề
tồn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, thiên tai, dịch bệnh,... sẽ
tiếp tục diễn biến phức tạp, khơng chỉ cịn là vấn đề của mỗi quốc gia mà
muốn giải quyết được phải có sự chung tay, góp sức của tất cả các nước trên
thế giới. Tuy xu hướng hịa bình, hữu nghị vẫn là chính, nhưng việc tính tốn

để bảo vệ quyền lợi của mỗi quốc gia cũng thay đổi. Quốc gia nào cũng có
toan tính riêng trong bối cảnh phức tạp hơn. Tồn cầu hóa, hội nhập và cách
mạng khoa học - cơng nghệ, nhất là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ,
thúc đẩy hình thành xã hội thơng tin và kinh tế tri thức. Quá trình cấu trúc lại
nền kinh tế thế giới và nền kinh tế của mỗi quốc gia diễn ra mạnh mẽ theo
chiều sâu, lấy chất lượng tăng trưởng làm mục tiêu. Trong khi đó, cạnh tranh
trên tất cả các lĩnh vực, cả ở thị trường tại mỗi quốc gia và thị trường thế giới,
giữa các nước ngày càng gay gắt. Đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến
phức tạp. Khu vực Thái Bình Dương, trong đó có Đơng - Nam Á là khu vực
phát triển năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh
chấp lãnh thổ, biển đảo càng nóng bỏng.
7


Trong nước, tuy đã có thành tựu và kinh nghiệm của hơn 25 năm đổi mới,
tạo ra thế và lực mới cho đất nước, nhưng "nước ta vẫn phải đứng trước nhiều
thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
vẫn tồn tại. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
cịn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục
thực hiện "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài
"dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta".
Tình hình trong nước và thế giới đã thay đổi rất nhiều so với giai đoạn
trước đây. Trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, vai trò
lãnh đạo sáng suốt của Đảng càng cực kỳ quan trọng và luôn là nhân tố hàng
đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Để đảm đương được vai
trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất
giai cấp cơng nhân và tính tiền phong để xây dựng Đảng thật sự trong sạch,

vững mạnh, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học... Có như
vậy thì cơng cuộc cách mạng của nước ta mới có thể thành cơng trong những
điều kiện mới và phức tạp như hiện nay.

8


Câu hỏi 2. Phân tích luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách
mạng khơng phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện
bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Trong quá trình
phấn đấu vào ĐCSVN lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có
ý nghĩa như thế nào đối với đồng chí?
Trả lời:
1. Phân tích luận điểm
Đạo đức là một nền tảng cốt yếu về phẩm chất của một con người phương
Đông trong xã hội, cũng như con người Việt Nam từ xưa đến nay. Nói đến
những người làm cách mạng, đạo đức cách mạng là một trong những yếu tố
quan trọng cấu thành nên một người đảng viên. Đó là gốc, là nền tảng của
người cách mạng. Đạo đức cách mạng quyết định phương thức, cách thức
hành động, hành vi ứng xử của mỗi cá nhân khi tham gia vào hoạt động cách
mạng. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến việc giáo
dục về đạo đức, về nhân cách của người cán bộ cách mạng. Người nói có cán
bộ tốt, việc gì cũng xong. Vì vậy mà việc rèn luyện, củng cố đạo đức cách
mạng là một điều hết sức cần thiết, đòi hỏi phải có sự quyết tâm, kiên trì, bền
bỉ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đạo đức cách mạng khơng phải trên
trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

 Đạo đức cách mạng là gì?

Để hiểu sâu sắc câu nói của Bác, trước tiên chúng ta cần phải làm rõ khái
niệm đạo đức và đạo đức cách mạng là gì. Đạo đức là tổng hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi
và cách ứng xử trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm bảo đảm
quan hệ lợi ích của cá nhân và cộng đồng xã hội. Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội. Đạo đức nảy sinh do nhu cầu xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và
hình thức biểu hiện là nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội mà những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực này định hướng, đánh giá điều chỉnh hành vi
9


