Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

THƠ VĂN XUÔI TỪ 1975 ĐẾN NAY Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.48 KB, 125 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Quá trình phát triển văn học của mỗi dân tộc là quá trình không ngừng hoạt
động, tiếp thu, đổi mới có kế thừa của văn học các thời kì. Việc nghiên cứu tìm hiểu
sự vận động của những khuynh hướng và thể loại văn học mới ra đời trong những
điều kiện lịch sử văn hoá tương ứng là điều cần thiết.
Nhìn trên bình diện bao quát, thể loại là phạm trù có tính lịch sử, tính thời đại.
Thể loại được tái sinh và đổi mới trong từng giai đoạn của sự phát triển văn học và
trong từng tác phẩm cá biệt của thể loại đó. Bởi thế, trong thể loại vừa có các yếu tố
ổn định, truyền thống, lại vừa có các yếu tố đổi mới do tiến trình văn học và do tài
năng sáng tạo của các nhà văn.
Sự vận động của thể loại có thể xét trên hai phương diện: thứ nhất là, sự kế tục,
lưu chuyển nhưng không giữ nguyên mà có biến đổi, thứ hai là sinh thành một thể
loại mới. Xét đến cùng, mỗi hình thức ra đời đều có “cái lý” về mặt nội dung: thể
hiện một quan niệm đối với đời sống, một nguyên tắc xây dựng thế giới nghệ thuật
và đồng thời cũng thể hiện một kênh giao tiếp với người đọc.
1.2. Thơ văn xuôi là kết quả của sự vận động thể loại văn học thời kì hiện đại.
Với nhu cầu thể hiện cảm xúc trữ tình của cái tôi cá nhân đầy tâm trạng, các nhà thơ
của thời kì thơ ca hiện đại đã tìm đến với thể thơ văn xuôi. Thơ văn xuôi có thể nói
là sự mở rộng và là “điểm văng xa nhất”[21;349] của thể thơ tự do. Là loại thơ kén
độc giả bởi nó phản ánh một dung lượng hiện thực lớn đòi hỏi tự thân sự mở rộng
của nó mới chuyên trở được hiện thực. Tuy nhiên, có thể tin rằng thể thơ này sẽ giữ
vị trí quan trọng trong sự phát triển của văn học hiện đại, bởi nó có khả năng rất lớn
trong việc thể hiện cá tính sáng tạo của nhà thơ, và bởi nó đẩy trí tưởng tượng liên
tưởng của người đọc lên đến biên độ cao nhất.
Đang trong quá trình vận động, chưa hoàn tất, là một trong những thể loại “sinh
sau đẻ muộn” nhưng đồng thời thơ văn xuôi cũng là thể loại thu hút được sự quan tâm
mạnh mẽ của giới sáng tác. Hầu như không có một nhà thơ nào có ý thức đổi mới thơ
1
ca lại không từng ít nhất một lần thể nghiệm thể thơ này. Vì thế mà việc tìm hiểu
những đặc điểm biểu hiện của nó trong sáng tác của một số nhà thơ thành công với thể


loại thơ văn xuôi ở Việt Nam như Chế Lan Viên, Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo,
Trần Anh Thái, Lê Văn Ngăn, Dương Kiều Minh, Vi Thuỳ Linh là rất cần thiết. Từ
đó có thể thấy rõ hơn sự vận động và phát triển về mặt thể loại văn học.
1.3. Thơ văn xuôi khởi phát ngay từ trong phong trào Thơ mới, phát triển tương đối
mạnh trong nền thơ kháng chiến (1945 - 1975) và từ sau 1975 đến nay có thể nói nó đã
giữ một vị trí nhất định trên thi đàn thơ ca hiện đại Việt Nam. Đó là một bước tiến của
thơ văn xuôi mà trên con đường phát triển nó đã trải qua không ít thăng trầm và ngay
cả đến lúc này không phải hoàn toàn tuyệt đối chiếm được cảm tình từ phía người đọc.
Ngay cả cái ranh giới giữa thơ văn xuôi và thơ tự do cũng vẫn là một vấn đề cần
nghiên cứu, trao đổi. Như vậy, sự hình thành, phát triển của thơ văn xuôi là một quá
trình vận động, biến đổi phức tạp, đa dạng. Nghiên cứu hình thức nghệ thuật thơ Việt
Nam hiện đại không thể không nghiên cứu thể loại đặc sắc, thú vị này.
Thực hiện đề tài “Đặc điểm thơ văn xuôi từ 1975 đến nay”, chúng tôi nhận thấy
nó vừa đáp ứng được tính thời sự, vừa có ý nghĩa văn học sử, vừa có ý nghĩa lý luận. Hy
vọng rằng bạn đọc sẽ hình dung được một cách đầy đủ và có hệ thống những đặc điểm
của thơ văn xuôi trong tiến trình phát triển của thơ hiện đại Việt Nam sau 1975.
2. Lịch sử vấn đề
Năm 1997, nhóm tác giả Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện cho ra đời
công trình Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài). Công trình bao gồm
hai phần. Phần một, tuyển chọn 161 bài thơ văn xuôi Việt Nam và 65 bài thơ văn
xuôi nước ngoài (theo quan điểm của người soạn sách). Phần hai, tập hợp 19 bài
viết của các tác giả trong và ngoài nước bàn về thơ văn xuôi hoặc những vấn đề liên
quan đến thể thơ này. Tuy chưa phải là một chuyên khảo đầy đủ nhưng đây là công
trình đầu tiên cho đến bây giờ có lẽ là duy nhất ở Việt Nam quan tâm tương đối
toàn diện đến thơ văn xuôi.
Qua mười chín bài viết trong tuyển tập có thể thấy rằng đó là những ý kiến bàn về
thơ văn xuôi nhìn chung còn tản mạn, chưa có cách nhìn bao quát. Giá trị hơn cả là ba
2
bài viết: Một vài ý kiến về thơ văn xuôi của Xuân Diệu, Thơ văn xuôi của Hà Minh
Đức và Tư duy và cấu trúc nghệ thuật thơ văn xuôi của Nguyễn Ngọc Thiện.

Bài viết của Xuân Diệu đã đề cập đến khá nhiều vấn đề xung quanh thể thơ văn
xuôi. Xuân Diệu quan niệm: “có những bài “thơ” mà không chứa đựng một cảm xúc
thơ, đó chỉ là những bài văn vần khô khan, lạnh lẽo; trái lại, có những bài văn xuôi mà
đầy thi vị, đầy rung cảm thơ, đọc vào như tưới thấm tâm hồn người, vừa có hình tượng
đẹp, vừa có âm thanh hay, lại có tiết tấu nhanh chậm của câu văn nữa. Khi những bài
“văn xuôi có chất thơ” ấy mang chất thơ rất nhiều, thì nảy ra một sự thay đổi về chất
lượng, về tính chất và hoá thành những bài thơ bằng văn xuôi” [36; 611]. Ở bài viết
này tác giả cũng chỉ ra một số đặc điểm của thơ văn xuôi như: về hình thức, nó thường
ngắn, không có vần; về nội dung, thơ văn xuôi cố gắng “rút lấy cái tính chất của sự
vật, chú ý đến sự phản ánh, sự tác động của sự vật vào trong tâm hồn, trí tuệ con
người thành cảm xúc, tình cảm, tư tưởng” [36; 611 ]. Tác giả coi thơ văn xuôi như một
thứ thể điệu trung gian, là biểu hiện của việc “mở rộng các hình thức, các thể điệu
đặng phục vụ cho sự diễn đạt nội dung đắc lực hơn” [36; 619 ].
Người đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu thơ văn xuôi với tư cách một thể loại có
những đặc điểm riêng phân biệt với văn xuôi, thơ cách luật và thơ tự do là GS. Hà
Minh Đức với công trình Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca trong
văn học Việt Nam, xuất bản lần đầu tiên năm 1986. Trong công trình này Giáo sư cho
rằng, nội dung thi tứ là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt thơ văn xuôi và văn xuôi,
trong khi sự khác nhau giữa thơ văn xuôi và thơ lại cần được xác định chủ yếu trên
phương diện cấu tạo về hình thức, thể hiện trên nhiều khía cạnh: tổng số tiết tấu trong
một nhịp thơ, số từ trong một câu và lối diễn đạt nội dung ý thơ, [23;625]
Tác giả Nguyễn Ngọc Thiện qua bài viết Tư duy và cấu trúc nghệ thuật thơ văn
xuôi đã nỗ lực đi tìm tính quan niệm của hình thức thể loại. “Thơ văn xuôi ra đời,
tôi nghĩ, trước hết là đòi hỏi của một tư duy nghệ thuật mới, đi tìm một độ căng
thẩm mỹ mới dựa vào áp lực liên kết của các ý thơ, câu thơ xếp liền nhau theo một
liên hệ cộng hưởng nước đôi: một mặt vẫn tuân thủ trục dọc liên tưởng của thơ,
mặt khác thu nạp sự diễn tiến theo trục ngang của văn xuôi” [36;649]. Tuy nhiên,
bên cạnh nhận định sắc sảo này, tác giả lại đưa ra những suy nghĩ cảm tính và mâu
3
thuẫn với chính những quan niệm mà tác giả đã nêu ra, ví dụ như: Tác giả làm thơ

