Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Giáo án Bài giảng về: Đề cương ôn tập thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh (Full)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.49 KB, 26 trang )

CÂU 1: Đồng chí hãy phân tích: Nguồn gốc hình thành tư tưởng
HCM, làm rõ mối quan hệ giữa các nguồn gốc đó và khẳng định
nhân tố có vai trò quan trọng nhất.
(Truyền thống dân tộc - Tinh hoa văn hóa nhân loại - Chủ nghĩa
Mác-Lênin - Chủ quan của Hồ Chí Minh).
Bài làm

Chủ tịch HCM - vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới,
điều đó đã được dân tộc VN và cả nhân loại ngày nay thừa nhận. Với
thiên tài trí tuệ của mình, với lòng yêu nước nồng nàn và thương dân sâu
sắc, Bác - từ một con người giản dị bình thường đã trở thành nhà tư
tưởng vĩ đại, một nhà lý luận thiên tài của cách mạng VN. Người là sự kết
tinh những giá trị tinh hoa nhất của văn hóa dân tộc và của nhân loại, là
bước phát triển mới của CN Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của VN. Tư
tưởng ấy có giá trị vô cùng to lớn, định hướng cho CM VN trong hơn nữa
thế kỷ qua, góp phần thúc đẩy tiến trình văn minh, tiến bộ của nhân loại.
Hiện nay tư tưởng HCM đang tiếp tục soi đường cho CM nước ta trong
sự nghiệp đổi mới, cương lĩnh của Đảng ta năm 1991 đã xác định:” Đảng
lấy CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động”. Đây là kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc thực
tiễn lịch sử Đảng ta và CM VN từ khi có Đảng lớn Hội nghị TW 6 (lần 2)
khóa 8 khi bàn về quyết định những nhiệm vụ cơ bản và cấp bách trong
công tác xây dựng Đảng, một lần nữa khẳng định quan điểm có tính
nguyên tắc của Đảng là:” Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”.
Tư tưởng HCM là sản phẩm của sự kết hợp sáng tạo CN Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, là lý luận
chiến lược CM d.tộc, dân chủ nhân dân tiến lên CNXH, là khoa học
về quy luật phát triển xã hội thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế chưa
phát triển, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân VN
trong thời đại mới. Hay có thể nói đó là một hệ thống những luận


điểm về cách mạng VN từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến
lên CNXH nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và con người,
xây dựng một nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, góp phần vào CM thế giới.
Tư tưởng HCM hình thành và phát triển từ trong quá trình Người
tham gia các hoạt động tìm đường cứu nước, từ những kinh nghiệm
phong phú được tích lũy qua quá trình hoạt động phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế và thực tiễn lãnh đạo CM VN, tư tưởng
của người được hình thành không tách rời những nguồn gốc xã hội
lúc bấy giờ.
Hồ chủ tịch là người kế thừa xuất sắc những giá trị truyền thống
văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Đó là truyền thống kiên cường bất khuất, nhân nghĩa, yêu
chuộng tự do hòa bình, đoàn kết cộng đồng d.tộc. Bác là người tiếp
thu, nhận thức rất sớm và sâu sắc những truyền thống tốt đẹp đó.
Trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than dưới hai tầng áp
bức bóc lột chính là nguồn động lực hun đúc cho Bác hình thành
nguồn gốc tư tưởng đầu tiên của Người, nguồn gốc đó là toàn bộ
tinh hoa văn hóa VN được kết tinh qua hàng ngàn năm dựng nước
và giữ nước, nổi bật nhất là chủ nghĩa yêu nước VN.
Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, điều đó đã được chứng minh
trong lịch sử và cả thế giới ngày nay thừa nhận, sống trên một mảnh
đất không rộng người không đông, mảnh đất của bao thời kỳ giặc
ngoại xâm qua lại, nhiều kẻ thù mạnh hơn gấp bội, qua các thời kỳ
giặc ngoại xâm phương Bắc: từ Triệu, Đnh, Lý, Trần bao đời xây nền
độc lập… đã đánh bại các triều đại Tần, Hán, Đòng, Nguyên, Minh,
Thanh, sản sinh ra các anh hùng hào kiệt từ hai bà Trưng, Lý
Thường Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung. Từ thời kỳ Pháp xâm lược với
chính sách người dân, hòng xóa tên VN trên bản đồ thế giới cũng
không khuất phục được nhân dân ta. Nhiều sĩ phu yêu nước đã tập

hợp lực lượng chống lại thực dân Pháp, khởi nghĩa nổ ra khắp nơi
như Ba Đình, Bãi Sậy, phong trào Đông kinh nghĩa thục với các tên
tuổi của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan
Chu trình…khởi nghĩa. Ở Thái Nguyên, Yên Bái. Chủ nghĩa y6eu
nước, truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường đã thúc giục
những con người ưu tú, trong đó có Nguyễn Tất Thành, quyết ra đi
tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó cũng là tư tưởng, tình cảm chi
phối mọi suy nghĩ và hành động của HCM trong suốt cuộc đời. Người
nói:” Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
Nói về Chủ nghĩa Mác LêNin, HCM khẳng định:” đó là vũ khí tư
tưởng không gì thay thế được, nó là cẩm nang, là mặt trời soi sáng
ta đi tới CNXH, CNCS” với phép biện chứng duy vật đã giúp Bác có
được tư duy và phương pháp luận đúng đắn, nhờ đó Bác đã thành
công trong trong quá trình hoạt động CM, gần mười năm bôn ba qua
nhiều châu lục, khảo sát thực tiễn qua nhiều nước Tư bản và thuộc
địa, Bác đã sớm nhận thức được xu hướng của thời đại, từ một
người yêu nước, từ nhận thức hết sức nhạy bén, sáng tạo và trí tuệ
sáng suốt Bác đã gặp CN Mác-Lênin như một cuộc hẹn hò từ trước”
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đã soi sáng
và tạo ra những bước ngoặt phát triển tư tưởng của HCM, từ yêu
nước chưa có định hướng chuyển sang lập trường của CN M-Lê nin
và Người đã rút ra kết luận : ”Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”.
Đó là cuộc CM dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng tiên phong của giai
cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc phong kiến và tay
sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến
lên làm CM XHCN, xây dựng CNXH và CNCS Ở VN. Đó là đường lối
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp CN yêu nước

và CN quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Đối với tông giáo, Bác hiểu rất sâu sắc, vận dụng rất sáng tạo của
Nho giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác như việc liên hệ đạo đức
người CM với đạo tam tài, trời, đất. Bác nói:” Ông Mác có phép
DVBC, ông Khổng có đức trí dũng con người, Đức chúa Giêsu có
lòng nhân ái, Đức phật Thích ca có lòng từ bi bác ái, Tôn Dật Tiên có
chủ nghĩa tam dân. Nếu các vị ấy còn sống thì chắc họ sẽ sống hoàn
mỹ với nhau, bởi vì các vị đó có một điểm chung là muốn giải phóng
con người, giải phóng nhân loại, tôi nguyện làm người học trò nhỏ
của các vị ấy”.
Những giá trị tốt đẹp ấy đã trở thành nguồn gốc rất quan trọng
trong quá trình hình thành nhân cách, tư tưởng HCM trong cuộc đời
và sự nghiệp đã làm cho nhiều người nể phục. Bác ra đi tìm đường
cứu nước năm 1911, hoạt động Ở nước ngoài 30 năm, qua nhiều
quốc gia châu lục hành trang của Người là chủ nghĩa yêu nước và
văn hóa VN. Năm 1923, tại đại hội quốc tế V tại Liên Xô, một nhà thơ
Liên Xô đã từng nhận xét:” Từ Nguyễn ái Quốc tỏa ra một nền văn
hóa, không phải là văn hóa Châu âu mà có lẽ là văn hóa tương lai”,
lời tiên đoán đó sau 67 năm đã trở thành hiện thực vào năm 1990 khi
UNESCO công nhận HCM “ vị anh hùng giải phóng dân tộc của VN
và là một nhà VH lớn”.
Từ bản lĩnh, phẩm chất, tính cách của HCM cho ta thấy, ngay từ thuở
nhỏ Bác đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu tính nhân ái và
sớm có ý thức Y.nước, cứu nước, tự tin vào mình, Bác coi trọng Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh nhưng không tán thành con đường đi của các
bậc tiền bối ấy. Ở con người Bác có linh khiếu chính trị cộng với nghị lực
phi thường nên Bác đã rất thành công trong lãnh đạo CM. Với hai bàn tay
Bác đã quyết tâm xa quê đi tìm đường cứu nước mà lòng quặn đau nỗi

