Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

định hướng và giải pháp phát triển của viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp trong tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.68 KB, 25 trang )

PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VIỆN QUY HOẠCH VÀ THIẾT KẾ
NÔNG NGHIỆP
I. Quá trình hình thành và phát triển của Viện Quy hoạch và thiết kế
nông nghiệp
1. Sự ra đời của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp
Những năm 60 của thế kỷ XX cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã tác
động sâu sắc tới mọi mặt dời sống kinh tế xã hội của thế giới. Trong thời gian đó
ở Việt Nam nền kinh tế còn lạc hậu, nghèo nàn. Hai miền Nam- Bắc bị chia cắt.
Miền Bắc đang tiến hành công cuộc cải tạo Chủ nghĩa xã hội, xây dựng miền
Bắc vững mạnh đồng thời chi viện cho miền Nam để miền Nam thực hiện thành
công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, tiến tới thống nhất đất nước.
Đứng trước nhiệm vụ nặng nề đó và xuất phát từ đặc điểm kinh tế nước ta
vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên Chủ nghĩa xã hội không kinh qua
giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, nông
nghiệp độc canh là chủ yếu Đảng và Nhà nước đã xác định phát triển kinh tế
Việt Nam trước hết là phát triển ngành nông nghiệp. Coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, chú trọng xây dựng một nền nông nghiệp vững mạnh, từng bước
cơ giới hoá, năng suất cao để đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cho nhân dân.
Để từng bước ứng dụng kỹ thuật sản xuất tiến bộ, khoa học vào sản xuất
nông nghiệp cũng như quy hoạch một cách hợp lý các vùng sản xuất trong cả
nước, chuyển từ nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp sản xuất lớn
Xã hội chủ nghĩa, Bộ Nông trường Việt Nam quyết định thành lập một cơ quan
để thực hiện những nhiệm vụ đó.
Ngày 29 tháng 9 năm 1961 Cục quy hoạch (tiền thân của Viện Quy hoạch
và thiết kế nông nghiệp) ra đời với nhiệm vụ chủ yếu là khảo sát xây dựng dự án
quy hoạch các nông trường quốc doanh, đo đạc bản đồ địa hình tỷ lệ lớn, khảo
sát lập bản đồ đất các nông trường đó. Trong hơn 40 năm hoạt động, được sự
cộng tác của nhiều Viện nghiên cứu, nhiều trường đại học và các nhà khoa học
trong và ngoài nước, hàng ngàn công trình nghiên cứu, điều tra khảo sát, quy
1
hoạch và thiết kế phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và nhiều dự án


đã được hoàn tất phục vụ kịp thời cho công cuộc xây dưng và phát triển đất
nước.
Đối tượng nghiên cứu của Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp là
những đề tài cấp Nhà nước, cấp ngành, hoặc những đề tài do chính nhiệm vụ
công tác hàng ngày của Viện đặt ra (đề tài cấp Viện). Phạm vi nghiên cứu của
Viện khá rộng, từ những điều tra cơ bản và xử lý, sử dụng những số liệu cơ bản
của các ngành có liên quan,về đất, nguồn nước, khí hậu (điều kiện tự nhiên sinh
thái) tới những nghiên cứu về kinh tế xã hội (đánh giá lợi thế kinh tế- xã hội và
xác định cơ cấu sản xuất cây trồng, vật nuôi, biện pháp xoá đói giảm nghèo, giải
pháp phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững dưới tác động của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ); từ cơ sở phương pháp luận quy
hoạch nông nghiệp và phát triển nông thôn tới những phương pháp, chỉ tiêu tính
toán cụ thể trong đo vẽ bản đồ địa hình, lập bản đồ đất, đánh giá hiệu quả kinh
tế, tài chính , xã hội, tác động môi trường của dự án.
Nhận thức được tính phức tạp của công tác được giao từ ngày thành lập
đến nay,Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp luôn chú trọng đào tạo nguồn
nhân lực, tăng cường trang thiết bị kỹ thuật, tăng cường hợp tác quốc tế, đồng
thời nỗ lực tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học. Do những hạn chế về trình
độ cán bộ và kinh phí, và cả những thiếu sót trong tổ chức thực hiện, kết quả
nghiên cứu còn chưa nhiều. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu đó đã được
vận dụng trong công tác và góp phần tích cực tạo nên những thành tựu của Viện
trong hơn 40 năm qua.
2. Quá trình phát triển của viện
Từ năm 1961 đến nay đất nước đã trải qua biết bao thăng trầm biến đổi:
đánh đuổi đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, cả nước tiến
lên Chủ nghĩa xã hội (năm 1975); chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần Đặt trong hoàn cảnh đó, Viện
Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp cũng không ngừng đổi mới, phát triển đáp
2
ứng yêu cầu phát triển của nền nông nghiệp. Quá trình phát triển của viện có thể

chia thành các giai đoạn như sau:
2.1. Giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1970
Giai đoạn này Cục Quy hoạch (trực thuộc Bộ Nông trường) thành lập có
nhiệm vụ chủ yếu là khảo sát xây dựng các dự án quy hoạch các nông trường
quốc doanh. Vì thời kỳ này miền Bắc đang đi vào xây dựng nền nông nghiệp sản
xuất lớn, nền kinh tế chủ yếu chỉ có hai thành phần kinh tế là kinh tế Nhà nước
và và kinh tế tập thể.
Ban đầu khi mới thành lập Cục Quy hoạch có 1.157 người chủ yếu là sĩ
quan quân đội chuyển sang. Cả đơn vị chỉ có 6 kỹ sư nông nghiệp, 8 trung cấp
đo đạc, thổ nhưỡng còn lại là công nhân kỹ thuật.
Từ đầu những năm 60 công tác phân vùng quy hoạch nông nghiệp đã
được nhấn mạnh trong các nghị quyết Đại hội Đảng III, IV, V, được coi như một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đưa nông nghiệp đi lên sản xuất lớn
Xã hội chủ nghĩa. Trong suốt quá trình triển khai, nhiều đồng chí lãnh đạo cao
cấp của Đảng, của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp đã thường xuyên quan tâm
theo dõi trực tiếp chỉ đạo công tác này.
Từ 1961 đến 1970, Viện đã trực tiếp khảo sát quy hoạch cho trên 100
nông trường quốc doanh ở miền Bắc. Ban đầu có sự hướng dẫn của chuyên gia
Liên Xô, Trung Quốc nhưng chủ yếu vẫn là lực lượng cán bộ quy hoạch Việt
Nam tự đảm nhiệm. Sự hình thành và phát triển hệ thống nông trường quốc
doanh miền Bắc thời kỳ đó đánh dấu bước đi đầu tiên của nền nông nghiệp Xã
hội chủ nghĩa, là niềm tự hào của nhiều thế hệ cán bộ quy hoạch trong suốt quá
trình xây dựng và trưởng thành.
2.2. Giai đoạn 1971- 1975
Tới năm 1971, Bộ Nông trường hợp nhất với Bộ Nông nghiệp thành Uỷ
ban Nông nghiệp Trung ương. Cục quy hoạch thu nhận thêm Tổ Quy hoạch
thuộc Vụ Quản lý ruộng đất (thuộc Bộ Nông nghiệp) và đổi tên thành Ban phân
vùng quy hoạch nông nghiệp, trực thuộc Uỷ ban Nông nghiệp Trung ương.
3