văn xuôi phải chăng như muốn nhũn nhặn nhắn cùng người đọc: mong bạn thông
cảm, tôi không đủ thời giờ gọt rũa câu chữ. Mong bạn bớt chút thời giờ và kiên
nhẫn đọc tôi, cùng qua thơ, chia sẻ những suy nghĩ về cuộc đời, con người và lẽ
đời” [36;649].
Ngoài những bài viết kể trên, thời gian gần đây chúng ta thấy xuất hiện một số ý
kiến đáng quan tâm về thơ văn xuôi. Tiêu biểu là những ý kiến của Hữu Đạt đăng rải
rác trong cuốn sách Phong cách học tiếng Việt hiện đại, xuất bản năm 2001; bài viết
Nghĩ về thơ văn xuôi của tác giả Nguyễn Đăng Điệp, in trong cuốn Vọng từ con chữ,
xuất bản năm 2003; tiểu luận Bước đầu tìm hiểu một số đặc điểm của thơ văn xuôi và
sự thể nghiệm thể thơ này ở Việt Nam của Trần Ngọc Hiếu, viết năm 2001; luận văn
thạc sỹ năm 2005 Thơ văn xuôi và nhịp điệu trong thơ văn xuôi của tác giả Lê Thị
Hồng Hạnh cũng là những tài liệu đáng quý; bài viết Thơ văn xuôi trong sự vận động
của thể loại của tác giả Lưu Khánh Thơ trong cuốn Văn học Việt Nam sau 1975
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy do tác giả Nguyễn Văn Long và Lã Nhâm
Thìn chủ biên, Nhà xuất bản giáo dục, năm 2006 là một trong những bài viết giá trị.
Điểm đáng ghi nhận trong những ý kiến của Hữu Đạt là tác giả đã chỉ ra những
đặc trưng về cách cấu tạo của mô hình câu trong thơ văn xuôi, kiểu câu trùng điệp
nhiều lớp lang, nhiều thành phần phụ. Đóng góp của nhà nghiên cứu văn học
Nguyễn Đăng Điệp đối với thơ văn xuôi là ông đã chứng minh “sự xuất hiện của
thơ văn xuôi không hề là một trò chơi tuỳ hứng” [21;350]. Theo tác giả thơ văn xuôi
có ba tiền đề cơ bản: tham vọng nới rộng khả năng miêu tả hiện thực, tham vọng thể
hiện chân thực dòng ý thức của nhà thơ và ảnh hưởng của tiểu thuyết với tư cách là
một thể loại mang đầy đủ nhất các đặc tính của văn xuôi, khiến cho thơ văn xuôi in
rất rõ giọng nói đời thường.
Tiểu luận khoa học của Trần Ngọc Hiếu đã dựa trên cơ sở tiếp thu, hệ thống hoá
đồng thời đối thoại với những ý kiến đã có để tìm ra một số đặc trưng nghệ thuật
của thể thơ. Tác giả chỉ ra ranh giới giữa thơ văn xuôi với thơ tự do, thơ văn xuôi
với văn xuôi trữ tình dưới cái nhìn của một người nghiên cứu văn học sử.
4
Thơ văn xuôi và nhịp điệu trong thơ văn xuôi của Lê Thị Hồng Hạnh đã hệ

thống hoá cơ sở lý thuyết về thơ văn xuôi, lý thuyết về nhịp điệu, khảo sát nhịp điệu
trong thơ văn xuôi. Luận văn đã tập trung làm nổi bật cách tổ chức nhịp điệu của
thể thơ. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy ngay rằng nhịp điệu chưa phải là một đặc
điểm nổi trội của thơ văn xuôi.
Bài viết của nhà nghiên cứu văn học Lưu Khánh Thơ không dài nhưng có thể
thấy rằng đây là bài viết có tính chất khái quát về thơ văn xuôi Việt Nam. Tác giả
đã giúp bạn đọc thấy được thơ văn xuôi ở Việt Nam là một thể loại đang trong quá
trình vận động và phát triển. Theo tác giả, “Thơ văn xuôi đang ngày càng được các
nhà thơ chú ý và cũng ngày càng chiếm được vị trí trong lòng người đọc. Thơ văn
xuôi đã có mặt trong hành trang của nhiều thế hệ nhà thơ” [52;395]. Và “Thơ văn
xuôi đã hiện diện trong đời sống thơ ca nước ta như một thể tài không thể bỏ qua”
“Nó đã và đang là một nơi thể nghiệm, một cái đích đi tới của nhà thơ, công chúng
và cả những người nghiên cứu phê bình” [52;396].
Gần đây, trên các báo, tạp chí, trang web về văn học, có một số bài viết về thơ
văn xuôi như Thơ văn xuôi - tiềm năng và triển vọng đăng trên trang http://
www.vietvan.vn; hay Thơ văn xuôi với những cảm nhận riêng của tác giả Dương
Kiều Minh; Mấy ý kiến nhỏ về thơ văn xuôi Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn
Hoa
Tất cả các công trình nghiên cứu về thơ văn xuôi đã được nói đến ở trên là
những gợi ý quan trọng cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thơ văn xuôi từ 1975 đến nay, những đặc
điểm chính về nội dung và nghệ thuật thể hiện.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của thể
loại thơ văn xuôi ở Việt Nam. Cụ thể như sau:
Tuyển tập Thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) (NXB Văn học, 1997) do
tác giả Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện biên soạn; Hoa trên đá (NXB Văn
học, 1984) của Chế Lan Viên; Khối vuông Ru-bích (NXB Tác phẩm mới, 1985)

5
của Thanh Thảo; Sự mất ngủ của lửa (NXB Lao động, 1992), Những người đàn
bà gánh nước sông (NXB Văn học, 1995) của Nguyễn Quang Thiều; Trên đường
(NXB Hội nhà văn, 2004), Ngày đang mở sáng (NXB Hội Nhà văn, 2007) của Trần
Anh Thái, Viết dưới bóng quê nhà (NXB Hội nhà văn, 2008) của Lê Văn Ngăn,
Khát (NXB Hội nhà văn, 1999), Linh (NXB Thanh niên, 2000) của Vi Thuỳ
Linh… là phạm vi tư liệu nghiên cứu của chúng tôi. Ngoài ra còn một số những tư
liệu có liên quan chúng tôi đã sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ chính của luận văn là cố gắng làm sáng tỏ những đặc điểm của thơ
văn xuôi qua những chặng đường phát triển của thơ hiện đại Việt Nam.
Thơ văn xuôi ra đời không phải là trò chơi về hình thức, mà là kết quả của ý
thức nghệ thuật mang tính tự giác cao của các nhà thơ, góp phần đáp ứng những đòi
hỏi của thời đại và nhu cầu của cuộc sống. Chính vì vậy luận văn sẽ cố gắng làm
sáng tỏ vấn đề: đổi mới hình thức nghệ thuật cũng chính là đổi mới tư duy nghệ
thuật của các nhà thơ để chiếm lĩnh đối tượng phản ánh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng đồng bộ các phương pháp sau để giải quyết đề tài:
- Phương pháp tổng hợp, nhằm có được một cái nhìn khái quát về thơ văn xuôi
trong dòng chảy của thơ hiện đại Việt Nam.
- Phương pháp so sánh đối chiếu nhằm nhận diện những tìm tòi, đổi mới của các
tác giả thơ văn xuôi, đặc điểm của thể thơ này trong đối sánh với các thể thơ khác.
- Phương pháp phân tích tác phẩm để thấy được một cách cụ thể những biểu
hiện của thơ văn xuôi ở các phương diện nội dung và hình thức.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên khảo sát, nhận diện những đặc điểm của thơ văn
xuôi từ 1975 đến nay như một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt. Kết quả nghiên cứu
6
của luận văn hy vọng sẽ đem đến một cái nhìn khoa học và có hệ thống về đặc điểm

