Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

36 phong tục tập quán người Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.08 MB, 174 trang )

GS.ll/Ũ NG;ỌC
KHÁNH
sưa lầm, biên so ạn)
3?
phang tục, tập quán
Người Hà Nội
NHÀ XUẤT BẢN
THANH NIÊN
c ò o n g ~ 2 %
ỉ/ơi ẩ<ỵ fw tiĩỉẨ Ẵơa
oăn ẩó(ỉ/ cổân /ọcỉ \/ĩ ề t ,
ẹ § r
\
_
y/h ă n g Long - Hà Nội lù mảnh đât thiêng, nơi
hội tụ những tinh hoa của đất nước. Chiều dài 1.000
năm lịch sử thẳm sâu dó cùng chính là quá trình hun
dúc, kết tinh, hình thành và nuôi dưỡng những giá trị
văn hoá tinh thần, vật chất hết sức đặc sắc của con
người và miền đất Thăng Long - Hà Nội thân thương,
được nhăn cỉân cả nước trân trọng và ngưỡng mộ, được
bạn bè quốc tế thừa nhận và tôn vinh. Có thể tổng kết
những nét cơ bản về lịch sử - văn hóa Thăng Long -
Hà Nội qua những khíci cạnh:
Lịch sử - văn hỏa 1.000 năm Thăng Long - Hà
Nội gắn liền với những biến cố lớn lao, bỉ tráng và
5
hào hùng; những sự kiện chính trị, kinh tế, vân hoá
quan trọng mang tầm vóc quốc gia, quốc tế; trở thành
một phần hết sức quan trọng của lịch sử dân tộc.
Lịch sử - vân hóa 1.000 năm Thõng Long - Hà


Nội cũng dâ hun đúc nên những giá trị về trí tuệ, tính
cách, lối sống, ứng xử, phong tục tập quán, trong
phục Các thế hệ đã đem đến những nét đẹp của địa
phương mình, chắt lọc, hun đúc lọi, tạo nên cái tinh
hoa của chốn kinh kỳ và cô đọng lại trong cụm từ
“hào hoa, thanh Ịịch”. Đó là một giá trị biểu thị điên
hình nhất về con người Hà Nội. Thanh lịch, cao sang
nhưng không cao xa; gần gũi mà không tầm thường và
có mặt trong mọi nẻo của cuộc sống người Hà Nội.
Lịch sử - văn hóa 1.000 năm Thăng Long - Hà
Nội đã mang trong mình cả một kho tàng di sản văn
hóa vô cùng phong phú và quý giá với nhiều truyền
thuyết, thần tích, thần thoại, ca dao, tục ngữ, cổ tích,
lễ hội, tập tục, trò chơi, trò diễn đi theo
Lịch sử - văn hóa 1.000 năm Thăng Long - Hà
Nội cũng đã tạo nên những sản vật, những nét văn
hóa ẩm thực hết sức tinh tế và đa dạng. Am thực Hà
Nội vừa mang trong mình nét đặc trung chung của ẩm
thực Việt Nam nhưng lại có những điểm khác biệt
khiến cho người thưởng thức không khỏi thán phục
những món ngon của Hà Nội vờ nâng những món ăn
tưởng như thăn thuộc ấy thành nghệ thuật ẩm thực
của vùng đất kinh kv Thăng Long - Hà Nội. Người
Kinh kỳ xu'a đã biết chát lọc những món ngon, vật lọ
bốn phương để chế tạo ra những món ngon của riêng
Hà Nội. Đó chính là nét tài hoa của người Hà Nội, chì
có sự tiếp thu và biến dổi những dặc sản dịa phương
6
thành đặc sân kinh ki' mới đáp ứnq dược nhu cầu của
người Hù Nội - những người vốn “sành ăn, sành mặc,

sành chơi”. Chẳng thế mà nhiều đặc sản của người
Hà Nội đã di vào tục ngữ, ca dao: “Cốm Vòng, gạo
tám Mễ Trì/Tương Bần, húng Láng, còn gì ngon hơn ”
Lịch sử - văn hóa í.000 năm Thăng Long - Hà
Nội qua từng giai đoạn phát triển lịch sử, thời nào
cũng có những nhân tài, dẫu họ được sinh ra, lớn lên
trôn chính mảnh đất này hav lừ nơi khác đến lập
thân, lập nghiệp ở dây. Tên tuổi và sự nghiệp của Lý
r T~, 1
_ / *
n n 'P 7 ' rT~Ị
_
ĩ s • *
1 nn _
-
__
rT y 1 ' 4
'T> A r p \ Tỉ Ạ
Ihói lô, Lý thường Kiệt, ìrôn Thói Tông, Trân Nhân
Tông, Trần Quốc Tuàn. Lẻ Lợi, Nguyễn Trãi, Quang
Trung, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Chu Văn An, Bùi
Dương Lịch, Phạm Quý Thích, Cao Bá Quát, Nguyễn
Vãn Siêu đã góp phần tạo nên ngàn năm văn hiến
Thăng Long - Hà Nội.
Lịch sử - văn hóa ĩ.000 năm Thăng Long - Hà Nội
đã ghi nhận sự hội tụ kết tinh và tỏa sáng của các
ngành nghề thủ công truyền thống của cả nước. Trải
qua ngàn năm giữ gìn. xây dựng và phát triển với những
làng nghề, phố nghề thủ công truyền thống. Thăng Long
- Hà Nội ngày càng thể hiện một diện mạo, tiềm năng