Trong giai đoạn này dưới sự hướng dẫn của Uỷ ban kế hoạch nông nghiệp
viện đã phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng đề án phát triển
4 vùng nông nghiệp, 16 tiểu vùng chuyên môn hoá ở miền Bắc. Trực tiếp khảo
sát quy hoạch vùng: mía Sông Lam, ngô Lục Ngạn, bò sữa Mộc Châu vùng
kinh tế mới: nam Tuyên Quang, Mộc Châu, Nam bắc Long đại, Phủ quỳ, Ba
chẽ quy hoạch một số huyện điểm:Tân lạc, Gia lộc, Đông hưng, Nam định,
Quỳnh lưu
2.3. Giai đoạn 1975- 1976
Sau khi Uỷ ban Nông nghiệp Trung ương đổi tên thành Bộ Nông nghiệp,
Ban Phân vùng Quy hoạch nông nghiệp cũng đổi tên thành Cục Điều tra khảo
sát và Quy hoạch nông nghiệp (nhưng vẫn có bộ phận làm công tác phân vùng).
2.4. Giai đoạn 1977 đến nay
Tới tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 52/CP thành
lập Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp trên cơ sở Cục Điều tra khảo sát và
quy hoạch nông nghiệp.
Sau ngày thống nhất đất nước công tác quy hoạch nông nghiệp đã được
triển khai mạnh mẽ ở các tỉnh phía nam, Nhà nước đã huy động trên 1000 sinh
viên mới ra trường bố trí mỗi huyện một tổ làm quy hoạch và xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội cho các tỉnh huyện .Dưới sự chỉ đạo của ban phân vùng
quy hoạch nông lâm nghiệp Trung ương , Viện là lực lượng nòng cốt phối hợp
xây dựng phương án phân vùng nông lâm nghiệp toàn quốc, phân chia 7 vùng
nông lâm nghiệp, xây dựng phương án phân vùng nông lâm nghiệp 40 tỉnh
thành phố.
Năm 1978, sau khi Chính phủ phê duyệt phương án phân vùng nông lâm
nghiệp 40 tỉnh thành, dưói sự chỉ đạo của Chính phủ, chỉ trong vòng 3
năm(1978- 1980) Viện là lực lượng nòng cốt, phối hợp với các ngành quy hoạch
cho trên 400 huyện thị cả nước
Từ năm 1981- 1985 trước yêu cầu triển khai 3 chương trình : phát triển
lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và chương trình xuất khẩu.
4

Viện đã quy hoạch cho hầu hết các vùng chuyên canh cây lương thực, cao su, cà
phê, chè, mía đường, bò sữa , bông, dâu tơ tằm đồng thời quy hoạch triển khai
các nông trường vùng lúa đồng bằng sông Cửu Long, lập luận chứng kinh tế kỹ
thuật các vùng hợp tác với Liên xô, Đức, phát triển cà phê Tây Nguyên, cao su
Đông nam bộ và các vùng khác.
Từ 1986 đến nayViện đã phối hợp các ngành quy hoạch phát triển kinh tế
xã hội 7 vùng kinh tế, quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ, miền trung và
nam bộ. Nghiên cứu bổ sung chỉnh lý chiến lược phát triển nông nghiệp đến
năm 2010, xây dựng tổng quan phát triển cây con chính, rà soát quy hoạch nông
nghiệp hàng hoá, quy hoạch chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp các vùng, rà soát
quy hoạch nông nghiệp nông thôn các tỉnh, quy hoạch tái định cư vùng di dân
xây dựng các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện, quy hoạch các mô hình phát triển
nông thôn mới.
Triển khai các chương trình điều tra cơ bản, trọng tâm là khảo sát trên 20
triệu ha đất nông nghiệp và đất trống chưa sử dụng, tiếp cận phương pháp phân
tích đánh giá đất quốc tế, bổ sung chỉnh lý bản đồ đất các huyện tỷ lệ 1/25.000 ,
tổng hợp bản đồ đất 7 vùng kinh tế tỷ lệ 1/1.000.000, đo đạc bản
đồ địa hình tỷ lệ 1/10.000 phục vụ khảo sát quy hoạch nông trường Cà phê Tây
nguyên, cao su Đông nam bộ, vùng bông Ninh thuận, vùng chè trung du miền
núi và một số vùng khác.
Hơn 40 năm qua đặc biệt có trên 10 năm đổi mới theo tinh thần Nghị
quyết đại hội Đảng làn thứ VI, VII và VIII, công tác quy hoạch nông nghiệp đã
thực sự vươn lên tiếp cận với nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, nhiều chương
trình dự án quy hoạch đã và đang triển khai, góp phần vào sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội đất nước, trên cơ sở xác định lợi thế cạnh tranh để lựa chọn các
sản phẩm hàng hoá xuất khẩu, quy hoạch phát triển nông thôn gắn với các
chương trình phát triển cơ sở hạ tầng, xoá đói giảm nghèo, định canh định cư
xây dựng vùng kinh tế mới, quy hoạch bố trí đất đai trên quan điểm phát triển
bền vững đi đôi với bảo vệ tài nguyên môi trường, phục vự sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội giữ an ninh quốc phòng.