nhớ:” Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi”. Nhờ vào sức lực trí
tuệ, vượt mọi gian khó mà Bác đã chiến thắng tất cả, ta thử tưởng tượng
trong hoàn cảnh hiện nay, lớp trẻ phải làm gì để học tập người thanh niên
ấy. Sống trong lòng CNTB, thực dân, với khả năng, tư chất thông minh,
Bác không màng, không tưởng tới bất cứ một điều gì cho mình, một mình
đến với CN M-Lê nin, tự ghiền nghiền ngẫm, so sánh, đối chiếu với thực
tiễn để chọn đó làm lý tưởng cho bản thân, cho d.tộc, bác quả là một
người vĩ đại- một con người mà:
Giàu sang không thể quyến rũ.
Nghĩa khí không thể chuyển lay.
Uy lực không thể khuất phục.
Kể cả khi trở thành người đứng đầu Đảng và nhà nước Bác vẫn là con
người hết sức dung dị, bình thản nhưng rất vĩ đại. Nhân dân ta gọi người
là Bác, cả đời người là của nước non. Cơ sở nội tại, nhân tố chủ quan
trong con người HCM là một trong những cơ sở hình thành tư tưởng của
Bác.
Như vậy, qua phân tích tư tưởng HCM, cùng với nguồn gốc nội tại, có
3 nguồn gốc cơ bản đó là: CN Mác-Lênin, chủ nghĩa yêu nước và truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong các nguồn gốc hình thành nên tư tưởng HCM, chủ nghĩa yêu
nước là cơ sở ban đầu và động lực thúc đẩy Người tự giác đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, còn CN Mác-Lê nin đã nâng CN yêu nước lên một
bước phát triển mới về chất phù hợp với thời đại mới. CN Mác-Lê nin là
nguồn gốc trực tiếp và chủ yếu của tư tưởng HCM.
Tinh hoa văn hóa nhân loại đã giúp cho HCM hiểu sâu sắc hơn CN
Mác-Lê nin, làm phong phú bản sắc tư tưởng của Người, do kết hợp
được dân tộc với thời đại, phương Đông với phương Tây và nâng tầm
văn hóa chính trị của Người ngang tầm với thời đại. Tư duy HCM hình
thành là sự tổng hợp, chắt lọc tư duy độc lập qua trí tuệ và nhân cách lớn
của Người. Trên cơ sở một bản lĩnh chính trị kiên định và cốt cách văn

hóa độc đáo của Người. Đó là kết quả tổng hợp quá trình đấu tranh lâu
dài trong thực tiễn, hiểm nguy, gian khó qua nhiều châu lục, một quá trình
học tập, tích lũy kinh nghiệm sống và chiến đấu của Người.
Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM đã quy định tính cách mạng,
khoa học của tư tưởng đó. Tư tưởng HCM là kết quả của sự vận dụng
sáng tạo CN Mác-Lê nin trong điều kiên cụ thể của nước ta. Tư tưởng
HCM là tài sản tinh thần quý báu của toàn Đảng, toàn dân tộc ta đã đang
và sẽ biến thành sức mạnh vật chất soi đường chỉ lối cho dân tộc ta đi
tiếp chặng đường đổi mới, xây dựng CNXH.
Tính khoa học sáng tạo của HCM đã được lịch sử đấu tranh CM
70 năm qua kiểm chứng, trải qua bao khúc quanh của lịch sử dân tộc
và những biến cố khắc nghiệt của d.tộc, thời đại, tư tưởng của Bác
vẫn luôn cùng con cháu thời đại HCM vững bước đi tới mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, tư tưởng đó là niềm tự
hào của mọi thế hệ VN. Dưới ánh sáng của CN Mác-Lê nin và tư
tưởng HCM, toàn Đảng, toàn dân ta càng vững tin vào thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng. Mỗi CB, đảng viên và
người dân VN cần phải ra sức học tập, rèn luyện tu dưỡng theo tư
tưởng của Người góp phần xây dựng một nước VN độc lập, thống
nhất bền vững trong thời đại ngày nay, tư tưởng HCM vẫn sống mãi
với non sông VN./
Câu 2

: Làm rõ những sáng tạo của HCM trong tư tưởng
G.phóng dân tộc.
Nguồn gốc của tư tưởng (lý luận, thực tiễn); từng nội dung, so
sánh với các tư tưởng khác, với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
của quốc tế cộng sản để thấy rõ sáng tạo trong tư tưởng HCM; ý
nghĩa p.pháp luận.
TRẢ LỜI


:
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là hạt nhân cốt lõi, là tư
tưởng trung tâm, xuyên suốt toàn bộ học thuyết tư tưởng HCM.
Tư tưởng yêu nước “không có gì quí hơn độc lập tự do” luôn
luôn đứng ở hàng đầu trong bản giá trị tinh thần VN, nhưng
trước Nguyễn Ái Quốc, HCM nó vẫn dừng lại ở chủ nghĩa yêu
nước truyền thống. Điểm khác biệt giữa HCM và các lãnh tụ yêu
nước tiền bối là ở chỗ người đã gặp được thời đại ta đã tìm thấy
con đường giải phóng dân tộc trong quĩ đạo cuộc CM vô sản. Vì
vậy ngay từ khi bắt gặp luận cương của Lê nin hình thành đường
lối cứu nước, giải phóng dân tộc, ở HCM đã có sự gắn bó thống
nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH.
Tư tưởng HCM về con đường giải phóng dân tộc:
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ 20, tư tưởng về con
đường giải phóng dân tộc ở HCM khẳng định trong một luận đề
nổi tiếng: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng chỉ có thể sự nghiệp của
CNCS và cuộc cách mạng thế giới”
Tư tưởng HCM về con đường giải phóng dân tộc là thực
hiện sự kết hợp hài hòa giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH. Nội dung
của thực thể này được HCM xây dựng thành một hệ thống luận
điểm dưới đây.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường cách mạng vô sản: thất bại của các phong
trào yêu nước cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là do chưa có đường
lối đúng, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới,
Nguyễn Ái Quốc ví chủ nghĩa đế quốc là “con đỉa 2 vòi”, một vòi
bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại

chủ nghĩa đế quốc cùng một lúc cắt cả 2 vòi của nó đi, tức là
phải thực hiện cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phải xem cách mạng ở thuộc địa
như là một trong những cái cứu cánh cách mạng vô sản, cùng
tiến bước với cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc khẳng
định: muốn cách mạng giải phóng dân tộc thành công trước hết
phải có Đảng Cách mệnh … Đảng có vững thì cách mạng mới
thành công … Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng
cốt … bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
.nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Mác - Lê nin.
Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của
toàn dân trên cơ sở liên minh công nông do Đảng cộng sản
lãnh đạo. cách mạng giải phóng dân tộc1theo Nguyễn Ái Quốc
là việc chung ca dân chúng chứ không phải việc của một hai
người, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sỉ, nông, công, thương đều
nhất trí chống lại cường quyền. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi
đó không được quên cái cốt của nó là công nông và do Đảng
lãnh đạo. Phải nhớ: “công nông là chủ cách mệnh … công nông
là gốc cách mệnh, nhưng phải có Đảng cộng sản lãnh đạo thì
mới đoàn kết được và CM mới thành công.
Cách mạng giải phóng dân tộc được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế một thời gian dài đã tồn tại
một quan điểm xem thắng lợi của CM thuộc địa phụ thuộc trực
tiếp vào thắng lợi của CM vô sản ở chính quốc. Quan điểm này
vô hình chung đã làm giảm tính năng động sáng tạo của các