phong phú và da dạng. Có dược điều đó, phải k ể đến
công lao to lớn của cúc nghệ nhân làng nghề nhiệt
huyết và tài hoa qua các thời kỳ lịch sử
Lịch sử - văn hóa 1.000 năm Thăng Long - Hà
Nội cũng dã dể lại nhửng dặc triỉng về một đô thị có
kiến trúc tinh tố của nhiều thời kỳ lịch sử với Hoàng
thành, đình, dền. chùa, miếu mạo. nhà thờ, bảo tàng,
biệt thự, phô' Cổ và các phố buôn bón sầm uất
7
Lịch sử - văn hóa 1.000 năm Thăng Long - Iỉù
Nội cũng đã ghi dấu những danh lam thắng cảnh nổi
tiếng bao gồm cả thiên tạo và nhân tạo. Trải ngùn
năm, giờ đâv Hà Nội vẫn giữ được nhiều nhiều danh
lam thắng cảnh đẹp, là nơi mà đến Hà Nội không thể
không đến thăm như: Hồ Tây, Hồ Gươm, chùa Một
Cột, Lăng Chủ tịch Iiồ Chí Minh và Quảng trường Ba
Đình, nhà sàn Bác Hồ, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, đền
Quán Thánh, đền Ngọc Sơn, đền Bạch Mã, Tháp Rùa,
Khu thành cổ
Thăng Long - Hủ Nội, Thủ đô thiêng liêng của
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trái tim
của cả nước, đang trong quá trình hướng tới Đại lễ kỷ
niệm 1.000 tuổi. Nhân dịp này, chúng tôi xin được trân
trọng giới thiệu cùng độc giả bộ sách về địa danh, lịch
sử, văn hóa, danh nhân, kiến trúc, phong tục, tập quán,
giai thoại Thăng Long - Hà Nội. Hy vọng, những cuốn
sách này sẽ giúp độc giả nói chung và những ai muốn
tìm hiểu về Thăng Long - Hà Nội sẽ tìm được những
điều bổ ích và thú vị. Chúng tôi cũng mong nhận được
những ý kiến đóng góp xây dựng của quý vị và các

bạn!
Trân trọng cảm ơn và giới thiệu cùng độc giả!
Hà Nội, tháng 12/2009
Nhóm biên soạn
8
Qý€ă thành thanh lịch
(Thay lời mở đầu)
Cỏ lẽ hai chữ thanh lịch là khá hợp với quê hương
và con người Hà Nội. Thanh là cao, tươi tắn, trong
trắng, dịu hiền. Thanh là đẹp, nhưng không phải là
cái đẹp loè loẹt, phô phang, đỏm dáng. Thanh là ôm
ái, dịu hiền thuv mị mà vẫn khêu gợi và hấp dẫn. Lịch
thường được hiểu là khéo léo, có khuôn phép, thông
thoáng và cởi mở. Nhưng phải nói thêm, lịch còn có
nghĩa là từng trải, hiểu biết, có kinh nghiệm về cả bề
rộng lẫn bồ sâu. Gọi đất Thăng Long là một miền
thanh lịch, có lẽ là đúng cả về hai mặt chủ quan và
khách quan, cũng đúng với cả cuộc sông vật chất, cuộc
sống tinh thần. Ta không quá lời khi nhận định như
thế mà nhận định với cả sự khiêm tốn chân thành.
Thăng Long quả là một miền thanh lịch.
Chẳng hạn như nhìn vào cảnh trí thiên nhiên Hà
Nội, đấy quả là một vùng thanh cảnh. Núi ở Hà Nội
không cao, thậm chí chỉ như là một khu đồi khiêm tốn,
thấp bé, mà lại rất dồi dào cảnh sắc cả cao và thấp, cả
xưa và nay. Người đặt ra câu thơ: “Nùng lĩnh phù vân
kim cổ sắc”, quả là đã có con mắt phát hiện tài tình.
9
Hà Nội không có những con sông kiểu tràng giang, hung
dữ như “bốn lưu đáo hải bất phục hồi”, chỉ lặng lẽ xuôi

dòng mà gây nên nhiều hồi hộp. “Sông Thao náo nức
sóng dồi, ai về Hà Nội thì xuôi cùng thuyềrTchính là
như thế. Hà Nội không có những lâu đài to lớn, nhừng
nhà chọc trời hay Kim Tự tháp nguv nga, mà chỉ có
những chùa Một Cột, những tháp bút đài nghiên để “tả
thanh thiên” vươn lên những khoảng trời cao rộng.
Không to lớn, mà rất riêng tư, ấy là rất thanh. Không
phô trương lập dị, mà rất chân chất, hiền hoà, có thông
nhất trước sau, ấy là rất lịch. Hà Nội chính là như thế.
Hà Nội có khóp, khép để bảo tồn phong cách “cựu đc"
kinh”. Hà Nội có mở, mở để đón nhận tinh hoa tân
thế giới. Thanh lịch của Hà thành chính là như thế.
Dầu không lịch lãm cũng người Tràng An
Người Tràng An là người ở kinh thành. Vậy Tràng
An chính là Hà Nội. Cách nói như câu ca trên đây, là
muốn cho tỏ ra khiêm tốn, nhưng thực là rất tự hào.
Thăng Long - Hà Nội đã là thủ đô, thì tất nhiên phải là
nơi qui tụ tinh hoa của cả nước. Nước ta có những gì hay,
đẹp, đều đưa về Hà Nội cả. Con người Hà Nội vì vậv,
vẫn là con người Việt Nam, và là Việt Nam hơn cả.
Tất nhiên cũng như nhiều thủ đô trên thế giới,
kinh đô Thăng Long phải là nơi có những hoạt động
trí thức, hoạt động ngoại giao, hoạt động kinh tế sôi
nổi mạnh mẽ, không bình thường êm ả như các địa
bàn nông thôn. Có lẽ, vào thời gian từ thế kỷ 18 trở về
trước, phong cách kinh kỳ của Thăng Long đậm đặc
10
hơn nhiều. Từ thố kỷ 19 về sau. Thăng Long thành đô
thị, cho đến thế kỷ 20 trở nôn thành phô' rồi trở thành
Thủ đô của cả nước. Phân tích sự diễn biến nàv, có