5
II. Chức năng nhiệm vụ và hệ thống tổ chức của Viện Quy hoạch và
thiết kế nông nghiệp
1. Chức năng nhiệm vụ của Viện
Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn, tiền thân là cục quy hoạch(Bộ nông trường),được thành lập từ
tháng 9 năm 1961.
Khi mới thành lập,Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp có chức năng
nhiệm vụ:
- Nghiên cứu nội dung phương pháp,nghiệp vụ về đo đạc, in vẽ bản đồ, sử
dụng hệ thống thông tin địa lý(GIS) để lập bản đồ chuyên ngành nông nghiệp ;
khảo sát lập bản đồ đất tỷ lệ lớn và trung bình ; nghiên cứu nội dung, phương
pháp phân vùng, quy hoạch nông nghiệp.
- Tham gia chủ trì nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất của cả nước, dự
tính dự báo kinh tế nông nghiệp, nghiên cứu cơ cấu kinh tế vùng, kinh tế kỹ
thuật cây con làm cơ sở để phân vùng quy hoach nông nghiệp.
- Trực tiếp làm mẫu, làm điểm các dự án phân vùng và quy hoạch; quản
lý, lưu trữ, phát hành những tư liệu, tài liệu về phân vùng quy hoạch nông
nghiệp; đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho Viện và cho Ngành; hợp tác nghiên cứu
với các cơ quan trong nước và các tổ chức nước ngoài.Tổ chức các hội thảo
quốc gia, quốc tế về nông nghiệp và nông thôn
- Phân vùng, xây dựng chiến lược nông nghiệp, quy hoạch và thiết kế, lập
các dự án đầu trong nông nghiệp, phát triển nông thôn.
Đến nay, ngoài chức năng, nhiệm vụ nêu trên, Viện quy hoạch và thiết kế
nông nghiệp được giao thêm một số nhiệm vụ một số nhiệm vụ mới như xây
dựng các tổng quan và chiến lược phát triển nông nghiệp và những ngành hàng
chủ yếu, lập các dự án phát triển nông nghiệp- nông thôn, mở rộng phạm vi
đánh giá tài nguyên- môi trường(bao gồm cả đất,nước, khí hậu, sinh vật, nhân
6
lực),và đồng thời với việc nghiên cứu cơ bản, có chú trọng đến công tác chuyển

giao tiến bộ kỹ thuật.
2. Hệ thống tổ chức của Viện
7
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC VIỆN QUY HOẠCH VÀ THIẾT KẾ NÔNG
NGHIỆPLƯ
8
Đứng đầu hệ thống tổ chức của Viện là ban lãnh đạo Viện, tiếp đến là bộ
phận quản lý và phục vụ; bộ phận quản lý kỹ thuật và nghiên cứu; các trung tâm
nghiên cứu; các phân viện và xí nghiệp. Mỗi bộ phận đều có những chức năng
và nhiệm vụ riêng của mình
III. Lực lượng lao động và trang thiết bị
1. Về tổ chức lực lượng
Khi mới thành lập, Cục quy hoạch có tới 1.157 người, phần lớn là bộ đội
chuyển ngành, chỉ có 6 kỹ sư nông nghiệp và 8 trung cấp đo đạc, thổ nhưỡng.
Hiện nay, tổng số cán bộ công nhân viên của Viện là 511 người, trong đó
340 người trong biên chế và 171 lao động hợp đồng. Số cán bộ nghiên cứu trực
tiếp có 303 người, trong đó 79 người(26%) có trình độ trên đại học, gồm 30 tiến
sỹ khoa học, tiến sỹ(2 được phong hàm giáo sư, 6 phó giáo sư), 49 thạc sỹ.
Ngoài ra, có 6 người đang chuẩn bị bảo vệ luận án tiến sỹ và 10 người đang học
cao học. Trên 50 cán bộ(15%) có thể làm việc trực tiếp với chuyên gia nước
ngoài, chủ yếu sử dụng tiếng Anh, số ít sử dụng tiếng Nga, Pháp, Trung Quốc,
Đức
Viện được tổ chức thành 20 đơn vị trực thuộc, bao gồm:
- 2 Phân viên(Phân viện miền nam ở Thành phố Hồ Chí Minh và phân
viện miền trung ở Nha Trang).
- 2 Xí nghiệp đo đạc bản đồ nông nghiệp (một ở Hà Nội, một ở Phan Rí,
Bình Thuận).
- 8 Phòng (Phân vùng, đo đạc, thổ nhưỡng, phân tích đất và môi trường,
khoa học, kế hoạch, tài vụ, hành chính).
- 5 Trung tâm (Hàng trắc, viễn thám, phát triển nông thôn, tài nguyên-

môi trường, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật).
- 3 Đoàn (Đoàn quy hoạch I,II và Đoàn quy hoạch Lào).
Để nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ
cho cán bộ công nhân viên, Viện đã có quy định để tiến tới tiêu chuẩn hoá cán
9
bộ, vì vậy thời gian qua công tác đào tạo cán bộ đã đạt thành quả rất phấn khởi,
nâng cao lý luận chính trị cho 100 cán bộ, học tại chức 30 cán bộ, tổ chức 15
lớp học ngoại ngữ cho 200 cán bộ, hàng năm tổ chức thi nâng bậc cho công
nhân kỹ thuật của 2 xí nghiệp đo đạc bản đồ. Đồng thời với việc đào tạo cán bộ,
Viện thường xuyên chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công
nhân viên, cán bộ lãnh đạo đoàn nhất trí phát huy tính dân chủ, chủ động sáng
tạo trong tìm thêm việc làm và thu nhập cho cán bộ công nhân viên, thực hiện
tốt chính sách của Nhà nước.
2. Về trang thiết bị của Viện
Sau khi đất nước thống nhất và được sự hỗ trợ của UNDP qua các dự án
VIE- 86- 024, Viện đã được tăng cường tương đối toàn diện cả về năng lực
chuyên môn của cán bộ cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật. Nhiều máy móc hiện
đại (Máy đo vẽ bản đồ Wild A8, máy phân tích đất ) đã được trang bị. Hiện
nay, tất cả các đơn vị đều được trang bị computer, các phòng đều có máy lạnh.
Trụ sở viện ở Hà Nội cũng như các phân viện ở thành phố Hồ Chí Minh, Nha
Trang đều khang trang , rộng rãi và được trang bị đầy đủ các thiết bị thông tin và
văn phòng như điện thoại, fax, e- mail, và đã nối mạng iternet. Tuy nhiên, đến
nay nhiều trang thiết bị kỹ thuật đã cũ, hỏng cần được thay thế.
10
PHẦN II: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN QUY
HOẠCH VÀ THIẾT KẾ NÔNG NGHIỆP
I. Tình hình đầu tư và các hoạt động của Viện
1. Nguồn vốn đầu tư và phân bổ nguồn vốn
1.1. Nguồn vốn đầu tư
Trước đây khi mới thành lập, Viện được cấp kinh phí khoảng 5- 6 tỷ đồng