của thơ văn xuôi cũng như vị trí của thể thơ này trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu
trúc thành 3 chương như sau:
Chương 1. Những tiền đề hình thành và phát triển của thơ văn xuôi.
Chương 2. Đối tượng thẩm mỹ của thơ văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến nay.
Chương 3. Những sáng tạo về hình thức nghệ thuật của thơ văn xuôi từ 1975
đến nay.
7
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THƠ VĂN XUÔI
I.1. Giới thuyết về thơ văn xuôi
I.1.1 Sơ lược về sự hình thành và phát triển của thơ văn xuôi
“Thơ ca, giống như bất cứ một hiện tượng nào khác, trong suốt chặng đường
trường kỳ tồn tại, nó vừa cố gắng duy trì cái nhân lõi hợp lý làm nên vẻ riêng của nó
vừa tìm cách biến đổi để tự làm giàu cho mình” (Nguyễn Đăng Điệp). Hình thức
thơ mỗi khi được làm mới mình lại chứa đựng trong nó những tư duy nghệ thuật
mới. Thơ văn xuôi xuất hiện đã làm cho người đọc không khỏi ngạc nhiên. Với một
hình thức mới, một tên gọi mới không mấy êm tai, lúc đầu không ít người đã chối
bỏ nó. Nhưng rồi thơ văn xuôi vẫn cứ tồn tại, đi vào đời sống văn học, bởi “Thơ ca
không bao giờ hành trình đơn phương giữa những con người, mặc dù nó luôn tự dấn
thân cô đơn trong sáng tạo” [10;13]. Cùng với thời gian, thơ văn xuôi trở thành một
trong ba hình thức cơ bản của thơ ca (hai hình thức khác là thơ cách luật và thơ tự
do). Sự hình thành và phát triển của nó khiến ta liên tưởng đến sự hình thành và
phát triển của “loài hoa bách hợp”.
Có lẽ mỗi người nghiên cứu với mỗi quan niệm riêng của mình về thơ văn xuôi,
đều có lý do để chọn tác phẩm này hay tác phẩm khác làm cái mốc đánh dấu sự ra
đời của thể thơ này. Nhưng có một điều mà hầu hết các tác giả đều thống nhất, đó là
dù thơ văn xuôi đã được thử nghiệm từ thế kỷ 18 hay Gaspard de la nuit của

Aloysiuss Bertrand mới là tác phẩm đầu tiên hiện diện chính thức trên thi đàn với tư
cách thơ văn xuôi thì cũng phải đến khi tác phẩm của Baudelare xuất hiện (năm
1855: tập Paris u buồn (Paris Spleen), năm 1858: tập Những bài thơ đêm và sau
đó năm 1867: tập Những tiểu phẩm thơ văn xuôi) mới giành được sự thừa nhận
rộng rãi. Và một trong số những tác phẩm thơ văn xuôi xuất sắc nhất chính là tập
Hoa đăng (xuất bản năm 1886) của Rimbaud.
8
Cuốn Những bức vẽ bằng phấn màu của Stuart Merrill, một tuyển tập thơ văn
xuôi Pháp lần đầu tiên được dịch sang tiếng Anh xuất bản ở New York năm 1890
đã giới thiệu đến công chúng nói tiếng Anh những bài thơ văn xuôi rất đặc sắc.
Trong những năm tiếp theo, thơ văn xuôi bắt đầu thu hút được sự yêu thích của các
nhà thơ trong trường phái suy đồi. Các đại diện chính của thơ văn xuôi Anh trong
những năm cuối thế kỷ XX gồm Ernest Dowson, William Sharp và Oscar Wilde.
Trong hoàn cảnh chung của Mỹ học tự ý thức, thơ văn xuôi, yếu tố đặc trưng hoá
sáng tác của các nhà văn trong những năm 1880 và 1890, rất tự nhiên đã trở thành
thể loại được ưa chuộng hơn nhờ kỹ xảo khéo léo và phong cách tinh tế.
Nhắc đến thơ văn xuôi thế giới thế kỷ XX không thể không kể đến những bậc
thầy như Walt Whitman, R.Tagore, Edgar Allen Poe, Max Jacob, James Joyce,
Amy Lowll, Gertrude Stein, và T.S.Eliot. Hiện nay, các nhà thơ William Carlos
Williams, Russell Edson, Robert Bly, Charles Simic, Rosmarie Waldrop là những
tác giả đã thử nghiệm thành công thể thơ này.
I.1.2. Quan niệm về thơ văn xuôi
Có lẽ sự tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thời điểm ra đời của thơ văn xuôi
chính là bởi câu hỏi thơ văn xuôi là gì? Đã rất nhiều nhà thơ, nhà phê bình và cả
những người sáng tác thơ văn xuôi tìm cách trả lời câu hỏi đó. Nhưng vì thơ văn
xuôi, như tên gọi mang tính nghịch hợp của nó, là một thể loại mang tính trung
gian, nên việc tìm một cách hiểu thống nhất về nó quả thực vẫn là một thách thức
đối với chúng ta. Mỗi nhà thơ, nhà phê bình, người nghiên cứu thơ văn xuôi, từ góc
nhìn riêng của mình, đưa ra một cách hiểu riêng về thơ văn xuôi, nhấn mạnh đến
đặc trưng này hay đặc trưng khác của thể loại.

I.1.2.1. Năm 1663, cha sứ địa phận La Bresch đã nói: Diễn giả dường như bay
bổng bằng lời hùng biện, hoặc sứ giả say sưa khi mô tả kỳ tích lịch sử, đó là những
người đích thực làm thơ bằng văn xuôi (Từ điển văn học Pháp, dẫn theo) [36;577].
Chúng ta có thể hiểu đây là một định nghĩa về thơ văn xuôi. Trong thư gửi Charles
Perrault Boileau, Guez De Balzac cũng nói đến “những áng thơ mà chúng ta gọi là
tiểu thuyết” [36;577].
9
Ở đây, thơ văn xuôi được tác giả đồng nhất với những áng văn xuôi thi vị, thứ
văn xuôi nhịp nhàng, du dương, đậm màu sắc tu từ mà cuốn Từ điển lịch sử, chủ
đề và kỹ thuật văn học (văn học Pháp và nước ngoài - cổ và hiện đại) của Jacques
Denougin gọi bằng thuật ngữ Porse poétique - "văn xuôi có chất thơ".
Có thể thấy rằng, những định nghĩa, những ý kiến này đã đồng nhất thơ văn xuôi
với văn xuôi có chất thơ. Thực ra ranh giới giữa thơ văn xuôi và văn xuôi có chất thơ
hết sức gần gũi, thậm chí là mong manh. Nhiều nhà nghiên cứu đã lấy văn xuôi làm
điểm tựa khi cần định nghĩa thơ văn xuôi. Xuân Diệu là một trong những trường hợp
đó. Nhà thơ đã từng viết: “khi những bài văn xuôi có chất thơ ấy mang chất thơ rất
nhiều thì nảy ra sự thay đổi về chất lượng, về tính chất và hoá thành những bài thơ
bằng văn xuôi” [36;661]. Có lẽ vì thế mà chính tác phẩm Toả nhị Kiều của Xuân Diệu
khi được cho rằng đó là một truyện ngắn, nhưng khi lại được xếp vào một trong những
bài thơ văn xuôi của văn học Việt Nam. Quả thực hiểu tác phẩm này của Xuân Diệu là
một tác phẩm thơ văn xuôi hay một truyện ngắn cũng đều được.
Thơ văn xuôi và văn xuôi có chất thơ có những điểm chung nhưng chúng không
đồng nhất với nhau. Chúng tôi đồng nhất với ý kiến cho rằng “về cơ bản thơ văn
xuôi khác văn xuôi có chất thơ ở chỗ súc tích, cô đọng hơn, có nhịp điệu rõ rệt hơn,
và chứa đựng một thông báo khái quát hơn” [29;13]. Có thể ghi nhận sự hiện diện
của văn xuôi có chất thơ là một tiền đề cần thiết cho sự ra đời của thơ văn xuôi. Nó
“đánh dấu sự lên ngôi của một khuynh hướng hiện đại để có thể xoá bỏ ranh giới
của hai thể loại văn học, văn và thơ, đồng thời xoá bỏ tính chất chuẩn mực của
những nguyên tắc trước đây chỉ giành cho thơ” [36;580], đưa thơ xâm nhập vào văn
xuôi và ngược lại, nới lỏng những ràng buộc của thơ truyền thống.