thể là một đồ tài nghiên cứu văn hoá.
Có lẽ từ thế kỷ 18 trở về trước, kinh đô nước ta
vẫn là một vùng đất theo văn minh nông nghiệp. Tràng
An là đất thạnh lịch, nhưng cũng không xa lạ mấy với
nông thôn. Am thực hay y phục Thăng Long lúc đó
không khác gì với các miền trong cả nước. Đàn ông vẫn
khăn lượt, áo dài, hoặc sang nữa là hoa hoè, gấm vóc.
Đàn bà vẫn như các cồ gái trong ca dao: Khuyên vàng,
xà tích, áo mớ bảv, mớ ba. Những người lao động vẫn
quần nâu, áo vải, có thay đổi chăng là vào những ngày
Tết nhất, lễ lạt, cưới xin. Không nghe nói hàng trăm
năm qua, người Hà Nội có những sáng kiến gì về thời
trang, y phục. Chúng ta vẫn giữ trong một chừng mực
nhất định, chứ không bắt chước kiểu cách hào nhoáng
cung đình như ở Trung Hoa. Mũ mão hia đai, vũ y, ngọc
bội như thường thấv trên sân khâu chèo, tuồng hay ở
các cuộc tế tự ở đình làng v.v có được người trầm trồ,
nhưng thực ra là không trọng thị lắm.
Dưới thời kỳ Pháp thuộc, y phục người Hà Nội có
sự thay đổi rõ rệt. Những người lao động đã quen biết
với những áo sơ mi, quần xà lỏn. Đại đa sô" học sinh ở
các trường thì vẫn áo lương dài, quần trắng, một sô"
công chức mới mặc đồ tây! Những hiệu may mới ra
đời, cắt quần theo kiểu mới. Khăn đóng, áo dài được
bỏ dần thay bằng những veston, cà vạt. Có nhà hoạ sĩ
đã sáng tạo ra một kiểu áo mới, được phụ nữ mới rất
ưa thích, gọi là áo Lo niuya (lấy tên hoạ sĩ Nguyễn Cát
11
Tường, chữ Pháp: Le miu' là bức tường). Áo Lơ muya
quả là một sáng kiến Hà Nội. Dần dần. âu phục được

phổ biến, dân Hà Nội thích dung. Một số kiểu áo nước
ngoài được đưa vào như kimono, đại cán v.v Ai ưng
thì dùng, chứ người Hà Nội không hoan nghênh lắm.
Tóc phidê (uốn xoăn) trước 1945 là rất hiếm, nhuộm
tóc là hãn hữu. Nhưng tóc của nam giới thì thay đổi
hoàn toàn. Ớ miền Trung, việc cắt búi tó đi, là một
hành động văn hoá, thậm chí là cách mạng. Hà Nội
không có phong trào cắt tóc sôi nổi, cứ lặng lặng như
thô" mà những búi tóc củ hành biến mất từ thời nào.
Thanh thiếu niên Hà Nội, không bảo nhau mà có
nhiều cái đầu mới: Cúp trọc, cúp cua, cúp ca rê, cả
kiểu tóc phi lô dốp v.v vẫn là lịch sự. Cái răng, cái
tóc là góc con người, thì giờ đâv, răng người Hà Nội
hoàn toàn đổi mới. Các cô không còn giữ nét truyền
thông răng đen nhánh hạt huyền nữa, mà đều trau tria
bộ răng ngọc như răng nàng Cosette trong tác phẩm
của Huygo.
về mặt ẩm thực, có lẽ có nhiều nét đáng chú ý
hơn V phục. Dưới thời phong kiến, dân Hà Nội vẫn
quen với dưa cà mắm muôi như ở nông thôn, chỉ có
khác là rau quả dồi dào hơn và cách bàv biện lịch sự
hơn. Người Hà Nội vẫn tự hào với những thực phẩm
dùng trong nhà, loại thực phẩm có tính chất văn hoá
làng. Cái lịch sự trong vấn đề ăn uống của chúng ta là
ở đây. Ăn cho lịch, mặc cho thanh, nghĩa là cái ăn có
nét riêng, không gặp ở đâu cả: Giò Chèm (Từ Liêm),
nem Vẽ (Đông Ngạc), bánh cuốn Thanh Trì, bánh dày
Quán Gánh (Thường Tín), hav cháo Dương, tương Sủi,
củi Đàng (Dương Xá, Phú Thị, Sen Hồ) v.v vẫn được
12