của con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội nhất định, góp phần bảo vệ
kỷ cương xã hội.
Đạo đức cách mạng là sự phát triển cao của đạo đức truyền thống Việt
Nam, nảy sinh và phát triển trong cách mạng, là đạo đức phục vụ cho cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN. Theo Người, đạo đức cách
mạng thể hiện trong năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Nhân là thật thà thương u, hết lịng giúp đỡ đồng chí đồng bào, chống
lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân, khơng ham sang
giàu, khơng e cực khổ, khơng có lợi ích riêng để lo toan.
Trí là giữ tinh thần, đầu óc trong sạch, sáng suốt.
Dũng là dũng cảm, gan góc.
Liêm là khơng ham địa vị, tiền tài, ln quang minh chính đại, chỉ ham
học, ham làm, ham tiến bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức cách mạng là “đạo đức mới”,
khơng phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,
của loài người.

 Vai trò cốt yếu của đạo đức cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức cách mạng là một điều cốt yếu

nhất trong xây dựng Đảng cầm quyền, quyết định vận mệnh của đảng, của
Nhà nước, vận mệnh của cả chế độ. Nó được ví như là ngọc, là vàng của
người cách mạng. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, xây dựng cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước, những yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ, đảng viên
đòi hỏi phải được tăng cường rèn luyện, tu dưỡng để đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ mới. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng
khơng sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của
giai cấp, của dân tộc và của lồi người mà khơng ngần ngại hy sinh lợi ích
riêng của cá nhân mình. Đó là biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng. Bác
nói: Có đạo đức thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh
thần gian khổ, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành
10


nhiệm vụ cho tốt, chứ khơng tính tốn, kèn cựa để hưởng thụ; không công
thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, hủ hoá.
Đảng và nhà nước ta cần nhận thức rõ vai trò cốt yếu này của đạo đức
cách mạng trong hiệu quả của hoạt động cách mạng. Ngày nay, trong các văn
bản, Đảng và nhà nước ta đã nhiều lần khẳng định những phẩm chất tốt đẹp
mới xuất hiện trong thời kỳ đổi mới, nhưng đồng thời cũng nghiêm khắc chỉ
ra thực trạng và mức độ suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên và trong xã hội, diễn ra rất tinh vi, ngày càng tăng, ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển của cách mạng nước ta thể hiện dưới các dạng như: chủ
nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, vụ lợi … có xu hướng ngày càng phát triển;
nạn tham nhũng, đưa và nhận hối lội, bịn rút của cơng diễn ra nhiều ngành,
nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vơ cảm
trước những khó khăn, bức xúc, những yêu cầu chính đáng của nhân dân, của
doanh nghiệp; sống thiếu trung thực... Những điều này cần được phát hiện kịp
thời, loại bỏ nhằm xây dựng đạo đức cách mạng trong sáng trong mỗi đảng
viên, là tiền đề để xây dựng đất nước giàu mạnh, hoàn thành sự nghiệp cách
mạng.


 Rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng là một việc làm bền bỉ,
lâu dài
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng khơng thể đạt
được trong ngày một ngày hai. Nó cần có sự tu dưỡng, rèn luyện. Quá trình tự
giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh thực chất là một q trình tự “luyện vàng”, để
khơng ngừng hồn thiện nhân cách người cán bộ, đảng viên. Theo quan điểm
của Hồ Chí Minh thì người sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa,
người đảng viên phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang. Do đó, cần giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên nhận rõ
được mục đích, động cơ vào Ðảng, tự nguyện phục vụ nhân dân và làm đúng
chính sách của Ðảng.
Rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng trong sáng là một điều cần thiết
và cần có sự quyết tâm, kiên trì. Ví như cơng việc mài ngọc, luyện vàng
11


khơng thể nóng vội được. Muốn cho vàng trong, muốn cho ngọc sáng thì cần
có sự tích lũy dần dần ngày qua ngày công sức khổ luyện; muốn cho đạo đức
cách mạng trong sáng thì cần kiên trì rèn luyện, tu dưỡng từng chút một. Vấn
đề mấu chốt, quyết định trong giáo dục, rèn luyện đạo đức của người cán bộ,
đảng viên là sự tự giáo dục, tự rèn luyện. Bởi vì cái tốt, cái xấu đều có trong
mỗi con người. Mà học cái tốt thì khó, vì như "người ta leo núi phải vất vả
khó nhọc mới lên đến đỉnh. Học cái xấu thì dễ như ở trên đỉnh chỉ trượt chân
một cái là nhào xuống vực sâu". Vì thế việc phấn đấu tu dưỡng của người
đảng viên kiên trì hằng ngày, để gạt bỏ những tính xấu như bệnh tham lam,
thiếu kỷ luật, gây hại cho Ðảng, cho dân.
Trước tiên là bệnh tham lam. Bác dạy: Mắc phải bệnh tham lam, người
cán bộ, đảng viên không đặt lợi ích của Ðảng, của dân tộc lên trên hết mà chỉ