(theo giá trị hiện tại) để xây dựng trụ sở; mua sắm phương tiện, máy móc trang
thiết bị và được cấp kinh phí hoạt động hàng năm.
Những năm trước, 100% chi phí hoạt động hàng năm của Viện là được
Nhà nước cấp. Nguồn vốn này chủ yếu chi cho các hoạt động nghiên cứu, khảo
sát quy hoạch và để thay thế máy móc thiết bị cũ.
Những năm gần đây, 90% nguồn vốn hoạt động của Viện do Nhà nước
cấp, 10% còn lại do Viện tự tích luỹ. Vì theo Nghị định 10/CP của Thủ tướng
Chính Phủ, Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp là đơn vị sự nghiệp có thu
tự đảm bảo 100% chi phí thường xuyên. Nhờ các hoạt động mà Viện gọi là
“Dịch vụ khoa học” (hợp đồng với các địa phương, các doanh nghiệp lập các
báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc hợp đồng với các tổ chức khoa học khác tiến
hành một công trình nghiên cứu), hàng năm Viện thu khoảng 8- 9 tỷ đồng. Phần
lớn số tiền này là để tăng thu nhập cho cán bộ của Viện. Phần còn lại bổ sung
vào nguồn vốn đầu tư hàng năm cùng với kinh phí Nhà nước cấp (khoảng 14- 16
tỷ/năm) Viện dùng để đầu tư cho trang thiết bị, vật tư kỹ thuật, các chương trình
dự án quốc gia, các đề tài nghiên cứu khoa học.
1.2. Phân bổ vốn đầu tư cho các hoạt động
Cơ sơ vật chất kỹ thuật của Viện đã được đầu tư trong thời gian trước
nhưng chưa đầy đủ, đồng bộ. Trong quá trình hoạt động Viện đã thường xuyên
đầu tư để đổi mới cơ sở vật chất: trụ sở làm việc, máy móc, thiết bị (chiếm đại
bộ phận nguồn vốn đầu tư cho tài sản cố định).
Hàng năm với số tiền khoảng 14- 16 tỷ đồng Viện dành khoảng 60% cho
các công trình nghiên cứu và quy hoạch (khoảng 10 tỷ). 20% đầu tư mua sắm
11
thiết bị chuyên ngành và các phần mềm (chiếm khoảng 3 tỷ đồng trong tổng số
tiền hoạt động của Viện), 15% cho việc đào tạo cán bộ công nhân viên của Viện
(cả trong nước và nước ngoài). 5% cho các chi phí khác liên quan.
Riêng năm 2003 kinh phí Nhà nước cấp được phân bổ như sau:
- Điều tra cơ bản: 12 dự án (6 dự án chuyển tiếp, 6 dự án mới) tổng kinh
phí 6 tỷ đồng.

- Thiết kế quy hoạch 21 dự án (13 chuyển tiếp, 6 dự án mới) tổng kinh phí
6,4 tỷ đồng.
- Xây dựng cải tạo cơi tầng 6 trụ sở cơ quan Viện với kinh phí 2 tỷ đồng.
- Bổ sung vốn thiết bị 780 triệu đồng.
- Đề tài khoa học: 3 đề tài cấp Nhà nước, 15 đề tài cấp Bộ tổng kinh phí
5,14 tỷ đồng.
2. Tình hình lập dự án quy hoạch phát triển nông nghiệp của Viện
Nhờ có sự đầu tư đúng mức, phương pháp nghiên cứu khoa học và đội
ngũ cán bộ có trình độ năng lực, chuyên môn cao công tác lập dự án của Viện
được thực hiện hiệu quả và thành công.
Ngoài các dự án quy hoạch tổng thể nông nghiệp cho cả nước, cho các
vùng lãnh thổ, các ngành hàng nông sản, các tỉnh thành Viện còn lập những dự
án cụ thể cho từng vùng, từng địa phương hay từng loại sản phẩm. Một số dự án
Viện đã lập trong thời gian qua được thể hiện ở bảng sau:
Tên dự án Năm thực
hiện
Đơn vị thực hiện
1. Dự án quy hoạch phát triển nông
nghiệp bền vững lưu vực sông Kôn
2000- 2001 Phân viện miền Trung
2. Dự án quy hoạch bố trí đất đai,
phát triển kinh tế trang trại gắn với
ổn định lương thực vùng cao các tỉnh
miền núi phía Bắc.
2000 Đoàn Quy hoạch I
3. Dự án xây dựng nông thôn mới xã
Minh Tân, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định
2001 Đoàn Quy hoạch i
12

4. Quy hoạch phát triển nông nghiệp
nông thôn theo hướng CNH- HĐH
huyện Ômôn, tỉnh Cần Thơ thời kỳ
2001- 2010
2001 Phân viện miền Nam
5. Dự án chăn nuôi lợn xuất khẩu
đồng bằng sông Hồng
2001 Đoàn Quy hoạch II
6. Dự án quy hoạch phát triển cây
điều vùng Duyên Hải Nam Trung
Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ
2001 Phân viện miền Trung
7. Rà soát, bổ xung quy hoạch phát
triển nông nghiệp nông thôn tỉnh
Kon Tum đến năm 2010
2002 Trung tâm phát triển
nông thôn
8. Dự án quy hoạch vùng mía
nguyên liệu công nghiệp
2002- 2003 Bộ môn Phân vùng
9. Dự án quy hoạch sản xuất cà phê
cả nước đến năm 2005- 2010
2002 Phân viện miền Trung
10. Xây dựng giải pháp thúc đẩy quá
trình CNH- HĐH nông nghiệp nông
thôn vùng đồng bằng sông Hồng và
ĐBSCL
2002 Phân viện miền Nam
II. Đánh giá các hoạt động của Viện
1. Các thành tựu đạt được