người dân hâm mộ để ngầm tự hào với nhiều nơi. Đầu
thế kỷ XX, Hà Nội đã có nhiều hiộu ăn hơn. Cơm Tàu,
cơm Tây vẫn được người dân thưởng thức, tất nhiên
là phải tuv theo túi tiền. Nhưng được cả nước nhắc
nhở đến, phải là những cốm Vòng, giò lụa, bún chả,
bún thang v.v Xôi và bánh khá nhiều, Hà Nội có đến
60 thứ bánh: có bánh dân dã mà cũng có bánh lịch sự
như bánh khoái nồi rang. Phở không biết đã có từ
những thời kỳ Lô Nguyễn hay chưa, nghe đâu từ ngưu
nhục phấn bên Trung Quốc, nlníng sang ta thì đã thành
món ăn Việt Nam hoàn toàn, nổi tiếng và được hâm
mộ bởi nhiồu du khách các nước trôn thế giới. Gặp
nhau mà đãi nhau bát phở còn lịch sự gấp mẩy bằng
đãi nhau cơm gà, cá gỏi. Trong phở, hương vị Việt Nam
rất đậm đà mà phải là phở Hà Nội mới đúng là phở
ngon hơn cả. Các nhà văn Nguvỗn Tuân, Vũ Bằng đã
viết nhiều về phở; nhà thơ Tú Mỡ đã có cả một bài
phú: Phở đức tụng. Phở còn có Iihiều đức tính đẹp hơn
cả rượu, cả gà. Thật là rất văn hoá và rất thanh lịch.
Nhưng cái hương vị Hà thành trong phạm vi ẩm
thực, phải nói là chủ yếu nó nằm ở ừong cái tình, cái
nghĩa. Món ăn Hà Nội có khả năng quyến rũ vì có cả
cái hồn hội tụ của quố hương, cái ngon của Hà Nội
thường được kèm theo cái nhớ: Nhớ được các loại thực
phẩm ở nhiều nơi, kể cả ở nước ngoài. Cái ngon ở ngay
trong cái bên ngoài và bên trong của Hà Nội, của đất
Hà thành ngàn năm văn vật Rất sang trọng và rất dân
dã, rất thô sơ mà rất lịch thiệp, rất cá thể mà lại rất
tổng hợp, rất riêng mà rất chung, rất hôm nay và cũng
rất hôm qua. Cái ngon của Hà thành chính là ở đấy.

13
Nói đến ăn thì cũng phải nói đến cả chơi. Chơi
ở Hà Nội vẫn là một dạng chơi thanh lịch. Cũng như
ở nhiều địa phương có những cuộc chơi giải trí, chơi
ăn thua Nhưng cái chơi ở Hà Nội vẫn rất vừa phải,
có mức độ nhất định. Rộn rã nhất là các trò chơi trong
những ngày lễ hội. Ta sẽ nói rõ dưới đây - Còn nhìn
chung, cái chơi ở Hà thành không ào ạt, không xả
láng (mặc dù có người hay dùng đến từ này). Ngay
vào những năm đầu của thế kỷ XX, Hà Nội không
làm gì có những địa điểm ăn chơi như kiểu Đại thế
giới ở Sài Gòn. Cũng có những hàng son phấn như kiểu
Hàng Giấy, Khâm Thiên v.v song nhiều khi đã không
quên những trò chơi tao nhã. Kể cả những hội rầm
rộ như ngày 14/7 (hội Cát Tó) hội Két mét v.v cũng
không sồi nổi tấp nập như ở nhiều đô thành khác. Hà
Nội vẫn cô" giữ lấy nét thanh lịch của riêng mình.
Sở dĩ như thế, là vì căn bản Hà Nội vốn là kinh
7 ♦
đô của một nước có lịch sử đấu tranh liên tục, và là
một nước nông nghiệp lâu đời. Đất nước ta luôn phải
cầm vũ khí chiến đâu, những tâm gương anh hùng
nghĩa sĩ có nhiều. Vì thế, lễ hội ở Hà Nội thủ đô, đa
sô" đều là lễ hội lịch sử. Các đền chùa Hà Nội đều thờ
những vị anh hùng có võ công. Nét lịch là ở đó. Còn
nét thanh thì đi đôi với nét hùng. Một lễ hội như hội
Gióng, có một quy mô hoành tráng đến mức các nhà
nghiên cứu và tham quan nước ngoài phải kính phục
(Xem Duymôchiê trong tạp chí Lịch sử tôn giáo 1893).
Lễ hội Hà Nội còn là những hội ở làng ven đô.

Tất nhiên là về bề ngoài, vẫn là hội hè, lễ tiết mô phỏng
theo kiểu quan phương, theo lễ thức bắt chước ở triều
14
đình. Nhưng nếu đi sâu khai thác sê thấy được những
lớp văn hoá của nhiều thời đại cổ sơ tiềm tàng trong các
hình thức nghi lễ và diễn xướng. Cái lịch là ở đây. Hội
làng ở Hồ Khẩu có trò chơi bắt chạch ừong chưm, hội
làng Sóc Sơn có rước dò hoa tre v.v là dấu vết của tín
ngưỡng phồn thực. Hội Láng có đốt pháo thờ, là nghi lễ
cầu sấm, các lễ mộc dục, đua thuyền là di tích của lỗ
hội cầu mưa. Cả những hình thức, những qui cách đi
lại, động tác biểu diễn khi hành lễ v.v đều có nguồn
gốc từ việc thờ thần mặt trời v.v Một đặc điểm nữa của
lễ hội Hà Nội là do điều kiện được diễn ra ở kinh thành,
nôn qui mô lớn lao hơn cả vồ thời gian và không gian.
Hội Gióng đã diễn ra trên khắp năm làng. Hội Rước vua
sống ở làng Nhôi (Cổ Loa) tràn ra khắp núi, khắp đồng.
Hội Bơi làng Đăm là suốt cả chiều dài sông Nhuệ. Những
năm tháng gần đây, các hội hè được khôi phục khá
nhiều, các đền miếu được trùng tu, được yêu cầu trả lại
các vị trí các cảnh quan như cũ. Lại thêm một ý vị thanh
bình, thanh tao cho diện mạo văn hoá Hà thành.
Nhưng điều quan trọng là muốn tìm hiểu nét
thanh lịch của Hà Nội, thì phải tìm ngay ở trong con
người Hà Nội. Kể ra cũng rất khó khăn. Người Hà Nội
là tất cả bà con người Việt khắp cả nước đổ về. Xưa
kia ta phải gọi là dân tứ chiếng. Ngay cả giờ đâv điểm
lại theo hồ sơ cư trú, thì dân các tỉnh miền ngoài ở Hà
Nội vẫn có tỷ lệ khá cao. Những gia đình gốc bản địa
từ thời Long Biên có lỗ khó tìm, nếu không muôn nói