tự tư, tự lợi, dùng của công làm việc tư; dựa vào thế lực của Ðảng để theo
đuổi mục đích riêng của mình, chỉ vun vén cho quyền lợi của bản thân, khơng
cần quan tâm xem điều đó có hại cho dân, cho nước hay khơng; thậm chí, cịn
có thể chà đạp lên lợi ích của dân tộc, của nhân dân một khi bị đụng chạm đến
quyền lợi cá nhân. Căn bệnh này nếu như không được phát hiện và chữa trị
kịp thời sẽ làm hao tổn nguồn lực đất nước, gây mất lịng tin trong nhân dân
vào Đảng, khó có thể làm cho cách mạng nước ta đi tới thành cơng. Người có
đạo đức cách mạng phải quyết tâm chống tham nhũng, lãng phí. Cán bộ, đảng
viên, người có cương vị giữ các trọng trách càng phải nêu gương chống tham
nhũng, lãng phí. Biến quyết tâm chính trị chống tham nhũng của Ðảng thành
hành động, việc làm thiết thực và cần kịp cho mỗi đảng viên, đặc biệt là trong
đội ngũ cán bộ, cơng chức, nhằm góp phần xây dựng Ðảng, Nhà nước trong
sạch, củng cố sức mạnh đất nước. Bệnh thiếu kỷ luật cũng là căn bệnh hết sức
nguy hiểm, do cán bộ, đảng viên đó khơng chịu rèn luyện trong tổ chức,
khơng đặt mình vào guồng máy hoạt động của tổ chức, vi phạm Ðiều lệ Ðảng,
quy định, nguyên tắc Ðảng. Theo Hồ Chí Minh, tất cả những bệnh đó là biểu
hiện của bệnh cá nhân chủ nghĩa. Người còn nhấn mạnh, nếu cán bộ, đảng
viên mà mắc phải một trong các bệnh này, tức là đồng nghĩa với sự thất bại,
tức là hỏng việc; họ sẽ bị nhân dân xa rời. Người đã từng nhắc nhở; “Một dân
12


tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
khơng nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

 Học tập đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – đó là việc làm
cần thiết và phải thường xuyên đối với cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc Việt Nam, anh hùng giải phóng

dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, danh
nhân văn hóa thế giới đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Ở Hồ Chí Minh tư tưởng đạo đức
luôn gắn với hành vi đạo đức, động cơ ln gắn với hiệu quả, ln nói đi đơi
với làm, nhiều khi ít nói nhưng làm nhiều hoặc làm nhưng khơng cần nói.
Đây là điều mà khơng phải bất cứ nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo nào cũng làm
được. Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương sáng để
mọi người Việt Nam suốt đời học tập và noi theo.
 Rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay
Muốn đưa sự nghiệp cách mạng tiến đến đích cuối cùng, trước hết Đảng
phải thật sự đổi mới, tự chỉnh đốn. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn là khẳng định sự
vận động nội tại của Đảng cầm quyền trong quá trình lãnh đạo cách mạng, là
sự nhận diện đúng quy luật vận động, phát triển của Đảng. Quán triệt tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, trước hết mỗi cán bộ,
đảng viên phải tăng cường học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, trên cơ sở đó nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân. Bộ Chính trị phát động cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh" đã chỉ ra những yêu cầu về việc xây dựng Ðảng trong
sạch, vững mạnh, trong đó phải chú trọng "nâng cao đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân" là cấp thiết và rất quan trọng. Góp phần thực hiện
cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", cấp
ủy các cấp cần thật sự quan tâm giáo dục đảng viên thông qua chương trình
hành động. Trong đó cần xác định việc tu dưỡng hằng ngày của đảng viên về
nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
13