I.1.2.2. Khác với cách hiểu trên, một trong những nhà thơ văn xuôi vĩ đại nhất
thế giới đó là Baudelaire, trong lời đề tặng cho cuốn “Ler Pesse” của Arsene
Houssaye ra mắt tháng 2 năm 1862 ông đã viết: “Trong chúng ta có ai trong những
ngày đầy tham vọng, lại không mơ tưởng đến một phép lạ của thể văn xuôi - thơ
không điệu, không vần, hơi mềm và hơi cứng để có thể thích ứng với những vận
10
động trữ tình của tâm hồn, với làn sóng mấp mô của mơ mộng, với những xúc cảm
bất thường của lương tri?” (Từ điển văn học Pháp, dẫn theo) [36;578].
Vậy là với Baudelaire, thơ văn xuôi là loại “thơ không điệu, không vần”. Liệu
chăng, cách hiểu này đã là một cách hiểu hoàn chỉnh về thơ văn xuôi? Chúng tôi
thừa nhận thơ văn xuôi là thể thơ không chịu sự quy định về vần điệu, có thể không
cần vần điệu, nhưng việc đồng nhất thơ văn xuôi với thơ không vần e rằng sẽ gạt ra
ngoài địa hạt thơ văn xuôi nhiều tác phẩm thơ văn xuôi có giá trị.
I.1.2.3. Cách hiểu của Baudelaire về thể tài này vẫn chưa thực thoả mãn bạn
đọc, người nghiên cứu về thể thơ này. Chúng tôi xin được đưa ra cách hiểu về thơ
văn xuôi được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay ủng hộ. Tác giả bài viết What is
prose poem?(Thơ văn xuôi là gì) đăng trên internet định nghĩa: “Thơ văn xuôi là
một thể thơ được đặc trưng hoá bởi sự không ngắt dòng. Mặc dù trông nó giống với
một đoạn văn xuôi ngắn, nhưng có thể thấy nó trung thành với thơ ở việc sử dụng
nhịp điệu, các hình thái của lời nói, vần, sự trùng âm, sự hài âm và các biểu trưng”.
Trong lời giới thiệu Thơ văn xuôi: Hợp tuyển quốc tế, Michanel Benedikt cho rằng
thơ văn xuôi là “một thể tài thơ, được viết bằng văn xuôi một cách chủ ý, và được
đặc trưng bởi việc sử dụng mạnh mẽ hầu như tất cả mọi phương diện của thơ ca,
trong đó bao gồm hầu hết các phương tiện của luật thơ, ngoại trừ sự ngắt dòng”
(Dẫn theo [29;15]). Khi tìm hiểu về Paris u buồn của Baudelaire, Hoa đăng của
Rimbaud và một số đoạn trích từ các thử nghiệm văn xuôi của Pater, M. H.Abrams
cũng cho rằng chúng giống với thể loại mà thế kỷ 19 gọi là thơ văn xuôi: “đầy súc
tích, có nhịp rõ rệt, một tác phẩm đầy âm vang được viết như một chuỗi liên tục các
câu không ngắt dòng” (Dẫn theo [29])
Ba ý kiến này đã chỉ ra những dấu hiệu quan trọng để nhận diện thơ văn xuôi, nó

đã nói đúng những đặc điểm cốt lõi của các tác phẩm thơ văn xuôi tiêu biểu. Tuy
nhiên, quan điểm này không phải không chứa đựng những điều cần bàn cãi. Liệu thơ
văn xuôi chỉ gồm những bài được viết dưới hình thức không ngắt dòng hay không?
Hay nói cách khác, liệu tiêu chí ngắt dòng hay không ngắt dòng đã chỉ ra được bản chất
về cách tổ chức văn bản của thơ văn xuôi chưa? Đó vẫn còn là một câu hỏi.
11
Thơ văn xuôi đi vào đời sống văn học Việt Nam từ những thập kỷ đầu của thế
kỷ XX. Trên con đường đi của mình, nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà phê bình
văn học Việt Nam cũng luôn đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi thế nào là thơ văn xuôi?
Nguyễn Trọng Tạo, người luôn mang trong mình ý thức đổi mới thơ ca đã đẩy
lên cao quan điểm của Baudelaire khi ông cho rằng: “Thực chất thơ văn xuôi chính
là thơ không vần hay nói cách khác nó là biến cách của thơ không vần” [36;653].
Lê Thị Hồng Hạnh, tác giả của luận văn Thơ văn xuôi và nhịp điệu trong thơ
văn xuôi đưa ra cách hiểu của mình về thể tài này như sau: “Thơ văn xuôi là thể thơ
được trình bày dưới hình thức văn bản văn xuôi (gồm những câu có cấu trúc như
cấu trúc văn xuôi) nhưng mang đậm chất thơ nhờ âm vang của nhịp điệu, việc sử
dụng các biểu trưng nghệ thuật và việc hướng vào khai thác chiều sâu thế giới nội
tâm của con người” [29;17]. Tác giả luận văn nhấn mạnh yếu tố nhịp điệu trong thơ
văn xuôi và xem nó như một tiêu chí quan trọng nhất. Và như chúng tôi đã nói trong
phần lịch sử vấn đề thì nhịp điệu chưa phải là yếu tố nổi trội trong thơ văn xuôi.
Nhiều tác giả trong cuốn Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 2000 đã viết “Thơ văn
xuôi là loại thơ trữ tình có cấu trúc câu giống văn xuôi, câu nọ tiếp câu kia không
xuống dòng, gần như không vần, nhịp điệu không mang đầy đủ tính chất cố định,
mạch câu chảy tràn không chịu ràng buộc theo niêm luật nào, là sự dãn ra của các
hình thức thơ tự do, rất dạt dào tình ý và cảm xúc” [73;87]. Chúng tôi tán thành
cách hiểu này của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, theo chúng tôi cần phải nói thêm
rằng, một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng, nó khiến cho thơ văn xuôi chứa
đựng và phản ánh một dung lượng hiện thực lớn của cuộc sống đồng thời phản ánh
được rõ nhất tư tưởng của nhà thơ ấy là ngôn ngữ thơ, thứ ngôn ngữ chứa đựng
những trường liên tưởng, suy tưởng mở rộng.

Có thể thấy rằng, tìm một cách hiểu thống nhất về thơ văn xuôi không hề đơn
giản, thậm chí như đã nói, nó vẫn là một thách thức. Và nói như Lê Thị Hồng Hạnh,
tác giả của “Thơ văn xuôi và nhịp điệu trong thơ văn xuôi”: “Đưa ra một định nghĩa
đóng kín, hoàn tất về thơ văn xuôi là một điều không tưởng” [29;17]. E.M. Cioran
chẳng đã từng khẳng định một cách cực đoan: “Gói gọn một cái gì đó trong một
12
định nghĩa cũng có nghĩa là dùng sự độc đoán của mình để phá bỏ nó, trao cho nó
sự nhạt nhẽo vô vị và tiêu huỷ nó” [Dẫn theo 29;17]. Tuy nhiên, vẫn phải khẳng
định rằng, tất cả những cách hiểu về thơ văn xuôi của những người đi trước là
những gợi ý rất quan trọng và là những cơ sở để chúng ta xác định các tác phẩm thơ
văn xuôi.
Quan niệm của luận văn về thơ văn xuôi
Chúng tôi quan niệm thơ văn xuôi, về mặt hình thức có hai dạng:
- Dạng điển hình: những bài thơ không ngắt dòng, có thi tứ và xuất hiện với
hình thức những đoạn văn xuôi, ngắn hoặc dài.
- Dạng không điển hình: là những sáng tác có hình thức gần với thơ tự do, có
câu dài ngắn xen nhau, chủ yếu là câu dài chia làm nhiều dòng nhưng không có vần.
I.1.3. Thơ văn xuôi và một số thể loại lân cận
Tzvetan Todorov thật có lí khi cho rằng “Một thể loại mới bao giờ cũng là sự
biến đổi của một hoặc vài thể loại khác, bằng sự đảo ngược, thay thế và kết hợp”
[Dẫn theo 29;28]. Vốn là một “loài hoa bách hợp”, thơ văn xuôi rất gần gũi và có sự
giao thoa với một số thể loại văn học khác như tuỳ bút văn học và thơ tự do. Ranh
giới giữa chúng không phải lúc nào cũng thật rõ ràng. Song, để xác định nội hàm
khái niệm thơ văn xuôi, chúng tôi nghĩ, cần phải chỉ ra ranh giới giữa thơ văn xuôi
và các thể loại trung gian đó.
I.1.3.1. Thơ văn xuôi và tuỳ bút văn học
Tùy bút là tiểu loại văn học giàu tính chất trữ tình nhất, thuộc thể kí văn học, rất
gần gũi với thơ văn xuôi. Chất trữ tình của tùy bút thể hiện ở sự xuất hiện khá cao nồng
độ cảm xúc của người viết. Tùy bút được tạo nên bởi lối viết tự do, phóng khoáng và
cá tính độc đáo của người viết nên quan niệm về tùy bút cũng khá tự do và đa dạng.