là rất hiếm. Nhưng vấn đề lại không phải như vậv. Địa
bàn, môi trường, cảnh sắc ở Hà Nội chắc chắn phải có
những đặc điểm nào đó, để cho con người nhập cư
Hà Nội, sớm chiều đã có phong cách Hà Nội rất đậm
15
đà. Con người Hà Nội có duyên dáng, tươi đẹp. Ai
đến Hà Nội là học tập ngay đưực kiểu cách và phong
thái này. Con người Hà Nội rất nhã nhặn, hào hoa,
điều này cũng dễ học tập. Con người Hà Nội lại cũng
rất anh hùng mà rất khiêm tốn. Vì đó là bản chất của
người Việt, nên người Việt nào đến Hà Nội cũng có
thể mang được tính cách này. Đó là điều ta có thể nhận
ra qua cách nhìn đồng đại cũng như lịch đại.
1. Chẳng hạn như những chàng trai Hà Nội. Trước
hết phải thấy đây là những thanh niên dồi dào tráng
khí, vì ở giữa Thủ đô của một nước luôn luôn có cuộc
chiến tranh tự vệ, nên các chàng trai rất tha thiết với
nhiệm vụ gắn bó với Thăng Long. Ớ nhà thì phải bảo
vệ, đi xa thì quan hoài. Từ thủa mang gươm di mở nước,
ngàn năm thương nhớ dốt Thăng Long là tâm trạng của
tâ't cả các chàng trai Hà Nội. Ngay mới đây thôi, trong
cuộc kháng chiến chông Pháp từ ngày 19/12/1946,
thanh niên Hà Nội cũng tỏ ra chí khí của mình:
Lòng son sất cho nên gân sức mạnh
Chí trung kiên nên chiến đấu tận tình
Bao anh hung, bao chiến sĩ quang vinh
Trong bóng tối đã cười theo cái chết
Nhưng tuổi trẻ Hà Nội còn có một đức tính cao
đẹp nữa: Chỉ biết chiến đấu vì nhiệm vụ thiêng liêng,
chứ không đòi hỏi một sự đền bù. Sự hào tráng đi liền

với khiêm tốn, cái vĩ đại đi đôi với bình thường. Đó là
chất thanh lịch của chàng trai Hà Nội.
16
Song anh con trai này cũng không chỉ biết một
nhiệm vụ là “mang gươm đi mở nước”. Anh vẫn là con
người bình thường như hàng ngàn bạn hữu. Nếu là
con cái nhà bình dân thì anh chăm lo làm lụng, biết
cả nghề nông và nhiều nghề thủ công. Nếu là những
cậu nho sinh thì học hành chu đáo, tài văn chương,
khoa cử đã dậv khắp kinh thành. Lịch sử đã cho biết
Thăng Long có đến hàng vạn nhà khoa bảng với
những tên tuổi rực rỡ những hình ảnh này cũng
được lặp lại theo cấp số nhân dưới thời Pháp thuộc
mà đa số học vị đều kòm theo lời ca ngợi của hội đồng
giám khảo ở Pháp, ở Liôn Xô. vồ phong cách riêng thì
nho sĩ Hà Nội đều hào hoa phong nhã, đề huề lưng
túi gió trăng, mà thanh niên Hà Nội có ra đi tận chân
trời góc bể vẫn cứ “Đêm 1ÌÌƠ Hà Nội dáng kiều thơm’’.
Tôi còn thấy cái lịch sự của chàng trai Hà Nội ngay ở
một câu đối đáp. Chuyện kể rằng, có lần Mạc Đĩnh
Chi sang sứ, người Tàu đóng cửa không cho vào, lại ra
câu đối:
Vào cửa chậm, cửa dóng rồi, ông làm sao ra cửa!
Mạc Đĩnh Chi đã từ tổn:
Thách dối dễ, đối lại khó, mời ông đối trước cho!
Thật là tài tình, lịch sự, rất phép tắc mà đàng
hoàng, lại có cả ý thách thức nữa. Thanh và lịch quả
là phong cách của trí thức Hà Nội .
2. Có lẽ sẽ là điều bất ngờ khi ta nghĩ rằng tiêu
biểu cho sự thanh lịch của Hà thành, còn là phong