phong trào CM ở thuộc địa.
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống
của chủ nghĩa đế quốc do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ
nghĩa y.nước và tinh thần D.tộc, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái
Quốc đã khẳng định rằng CM thuộc địa không những không phụ
thuộc và CM vô sản ở chính quốc mà có thể và cần phải tiến
hành trước và bằng thắng lợi của mình, nó có thể giup đở những
người anh em mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất
to lớn, một cống hiến rất quan trọng vào khủng hoảng tàng lý
luận Mác - Lê nin.
Cách mạng giải phóng dân tộc phải được th.hiện bằng con
đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng và
lực lượng vũ trang của nhân dân. Hội nghị Ban chấp hành TW
Đảng lần thứ 8 tháng 5-1941dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc
đã đưa ra quyết định: cuộc CM Đông Dương kết liễu bằng mọi
cuộc khở nghĩa vũ trang mở đầu có thể là khở nghĩa từng phần
trong từng địa phương … mà mở đường cho cuộc tổng khở
nghĩa to lớn. Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang người đã
về nước chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán
bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội
du kích vũ trang chủ động đón thời cơ, chóp thời cơ, phát động
tổng khởi nghĩa tháng 8 giành thắng lợi trong cả nước.
Thấu hiểu sâu sắc chính sách tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc là
chủ nghĩa đế quốc Pháp và từ những kết luận rút ra qua khảo
sát, nghiên cứu phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở một
số nước thuộc địa như: Aán Độ, HCM chỉ rõ: muốn giải phóng
dân tộc phải thực hiện con đường CM bạo lực. Năm 1947, nhân
dịp kỷ niệm ngày thành lập G.phóng quân VN. Người khẳng định:

D.tộc VN nhất định phải được giải phóng. Muốn G.phóng thì phải
đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực
lượng quân sự. Muốn có LL lượng thì phải có tổ chức. Muốn tổ
chức thành công thì phải có kế hoạch, có quyết tâm.”
Trong quá trình lãnh đạo CM nhờ biết kế thừa truyền thống và
kinh nghiệm đánh giặc giữ nước của dân tộc, vận dụng sáng tạo
lý luận bạo lực CM của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tiếp thu tinh hoa
lý luận và kinh nghiệm quân sự của thế giới. HCM đã đẻ ra và
hoàn chỉnh dần lý luận về bạo lực CM ở VN.
Theo HCM, bạo lực CM ở VN là sức mạnh tổng hợp của hai yếu
tố chính trị và quân sự, hai lực lượng là lực lượng chính trị quần
chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. CM bạo lực là sử dụng
sức mạnh tổng hợp để chống lại bạo lực phản CM, giành lấy
chính quyền và bảo vệ chính quyền dưới hình thức đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang.
Khẳng định G.phóng D.tộc phải bằng con đường CM bạo lực.
Song, HCM luôn luôn chủ động, tích cực đưa ra giải Pháp để
tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển CM. Thực tiễn CM VN
đã chứng minh tư tưởng này của HCM.
Tư tưởng về D.tộc và CM G.phóng D.tộc là một nội dung lớn,
nổi bật trong hệ thống tư tưởng HCM. Với tư tưởng này HCM
chẳng những đã đưa nước VN đến độc lập tự do, thống nhất trọn
vẹn, mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp G.phóng các D.tộc
thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới.
Với những đóng góp đó HCM đã được nhân dân tôn vinh là nhà
G.phóng D.tộc và nhà văn hóa lớn.
Tóm lại, Nguyễn Ái Quốc – HCM đã vận dụng sáng tạo học
thuyết của chủ nghĩa Mác - Lê nin về CM thuộc địa thành một hệ
thống luận điểm mới, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến
lược, sách lược, phương pháp tiến hành CM G.phóng D.tộc ở

thuộc địa.
Thắng lợi CM tháng 8 và cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp đã chứng minh hùng hồn tính khoa học đ.đắn, tính CM
s.tạo của tư tưởng HCM
Tư tưởng về D.tộc và CM G.phóng D.tộc là một nội dung lớn nổi
bật trong hệ thống tư tưởng HCM. Với tư tưởng này HCM chẳng
những đã đưa nước VN đến độc lập tự do, thống nhất trọn vẹn,
mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp G.phóng các D.tộc thuộc
địa và phụ thuộc trên thế giới. Với những đóng góp đó HCM đã
được nhân loại tôn vinh là anh hùng G.phóng D.tộc và nhà văn
hóa lớn.
CÂU 3

: Phân tích cơ sở để Hồ Chí Minh lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa XH.
a)-

Cơ sở lý luận.
Vận dụng và quán triệt quan điểm duy vật về lịch sử của học
thuyết Mácxít. Hồ Chí Minh quan niệm lịch sử XH loài người là
một quá trình tự nhiên của sự thay thế lần lượt các phương thức
SX, Hồ Chí Minh nghiên cứu lý luận hình thái KT XH của chủ
nghĩa Mác - Lê nin , học thuyết này cho rằng sự phát triển của XH
loài người là sự thay thế nhau của các học thuyết KT XH. Chính vì
thế, XH TBCN nhất định sẽ được thay thế bằng XH CSCN ma giai
đoạn đầu của nó là chủ nghĩa XH. Sự thay thế này được thực
hiện nhờ hai tiền đề quan trọng là sự phát triển của lực lượng SX
và sự trưởng thành của giai cấp vô sản. Sự thay thế này là một
quá trình lịch sử tự nhiên.
XH loài người phát triển theo hướng đi lên với những hình thái

ngày càng cao hơn về chất. Nếu chế độ tư bản tất yếu ra đời từ
chế độ PK thì CNTB cũng sẽ xác lập các tiền đề khách quan để tự
phủ định chính nó. Tiến lên chủ nghĩa XH là qui luật vận động
khách quan của lịch sử trên phạm vi toàn thế giới. Kết luận này
của Hồ Chí Minh hoàn toàn tuân thủ các nguyên lý phổ biến của
học thuyết Mác - Lê nin và hình thái KT XH.
Nhưng ở mỗi nước tùy theo đặc điểm điều kiện của mình ma
không nhất thiết phải tuần tự tuân theo các giai đoạn phát triển
của hình thái KT XH , có thể bỏ qua một, hai giai đoạn (My,û Úc
không có giai đoạn PK) Lê nin đã phát triển tư tưởng CM không
ngừng của Mác và Aêng để luận chứng một cách toàn diện khả
năng đi tới chủ nghĩa XH bỏ qua chế độ TBCN của các dân tộc
thuộc địa. Trên nền lý luận chung đó Hồ Chí Minh đã lĩnh hội
những vấn đề mấu chốt cho dân tộc mình. Theo Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa XH là sự phát triển tất yếu không chỉ đối với đã qua
CNTB mà còn có đối với VN.
Mặt khác, Hồ Chí Minh không phải trên cơ sở phân tích sự chín
muồi của cơ sở KT làm xuất hiện chủ nghĩa XH như là một
phương thức cần thiết để giải quyết những mâu thuẫn của CNTB ,
mà người chú ý đến một phương diện khác không kém phần quan
trọng là chủ nghĩa XH ra đời chính từ sự tàn bạo của CNTB. Tại
các nước thuộc địa, những hình thức bóc lột nô dịch của bọn thực
dân làm bộc lộ những khuyết tật phi nhân tính bẩm sinh không thể
khắc phục được của CNTB. Đó là cơ sở để người lao động ý thức
giác ngộ sứ mệnh lịch sử của mình, nhất là đối với giai cấp công
nhân – giai cấp tiên tiến CM , trước vận mệnh quốc gia dân tộc ,
chờ thời cơ để vùng dậy thủ tiêu xiềng xích thực dân, thực hiện
sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng chính họ thoát khỏi
bất kỳ một hình thức áp bức bóc lột nào.
Về cơ sở thực tiễn, xuất phát từ truyền thống văn hóa lịch sử