Song dù với rất nhiều hình thức diễn đạt khác nhau nhưng khái niệm tùy bút vẫn bao
hàm hai nội dung cơ bản, làm nên bản chất thể loại là: viết về người thật, việc thật bằng
một lối viết tự do, phóng túng và mang đậm cá tính của người viết.
13
Các tác giả biên soạn Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm “tùy bút (tiếng
Pháp: essai, tiếng Anh: essay)” là “một thể thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí
sự. Nét nổi bật ở tùy bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ thể có
thực, tác giả đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh
giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại. Cấu trúc của tùy bút, nói chung,
không bị ràng buộc, câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể, song nội dung của nó vẫn
được triển khai theo một cảm hứng chủ đạo, một tư tưởng chủ đề nhất định. Ngôn
ngữ tùy bút giàu hình ảnh, chất thơ" [32;380].
Cả hai quan niệm trên đều khẳng định tùy bút là tiểu loại giàu chất trữ tình, cấu
trúc văn bản tự do, không ràng buộc câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể, nội dung
được triển khai theo một cảm hứng chủ đạo, ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất thơ.
Từ quan điểm của người sáng tác, Nguyễn Tuân - nhà văn gắn bó cả cuộc đời với
thể tùy bút và tên tuổi gần như “trùng khít” với tùy bút - có một định nghĩa rất đơn
giản, rất tùy bút, “Tùy bút là tùy theo bút mà viết”. Ở đây nhà văn đã khẳng định
tính chất tự do của nghệ thuật viết tùy bút, chỉ có một điều duy nhất ràng buộc ngòi
bút của người viết, đó là cảm xúc. Sự thật là cái cớ để nhà văn thể hiện suy ngẫm
của mình về cuộc đời. Trình bày một lượng kiến thức phong phú về sông Đà là cái
cớ để Nguyễn Tuân thể hiện cảm hứng ngợi ca phẩm chất nghệ sĩ và khả năng bất
tận của con người.
Đọc tác phẩm tùy bút có thể dễ dàng nhận ra nghệ thuật trần thuật, vốn là đặc
trưng của tự sự, rất gần với trữ tình, nó như một áng thơ văn xuôi với những hình
ảnh gợi cảm, rõ nét sắc màu cảm xúc với lối ví von so sánh độc đáo thiên về
phương diện tâm lí.
Thơ văn xuôi và tuỳ bút văn học có một số điểm giống nhau cả về hình thức lẫn
nội dung.
Về nội dung, chúng đều chú trọng khai thác thế giới nội tâm của cái tôi trữ tình,

không bị ràng buộc, câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể (tuy có thể chứa đựng một
cốt truyện nhưng không lấy việc kể chuyện làm cứu cánh), cùng mang thế mạnh của
14
chất suy tưởng và chiều sâu triết lí. Về hình thức, chúng được trình bày trong dạng
thức văn bản văn xuôi, ngôn ngữ giàu hình ảnh và đậm chất thơ.
Trên cái nền chung đó, cả hai thể loại này có cách tổ chức và năng lực gợi cảm
khác nhau. Khác với tuỳ bút phải lấy điểm tựa từ một số sự kiện có thực trong đời
sống, cái cốt lõi của tùy bút bao giờ cũng là một thông tin hiện thực nào đó, và sự
thực ấy là cái gốc để mạch văn phát triển, thơ văn xuôi hầu như chỉ khai thác dòng
suy nghĩ chủ quan của nhân vật trữ tình. Chẳng hạn như, trong tuỳ bút Người lái đò
sông Đà của Nguyễn Tuân, mạch suy nghĩ liên tưởng tài hoa của tác giả tuy rất
được chú trọng nhưng không lấn át mạch kể về sự kiện ông lái đò vượt thác. Trong
khi đó, ở bài thơ văn xuôi Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ của Chế Lan Viên,
khám phá và phân tích thế giới nội tâm của nhân vật trữ tình trở thành mục đích chủ
yếu của nhà thơ:
Thơ, thơ đong từng ngao nhưng tát bể / Là cái sân nhỏ xíu lại cân đời./ Thơ
không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh / Không phải chỉ “ơ hời” mà còn đập bàn, quát
tháo lo toan./ Đóng bài thơ như cái cọc vào đời để chống nước trôi xuôi / Làm cho
mọi người nghe được cái vô hình này: thời gian họ sống./Anh phải làm cho thời đại
đến sớm hơn là nó đến / Anh là gió đưa hương, nhưng chính anh lại phải là hương./
Lấy bát cơm ngày mùa trả lời cho cơn đói / Cái ấy thơ hơn, hay những bài thơ rỉ
rên về trận đói thơ hơn? (Trích “Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ ” )
Tràn ngập trong bài thơ là những suy ngẫm về nghề, về thơ, của nhà thơ Chế
Lan Viên chứ không phải là những sự kiện diễn ra.
Đến với thơ văn xuôi, người đọc cũng thấy được rằng, hình ảnh trong thơ vì
được khúc xạ qua cảm nhận chủ quan của nhà thơ mà nhiều khi được đẩy sang bờ
“tượng trưng”, “siêu thực”. Trong Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử, những sự
kiện, hình ảnh có thực (hai chị em bơi thuyền trên sông giữa đêm rằm, bến đò thôn
chùa Mo, động cát Quảng Bình) cũng biến hoá thành những “huyền ảnh” trong cõi
mộng. Đêm rằm trở thành “một đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng của một mùa

ao ước, xây bằng châu lệ, làm bằng chiêm bao và hơn nữa, hiện hình của một miền
15
khoái lạc chê chán”. Sông thành sông Ngân, bến sông thành bến Hàn Giang, động
cát thành chốn “nước Nhược non Bồng, động phủ thần tiên ngàn xưa còn xót lại”.
Các hình ảnh trong tuỳ bút không vậy. Chúng có thể được các nhà nghệ sĩ đặt
vào rất nhiều trường liên tưởng, với những so sánh, ẩn dụ đầy biến hoá, nhưng vẫn
luôn giữ được cái lõi hiện thực. Trong cái nhìn của Nguyễn Tuân, ông lái đò dù
biến thành vị tướng xung trận đầy dũng mãnh, thác đá dù như một đội quân ngoan
cố và hiểm độc, người đọc vẫn cảm nhận đó là con người, là những sự việc của đời
sống thực tại. Những so sánh, liên tưởng của tác giả không làm cho các hình ảnh
biến thành siêu thực mà khiến chúng hiện hữu sống động hơn.
Giữa thơ văn xuôi và tuỳ bút văn học còn khác nhau ở cách xây dựng nhân vật.
Trong thơ văn xuôi hầu như chỉ tồn tại một nhân vật duy nhất, đó là nhân vật trữ
tình - cái tôi - tác giả. Bài thơ như cuộc chạy đua của ngôn từ với dòng thác cảm
xúc ào ạt của thi nhân. Tất nhiên cũng có tác phẩm thơ văn xuôi có tới hai nhân vật,
ví dụ Cuộc đối thoại của nước (Dạ Thảo Phương) có nhân vật trữ tình “ta” và nhân
vật người mẹ - người đối thoại với nhân vật trữ tình. Nhưng, những nhân vật phụ
kiểu này chỉ đóng vai trò như cái cớ để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm nghĩ chủ quan.
Nhân vật trữ tình qua việc soi mình vào nhân vật “phụ” để hiểu mình và tự đối thoại
với chính mình.
Trong tuỳ bút, bên cạnh nhân vật trữ tình còn có các nhân vật khác tham gia vào
diễn biến sự kiện. Ví dụ, trong Người lái đò sông Đà, bên cạnh nhân vật “tôi” là
bức phù điêu tái hiện ông lái đò quả cảm, tài hoa.
Người đọc cũng có thể dễ dàng nhận ra sự khác biệt trong cách tổ chức tác
phẩm của thơ văn xuôi và tuỳ bút văn học. Tuỳ bút văn học thường được tổ chức với
mạch lập luận tương đối rõ, trái lại mạch vận động trong thơ văn xuôi có phần khó
nắm bắt, sự liên kết giữa các hình ảnh thơ nhiều khi rất ngẫu hứng. Nội dung của
tuỳ bút thường được triển khai theo một cảm hứng chủ đạo, một tư tưởng chủ đề
nhất định, trong khi nội dung của thơ văn xuôi thường chứa đựng những hàm nghĩa
biểu đạt đa trị, không cố định.