cách, tâm tình, thái độ của người già ở Hà Nội. Ta
hay chú ý đến những vẻ sang trọng, những gl diêm
17
dúa trang trọng ở bề ngoài để thấy đó là đẹp đẽ, là
lịch sự. Cần phải hiểu sự thanh lịch ở những mặt rộng
rãi và sâu sắc hơn. Và nếu thế thì khi gặp những vị
lão thành ở đất nghìn năm văn vật này, ta sẽ thấy các
cụ là hiện thân của tất cả những gì có thể gọi là thanh
lịch. Đây là những người từng trải, đã hiểu Hà Nội,
cố giữ lấy nét đẹp của Hà thành mà chỉ có những ai
biết hỏi, các cụ mới bày vẽ cho. về mặt phong thái,
cái đạp của ông già Hà Nội là cái đẹp thật tươi tắn,
hào hùng mà phóng khoáng:
Phơ phơ tóc bọc trên dài nắng lên
vẫn đôi mắt ấy dịu hiền
vẫn bàn tay ấy, vẫn nghìn cánh tay.
Hình như không có một cảnh tượng, một hình
dáng nào đẹp đẽ hơn có thể tiêu biểu cho cả không
gian và tâm hồn người Hà Nội. Còn nếu lùi vào dĩ
vãng thêm một chút nữa, ta cũng thấy người già
Hà Nội rất cổ kính, rất trầm tư (đó là sự hội tụ của
Hà Nội) mà cũng rất thanh cao, đầy vẻ riêng tư bí
ẩn. Hiểu Hà Nội phải hiểu như thế, chứ không chỉ
hiểu theo cách hời hợt bên ngoài. Ta gặp rất nhiều
ông già Hà Nội như thế này, nhưng tiêu biểu hơn
cả có lẽ lại là ông Bốn lại! Cái tên nghe là lạ,
nhưng là tư hiệu của một nhà trí thức tên tuổi. Cụ
đốc học Lê Đình Diên, đầu thế kỷ 19. Cụ tự cho
mình là ông Tứ nãi (bôứi lại). Mọi người làm thế
này, ông lại làm thế khác, có đến bôn lần. Hai lần

“lại” được người Hà Nội trân trọng và đem ra học
tập là:
18
Người dều càv ruộng bàng trâu
Ta lại dem bút thay trứu mà càv
Cây bút vảng tiếng trâu hì hục
Chữ từng hùng gấm vóc nở hoa
Người đều miệng dọc ngâm nga
Ta nav tâm dọc lại 1(1 phần hơn
Tâm dọc sách không vang thành tiếng
Mà thiển kinh vạn quvẻn ìầu trơn
Thanh cần, tâm đắc 1(1 hơn
Hình như không có trường hợp nào thanh hơn,
lịch hơn như vậy nữa. Đó mới là điểm sâu sắc của con
người Hà Nội. Con người đến độ tuổi cao niên mà tỏ
ra rất thanh cần tâm đắc.
3. Đã nói đến các cụ, các anh, thì phải nối đến các
cô, các chị. Và đây đúng là những con người Hà Nội
thanh lịch vô cùng. Thanh lịch như bà nữ sĩ khoác cái
túi vải Đà La đi một mình mà có khúc ruột, trái tim làm
bạn, có đôi tay, đôi chân làm kẻ tuv tòng (tâm phúc hữu,
cổ quăng thần). Có những bà nhận ra được những hòn
đá căm gan cùng tuế nguyệt, những làn nước chau mặt
với tang thương. Không lịch duvệt, không thanh cao thì
làm sao nghĩ được như thế. Hăng hái hơn, thì ta cũng
được gặp những liệt nữ như Nguyễn Thị Giang hay bà
Nhiên Sáu. Các thiếu nữ bình thường hơn thì rất mơ màng
nhiều ước vọng: Nàng dậy, nép mình sau cửa sổ, mở Kiều
e lộ bói nhân duyên, biết yêu cả những ánh trăng lặng
19

lẽ rơi trên áo, yêu bóng chim xa, nắng lượt mành. Chỉ có
những cô gái Hà Nội mới có tâm hồn rất thi sĩ như thế,
kể cũng khá hiếm ở Việt Nam. Nhưng nói về phụ nữ Hà
thành thì phải nói đến các cô hàng: nhiều lắm! Cô hàng
nước, cô hàng xén, cô công nhân, cô cấp dưỡng, cô nữ
sinh. Giải thích nét Hà Nội ở tất cả các cô thì khó, nhưng
quả thực về đất Hà thành, gặp các chị thì thấy bóng dáng
của Hà Nội ngay. Cảm ơn Tố Hữu đã ý nhị nhận ra được
cái vẻ này: có diễm lệ mà có hiền hoà, có hấp dẫn mà
có ngây thơ, khiến cho ai nhìn cũng phải ngơ ngác:
Ngẩn ngơ nghe tiếng ai chào
Chị hàng hoa rẽ lối vào Đồng Xuân
Bởi vì các chị mới thật là tiêu biểu cho cái thanh,
cái lịch ở đất này. Các chị là những thánh mẫu như
thánh nữ Khoả Ba Sơn, thánh mẫu Ỷ Lan, là những bà
chúa Tằm (ở Nghi Tàm), bà chúa Dệt (ở Hoàng Long).
Thành phố công nghệ trên thế giới này có nhiều, nhưng
chỉ ở Hà Nội chúng ta mới có đô thị 36 phố” phường,
không đâu có cả. Cái riêng của Hà Nội chính là ỡ đó,
mà giờ đây trong thời kỳ hiện đại hoá, công nglhiệp
hoá, chắc ta chưa tìm thấy được hướng hoà hợp sao> cho
thật đẹp, thật thanh lịch đậm đà. Ba mươi sáu phô'
phường Hà Nội, không chỉ là sự tích truyền thuyết hay
kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn là một bản tình ca;
Tìm em ngõ bảv ngã ba
Giáp Năm, Mã Vĩ, Hàng Da, Hàng Giày
Tìm em bảy tám hôm nay
20
Hàng Bồ ngày chín, hàng Mây ngày mười
Tìm em nửa lệ, nửa cười