Trải qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, bằng những phấn đấu
liên tục của nhiều thế hệ cán bộ, Viện đã có nhiều đóng góp xứng đáng trong sự
nghiệp phát triển nông nghiệp Việt Nam. Những thành tích rực rỡ của nông
nghiệp Việt Nam: bảo đảm an ninh lương thực, có vị trí là một trong những
nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hồ tiêu, điều; cơ cấu kinh tế
nông thôn, cơ cấu cây trồng ngày một hợp lý hơn, đạt hiệu quả cao hơn đều có
một phần đóng góp của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, cơ quan tham
mưu của Bộ trong định hướng phát triển sản xuất.
1.1. Về phân vùng quy hoạch
13
Trong thời gian qua Viện đã phối hợp với các địa phương và các tổ chức
có liên quan xây dựng phương án quy hoạch nông nghiệp cho 430 huyện thị
(trong đó có 11 huyện điểm đã được Chính phủ phê duyệt, còn lại đã được các
tỉnh thông qua), hàng trăm nông trường quốc doanh, hợp tác xã nông nghiệp.
Các phương án quy hoạch đó tuy còn nhiều thiếu sót nhưng đã phát huy tác
dụng chỉ đạo sản xuất trong một thời kỳ lịch sử nhất định.
Phối hợp với Bộ Lâm nghiệp và Uỷ ban kế hoạch Nhà nước (trước đây)
xây dựng phương án phân vùng nông lâm nghiệp toàn quốc, chia nước ta thành
7 vùng kinh tế nông lâm nghiệp. Phương án này đã được Nhà nước phê duyệt
năm 1978 và sách giáo khoa môn Địa lý bậc phổ thông đã tiếp thu, trình bày
trong phần địa lý kinh tế Việt Nam. Tuy còn những vấn đề phải điều chỉnh
nhưng nhìn chung đây là một thành tựu bước đầu nổi bật.
Phối hợp với các cơ quan chức năng trong Bộ xây dựng các tổng quan,
chiến lược phát triển nông nghiệp (và các ngành hàng trong nông nghiệp) của
toàn quốc và của các vùng kinh tế các giai đoạn 1990- 2000, 2000- 2010 (các
công trình chính như Nông nghiệp Việt Nam năm 2000, Tổng quan nông nghiệp
Việt Nam, Đề xuất khai thác lợi thế của 7 vùng kinh tế nông nghiệp Việt Nam
đến năm 2010, Tổng quan lương thực, chăn nuôi, cao su, cà phê, mía đường,
điều, cây lấy dầu, chè; Chiến lược phát triển 7 vùng kinh tế nông nghiệp).
Những đề án lớn này là những căn cứ quan trọng giúp Bộ và Nhà nước hoạch

định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn.
Rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển nông nghiệp đến năm 2010 của các
tỉnh thành (hiện đã làm xong 12 tỉnh thành). Đây là những tài liệu căn bản giúp
các tỉnh, thành xây dựng kế hoạch phát triển nông nghiệp dài hạn.
Tập trung sức nghiên cứu, xây dựng những dự án phát triển các ngành
hàng trọng yếu ở các vùng trọng điểm có tiềm năng xuất khẩu lớn như lúa đồng
bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, cao su Đông nam bộ, cà phê Tây
Nguyên và vùng núi phía Bắc, điều ở Đông Nam Bộ và duyên hải Nam Trung
Bộ, chè ở trung du- miền núi Bắc Bộ. Sự tập trung nỗ lực này được thể hiện
bằng số lượng công trình nghiên cứu dành cho những cây, con trọng yếu: 87
14
công trình dành cho cây lương thực (lúa, ngô, ), 20 công trình dành cho cây cà
phê, 17 cho cao su, 13 cho chè, 11 cho cây điều, 28 cho một số loại vật nuôi, 32
cho cây hoa màu. Những công trình trên đã được thực thi ở mức độ khác nhau
và đã góp phần hình thành, phát triển các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá,
nhất là cho xuất khẩu.
1.2. Về điều tra cơ bản
Những nghiên cứu chủ yếu về lĩnh vực này là điều kiện sinh thái (đất,
nước, khí hậu) ,hiện trạng kinh tế xã hội (cấp hộ gia đình, xã, huyện, tỉnh và cả
nước), động thái chyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất qua các thời kỳ.
Thông thường, đó là các đề tài khoa học được giao (cấp Nhà nước,cấp Ngành,
cấp Viện), một số là đề tài hợp tác với các cơ quan chức năng. Những công trình
chính là:
- Đánh giá hiện trạng và đề xuất sử dụng đất hợp lý trên quan điểm sinh
thái và phát triển bền vững ở 7 vùng kinh tế nông nghiệp .
- Điều tra, đánh giá đất trống đồi núi trọc toàn quốc.
- Điều tra, đánh giá khả năng mở rộng 1,5 triệu ha đất nông nghiệp .
- Xây dựng bản đồ đất Tây Nguyên tỷ lệ 1/250.000.
- Xác định các nhân tố hạn chế và thuận lợi của một số loại đất (phù sa
ngọt, mặn, phèn) ở đồng bằng sông Cửu Long đối với một số loại cây trồng.