16
Có thể thấy thơ văn xuôi giống với tuỳ bút văn học ở chỗ, cùng chú ý khai thác
những suy nghĩ chủ quan của nhân vật trữ tình, thông qua những câu văn xuôi đầy
hình ảnh, mang chiều sâu trí tuệ. Nhưng thơ văn xuôi khác với tuỳ bút ở chỗ, không
bám vào sự kiện, hình ảnh mang tính tượng trưng, khơi gợi nhiều trường liên tưởng,
cách tổ chức, chủ đề tư tưởng không cố định.
I.1.3.2. Thơ văn xuôi và thơ tự do
Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều những nhà nghiên cứu thơ ca hiện đại mỗi
khi nhắc đến thơ văn xuôi lại đặt thơ tự do trước, cùng hoặc sau nó. Cũng không
phải ngẫu nhiên mà cùng một bài thơ nhưng người thì “xếp chỗ” cho bài thơ đó ở
thể thơ tự do, người thì gọi đó là một bài thơ văn xuôi. Có lẽ không chỉ bởi thơ văn
xuôi vốn là “hậu duệ” của thơ tự do mà còn là bởi thơ văn xuôi có nhiều điểm rất
gần gũi với người anh em này của nó.
PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp gọi thơ văn xuôi là “điểm văng xa nhất” của thơ tự
do [21;349]. Khó có cách gọi nào về thơ văn xuôi hay hơn cách gọi này. Nó khiến
cho chúng ta hiểu thế nào là thơ văn xuôi một cách nhanh nhất. Và nó cũng khiến
cho bạn đọc mỗi khi chạm vào thể tài thơ văn xuôi lại không thể không nghĩ đến vai
trò của thơ tự do - một thể loại văn học đã phá vỡ hệ thống thi pháp của thơ ca cổ
điển, thành trì vững chắc của những khuôn khổ, luật lệ gò bó.
Tác giả Hữu Đạt trong cuốn Phong cách học và các phong cách chức năng
Tiếng Việt cũng cho rằng “Về mặt ngôn ngữ có thể coi thơ văn xuôi là hình thức
phát triển cao nhất của thơ tự do”.
Ranh giới giữa thơ văn xuôi và thơ tự do quả thật không phải lúc nào cũng rõ
ràng. Dù có những điểm giao thoa nhưng giữa hai thể thơ này vẫn có những tiêu chí
nhất định để chúng ta phân loại nó.
Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng, tiêu chí quan trọng nhất để phân định thơ
tự do và thơ văn xuôi là tiêu chí có hay không có sự phân dòng: “thơ văn xuôi khác
thơ tự do ở chỗ không phân dòng, không dùng hình thức dòng thơ làm đơn vị nhịp
điệu”.[31;319]
17

Chúng ta biết rằng, nếu như thơ tự do vẫn duy trì một đặc điểm hình thức của
thơ: văn bản có phân dòng và xếp song song thành hàng, thành khổ như những đơn
vị nhịp điệu thì ở thơ văn xuôi, ngay cả đặc điểm hình thức cuối cùng khiến nó có
thể được người đọc nhận diện như một văn bản thơ cũng có thể bị tiêu huỷ.
Đây là một cách phân biệt có cơ sở, nó nhấn mạnh vào sự khác biệt về đơn vị
cấu tạo nhịp điệu của hai thể thơ. Ở thơ tự do, đơn vị đó là dòng thơ. Trong khi đó,
ở thơ văn xuôi, đơn vị đó là đoạn thơ, gồm nhiều dòng thơ hợp lại.
Cách phân biệt này tuy có cơ sở nhưng chưa phải là đã là đúng với mọi trường
hợp. Bởi, trong thực tế, có nhiều bài thơ mà đơn vị cấu tạo nhịp điệu là dòng thơ
nhưng đó lại là những áng thơ văn xuôi, thậm chí còn là những áng thơ văn xuôi
xuất sắc. Ví dụ như các bài thơ của W.Whitman (Bài hát chính tôi, Ra đi từ
Paumenoc, ) hay một số sáng tác của Chế Lan Viên (Cành phong lan bể, Nghĩ về
nghề, nghĩ về thơ, nghĩ ). Hay cách phân loại của PGS.TS Lưu Khánh Thơ trong
bài viết Thơ văn xuôi trong sự vận động của thể loại cũng là một ý kiến như vậy:
“Thời kỳ thơ mới 1932 - 1945 có một số bài thơ văn xuôi như Tình già (Phan
Khôi), Giọt sương hoa (Phạm Văn Hạnh), Giọt mưa rơi, Thanh khí (Nguyễn Xuân
Sanh) Ngay từ đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã xuất hiện những bài thơ
văn xuôi như bài Đêm mít tinh của Nguyễn Đình Thi, Nhớ của Hồng Nguyên, Nhớ
máu của Trần Mai Ninh.” [52;116 ]. Đó là những bài thơ gồm nhiều câu thơ mở
rộng, kéo dài, có thể đến 12,13, thậm chí hơn hai mươi âm tiết, có ngắt dòng. Liệu
chăng việc xếp những bài thơ này vào địa hạt thơ văn xuôi là một việc làm thuần
tuý, cảm tính, chủ quan?
Chúng ta hãy thử đặt ra những cơ sở thực tế để những nhà nghiên cứu văn học
xếp các bài thơ trên vào thể loại thơ văn xuôi.
Thứ nhất, thông thường thì các câu thơ được giới hạn trong khoảng 10 âm tiết,
nhưng có những câu phá vỡ ngưỡng âm tiết này, kéo dài đến mười mấy tiếng nó sẽ
có xu hướng văn xuôi hoá về mặt hình thức.
Thứ hai, đúng như ý kiến của Hữu Đạt, ông cho rằng cách tổ chức câu của thơ
văn xuôi giống với cách tổ chức câu trong văn xuôi, có nhiều lớp lang, có sự trùng
18

điệp về cấu trúc, sử dụng nhiều thành phần mở rộng, thành phần liên kết. Vì thế mà
những bài thơ tự do với những câu thơ được tổ chức theo mô hình cấu tạo của câu
văn xuôi, dù gồm những câu thơ kéo dài hay những câu thơ có số lượng âm tiết hạn
chế, đều có thể được coi là những bài thơ văn xuôi.
Tất nhiên, dạng điển hình nhất của thể thơ văn xuôi vẫn là những bài thơ được
trình bày như văn bản văn xuôi, chỉ xuống dòng sau khi đã tạo ra những chiết đoạn
và những bài thơ gồm những câu thơ chiếm số lượng dòng in lớn.
Như vậy, nói đến số lượng âm tiết trong một câu thơ vẫn chưa đụng chạm đến
bản chất cốt lõi của vấn đề, mặc dù khi áp dụng vào thực tế, đấy sẽ là tiêu chí hữu
ích để ta dễ dàng nhận diện các bài thơ. Ngoài tiêu chí dòng thơ chúng tôi đồng
quan điểm với nhà nghiên cứu Hữu Đạt, ấy là cần chú trọng đến nghệ thuật tổ chức
lời thơ. Điều này sẽ được chúng tôi lý giải ở phần sau của luận văn.
Nhìn trên trục thời gian có thể thấy, càng ngày, văn học càng đa dạng về thể
loại, phát triển mạnh cả về hai cực: cực thơ và cực văn xuôi. Trong mô hình Kraft
thơ văn xuôi nằm ở vùng giao thoa giữa hai thể loại trung gian tuỳ bút văn học và
thơ tự do.
Giữa thơ văn xuôi, tuỳ bút văn học và thơ tự do có những ranh giới nhất định
song cũng có những điểm giao thoa mà người nghiên cứu không thể không thừa
nhận. Sẽ là quá cứng nhắc khi cứ quyết liệt đi tìm những tiêu chí để phân định rõ
ràng các thể thơ ấy. Không phải không có lí khi Frederich Schlegel nói “Mỗi bài thơ
tự nó là một thể loại”.
I.2. Lịch sử hình thành và phát triển thơ văn xuôi Việt Nam
I.2.1. Thơ văn xuôi ở Việt Nam
Thơ văn xuôi ở Việt Nam chỉ thực sự được đánh dấu khi một số sáng tác trong thời
kỳ Thơ mới ra đời như Giọt sương hoa của Phạm Văn Hạnh, Giọt mưa rơi, Đất thơm
của Nguyễn Xuân Sanh, Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử
Người ta đã và sẽ còn làm một công việc tưởng như quen nhàm nhưng lại rất cần
thiết là truy tìm nguyên uỷ thơ ca và cắt nghĩa quá trình tiến hoá của nó. Với thơ văn
19
xuôi Việt Nam, chúng tôi cho rằng, được hình thành từ hai nhân tố cơ bản. Thứ nhất,