Bâng khuâng lại nhớ tiếng người tình nhân
Quả là đậm đà thấm thìa. Cái thanh lịch của Hà
thành đã hiện ra như thế.
Có thể tìm đưực nguyên nhân vì sao chúng ta lại
có được miền đất Thăng Long thanh lịch và con người
Thăng Long thanh lịch này không? Câu trả lời hình như
cũng không phải là quá khó. Vì trên đây, khi chúng ta
vừa chứng minh, vừa phân tích, chúng ta đã tự tìm thấy
câu trả lời. Cái thanh lịch của Hà Nội có nguyên nhân
ở ngay thiên nhiên Hà Nội, môi trường Hà Nội. Có quê
hương như thế thì có con người như thế. Con người có
từ đâu lại thi cũng sớm muộn hoà hợp với môi ưường.
Còn vì hoàn cảnh của Hà Nội, được trở thành một thủ
đô suốt ngàn năm lịch sử vậy, Hà Nội có điều kiện hội
tụ tất cả tinh hoa của đất nước, mà tinh hoa này rất đa
diện, cho nên đã làm cho Hà Nội trở nên lịch duyệt
hơn, phong phú hơn. Nguyên nhân cái đẹp của Hà Nội
là ở đó. Ta cũng đã nói ưên đây, Hà Nội có cái khép.
Khép là ở chỗ gìn giữ được những phong cách cũ (phong
cách của nghìn năm lịch sử). Có những cái đẹp từ xưa,
tưởng rằng không thích hợp với thời đại mới, nhưng lại
rất cần thiết phải bảo tồn, thí dụ như những vấn đề lễ
giáo, vấn đề gia phong. Con em ở Hà Nội mà không
được học hành, không được những cái cũ như cần -
kiệm - liêm - chính thủa xiía, thì giá ưị Hà Nội còn
gì? Cái khép của Hà Nội là ở đó. Còn cái mở của Hà
Nội thì quá rõ ràng. Hàng mấy trăm năm qua, ta vẫn
21
thấy được ở Hà Nội sự duyên dáng của Bắc Ninh, chất
cứng cỏi của xứ Nghẹ Tĩnh, cái phóng khoáng của Nam

bộ, nét chân chất của những xứ Thượng xa gần. Hà Nội
là nơi hội tụ, đã thu nạp và chọn lọc tất cả. Đối với
phương Tây cũng vậy: đã có lần, báo chí nhắc đến
những phong cách của Paris, của Venise (chữ Pháp là
những mốt — mode, những article v.v ). Hà Nội đã tiếp
thu tất cả: nhập vào mà không thấy ngô nghê. May bộ
quần áo âu phục bây giờ, chưa chắc cái khéo của Paris
đã hơn được cái khéo của Hà Nội (coupe). Chúng ta
biết học, biết bắt chước, nên có được cái lịch, tliiộp này.
Và như thế, cũng là một kinh nghiệm thiết thực cho
chúng ta đi trên đường hiện đại hoá. Thủ đô Hà Nội
giờ đây có hi vọng tiến xa mà không để mất cái gì là
riêng tư của Hà Nội.
V.N.K
(Tham luận tại Hội thảo khoa học Người Hà Nội
thanh lịch văn minh
Ngàv 7/10/2005, tại Hà Nội, chương trình KXU9)
22
cM 'ổt phong tục rầ đốc đdớ :
°nEM tốn phô'ten phướng c f6 à ờ^ổi
bầm sáu phó'phướng
Hình như đây là một nét phong tục cổ truyền rất
độc đáo của Thăng Long Hà Nội: Đặt tên cho các đơn
vị cư dân trong kinh thành (thành phô") những tên phô",
tên phường, hầu hết đều gọi là phô' Hàng này, phường
Hàig nợ. Cả nước Việt Nam không tỉnh nào có cái tục
nà\, và hình như trên thế giới cũng hiếm. Đến các thủ
đô :ihư Paris, Mạc Tư Khoa, Luân Đôn, Bắc Kinh v.v
khcng gặp hiện tượng này. Một vài phô" mang tên hàng
nọ .làng kia thì có, nhưng có đến 36 phô" ở thủ đô, thì

chếc chắn không đâu có cả.
Vậy là Hà Nội có 36 phố phường. Đặc biệt là tên
phí đều chỉ vào các sản vật hàng hoá buôn bán của
các cư dân ở đó. Ngày xưa, có lẽ các phô" đều chuyên
trách buôn bán từng thứ hàng riêng: hàng tơ lụa như
phế Hàng Đào, phô" Hàng Bông, hàng rau cỏ như phô"
Hàng Đậu, phô' Hàng Hành, các đồ dùng như phô" Hàng
Trcng, phô" Hàng Đồng v.v Nhiều lắm. Ca dao có
nhi lu bài rất hay về 36 phô" phường (nhưng hình như
23
chưa có bài nào đầy đủ cả).
Có ai kể được 36 phô" phường Hà Nội không? Có
đấy. Có tài liệu có tên là Thăng Long cổ tích khảo,
hiện có ở Viện Hán Nôm, ký hiệu VHvl471 của tác
giả Đặng Xuân Khanh. Ông ghi đầy đủ các phường ở
hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức là toàn bộ Hà Nội
trước đây, được gọi là phủ Phụng Thiên. Các phường
đó là:
18 phường ở huyện Thọ Xương:
- Đồng Xuân, Diên Hưng, Đông Các, Hà Đông,
Vĩnh Thái, Hà Khẩu, Đồng Lạc, Thái Cực (thuộc tổng
Nội Thượng)
- Báo Thiên, Phúc Phô", Phục cổ, Xuân Hoa, cổ
Vũ, Đông Tác, Phúc Lâm, Khang Thọ, Xã Đàn, Bích
Câu (thuộc Tổng Hạ)
18 phường ở huyện Quảng Đức:
(huyện này đến đời Gia Long (1805) đổi tên thành
huyện Vĩnh Thuận).
- Thuỵ Chương, Hồ Khẩu, Trích Sài, Tản Viên,
Yên Thái, Bái Ân, Tám Ma (thuộc tổng Trung).