- Xây dựng Atlas nông nghiệp Việt Nam (một phần của Atlas quốc gia).
- Xây dựng bản đồ sinh thái nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Xây dựng sơ đồ phân vùng khí hậu nông nghiệp Việt Nam.
- Điều tra kinh tế hộ của hơn 100 huyện với 180.000 phiếu.
- Mô hình trang trại ở các vùng sinh thái.
- Mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới.
- Đo vẽ bản đồ địa hình tỷ lệ lớn (1/10.000 là chính), Khảo sát lập bản đồ
đất tỷ lệ lớn và trung bình (1/10.000 và 1/25.000) cho hàng trăm nông trường,
hàng chục vùng chuyên canh, cho khoảng 2 triệu ha đất nông lâm nghiệp ở hầu
hết các tỉnh thành trong cả nước.
15
Những kết quả nghiên cứu trên là tài liệu bổ ích cho các nhà hoạch định
chính sách.
1.3. Về chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
Từ năm 1990 đến nay, với sự ra đời của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật, Viện đã thực hiện việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật: giống mới, chuyển
đổi cơ cấu giống và cơ cấu mùa vụ, phân bón, VAC, kỹ thuật canh tác tiến bộ ở
nhiều địa phương trong cả nước, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, góp phần tăng
thu nhập, xoá đói giảm nghèo cho hơn 3.000 hộ gia đình các dân tộc thiểu số.
Các mô hình trồng cây burdok, cà rốt xuất khẩu đem lại hiệu quả kinh tế cao,
có khả năng mở rộng ở nhiều địa phương. Những thành tựu trong chuyển giao
tiến bộ kỹ thuật đã giúp Viện gắn lý thuyết với thực tiễn sản xuất, góp phần tăng
tính khả thi của các dự án quy hoạch.
1.4. Thành tựu nghiên cứu khoa học kỹ thuật trong ngành nông
nghiệp.
Viện đã hợp tác với các nhà xuất bản, các tạp chí khoa học, các cơ quan
biên soạn, xuất bản được hơn 10 đầu sách về kỷ yếu, kết quả nghiên cứu khoa
học kỹ thuật trong ngành nông nghiệp
Sách xuất bản tại Nhà xuất bản Chính trị quốc gia: Kết quả nghiên cứu
khoa học 1996- 2001(nhân dịp 40 năm thành lập Viện).

Sách xuất bản tại Nhà xuất bản Nông nghiệp bao gồm:
- Cây cà phê Việt Nam
- Tổng quan phát triển ngành cao su Việt Nam.
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển
lâu bền.
Luận cứ khoa học cho phát triển kinh tế- xã hội các tỉnh Tây Nguyên.
- Một số kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật 1980- 1990.
- Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật thơi kỳ 1986- 1996.
- Nông nghiệp trung du và miền núi- thực trạng và triển vọng.
- Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật 1991- 1993.
- Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật 1993
16
- Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật 1994.
- Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật 1995.
- Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật 1996.
- Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật 1997.
- Tài nguyên đất Đông Nam Bộ - hiện trạng và giải pháp.
- Bộ quy trình.
- v.v
Có được những kết quả trên là do viện đã luôn chấp hành nghiêm túc
những chỉ thị của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, ra sức xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật và đào tạo cán bộ, tận dụng mọi cơ hội để tăng cường hợp tác
quốc tế, giữ vững sự đoàn kết nội bộ, tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chức
năng có liên quan.Nhà nước đã thưởng Huân chương Lao động Hạng ba (1981),
Hạng hai (1985), Hạng nhất (1994) cho Viện và Huân chương Lao động Hạng
Hai cho Phân viện miền Nam, ngoài ra Tổng Liên đoàn Lao động, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng Nông nghiệp đã tặng rất nhiều bằng khen cho tập thể và
cá nhân xuất sắc.
2. Những vấn đề còn tồn tại
Ở Việt Nam nông nghiệp luôn là ngành sản xuất được coi trọng, là cơ sở

để nước ta thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước và trở thành một nước phát triển. Vì vây Chính phủ và lãnh đạo Bộ Nông
nghiệp luôn xác định công tác quy hoạch là một trong những giải pháp quan
trong hàng đầu trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn theo
hướng sản xuất hàng hoá, gắn công nghiệp chế biến với thị trường, thực hiện cơ
giới hoá, điện khí hóa, thuỷ lợi hoá, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ
trước hết là công nghệ sinh học vào sản xuất.
Bước vào thời kỳ đổi mới, bên cạnh những thành tựu đã đạt đượcViện còn
gặp không ít khó khăn:
Về lực lượng cán bộ: đại bộ phận cán bộ của Viện là những người có trình
độ chuyên môn cao nhưng vẫn còn một bộ phận nhỏ cán bộ còn non trẻ thiếu
kinh nghiệm thực tiễn và hoạt động không đúng chuyên ngành được đào tạo.
17
Mặc dù đội ngũ cán bộ đã được nâng cao rõ rệt về trình độ chuyên môn và ngoại
ngữ, song vẫn chưa đồng bộ, chưa thật mạnh. Viện còn thiếu nhiều cán bộ
chuyên môn về môi trường, thuỷ lợi, giao thông, xây dựng. Cán bộ có năng lực
chủ trì công trình, đề tài nghiên cứu còn quá ít. Số cán bộ trẻ có tâm huyết với
nghề, cần cù tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm chưa nhiều. Đây là vấn đề cần lưu
tâm nhất vì thế kỷ tới được coi là thế kỷ của trí tuệ, thiếu trí tuệ thì luôn luôn
thua thiệt, tụt hậu. Cán bộ đông nhưng thiếu việc làm dẫn đến thu nhập thấp và
đời sống cán bộ rất khó khăn.
Là một trong những đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ có số lượng cán bộ đông
nhất (khoảng 700 người). Kế hoạch Bộ giao hàng năm mới bố trí được 40% lực
lượng cán bộ. Để duy trì và phát triển xây dựng Viện ngày càng mạnh hơn, hàng
năm cần phải phấn đấu hợp đồng thu thêm từ 25- 30 tỷ đồng trong hoàn cảnh
hiện nay là rất khó khăn.
Yêu cầu của Bộ cũng như của bên A đối với chất lượng quy hoạch ngày
càng cao, đây cũng là thách thức lớn đối với Viện. Việc thoả thuận ký được hợp
đồng đã khó nhưng việc đảm bảo chất lượng giữ được chữ tín còn khó hơn. Một
trong những yếu tố quyết định tới chất lượng quy hoạch là con người, trang thiết