đúng như ý kiến của Xuân Diệu khi nhà thơ nói, “thơ văn xuôi Việt Nam có thể tìm
thấy tổ tiên của mình trong một số thể văn truyền thống như phú, câu đối, văn tế cáo,
hịch ” [36;611]. Chúng gần với thơ văn xuôi ở chỗ cũng đứng ở ranh giới giữa thơ và
văn xuôi, là văn xuôi nhưng có vần, có nhịp, có cách dùng ngôn từ và hình ảnh hoa mĩ.
Hay như ý kiến của PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Nghĩ về thơ văn xuôi:
“thơ văn xuôi không phải đến thời kỳ hiện đại mới hình thành mà đã có mầm mống từ
rất lâu trong lịch sử. Ngay trong lối văn biền ngẫu chẳng hạn, sự pha trộn giữa thơ và
văn xuôi khá rõ. Đó là chưa nói đến chuyện, những câu thơ dân gian có tính phá luật
cũng đã trở thành những dấu hiệu ban đầu để tạo sự nới giãn dòng thơ, mở ra khả
năng đưa chất văn xuôi vào thơ trở nên dễ dàng hơn”. [21;350].
Tuy nhiên, theo chúng tôi đây chưa phải là một nhân tố cơ bản của việc hình
thành thơ văn xuôi ở Việt Nam. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh đến chính là nhân
tố thứ hai, sự ảnh hưởng của nguồn thơ Pháp.
Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây qua kênh văn học Pháp đã gợi ý cho các thi
sỹ Thơ mới về tiềm năng của một thể loại văn học mới, sau khi đã thu nhận vào
mình âm hưởng của văn xuôi có nhịp truyền thống trong kho tàng văn học dân tộc.
Bởi thế mà ngay trong giai đoạn đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam đã xuất
hiện không ít những bài thơ văn xuôi.
Từ khi khởi phát cho đến nay thơ văn xuôi Việt Nam luôn vận động và phát
triển dẫu quá trình của nó gặp không ít khó khăn, chưa một lần thực sự nở rộ. Và
cho đến ngày nay không phải lúc nào nó cũng được đón chào nồng nhiệt. Đang
trong quá trình vận động, chưa hoàn tất, song, thơ văn xuôi như đã nói cũng là thể
loại thu hút được sự quan tâm mạnh mẽ của giới sáng tác. 161 bài thơ văn xuôi của
126 tác giả Việt Nam được tuyển chọn và giới thiệu năm 1997 trong cuốn Tuyển
tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) là một số lượng không nhỏ. Trong đó,
phần Thơ văn xuôi Việt Nam, tác giả đã sắp xếp trình tự theo hai mốc thời gian:
Trước 8/1945 và Sau 8/1945 đến nay (1997 cuốn sách được xuất bản). Từ đó cho
đến nay chắc chắn rằng, với sự nở rộ của thế hệ Thơ trẻ đã có không ít những sáng
20
tác bằng thơ văn xuôi có chất lượng ra đời. Sau thế hệ của Hàn Mặc Tử, Nguyễn

Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, Phan Khôi, Thâm Tâm, Xuân Diệu, Yến Lan là thế
hệ của Nguyễn Đình Thi, Hồng Nguyên, Trần Mai Ninh, Chế Lan Viên rồi đến
thế hệ của Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo, Trần Anh Thái, Lê Văn Ngăn,
Dương Kiều Minh, Phan Thị Vàng Anh, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư Họ là
những người luôn ý thức cho sự khai mở một lối đi riêng. Chúng ta cùng hy vọng
vào sự phát triển và thành công của thể loại thơ ca này trong tiến trình làm mới
mình của nền văn học hiện đại Việt Nam.
I.2.2. Những chặng đường phát triển của thơ văn xuôi Việt Nam
I.2.2.1. Trước 1945
Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam đã gọi sự tiếp xúc của người
Việt với văn hoá phương Tây là “một cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt
Nam từ mấy mươi thế kỷ”[80;15]. Và với người nghệ sỹ lúc bấy giờ thì “Phương
Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta”[80;17]. Tản Đà, Phạm Văn Hạnh,
Nguyễn Xuân Sanh, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận , “Mỗi nhà thơ Việt hình
như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp”, chắc chắn họ không thể nào
không chú ý đến thơ văn xuôi. Thơ văn xuôi đã xâm nhập vào Thơ mới từ con
đường thơ tượng trưng, siêu thực của phương Tây.
Tác giả Nguyễn Văn Hoa, Nguyễn Ngọc Thiện bằng quan điểm của mình đã
tuyển chọn 16 tác giả với 24 tác phẩm thơ văn xuôi giai đoạn Trước 8/1945 trong
cuốn Tuyển tập Thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài). Số lượng này cũng
chứng tỏ rằng thơ văn xuôi đã thực sự được những nhà thơ lãng mạn quan tâm, thử
nghiệm. Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân Sanh đã có những áng thơ văn
xuôi rất tinh khiết trong đó ta thấy thấp thoáng bóng dáng thơ Paul Éluard:
“Nước trong như một cặp mắt tuyệt vời. Những cây liễu xanh đứng buồn như
những nàng cung nữ thời xưa Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa, và linh hồn vẫn
là linh hồn tôi năm trước Chân ai đi xa vắng ngày xưa, hay đó chỉ là gió thoảng
mong manh?
21
Thu đã về đây, tôi làm nữ khách đi hết sông này, sông khác, cả núi, cả đèo và
cả rừng, cả suối, bây giờ tôi cũng về đây để hiểu thêm một ít, nhớ thêm một ít, và

yêu thêm rất nhiều”. (Đinh Hùng, Cảm thu)
“Giọt mưa rơi, mưa rơi, giọt mưa rơi Mưa rơi kết tinh suy tưởng của hồn ta.
Tương tư của hai ta có phải cầm giữ đâu vô bờ bến? Nó thành giọt, để đọng giọt
nhớ thương. Nó nhẹ nhàng, êm ái, nhưng nó bao la như những cõi vô cùng, hàng
vạn triệu. Chiều nay ngoài khung cửa sổ đời ta, từng giọt, từng giọt, từng giọt,
nhưng ta biết lấy gì đếm được.
Mưa rơi từ trăng xuống, Mưa rơi từ đất cỏ, đi lên. Từ trăng xuống, từ đất lên,
những sáng và những trưa mai, và giọt mưa rơi ” (Nguyễn Xuân Sanh. Giọt mưa
rơi)
Những nhà thơ sáng tác thơ văn xuôi ở giai đoạn văn học trước 1945 như những
người mở đường cho một thể loại văn học mới ở Việt Nam. Sự sáng tạo của họ vẫn
còn mãi giá trị.
I.2.2.2. Từ 1945 đến 1975
Từ 1945 đến 1975 thơ văn xuôi tiếp tục được phát triển. Trong tổng số 110 nhà
thơ được tác giả Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện tuyển chọn và giới thiệu
trong cuốn Tuyển tập thơ ăn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) ở phần “Sau 1945”,
chúng tôi thống kê được khoảng 19 tác giả có những tác phẩm thơ văn xuôi sáng tác
ở giai đoạn 1945 - 1975. “ngay từ đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã xuất hiện
những bài thơ văn xuôi như bài “Đêm mít tinh” của Nguyễn Đình Thi, “Nhớ” của
Hồng Nguyên, “Nhớ máu” của Trần Mai Ninh”[36;116]. Một số những nhà thơ nổi
tiếng khác đã sáng tác các tác phẩm thơ văn xuôi như Đặng Đình Hưng, Phạm Hổ,
Thép Mới, Chế Lan Viên Bạn đọc của một thời mấy ai không biết đến bài thơ
Cành phong lan bể của Chế Lan Viên, bài thơ được xem là một trong những tác
phẩm tiêu biểu nhất cho thể loại thơ văn xuôi ở Việt Nam. Một cái ngoặc của Đặng
Đình Hưng, Nơi dựa cuả Nguyễn Đình Thi, cũng là những tác phẩm thơ văn xuôi
rất đáng lưu ý. Hãy thử xem một đoạn thơ sau, trong bài Cành phong lan bể của
Chế Lan Viên:
22
Xanh biếc màu xanh, bể như hàng nghìn mùa thu qua còn để tâm hồn nằm đọng lại
/ Sóng như nghìn trưa xanh trời đã tan xanh ra thành bể và thôi không trở lại làm trời /