Bên cạnh đó, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động với xu hướng
tồn cầu hóa là chủ đạo đã đặt ra những yêu cầu và thách thức mới cho mỗi
con người làm cách mạng. Hiện nay, Ðảng ta đang lãnh đạo đẩy mạnh công

cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động. Sự nghiệp
đó là của tồn Ðảng, toàn dân. Ðể lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi cán bộ, đảng viên khơng những phải có những kiến
thức mới, nhất là kiến thức kinh tế, mà cịn phải có đạo đức cách mạng, bản
lĩnh chính trị vững vàng để khơng chỉ thích nghi, mà cịn làm chủ được cơ chế
thị trường, biết phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
2. Ý nghĩa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với bản thân trong
q trình phấn đấu vào ĐCSVN
Từ việc tìm hiểu, phân tích, học hỏi quan điểm của Bác về đạo đức cách
mạng của một người làm Đảng viên, có thể thấy được đạo đức cách mạng là
vô cùng quan trọng, và tu dưỡng, rèn luyện nó là một trong những việc làm
cần được chú trọng dù cho ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người làm cách
mạng để có thể phục vụ tốt lý tưởng cách mạng, gìn giữ truyền thống tốt đẹp
của ơng cha thì trước hết cần có một đạo đức cách mạng trong sáng, một
chính kiến chính trị vững vàng để không bị lay chuyển bởi những cám dỗ
trong cuộc sống.
Do vậy, để phấn đấu trở thành một Đảng viên, được vinh dự đứng trong
hàng ngũ của Đảng thì mỗi Đảng viên tương lai cần phải có ý thức tự rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng từng ngày. Bởi đó là cách duy nhất để có
được một đạo đức cách mạng trong sáng, là cách tốt nhất để phụng sự Tổ
quốc, đưa cách mạng Việt Nam trên mọi mặt trận đều thắng lợi. Điều khó
nhất ở đây đó là ý thức tự rèn luyện. Suốt cả cuộc đời, Bác Hồ liên tục phấn
đấu, học hỏi, rèn luyện một cách quyết liệt để thực hiện cho kỳ được ham
muốn tột bậc của bản thân là làm cho nước nhà được độc lập, ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Người dạy chúng ta gian nan rèn luyện
mới thành cơng. Sinh thời, Chủ tich Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thanh niên:
14



Thanh niên muốn xứng đáng vai trị người chủ, thì phải học tập; thanh niên sẽ
làm chủ nước nhà, phải học tập mãi, tiến bộ mãi mới thật là thanh niên. Bởi
vậy chúng ta cần có tinh thần phấn đấu quyết liệt, bền chí, nhẫn nại, vượt khó
vươn lên trong học tập, rèn luyện. Tích cực tự học, tham gia nghiên cứu khoa
học, mở rộng, nâng cao tri thức, từng bước tích lũy tri thức cho bản thân. Chỉ
với tinh thần phấn đấu học tập, rèn luyện bền bỉ, kiên trì sinh viên mới xứng
đáng trở thành chủ nhân thực sự của đất nước, mới đưa quê hương, đất nước
nhanh chóng thốt khỏi đói nghèo, lạc hậu.
Con đường tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cũng không phải là dễ
dàng. Do đó mà nó địi hỏi mỗi cá nhân khi phấn đấu đứng trong hàng ngũ
của Đảng cần có một quyết tâm rõ ràng, một ý chí kiên định bền bỉ như mài
ngọc, luyện vàng.
Hơn lúc nào hết, tôi biết bản thân cần đẩy mạnh rèn luyện đạo đức, biết
vươn lên làm chủ được một cách đúng đắn tri thức hiện đại, trở thành những
con người đủ đức, đủ tài, thực sự là những công dân vừa “hồng” vừa
“chuyên”, góp sức xây dựng đất nước ta “đàng hồng hơn, to đẹp hơn” như
mong ước của Bác Hồ và cũng chính là mong ước của tất cả những người dân
Việt Nam chúng ta. Và là đại diện của thế hệ trẻ, việc học tập tu dưỡng bản
thân là yếu tố cần thiết và vô cùng quan trọng để chung tay góp sức xây dựng
đất nước, bên cạnh đó càng thể hiện hơn mong muốn được đứng trong hàng
ngũ Đảng và sự xứng đáng khi được là thành viên của ĐCSVN.

15



×