dân tộc Việt Nam có lòng vị tha nhân ái. Trong XH PK Việt Nam
cũng xuất hiện nhiều mầm mống tư tưởng XHCN: đề cao dân chủ,
lấy dân làm gốc (Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi …)
Việc đoàn kết xây dựng làng xóm, lối sống cộng đồng cũng nói
lên được nhân tố XHCN sớm hình thành trong con người Việt
Nam. Đồng thời như chúng ta đã biết Hồ Chí Minh đã kế thừa có
chọn lọc những mặt tích cực của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo
như trọng hiền tài, đạo đức , văn hóa , mong muốn XH tốt `. Đây
cũng là những cơ sở hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về đi
lên chủ nghĩa XH ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh là con người sống hòa nhập vào thực tiễn tệ luôn
luôn gắn bó lý luận với thực tiễn. Người sinh ra và lớn lên trong
XH PK nên có điều kiện, cơ hội nhìn thấy những bất công, áp bức
của giai cấp thống trị, bọn cường hào ác bá đối với quần chúng
nhân dân.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, giai cấp thống trị đã cấu
kết với thực dân Pháp áp bức nhân dân ta nặng nề hơn. Tại các
nước thuộc địa trong đó có VN, bọn thực dân áp dụng bóc lột , cai
trị dã man, tàn bạo để vơ vét tài nguyên, của cải quí giá đem về
chính quốc.
Chính từ đó đòi hỏi bức xúc cần phải giải phóng dân tộc thoát
khỏi xiềng xích thực dân, nảy sinh ý thức giác ngộ dân tộc, giác
ngộ giai cấp , chủ nghĩa XH, chủ nghĩa cộng sản với tư cách là
một chế độ XH có khả năng phá bỏ hoàn toàn mọi xiềng xích , nô
dịch.
Đánh giá về vị trí lịch sử và chức năng XH của các cuộc CM dân
chủ tư sản , Hồ Chí Minh cho rằng những cuộc CM ấy không triệt
để.
Trong quan niệm của HCM cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt
để của một cuộc CM không phải là những lý tưởng , khâu khẩu

hiệu được nêu ra mà là qui mô giải phóng quần chúng lao động bị
áp bức. CM dân chủ tư sản , do bản chất của nó chỉ là sự thay thế
một hình thức áp bức bóc lột này bằng hình thức áp bức bóc lột
khác, đại bộ phận người lao động vẫn sống cực khổ. CM Việt
Nam không thể lập lại những vết xe của các cuộc CM tư sản ấy.
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng: CM tháng 10 Nga là cuộc
CM nằm trong dòng chảy liên tục của quá trình giải phóng con
người. Xét về bản chất , CM tháng 10 như là sự nỗi trội vượt xa
và khác hẳn các cuộc CM XH đã từng diễn ra trong lịch sử trước
đó. Đảng cộng sản đã lãnh đạo quần chúng nhân dân đánh đổ địa
chủ giai cấp tư sản đem lại tự do cho nhân dân lao động, đồng
thời giúp cho các dân tộc khác giải phóng. Nhờ cuộc CM đó mà
nhân dân lao động đã làm chủ nước nhà, những dân tộc nhỏ yếu,
giành được độc lập ruộng đất trở về tay người dân cày.
Đối với Việt Nam , Hồ Chí Minh khẳng định muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường CM
vô sản , con đường CM tháng 10.
Đặt CM giải phóng dân tộc nằm trong phong trào CM vô sản, gắn
độc lập dân tộc với chủ nghĩa XH đã khiến quan điểm giải phóng
dân tộc của Hồ Chí Minh mang tính toàn diện và triệt để. Trong
điều kiện Việt Nam, độc lập dân tộc là tiền đề đầu tiên để tiến tới
chủ nghĩa XH , đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Độc lập dân tộc không phải là mục tiêu cuối cùng của giai cấp
công nhân.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa XH và con đường
đi lên chủ nghĩa XH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đảng và
nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CM Việt Nam. Đó là

tư tưởng về giải phóng dân tộc , giải phóng giai cấp , giải phóng
con người về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa XH. Tư
tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân
ta để giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân
tộc ta. Để giữ vững được mục tiêu chủ nghĩa XH cần phải xây
dựng , chỉnh đốn Đảng , nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng , đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà
nước , phát huy dân chủ , tăng cường Pháp chế.
Khắc phục những biểu hiện : chủ quan, nóng vội , duy ý chí. Tiếp
tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy
Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị nhằm tạo niềm tin trong
quần chúng nhân dân, bảo vệ vững chắc chế độ XHCN. Cần phải
kết hợp hài hòa giữa phát triển KT với thực hiện tiến bộ công
bằng XH , đảm bảo được định hướng XHCN. Cần kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại , nội lực với ngoại lực, phải
biết dựa vào nhân dân , vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực
tiễn, luôn luôn sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời
c
CÂU 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền.
(“Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là độc lập dân tộc, là hòa bình và ấm
no”; Đảng ta là tiêu biểu cho trí tuệ dân tộc và thời đại; là lương tâm, đạo
đức của dân tộc; là ý chí của dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nh.dân
gắn bó với nhân dân.)
TRẢ LỜI:

Là người sáng lập, tổ chức và rèn luyện Đảng ta Hồ Chí Minh
đã quan tâm đặc biệt đến công tác xây dựng đảng. Trong những
di sản tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại, những luận
điểm của Người về xây dựng đảng là bộ phận cực kỳ quan trọng.
Những tư tưởng về đảng của Hồ Chí Minh hết sức phong phú,

toàn diện, sâu sắc, sáng tạo trong đó Người đặc biệt quan tâm
đến vấn đề đảng cầm quyền.
Xuất phát từ lòng yêu nước thương dân và ý chí, bản lĩnh làm
cách mạng đến nơi của mình, Hồ Chí Minh đã khảo sát và tìm
hiểu các kiểu đảng chính trị trên thế giới, nhằm tìm ra nhân tố
thắng lợi công cuộc giải phóng nước nhà.
Từ những kinh nghiệm thực tiễn cùng với sự tiếp thu vận dụng
và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là năm nguyên tắc
xây dựng “đảng kiểu mới” của Lênin, Hồ Chí Minh đã tuân theo
những nguyên tắc ấy và tổ chức thành lập đảng cộng sản Việt
Nam.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có đảng
của cách mạng chân chính, một lòng một dạ phục vụ nhân dân.
Sự lãnh đạo đúng đắn của đảng cộng sản là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ơ nước ta, đảng là sản
phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa yêu nước với phong trào
yêu nước, đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, phải
phục vụ cho được đại bộ phận giai cấp công nhân. Tuy giai cấp
công nhân còn nhỏ bé nhưng có khả năng lãnh đạo cách mạng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của đảng, bản chất
giai cấp công nhân của đảng thể hiện ở chủ nghĩa Mác-Lênin, ở
sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
dân chủ rộng rãi đi đôi với kỷ luật chặt chẽ, thực hiện nghiêm túc
tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, đảng phải là một mối đoàn
kết thống nhất từ trung ương đến cơ sở, từ chủ trương đến hành
động, phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của đảng.
Từ cách mạng tháng Tám 1945 cho đến cuối đời trên cương vị
đứng đầu Nhà nước, đứng đầu một đảng cầm quyền, Người
cùng tập thể lãnh đạo giải quyết không biết bao nhiêu vấn đề lớn

quốc gia trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quân
sự, ngoại giao, những vấn đề của cuộc kháng chiến kiến quốc,
của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, của cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Miền Bắc và sự nghiệp giải phóng Miền Nam thống
nhất nước nhà. Trong đó vấn đề đảng cầm quyền bao giờ cũng
là trung tâm then chốt nhất được Người quan tâm chú ý. Hồ Chí
Minh quan niệm đảng cầm quyền là đảng tiếp tục lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng trong điều kiện đảng đã lãnh đạo quần chúng
nhân dân giành được quyền lực nhà nước và đảng trực tiếp lãnh
đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chức năng quan trọng nhất, cốt lõi nhất của một đảng cầm
quyền là đảng phải lãnh đạo được chính quyền nhà nước. Bảo
đảm cho nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà
nước này thực sự mang bản chất giai cấp công nhân. Bộ máy
công chức nhà nước thực sự là công bộc của dân. Đảng lãnh
đạo chính quyền bằng chính sách và đường lối, chủ trương,
bằng việc bố trí cán bộ, bằng việc kiểm tra giám sát quá trình
thực hiện đường lối đó của nhà nước. Bên cạnh đó đảng phải
lãnh đạo được các tổ chức chính trị xã hội, đồng thời đảng cầm
quyền phải giữ được mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân, đảng
phải thật sự gắn bó máu thịt với nhân dân vì cơ sở xã hội của
đảng là liên minh công nhân-nông dân và tầng lớp trí thức.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn của một đảng
cầm quyền trước hết là đảng phải có lý luận tiên tiến, cách mạng
và khoa học. Người cho rằng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa nòng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo
chủ nghĩa ấy”. Người khẳng định “Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”,
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa

chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”.
Nắm lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin tức là nắm lập trường giai
cấp công nhân- lập trường cách mạng triệt để, đó là quan điểm
cách mạng và khoa học; đó là phương pháp duy vật biện chứng
từ đó thực hành đúng và sáng tạo lý luận chủ nghĩa Lênin trong
hoạt động thực tiễn.
Tiêu chuẩn thứ hai yêu cầu đảng phải có đường lối đúng đắn,
sát hợp. Đó là đường lối phản ánh được mục tiêu của dân tộc,
phản ánh được xu thế phát triển của dân tộc và thời đại. Nó giải
quyết được hài hòa mối quan hệ lợi ích của các tầng lớp, các
giai cấp trong xã hội, giải quyết được những vấn đề bức xúc của
đời sống xã hội.
Để xây dựng đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh, Hồ Chí
Minh yêu cầu đảng phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và xây
dựng đảng. Trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ –đây là
nguyên tắc để phân biệt một đảng có phải là đảng Macxit, đảng
của giai cấp công nhân hay không. Đảng phải thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đảng phải coi phê bình và tự phê
bình là vũ khí sắc bén trong việc xây dựng đảng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với việc xác định tính tất
yếu phải có đảng lãnh đạo thì phải gắn liền với việc thường
xuyên chỉnh đốn đảng nhằm để: giữ gìn sự đoàn kết nhất trí
trong đảng; ngăn ngừa, khắc phục thống nhất quan liêu, tự mãn
và để nâng đảng lên ngang tầm nhiệm vụ.
Trong xây dựng đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh rất coi trọng
vấn đề tư cách đảng viên và vấn đề cán bộ. Người đánh giá rất
cao vị trí của cán bộ trong sự lãnh đạo của đảng. Nếu không có
đội ngũ cán bộ tốt thì đường lối dù tốt đến đâu cũng không thể
trở thành hiện thực được.

Đồng thời với quan điểm về cán bộ, Hồ Chí Minh còn quan tâm
đến công tác cán bộ của đảng, quan tâm xây dựng đội ngũ cán
bộ làm công tác tổ chức cán bộ. Người yêu cầu “Phải hiểu và
đánh giá đúng cán bộ” the những chuẩn mực phù hợp với từng
thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, hoàn toàn công minh,
khách quan. Cán bộ phải được đào tạo từ gốc, đào tạo từ
chuyên môn lẫn lý luận. Việc sử dụng cán bộ theo Hồ Chí Minh
phải “Khéo dùng cán bộ”. Tức là đặt đúng người đúng việc và có
kiểm tra, giúp đỡ thường xuyên để cán bộ đó hoàn thành tốt
nhiệm vụ.
Hồ Chí Minh luôn luôn lưu ý vấn đề tăng cường mối quan hệ
giữa đảng với nhân dân. Người cho rằng phải luôn luôn học hỏi
nhân dân, vận động nhân dân tham gia xây dựng đảng. Phải có
trách nhiệm nâng cao dân trí, phải là người lãnh đạo và là người
đầy tớ trung thành của nhân dân, đồng thời cũng không được
theo đuôi quần chúng.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta
hiện nay, những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đảng
cầm quyền được đảng ta vận dụng và xem là vấn đề then chốt
trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Trước mắt là thực hiện tốt
nghị quyết VI hội nghị BCH trung ương đảng lần 2 khóa VIII về
một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng đảng
hiện nay trên cả ba lĩnh vực: nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống của cán bộ đảng viên và một số vấn đề tổ chức. Về
nhận thức, tư tưởng chính trị phải kiên định mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng, không ngừng củng
cố niềm tin, lý tưởng cho cán bộ đảng viên và nhân dân. Đảng
phải đề ra đường lối đúng đắn, sáng suốt, sát hợp với tình hình
đất nước và xu thế của thế giới. Về tổ chức: Đảng củng cố sắp

xếp lại bộ máy tổ chức trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc tổ
chức và xây dựng đảng, đồng thời làm tốt công tác cán bộ của
đảng, tăng cường công tác phát triển đảng viên, đi đôi với nâng
cao chất lượng đảng viên. Về đạo đức lối sống: trước tình trạng
suy thoái, biến chất về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không
nhỏ của cán bộ đảng viên, đảng ta cần phải tăng cường công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức lối sống, tác
phong cho cán bộ đảng viên, thực hiện có nề nếp việc phê bình
và tự phê bình, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, tệ tham nhũng, quan liêu…để
làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng viên.
Bên cạnh đó, để bảo đảm vai trò của đảng cầm quyền chúng ta
cần tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, cảnh giác và
chống âm mưu phá hoại đảng của các thế lực thù địch trong và
ngoài nước.
Tóm lại, có thể nói những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền và cả những việc làm, tấm
gương đạo đức hàng ngày của Người thật sự là những đóng góp
quan trọng vào việc phát triển học thuyết Mác-Lênin về đảng
cộng sản, về xây dựng đảng nói chung và đặc biệt là đảng cầm
quyền.
Đối với nước ta, những quan điểm tư tưởng đó đã có vai trò cực
kỳ quan trọng trong quá trình rèn luyện, xây dựng đảng ta trưởng
thành như ngày nay và vẫn giữ nguyên giá trị trong điều kiện
đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước theo mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, XH cơ bản, dân chủ, V.minh
CÂU 5: Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước trên cơ sở hiến
pháp và pháp luật ?
(Vị trí của vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật, vì sao?; Nhà
nước phải được xây dựng trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, có hệ

thống P.luật hoàn chỉnh, tiến bộ; có đội ngũ cán bộ, công chức )
1/ Cơ sở hình thành.
Thuở thiếu thời HCM đã tận mắt chứng kiến thực trạng của bộ
máy nhà nước thực dân phong kiến Ở nước ta, đó là một kiểu nhà
nước không thể chấp nhận được. Người nhận thức nhà nước PK
tuy có thời đã có pháp luật, nhưng quyền hành lại tập trung vào tay
nhà vừa, do vậy, thời PK nhà nước là sự thống trị của chế độ độc
tài chuyên chế. Trong xã hội thực dân PK, sự cai trị của NN theo
kiểu chuyên chế, không có luật pháp dân chủ mà theo kiểu toàn
quyền do Pháp đặt ra cho chế độ thuộc địa Ở Đông Dương, cai trị
bằng lệnh, mang dấu ấn cá nhân chứ không thực hiện chế độ ra
các đạo luật thể hiện nhân quyền, bảo đảm về mặt pháp luật.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, HCM đã bắt gặp ánh sáng
chân lý của CN Mác-Lênin. Từ những lý luận của CN Mác-Lênin về
vấn đề nhà nước của GCCN, của đại đa số quần chúng nhân dân
lao động. HCM đã rút ra những quan điểm cơ bản để hình thành tư
tưởng của mình và sau này trở thành đường lối của ĐCSVN là bộ
máy N.nước và pháp luật của CM phải xuất phát từ lợi ích của
dân, do dân và vì dân. Khi giành được chính quyền phải chăm lo
giữ chính quyền, có được chính quyền phải xây dựng nhà nước
của dân, do dân, vì dân, tức là nhà nước phải thuộc về số đông
mới tồn tại được.
Qua theo dõi phát triển cách mạng thế giới, HCM đã rút ra tư
tưởng của mình về vấn đề nhà nước.
Công xã Pari ( 1871 ) thất bại là do tổ chức nhà nước không có
người dân và ít trí thức tham gia, không tạo được sức mạnh toàn
dân.
Các cuộc CMTS Pháp (1789), Mỹ (1776), Anh (1664), Trung
Quốc (1911)… có tiến bộ ( tự do, bình đẳng, bác ái ) nhưng thực
sự là mang tiếng mị dân, chính quyền không thuộc về nhân dân mà