Nếu núi là con trai thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương đã biến thành con gái /
Mỗi đêm hè da thịt sóng sinh sôi.
Như vậy, từ Thơ mới đến 1975, thơ văn xuôi ở Việt Nam đã có bước phát triển
đáng kể. Chúng ta không thể không ghi nhận những ý thức cách tân nghệ thuật của
những nhà thơ thế hệ này.
I.2.2.3. Từ 1975 đến 1985
Từ năm 1975 trở đi thơ văn xuôi ở Việt Nam có sự tiếp nối và phát triển mạnh
mẽ. Số lượng người sáng tác ngày một lớn hơn. Thơ văn xuôi đã có mặt trong sáng
tác của hàng loạt các nhà thơ thế hệ chống Mỹ và trong sáng tác của những nhà thơ
xuất hiện sau 1975. “Hiện thực của một thời chiến trận đã được thể hiện với một
quy mô và bề dày đáng kể, thông qua hình ảnh của những người lính. Người đọc
không chỉ thấy sự hy sinh gian khổ, lòng dũng cảm ngoan cường mà còn thấy
những nghĩ suy, trải nghiệm, thấy được muôn mặt tình cảm trong cuộc đời phong
phú của những người lính chiến.”[36;116]. Sự thật tâm hồn của người lính đi suốt
chiều dài cuộc chiến đã trải rộng trong Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh:
Chúng tôi có những kỷ niệm riêng, những bài học, những điều để nghĩ
Chúng tôi đầy rừng tắm giặt, hái rau, đào hầm, mơ mộng sống đời thường suốt
cuộc đời chiến tranh, yêu đời lính, yêu luôn gian khổ
Lính sáu chín, lính bảy hai, lính tái ngũ còn giữ nguyên chức vụ quân hàm, ríu
rít giọng Nam, giọng Bắc lính xe tăng đột phá, lính pháo binh cõng lửa qua sông,
làm sao anh quen, làm sao anh nhớ hết;
Làm sao có thể gọi tên hàng vạn người trong một chữ nôm na như cây rìu, cây
dựa khi chúng tôi cầm chân giữa ba mặt kẻ thù; điện thoại chôn ngầm dưới đất,
chằng chịt rễ cây chiến dịch, mệnh lệnh truyền qua suối qua nương.
23
Dù hăm hở đến đâu, bước chân anh cũng không sao đến được các trung đoàn,
trung đoàn hành quân, trung đoàn tăng gia, trung đoàn đánh lấn, trung đoàn đánh
luồn sâu vu hồi đánh úp xé kẻ thù trong thế cài răng lược khắp Tây Nguyên.
Chỉ riêng trong cuốn Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) chúng
tôi đã thống kê được 40 tác giả thơ sáng tác vào giai đoạn 1975 - 1986 trên tổng số

110 tác giả thơ được người tuyển chọn đặt ở phần “Sau 1945”. Điều này chứng tỏ
rằng thơ văn xuôi đã thực sự trở thành một phần trong sáng tác của các nhà thơ thế
hệ này. Có những tác giả thơ trước sau vẫn chỉ viết một thể thơ duy nhất: thơ văn
xuôi, ấy là nhà thơ Lê Văn Ngăn.
“Chiến tranh đã đi qua, nhưng nó chưa bao giờ trở thành quá khứ trong cuộc
đời của những người lính đã từng tham gia trận mạc. Những hồi ức đau thương,
những thực tế dữ dội của chiến tranh luôn ám ảnh họ.”[36;116].
Chiến tranh lùi xa, con đường mòn Trường Sơn bao giờ tôi trở lại? Đâu cái
giếng nước hoà máu người tôi uống trong cơn khát, gốc cây rào rào bầy mối đục
mòn đêm. Đâu năm ngôi mộ vô danh đắp đầy bằng nỗi đau nước mắt . Nơi cánh
rừng có nhiều đom đóm bay.
(Nguyễn Đức Mậu, Cánh rừng nhiều đom đóm bay)
Những trăn trở, suy tư, cả những dòng suy tư triết lý và những cảm xúc sôi trào,
những điều mà cái khuôn khổ gò bó của các thể thơ truyền thống không cho phép
các nhà thơ bộc bạch hết được nay có cơ hội mở ra:
Tôi xoay những ô vuông. Những sắc màu chưa đồng nhất. Rubíc một trò chơi kỳ
lạ. Chúng ta phải vất vả bao nhiêu để sắp xếp lại những ý nghĩ. Có hàng tỉ cách sắp
xếp. Rubíc - đó là cấu trúc của thơ.
(Thanh Thảo, Khối vuông ru-bích)
Hiện thực của cuộc sống, những trạng thái tình cảm trong tâm hồn vừa cụ thể,
vừa phức tạp của con người sau chiến tranh và trước cuộc sống mới đã đi vào thơ
văn xuôi bằng những trải nghiệm chất chứa bao suy tưởng của các nhà thơ. Người
đọc sau những bài thơ ấy không thể không ám ảnh, nghĩ suy, trăn trở.
24
Thơ văn xuôi giai đoạn 1975 - 1985 là một bước phát triển của thể loại trong
tiến trình văn học Việt Nam nói chung. Sự phát triển của nó khiến chúng ta hy vọng
về một thể loại văn học không ồn ào nhưng lại rất đáng chú ý này.
I.2.2.4. Từ 1986 đến nay
Từ 1986 đến nay, thơ văn xuôi vẫn luôn khẳng định được chỗ đứng trong thơ ca
Việt Nam. Một thời đại mới đã mở ra trước mắt ta. Cuộc sống mới với những bộn

bề, gai góc và cả những thách thức mới Thế hệ của những người trẻ luôn muốn
nói lên tiếng nói của chính mình, tiếng nói bản thể. Lớp trẻ có phần dễ hoà nhập với
thơ văn xuôi vì đó là lối thơ phóng khoáng, dễ có được cảm giác tự do. Có lẽ vì tất
cả những điều đó và còn hơn thế nữa khiến những bài thơ văn xuôi, những người
làm thơ văn xuôi trở nên nhiều hơn. Những người đã từng làm thơ văn xuôi (trước
1986) nay vẫn tiếp tục làm thơ văn xuôi. Thế hệ thơ trẻ (lớp nhà thơ xuất hiện vào
những năm 90 của thế kỷ XX) hầu hết đều thử nghiệm thể loại thơ này và nhiều
người thành công với nó.
Khảo sát cuốn Thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) chúng tôi tiếp tục nhận
thấy sự phát triển của thơ văn xuôi Việt Nam qua số lượng các nhà thơ có những
sáng tác bằng thơ văn xuôi. Kết quả cho thấy số lượng người sáng tác ngày càng
nhiều hơn. Riêng ở giai đoạn 1986 đến nay, số lượng các nhà thơ sáng tác trước
1986 tiếp tục làm thơ văn xuôi ở giai đoạn sau (29 tác giả) cộng với số lượng các
nhà thơ thế hệ sau đổi mới (22 tác giả) đã cho thấy thơ văn xuôi ngày càng phát
triển. Cuốn Thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) được xuất bản từ 1997. Đến
nay đã hơn 10 năm, rất nhiều những người trẻ tuổi làm thơ tiếp tục khẳng định vị
thế ngày càng mở rộng và lớn mạnh của thơ văn xuôi trong tiến trình phát triển thơ
ca hiện đại Việt Nam. Họ làm thơ văn xuôi để được trải lòng mình một cách đầy đủ
hơn, rõ nét hơn. Họ làm thơ văn xuôi để những hiện thực phức tạp của cuộc sống
được mở ra từ những điểm nhìn khác nhau, để những biến thái tinh vi, những rung
cảm phức tạp trong tâm hồn của con người hiện đại sẽ được nhìn bằng cái nhìn
nhiều chiều hơn.
Hãy xem những suy nghĩ của Trần Anh Thái trong bài thơ Trên đường:
25

×