- Yên Hoa, Tây Hồ, Nhật Chiêu, Diên Đại, Thịnh
Quang, Nghi Tàm, Quảng Bố’, Hoè Nhai, Quan Trạm,
Công Bộ (thuộc tổng Nội Ngoại)
Các phường ưên đây, được gọi thành tên tục, lưu
hành đến bây giờ. Đó là:
24
- Diên Hưng: gọi là Hàng Ngang (bán thuốc và tạp hóa)
- Thái Cực: gọi là Hàng Đào (bán vải vóc, lụa là)
- Hà Khẩu: gọi là Hàng Buồm (sách vở, thuốc, tạp hoá)
- gọi là Hàng Mã (quần áo, đồ giấy, đồ cúng lễ)
- Ngữ Hàm: gọi là Hàng Mắm (thực phẩm mắm
tôm, cá)
- Báo Thiên: gọi là Hàng Vải thâm (vải đen, ô đen)
- Nam Phô: gọi là Hàng Thùng (gàu múc nước,
thùng tre)
- Dũng Hãn: gọi là Hàng Bạc (đồ vàng bạc)
- Hài Tương: gợi là Hàng Da (dày dép, hòm, cặp)
- Đằng: gọi là Mã Mây (song, mây, tạp hoá)
- Đồng Lạc: Hàng vải (yếm và quần áo nữ)
- Đông Hà: Hàng Bát (đồ sứ và chiếu trắng)
- Đông Thành: gọi là Hàng Thiếc (đồ thiếc)
- Cổ Vũ: Hàng Gai (sách vở, tạp hoá)
- Đồng Xuân: Hàng Gạo (tạp hoá)
- Thuận Mỹ: gọi là Hàng Hòm (rương hòm, đồ gỗ)
- Bắc Thượng: gọi là Hàng Bông (bông sợi, tạp hoá)
- Cổ Vũ: gọi là Hàng Nón (nón và tạp hoá)
25
- Vĩnh Hanh: gọi là Hàng Đường (đường và bánh chav)
- Xuân Yên: gọi là Hàng Cân (cân và tạp hoá)
- Yên Nội: gọi là Hàng Nồi (các loại sanh, nồi)

- Yên Phú: gọi là Hàng Đồng (đồ đồng)
- Tô Tịch: gọi là Hàng Quạt (chiếu tiắng, tạp hoá)
- Hoè Nhai: gọi là Hàng Giấy (tạp hoá - các hiệu
cô đào)
- Yên Trung: gọi là Hàng Bè
- Tư Tháp: gọi là Hàng Trông
- Thanh Giám: gọi là Bông Thợ Nhuộm (nhuộm
tơ vải)
- Nam Ngư: cũng gọi là phô" Nam Ngư, bán tạp hoá
- Đông Hà: gọi là phô" Ngõ Gạch (bán gạch, ngói)
- Gia Ngư: gọi là phô" cầu Gỗ (bán thực phẩm)
- Trường Thanh Thượng: gọi là phố Hàng Muôi
- Kiếm Hồ: gọi là hàng Vôi (bán vôi)
- Ưu Nghĩa: gọi là Hàng Chĩnh (đồ nặn bằng đất)
- Thạnh Khối: gọi là Hàng Than (bán than)
- Phương Trung: gọi là Hàng Gạo
- Bảo Khánh: gọi là Hàng Hành
26
- Văn Tân: gọi là Sinh Từ
- Tiên Thi: gọi là Nhà Chung
- Yên Chung: gợi là Quan Thánh
- Tân Mai: gọi là Hàng Cót
- Phủ Từ: gọi là phố Tô Lịch
- Bắc Hạ: gọi là Hàng Da
- Nhân Hoà: gợi là Hàng Giấy
- Bột Nhi: gọi là ngõ Hội Vũ
- Phúc Lâm: gọi là Hàng Đậu
- Nguvôn Khiết: gọi là Hàng Khoai
- Đông Yên: gọi là Hàng Cau
- Đồng Thuận: gọi là Hàng Cá

- Yên Ninh: gọi là Hàng Bún
- Nhân Bái: gọi là phô" Vọng Đức
- Phương Viên: gọi là Châu Long
- Trường Thanh: gọi là Hàng Tre.
27
^hầng é^ơna bát cảnh
(8 cảnh ẩ^h đnỹ éàm ý)
Người dân Thăng Long - các nhà trí thức, nghệ sĩ
và cả người dân nam nữ binh thường có thói quen là
cứ cố tìm cho ra nét đẹp của thủ đô này. Người ta nhìn
vào từng cảnh vật thiên nhiên, từng cảnh sinh hoạt ở
thôn này xóm nọ, nhìn từng lớp người trong cách thức
hoạt động, trong hoàn cảnh riêng tư để tìm ra nét đẹp.
Điềụ này thì cũng quen với phong tục của nhân dân
trong cả nước, nhưng đặc biệt riêng với Thăng Long
thì quả thực là quá nhiều, có lẽ không nơi nào sánh
kịp, nếu kể đến Thủ đô các nước xa gần. Những điều
ghi chép dưới đầy, không biết có đủ không. Rất mong
mọi người cùng đóng góp bổ sung. Nếu có được một
bản liệt kê hoàn chỉnh thì một đề tài: Những vẻ đẹp
Thăng Long chắc sẽ là ước mơ của nhiều người, nhiều
thế hệ:
1. Ngự lâu quan đào: Ngồi trên lầu vua mà
ngắm sóng.
2. Khán Sơn tịch chiếu: Nắng chiều trên núi
28

×