thuộc về số ít người, tức là nằm trong tay giai cấp thống trị, không
vì lợi ích của quần chúng nhân dân lao động.
CM Tháng Mười Nga giành được thắng lợi hoàn toàn, lập ra nhà
nước Xô viết của Công-Nông-Binh.
Qua đó HCM đã chọn con đường CM tháng Mười và kiểu nhà
nước Xô viết, đó cũng là nhà nước theo học thuyết Mác-Lênin.
Bằng sự thiên tài của mình, HCM đã sáng suốt lựa chọn mô hình
nhà nước kiểu mới cho dân tộc Việt Nam: nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
HCM đã thể hiện những tư tưởng đó bằng hành động thực tiễn qua
những giai đoạn của CMVN, từ khu giải phóng Ở Việt Bắc đến lễ
đài tại quảng trường Ba Đình-Hà Nội, với bản tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước kiểu mới
Ở Việt Nam hình thành, ngày 6/1/1946 nước ta tổng tuyển cử bầu
ra quốc hội, ngày 2/3/1946, quốc hội đã cử ra chính phủ chính thức
và các cơ quan n.nước. HCM được bầu làm chủ tịch nước
VNDCCH. Từ năm 1945 đến khi qua đời (1969), trong suốt 24 năm
giữ cương vị chủ tịch nước, trải qua các thời kỳ lúc bình yên, lúc
sóng gió của CM, HCM đã cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng một
nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Dựa trên
cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, tư tưởng HCM về vấn đề nhà
nước là sự chỉ đạo lâu dài đối với CM VN.
2/ Nội dung tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân.
Nhà nước phải thể hiện được bản chất GCCN và tính chất của
dân, do dân, vì dân.
Theo tư tưởng HCM, nhà nước ta là nhà nước của khối đại đoàn
kết toàn dân, mang tính chất nhân dân và mang bản chất GCCN.
Vì nhà nước bao giờ cũng là của GC và phục vụ GC đó. Nhà nước
kiểu mới Ở Việt Nam là nhà nước do Đảng lãnh đạo. Người đã

nhiều lần khẳng định: Đảng ta là một đảng cầm quyền, nguyên tắc
Đảng lãnh đạo nhà nước không bao giờ coi nhẹ. Nhà nước ta đại
diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt đảng phái,
tôn giáo, giàu nghèo, gái trai… Người xác định cái cột lõi: Liên
minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân với tầng lớp trí thức do
GCCN lãnh đạo. Người cũng rất chú ý đến nguyên tắc tập trung
dân chủ. Trong tổ chức và quản lý nhà nước phải thể hiện sự
thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công, phân cấp rõ ràng.
Xây dựng một nhà nước của dân, do nhân dân lao động làm chủ
là điểm cơ bản nhất trong tư tưởng HCM về xây dựng NN. Thực tế
cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 và sau đó quốc hội chính th71c
tổ chức ra bộ máy NN đã thể hiện rõ TT HCM về NN, huy động
toàn thể nhân dân tham gia công việc quản lý NN, nhân dân đóng
vai trò làm chủ NN. Thiết lập quyền bính của nhân dân trong xây
dựng NN, mối liên hệ về trách nhiệm giữa đại biểu quốc hội đối với
cử tri.
Nhà nước là cơ quan quyền lực của nhân dân lao động, nhà
nước phải vì dân, vì lợi ích chính đáng của nhân dân, mọi hoạt
động của NN đều phải hướng tới phục vụ nhân dân. Người chỉ rõ:
Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân ta phải
hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta,
kính ta”. NN phải lo cho dân có ăn, có mặc, có chỗ Ở, được học
hành.
NN chú ý vai trò chuyên chính, vì muốn có dân chủ thực sự phải
chuyên chính thực sự, muốn chuyên chính thực sự phải thực sự
dân chủ với nhân dân.
Không ngừng củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và đào tạo đội
ngũ công chức theo yêu cầu chuẩn hóa. Người cán bộ công chức
phải vừa có đức vừa có tài, phải liên hệ mật thiết với dân, dám
quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, trung thực và luôn có chí tiến

thủ. HCM coi trọng việc chuẩn hóa đội ngũ công chức, đồng thời
lựa chọn người vào đội ngũ cán bộ, công chức NN thông qua biện
pháp thi tuyển ( thể hiện qua sắc lệnh do Người ký năm 1948 và
1950 ).
Xây dựng nhà nước trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Xây dựng hiến pháp rất được HCM chú ý, Người muốn làm càng
sớm càng tốt. Do vậy chỉ sau một năm độc lập, nước ta đã có hiến
pháp (1946). HCM cũng rất quan tâm đến việc ban hành các đạo
luật và sắc luật về từng mặt như tổ chức quốc hội, chính phủ, hội
đồng nhân dân, bảo vệ tài sản, tính mạng nhân dân, hôn nhân gia
đình… và những văn bản dưới luật như nghị định, thông tư…Trong
việc xây dựng hệ thống pháp luật, HCM rất chú trọng tính nhân
văn, với Người, pháp luật là do con người và vì con người. Trong
tổ chức thi hành pháp luật, Người kiên quyết yêu cầu mọi công dân
phải sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, luôn đòi hỏi sự
bình đẳng trước pháp luật.
Trong việc phát huy vai trò và hiệu lực của quản lý của cơ quan
NN, chính phủ, cơ quan NN phải thực sự nghiêm khắc thi hành
chức trách của mình, trong mọi lĩnh vực hoạt động, từ hành chính
đến kinh tế, đối nội cũng như đối ngoại, bảo đảm theo đúng hiến
pháp.
Đối với bản thân đội ngũ công chức trong bộ máy Nhiều NN phải
toàn tâm toàn ý, một lòng một dạ vì dân vì nước mà làm việc đến
nơi đến chốn.
NN tổ chức tốt quá trình giáo dục, động viên quần chúng tham
gia xây dựng NN, xây dựng hệ thống pháp luật và giám sát các cơ
quan cũng như đội ngũ công chức thi hành nhiệm vụ. Đề cao tinh
thần dân chủ, quyền làm chủ của mọi người, làm chủ phải gắn với
kỷ cương, kỷ luật, hiến pháp, pháp luật của NN, thực hiện tốt nghĩa
vụ của người công dân đối với đất nước.

NN kiểu mới Ở Việt Nam phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.
Điều này đã trở thành một nguyên tắc trong xây dựng NN mà HCM
luôn nhấn mạnh. Vì Đảng và NN đều có một mục tiêu chung là bảo
đảm nền độc lập và đi lên CNXH.
Đảng lãnh đạo NN phải thông qua một hệ thống giải pháp, đề ra
cương lĩnh đường lối để NN thực hiện. Bố trí nhân sự cán bộ phải
đúng. Nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên thông
qua việc kiểm tra giám sát. Đồng thời phải luôn rà soát, khắc phục
những hiện tượng cồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ về
tổ chức bộ máy NN, về chính sách pháp luật, kịp thời tìm giải pháp
khắc phục.
Tư tưởng HCM về xây dựng NN trên cơ sở hiến pháp và pháp
luật là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống yêu nước của dân tộc
với lý luận về NN của CN Mác-Lênin bằng nhân sinh quan của
HCM. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, Người đã nêu lên
quan điểm về NN của CMVN là NN của dân, do dân, vì dân. NN
thật sự dân chủ, do nhân dân LĐ làm chủ trên cơ sở hiến pháp và
pháp luật, đồng thời NN phải thể hiện được bản chất của GCCN,
do ĐCS lãnh đạo, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi
hoạt động của NN đều vì lợi ích chính đáng của nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay tư tưởng HCM được Đảng và NN ta
vận dụng trong việc xây dựng NN pháp quyền XHCN dưới sự lãnh
đạo của Đảng được thể hiện bằng những vấn đề sau:
1/ Tiếp tục kiện toàn củng cố tăng cường hệ thống bộ máy và
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức. Kiện toàn tổ chức, đổi mới
phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của quốc hội, tăng
cường công tác lập hiến, hoàn thiện hệ thống pháp luật, sửa đổi,
bổ sung hiến pháp 1992 phù hợp với tình hình mới. Trong công tác
hành pháp, xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, định
rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức NN,