bị, kinh phí, đặc biệt là còn thiếu cán bộ đủ năng lực chủ trì dự án, chủ nhiệm
công trình cả kế hoạch A và B.
Hiện nay các quy định về quản lý công trình quy hoạch nông nghiệp chưa
được đầy đủ, như quy định về lập, trình duyệt đề cương, dự toán, nghiệm thu
thanh quyết toán công trình, phạm vi áp dụng các định mức, chế độ chi tiêu
chuyên ngành (đối với kế hoạch A), định mức, đơn giá áp dụng đối với quy
hoạch chi tiết, dự án đầu tư (để ký hợp đồng) là những khó khăn khi ký kết
thanh lý và quyết toán hợp đồng kinh tế.
Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang
nền kinh tế thị trường có rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế, xã hội
chưa được giải quyết. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới nhữnh căn cứ, những cơ
sở lý luận và thực tiễn để lập dự án quy hoạch. Vì vậy Viên cần có những cán bộ
18
nghiên cứu giỏi về kinh tế thị trường, cần chú trọng nhiều trong sưu tầm, cập
nhật thông tin kinh tế- kỹ thuật trong và ngoài nước.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của Viện còn thiếu thốn, cơ quan không đủ diện
tích làm việc, trang thiết bị máy móc phần lớn đã cũ và không đồng bộ, chỉ có
khoảng 20% số thiết bị còn tốt, thiếu một số thiết bị chuyên ngành hiện đại,
phương tiện khảo sát thiếu thốn, 70% đầu xe đã hết thời hạn sử dụng gây khó
khăn cho quá trình đi lại và vận chuyển của cán bộ Viện.
Nguồn vốn đầu tư cho Viện còn hạn chế, chưa đủ đáp ứng nhu cầu đổi
mới công nghệ và trang bị kỹ thuật hiện đại. Hiện nay ngoài nguồn kinh phí do
Nhà nước cấp và một phần do Viện tích luỹ thì Viện không còn nguồn tài trợ
nào khác cho các chương trình nghiên cứu.
19
PHẦN III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN
QUY HOẠCH VÀ THIẾT KẾ NÔNG NGHIỆP TRONG TƯƠNG LAI
I. Mục tiêu của Viện trong thời gian tới
Trong thời gian tới, công tác quy hoạch và thiết kế nông nghiệp của Viện
phải đạt được các mục tiêu sau:

- Tiếp tục điều tra, bổ sung, chỉnh lý bản đồ đất tỷ lệ 1/100.000 hoặc
1/50.000 của 64 tỉnh thành dự kiến hoàn thành cuối năm2005.
- Khảo sát đo đạc bản đồ địa hình, bản đồ đất tỷ lệ 1/2000 các khu tái định
cư của các công trình thuỷ lợi.
- Điều tra đánh giá tài nguyên đất phục vụ phát triển kinh tế vùng ven
biển miền Trung và vùng phía Tây Trường Sơn.
- Điều tra khả năng phát triển cây ăn quả, cây đặc sản.
- Tiếp tục cử cán bộ đi đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn.
II. Định hướng của Viện trong tương lai
Để thực hiện được những mục tiêu trên Viện Quy hoạch và thiết kế nông
nghiệp có những định hướng sau:
- Quy hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung. Điều chỉnh quy
hoạch và cơ cấu sản xuất một số vùng, ngành; đẩy nhanh thực hiện chương trình
giống cây, giống con phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất hàng nông lâm thuỷ
sản. Tiếp tục chuyển bớt diện tích trồng lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thuỷ
sản và trồng các cây khác có hiệu quả cao hơn, phát triển các loại cây con có
tiềm năng có thị trường như bông, ngô, bò sữa, xây dựng cánh đồng giá trị trên
50 triệu đồng/ha, mô hình đạt 50 triệu đồng/năm
- Lập dự án quy hoạch các ngành hàng quan trọng phục vụ xuất khẩu.
Nghiên cứu đưa ra những giải pháp trước mắt và lâu dài để phát triển các mặt
hàng xuất khẩu quan trọng, tăng cường lợi thế so sánh của nước ta trên thị
trường khu vực và thế giới.
- Nghiên cứu bố trí sử dụng đất đai theo quan điểm phát triển bền vững.
Thực hiện chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quy hoạch hình thành
20
các vùng nguyên liệu gắn với chế biến, bố trí lại dân cư những nơi cần thiết gắn
với phát triển nông nghiệp, xây dựng các công trình thuỷ lợi, mở đường giao
thông, xây dựng đô thị, quy hoạch khu công nghiệp, đảm bảo ổn định cuộc sống
cho bà con tái định cư, đồng bào các dân tộc, vùng biên giới hải đảo, vùng sâu
vùng xa, vùng thường xuyên bị thiên tai…

- Khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên nước, khí hậu, sinh vật.
- Nghiên cứu định hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo
hướng sản xuất hàng hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Tiếp tục đẩy nhanh tốc
độ chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn theo hướng sản
xuất hàng hoá nông sảncó chất lượng và hiệu quả nhằm đạt chỉ tiêu tăng giá trị
sản xuất ngành nông nghiệp là 4- 4.5%.
- Mở rộng hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hướng dẫn bà con
nông dân ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nhằm nâng cao năng
suất và chất lượng của sản phẩm. Mặt khác không ngừng tiếp thu những tiến bộ
công nghệ mới của thế giới.
III. Một số giải pháp chính
Trong 10 năm tới, chủ chương của Nhà nước ta là “Xây dựng một nền
nông nghiệp mạnh, phát triển bền vững, được áp dụng công nghệ cao, công nghệ
mới, từng bước được hiện đại hoá, vươn lên trở thành một nền nông nghiệp với
những ngành sản xuất hàng hoá lớn, có sức cạnh tranh ngày càng cao trong quá
trình hội nhập quốc tế, có năng suất và thu nhập cao trên một đơn vị diện tích,
đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công
nghiệp, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và bảo vệ môi trường sinh thái, góp
phần nâng cao đời sống nông dân, ổn định kinh tế xã hội và đất nước”. Để thực
hiện đúng chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Viện quy hoạch và
thiết kế nông nghiệp cần đổi mới và nâng cao năng lực để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới. Vì vậy Viện cần tiến hành một số giải pháp chủ yếu sau:
1. Giải pháp trước mắt
- Nhằm đạtđược những mục tiêu và kế hoạch năm 2004, toàn thể cán bộ
công nhân viên Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp cần nhận thức, quán
21
triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng IX, xác định quy hoạch là biện pháp quan
trọng hàng đầu đưa nông nghiệp nông thôn nước ta đi lên công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, đem lại hiệu quả cao…vì vậy quy hoạch phải có cơ sở khoa học và tính
thực tiễn.