nâng cao tính chủ động Ở cơ sở. Cải cách tổ chức, nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, không để xảy ra trường
hợp oan sai. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và đạo đức
của cán bộ công chức, thực hiện việc thi tuyển công chức, định kỳ
kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ công chức, sắp xếp theo
đúng chức đẩy nhanh, năng lực công tác.
2/ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện, đồng thời phát huy tác dụng
của pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, xây dựng mới, sửa ổi
bổ sung luật cũ, tổ chức thi hành luật nghiêm túc. Phát huy dân
chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế. Nâng cao
chất lượng đại biểu quốc hội, HĐND các cấp, mở rộng dân chủ để
nhân dân tham gia quản lý XH, xây dựng luật trưng cầu ý dân.
Quản lý bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân nâng cao ý
thức chấp hành luật pháp.
3/ Khắc phục những bất cập, yếu kém, chống tệ nạn tiêu cực
trong một bộ phận cán bộ, công chức NN. Đẩy mạnh cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, lợi dụng chức quyền
trong bộ máy NN và toàn bộ hệ thống chính trị, từ TW đến cơ sở.
Thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức về chính trị,
tư tưởng,đạo đức CM. Có hình thức kỷ luật thích đáng đối với
những người có chức có quyền vi phạm pháp luật, gây nghiêm
trọng, gây hại cho dân, cho nước.
4/ Xây dựng NN pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Cải cách tổ chức và hoạt động của NN gắn liền với xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
NN, xây dựng bộ máy NN tinh gọn, nâng cao chất lượng hoạt động
của các tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan NN.
Nội dung tư tưởng HCM về xây dựng NN pháp quyền được Đảng
và NN ta vận dụng thực hiện trong công cuộc xây dựng và đổi mới

đất nước, như ĐH IX của Đảng đã khẳng định:” NN ta là công cụ
chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của dân,do dân, vì dân.
Quyền lực NN là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan NN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. NN quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan,
tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành
hiến pháp và pháp luật./.
CÂU 6: Tư tưởng HCM về đại đoàn kết (cơ sở của việc xác định
khối đại đoàn kết; nguyên tắc, phương pháp xây dựng khối đại đoàn
kết).
Bài làm
Tư tưởng ĐĐK HCM là một hệ thống những luận điểm, những
nguyên tắc, những phương pháp giáo dục và tập hợp tổ chức lực
lượng cách mạng, nhằm phát huy với mức cao nhất sức mạnh của
dân tộc và sức mạnh của thời đại vào sự nghiệp đấu tranh vì độc
lập dân tộc và CNXH.
Đoàn kết là truyền thống quí báu, là sức mạnh vô địch của dân
tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, tư tưởng ĐĐK
HCM là nội dung xuyên suốt và nhất quán trong toàn bộ hệ thống
tư tưởng HCM nói chung và là cơ sở cho chiến lược của Đảng ta,
nhờ đó mà đã dẫn tới những thành công của cách mạng Việt Nam
trong cách mạng dân tộc dân chủ và XHCN.
Tư tưởng ĐĐK HCM được hình thành trên cơ sở truyền thống
đoàn kết, nhân ái, tình cảm trong lối sống tự nhiên và triết lý nhân
sinh của người Việt Nam. Đoàn kết dựa vào dân là tư duy chính trị
và là kế sách giữ nước của ông cha ta (biểu hiện trong thơ các văn
học), và HCM đã kế thừa có chọn lọc những tư tưởng văn hóa của
phương đông có giá trị hợp lý như: tư tưởng nhân ái, tư tưởng đại
đồng, tinh thần từ bi bác ái và những trào lưu dân chủ tư sản
phương tây về tư tưởng tự do bình đẳng, bác ái. Mặt khác HCM

tiếp thu và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin về đoàn kết và tập hợp lực lượng. Người đã thấm
nhuần quan điểm cách mạng của Mác: cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, cho nên
cách mạng muốn mạnh phải đoàn kết các dân tộc, các giai cấp và
các tầng lớp khác thành lực lượng hùng mạnh để chống thực dân
đế quốc và áp bức bất công. Những quan điểm này được đúc kết
thành các khẩu hiệu trong phong trào cộng sản như “GCVS và các
dân tộc bị áp bức trên thế giới đoàn kết lại”.
Xuất phát từ thực tiễn XH Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX lúc này XH bị phân hóa sâu sắc, các giai cấp khác thì có thái
độ khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc, thực dân Pháp dùng
chính sách chia rẽ để tự làm cho mâu thuẫn XH gay gắt thêm.
Phong trào quần chúng chống pháp của Việt Nam lúc này rất sôi
nổi nhưng đều thất bại (hệ tư tưởng phong kiến, tư sản dân chủ
Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu…). HCM đã khảo sát tình hình thế
giới và đi đến kết luận rất quan trọng gắn liền với tư tưởng ĐĐK:
trên thế giới có hai loại người là người bóc lột và người bị bóc lột,
họ có cùng cảnh ngộ, cùng tâm tư nguyện vọng. Vì vậy, họ đoàn
kết lại với nhau để chống kẻ thù chung. HCM cho rằng các phong
trào giải phóng dân tộc chưa thành công là do các nước thuộc địa
chưa đoàn kết trên phạm vi toàn thế giới, HCM đã nghiên cứu các
cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như Công xã Paris (1871),
vì tổ chức không khéo léo, không liên lạc với dân cày nên họ bị
thất bại; còn cuộc cách mạng tháng Mười Nga (1917) dạy chúng ta
muốn cách mạng thành công phải dân chúng là gốc. Mặt khác tư
tưởng ĐĐK HCM được hình thành từ những nhân tố chủ quan của
Người như môi trường giáo dục của gia đình, tư chất thông minh,
bản lĩnh chính trị vững vàng và tính năng động sáng tạo của HCM,
Người sớm tiếp thu với các nhà tiền bối yêu nước (Phan Chu

Trinh, Phan Bội Châu…), có tinh thần phấn đấu vươn lên không
ngừng trong học tập. Trong nắm bắt tri thức của Người, HCM có
bản chất nhân văn, đạo đức trong sáng, lòng rộng lượng bao dung,
lo cho dân, lo cho nước, yêu thương con người và có sức thu hút
rất lớn với mọi người, thu hút được sức mạnh ĐĐK.
Tư tưởng ĐĐK HCM định hướng cho việc xây dựng củng cố, mở
rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng XH, giải phóng con người.
Đoàn kết là truyền thống quí báu của dân tộc ta, đã được HCM
nâng lên tầm cao mới “Đoàn kết, ĐĐK, thành công đại thành công”,
ở đây muốn nói lên phạm vi và đối tượng ĐĐK rất rộng, nhiều tầng,
nhiều lớp.
Đối với Đảng, thì việc đoàn kết trong Đảng là nhân tố hạt nhân
của mọi sự đoàn kết, vì Đảng là người lãnh đạo toàn diện, chỉ có
đoàn kết nhất trí cao trong Đảng thì mới có thể tập hợp đoàn kết
các tầng lớp khác. Đây là một quan điểm luôn được HCM quan
tâm và đã khắc ghi trong di chúc thiêng liêng của Người “Đoàn kết
là cực kỳ quí báu của Đảng ta. Các đồng chí từ TW đến cơ sở phải
giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình”.
Đoàn kết trong nước (toàn dân) là nhân tố quyết định thắng lợi
của cách mạng, đoàn kết toàn dân là đoàn kết tất cả những người
Việt Nam yêu nước, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, đảng phái,
lứa tuổi… thể hiện trong đường lối tập hợp lực lượng, xác định lực
lượng cách mạng rất rộng rãi, bao gồm không chỉ nhân dân, công
nhân, nông dân mà còn cả tiểu tư sản, trí thức, trung nông, phú
nông, trung địa chủ, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc được biểu hiện
thông qua lời kêu gọi toàn dân (đặc biệt là lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến).
Tư tưởng đoàn kết quốc tế được HCM rất coi trọng, mặc dù yếu