- Nhanh chóng bổ sung nội dung phương pháp quy hoạch, bám sát yêu
cầu,điều kiện cụ thể về nguồn lực đất đai, khí hậu, con người, áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, kỹ thuật GIS vào công tác điều tra khảo sát, xây dựng bài
toán quy hoạch tối ưu, cập nhật thông tin thị trường thế giới, các chính sách
đang áp dụng trong một số lĩnh vực liên quan Bài toán quy hoạch đi từ thị
trường- chế biến công nghệ- bố trí vùng trồng.
- Tiếp tục bổ sung hoàn thiện quy chế nội bộ, xây dựng định mức kinh tế-
kỹ thuật, đơn giá quy hoạch nông nghiệp làm căn cứ ký kết hợp đồng, thanh
quyết toán tài chính. Viện giao phòng Kế hoạch và trung tâm quy hoạch Phát
triển nông thôn hoàn thành trong quý II/2004 để trình Bộ phê duyệt.
- Tiếp tục chấn chỉnh các đơn vị về chế độ thanh quyết toán tài chính, ký
kết hợp đồng đặc biệt là các hợp đồng B, quy định trách nhiệm và quyền lợi của
cá nhân, chủ nhiệm công trình về chuyên môn, tài chính. Quy định về biên bản
nghiệm thu khối lượng, biên bản thanh lý hợp đồng, đóng dấu tài liệu, đề cương,
phiếu giá, mức khoán của các công trình B…để ban hành.
- Tăng cường công tác quản lý công trình đề tài: Trên cơ sở kế hoạch
Viện giao (gồm cả kế hoạch A, đề tài khoa học, công trình B). Viện sẽ ra quyết
định cử chủ nhiệm công trình với tiến độ, chất lượng và kinh phí được giao, đề
cương được duyệt. Thực sự coi trọng công tác xây dựng, nghiệm thu trình duyệt
đề cương, dự toán hoàn thành trong quý I/2004, đề cương dự toán sát, đúng sẽ
quyết định 60% thành công. Đề cương được duyệt là căn cứ để tạm ứng kinh
phí, chỉ đạo tiến độ, là căn cứ để dự toán kinh phí.
- Hoàn thành xây dựng cơ bản nhà làm việc trong quý I/2004 đua hoạt
động quản lý cơ quan đi vào nề nếp tốt hơn năm 2003.
2. Giải pháp lâu dài
22
Để thực hiện thành công những mục tiêu đề ra, đưa Viện quy hoạch và
thiết kế nông nghiệp phát triển ngày càng vững mạnh hơn, ban lãnh đạo Viện đã
nhất trí đề ra một số giái pháp chính sau:
Thứ nhất: Đầu tư phát triển nguồn nhân lực, chú ý trong việc đào tạo nâng

cao trình độ chuyên môn của cán bộ Viện. Mặt khác, phải thường xuyên chăm
lo đến đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công nhân viên. Cán bộ lãnh đạo
đoàn kết nhất trí phát huy tính dân chủ, chủ động sáng tạo trong tìm thêm việc
làm và thu nhập cho cán bộ công nhân viên, thực hiện tốt chế độ chính sách của
Nhà nước. Chúng ta đang sống trong thế kỷ của tri thức và khoa học do đó con
người có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia.
Thứ hai: Đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, đặc biệt là các thiết bị chuyên
ngành (máy tính và các phần mềm hữu ích, máy đo đạc điện tử…), phương tiện
vận chuyển tạo nên động lực cho Viện phát triển. Đó cũng là quá trình cải tạo cơ
sở vật chất, trang bị máy móc hiện đại để nâng cao chất lượng trong công việc,
rút ngắn thời gian và chi phí cho các quá trình nghiên cứu lập dự án, quy hoạch
và thiết kế nông nghiệp nông thôn vùng, ngành, địa phương. Có những biện
pháp khấu hao nhanh tài sản cố định để có kinh phí đổi mới trang thiết bị của
Viện, tăng cường máy móc thiết bị hiện đại hơn giúp nâng cao tính khả thi của
mỗi dự án và các đề tài nghiên cứu khoa học.
Thứ ba: Tạo nguồn vốn từ các hoạt động dịch vụ khoa học để tăng thu
nhập cho Viện. Với vai trò một nhà tư vấn lập các báo cáo nghiên cứu khả thi
trong lĩnh vực đầu tư phát triển nông nghiệp cho Bộ, các địa phương, các đơn vị
kinh tế hàng năm Viện đã có được nguồn thu không nhỏ để bổ xung cho nguồn
vốn hoạt động của Viện. Trên tổng số tiền thu được, Viện đã trích một phần để
tăng tiền lương, thưởng cho cán bộ công nhân viên của Viện giúp cải thiện đời
sống, tăng thu nhập, tạo động lực vật chất cho mọi thành viên. Từ đó khuyến
khích các hoạt động nghiên cứu, phát huy khả năng của mọi người. Phần còn lại
Viện sử dụng để đầu tư mua sắm trang thiết bị, tăng cường năng lực khoa học
công nghệ cho Viện.
23
Thứ tư : Sắp xếp lại bộ máy tổ chức để phù hợp với cơ chế quản lý mới.
Viện đã có đề án xin chuyển giao 2 xí nghiệp in bản đồ nông nghiệp ở Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh về Bộ quản lý, chuyển xí nghiệp đo đạc bản đồ nông
nghiệp I sang doanh nghiệp nhà nước, chuyển một số đội quy hoạch tăng cường

cho các tỉnh. Bố trí các cán bộ có năng lực, chuyên môn vào đúng vị trí trong bộ
máy tổ chức của Viện để năng cao hiệu quả hoạt động.
Thứ 5: Tăng cường quan hệ hợp tác với các tổ chức Quốc tế trong lĩnh
vực điều tra quy hoạch để tiếp thu phương pháp, kỹ thuật mới và chuyển giao
công nghệ tiên tiến.
Như vậy, để khắc phục những khó khăn, hạn chế, hoàn thành nhiệm vụ
quan trọng mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao phó trong thời kỳ
xây dựng nông nghiệp nông thôn giàu đẹp, Viện Quy hoạch và thiết kế Nông
nghiệp cần phải tiến hành triệt để các giải pháp thiết thực để từng bước hoàn
thiện về mọi mặt.
24
MỤC LỤC
25

×