tố nội lực là chính, nhưng cũng phải đoàn kết với phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đoàn
kết với phong trào hòa bình, dân chủ thế giới. Bởi vì trong thời đại
mới, kẻ thù mang tính quốc tế, cách mạng mỗi nước là một bộ
phận hữu cơ của cách mạng thế giới, cho nên lực lượng cách
mạng không thể là một lực lượng của một dân tộc mà là phải có
lực lượng to lớn của quốc tế đồng tình ủng hộ.
Tư tưởng ĐĐK HCM phải được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc
bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản của
nhân dân lao động. Trong XH, dân tộc và quốc tế có rất nhiều mối
quan hệ lợi ích chồng chéo: giữa cá nhân và tập thể, giữa gia đình
và XH, giữa bộ phận và toàn thể, giữa giai cấp và dân tộc, giữa
quốc gia và quốc tế. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan
hệ lợi ích này sẽ dẫn đến có đoàn kết hay không đoàn kết. Giải
quyết đúng mối quan hệ dân tộc, giai cấp HCM phát huy những
điểm tương đồng để tập hợp lực lượng cách mạng và khắc phục
những hạn chế, những điểm khác biệt và mâu thuẫn giữa các quốc
gia và các bộ phận. Tư tưởng ĐĐK HCM dựa vào dân, tin tưởng
vào dân, vai trò và khả năng cách mạng của nhân dân, trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân, cho
nên Đảng và Nhà nước ta phải dựa vào dân, phải lấy dân làm gốc
và coi nhân dân là mục tiêu của đường lối chủ trương chính sách
của Đảng. Tư tưởng ĐĐK toàn dân HCM được xây dựng trên
nguyên tắc lấy liên minh công, nông, trí thức làm nền tảng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, vì nó đảm bảo tính giai cấp của khối ĐĐK, bảo
đảm lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên cơ sở
liên minh công nông làm nòng cốt. Liên minh công nông còn là
xương sống của khối ĐĐK, nhằm đảm bảo vững chắc của khối
ĐĐK dân tộc.
Khối ĐĐK của chúng ta là một tập hợp các lực lượng XH có định

hướng chính trị rõ rệt và có tổ chức chặt chẽ, tổ chức cao nhất là
mặt trận dân tộc thống nhất có sự lãnh đạo của Đảng CS Việt
Nam, nó vừa là vấn đề lâu dài và chiến lược, nhưng cũng không
được tuyệt đối hóa vai trò liên minh và mặt trận.
Tư tưởng ĐĐK HCM được xây dựng trên các ph.pháp cụ thể
sau:
Phương pháp tuyên truyền giáo dục và vận động quần chúng:
yêu cầu phương pháp này là nội dung, cách thức tuyên truyền,
giáo dục và vận động quần chúng phải thật sự khoa học nhằm mục
đích làm cho mọi người tự nhận thức được sự cần thiết phải tập
hợp lại, đoàn kết lại để tự giác tham gia gánh vác công việc của
cách mạng. Vì muốn cho dân làm cách mạng phải cho dân hiểu,
dân tin và vận động quần chúng thì phải nói đi, nói lại nhiều lần.
Nội dung tuyên truyền phải cụ thể hóa đường lối chính sách của
Đảng và của Nhà nước thành những mục tiêu chính trị cụ thể để
đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, nội dung phải sát hợp đối
tượng nhằm đánh vào tâm lý thói quen, công việc tuyên truyền
phải thích hợp, cách nói và cách viết phải cụ thể làm cho nhân dân
dễ hiểu.
Phương pháp XD và kiện toàn hệ thống chính trị tức là xây dựng
mặt trận dân tộc thống nhất từ thấp đến cao phù hợp với trình độ
của quần chúng nhân dân. Mặt trận là tổ chức rộng rãi liên quan
đến việc tập hợp, đoàn kết dân tộc. Do vậy mặt trận dân tộc càng
rộng rãi, chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối ĐĐK mạnh mẽ và
bền chặt bấy nhiêu, mặt trận và các đoàn thể phải có cương lĩnh,
có ch.trình hành động rõ ràng đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng
của nh.dân, cán bộ đoàn thể phải gương mẫu, phải yêu dân, tin
dân, học hỏi nhân dân và kính trọng nhân dân.
Phương pháp kế hoạch đồng bộ các giải pháp ứng xử nhằm mở
rộng tối đa lực lượng cách mạng và thu hẹp tối đa lực lượng đối

địch. Theo HCM, chia lực lượng thành ba tuyến (tuyến cách mạng,
tuyến trung gian và tuyến phản cách mạng). Đối với lực lượng
cách mạng phải phát huy điểm tương đồng để tập hợp lực lượng;
đối với lực lượng trung gian phải khơi gợi lòng yêu nước, xóa bỏ
mặc cảm, hợp tác và trọng dụng họ một cách trung thành; đối với
lực lượng phản cách mạng phải chia rẽ, phải phân tán họ để thu
hút những bộ phận nào có thể thu hút được.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần 70 năm qua thể hiện sức
sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng ĐĐK HCM. Từ chỗ
là tư tưởng của lãnh tụ kính yêu trở thành chiến lược ĐĐK của
Đảng và trở thành tình cảm, sức mạnh của cả dân tộc. Sức mạnh
đó là nguồn gốc sâu xa của thắng lợi trong cách mạng Tháng 8
năm 1945, kháng chiến chống Pháp (1945-1954), chống Mỹ cứu
nước (1954-1975)
Bước vào c.cuộc đổi mới, ĐCS Việt Nam ngày càng nhận thức
đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn của tư tưởng
ĐĐK HCM.
Đặc biệt là hơn 15 năm đổi mới vừa qua càng cho phép Đảng và
nhân dân ta nhận thức rõ ràng, lúc nào, nơi nào tư tưởng ĐĐK
HCM được quá trình và thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách
mạng phát triển mạnh mẽ thuận lợi; lúc nào, nơi nào xa rời tư
tưởng ĐĐK HCM thì khi đó, nơi đó cách mạng gặp nhiều khó khăn,
tổn thất. Đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta
thể hiện sâu sắc sự quá trình tư tưởng ĐĐK HCM: “thực hiện ĐĐK
các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần KT , mọi giới ,
mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người
ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành
viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở
nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền
thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy

mục tiêu giữ vững độc lập , thống nhất , vì dân giàu, nước mạnh,
XH công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng
những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc ,
xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, hướng tới
tương lai. Khối ĐĐK toàn dân trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam
luôn luôn được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh
vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức.
Xây dựng khối ĐĐK toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ
trong đời sống XH dưới sự lãnh đạo của d. Thực hiện dân chủ trên
các lĩnh vực chính trị, KT, văn hóa, XH ở tất cả các cấp các
ngành.”(VK NQĐH IX – trang 123,124).
Hiện nay, chúng ta đang đứng trước những vận hội mới đồng
thời cũng có những thách thức mới. Những vận hội và thách thức
đó tác động hàng ngày hàng giờ đến khối ĐĐK dân tộc. Để tiến lên
chúng ta chỉ có con đường là phải kiên trì, vững vàng, quán triệt và
thực hiện tư tưởng ĐĐK HCM , đồng thời chúng ta cũng phải đổi
mới, phát triển những nội dung , phương pháp ĐĐK HCM cho phù
hợp với sự vận động , biến đổi của đời sống KT XH trong nước và
thế giới. Kế thừa, phát triển tư tưởng ĐĐK HCM trong sự nghiệp
đổi mới đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc toàn diện tất cả các

×