Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

đổi mới hoạt động kinh doanh ở công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng yên từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.14 KB, 63 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế cơ
sở có tư cách pháp nhân, một phân hệ kinh tế mở trong nền kinh tế quốc dân mở
cửa ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, công tác
đổi mới hoạt động kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng
nhằm định hướng các mục tiêu kinh doanh, đảm bảo cho doanh nghiệp phát
triển ổn định, đúng hướng và có hiệu quả.
Để đảm bảo cho việc sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả cao như
mong muốn cần nắm vững và tuân thủ đúng đòi hỏi của các quy luật khách quan
diễn ra trong quá trình kinh doanh, người làm quản trị kinh doanh phải thực sự
là những người tài ba, năng động, sáng tạo thích ứng với mọi môi trường, phải
chịu khó học hỏi tìm tòi nhằm tìm ra những quy luật và cơ chế vận dụng những
quy luật đó trong quá trình quản trị kinh doanh một cách có hiệu quả.
Với 5 năm học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà
Nội. Để nắm vững hơn và có hệ thống về kiến thức chuyên môn em đã xin được
thực tập tại Công ty Cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ -
Ninh Bình, với đề tài là:
"Đổi mới hoạt động kinh doanh ở Công ty Cổ phần xây dựng và sản
xuất vật liệu xây dựng Yên Từ"
Mặc dù đã làm hết sức mình nhưng chắc chắn rằng không tránh khỏi thiếu
sót. Vì vậy, rất mong sự thông cảm của thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế
Quốc dân Hà Nội và tập thể cán bộ công nhân viên Công ty Cổ phần xây dựng
và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được kết cấu 3 chương:
- Chương I: Công ty cổ phần và sự cần thiết phải đổi hoạt động kinh
doanh của Công ty cổ phần.
- Chương II: Phân tích hoạt động kinh doanh hiện nay của Công ty cổ
phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ.
- Chương III: Phương hướng, biện pháp đổi mới hoạt động kinh doanh
ở Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ và một số
kiến nghị nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Công ty cổ


phần
Em xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên
trong Công ty Cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu Yên Từ.
CHƯƠNG I
CÔNG TY CÔ PHẦN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
I. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Đặc điểm của Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh
doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự
nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận nó
có những đặc điểm sau:
1.1. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp
nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần góp vốn
của mình. Điều này cho phép Công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động
những lượng vốn lớn nằm rải rác thì thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. Vốn của
Công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ phần. Cổ phần là
vốn cơ bản thể hiện một khoản giá trị thực tế tính bằng tiền. Giá trị của mỗi cổ
phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá, ghi
nhận quyền sở hữu cổ phần, đồng thời bảo đảm cho người chủ sở hữu có quyền
lĩnh một phần thu nhập của Công ty tương ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu. Cổ
phiếu chứng minh tư cách thành viên của những người góp vốn và Công ty cổ
phần, những thành viên này gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc
nhiều cổ phiếu. Cổ phiếu được phát hành có thể có ghi tên hoặc không ghi tên.
Cổ phiếu của sáng lập viên, của thành viên Hội đồng quản trị phải là cổ phiếu có
ghi tên. Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng, còn cổ phiếu có ghi
tên chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của Hội đồng quản trị.
Mỗi một Công ty chỉ được phép phát hành một số lượng cổ phiếu nhất
định. Lúc đầu các Công ty thường phát hành hết số cổ phiếu được phát hành,
nhưng sau khi hoạt động và có lợi nhuận, các Công ty thường chuộc lại một số

cổ phiếu từ tay các cổ đông để dự trữ nhằm mục đích sử dụng sau này như: Tăng
số vốn cổ phần hoặc dùng để trả lãi lợi tức cổ phiếu cho các cổ đông. Vì vậy
trong các số cổ phiếu mà Công ty phát hành phần lớn nằm trong tay các cổ đông
và phần còn lại do Công ty nắm giữ.
Vốn cổ phần được cơ cấu bởi hai bộ phận:
- Vốn cổ phần được hình thành do Công ty phát hành cổ phiếu thường -
là cổ phiếu không thể thiếu được trong Công ty cổ phần. Nếu không có nó thì
không thể có một Công ty cổ phần nào tồn tại. Đặc trưng của cổ phiếu thường là
chủ nhân của nó (các cổ đông thường) phải chịu sự mạo hiểm rất cao khi Công
ty thua lỗ trong hoạt động kinh doanh. Nếu Công ty thành đạt tốt trong hoạt
động sản xuất kinh doanh thì các cổ đông thường có lợi hơn so với cổ đông ưu
đãi, cũng như các chủ nợ phần lớn lợi nhuận Công ty đang phát đạt được chia
cho các cổ đông thường dưới dạng lợi tức cổ phần.
- Vốn cổ phần hình thành do Công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi: Theo
điều lệ công ty, cổ phiếu ưu đãi phải đảm bảo giải quyết các điều kiện: mức lãi
lợi tức cổ phần cố định; khả năng của Công ty chuộc lại các cổ phiếu đó; mức
trả cho các cổ phiếu ưu đãi trong trường hợp Công ty bị phá sản; điều kiện để
đổi cổ phiếu lấy cổ phiếu thường. Như vậy cổ phiếu ưu đãi là cổ phiếu được
hưởng các quyền ưu tiên đựơc hưởng mức lãi cổ phần riêng biệt có tính cố định
hàng năm bất kể Công ty có lãi hay không, được ưu tiên phân chia tài sản còn
lại của Công ty khi Công ty bị phá sản.
Cổ phiếu ưu đãi gồm có cổ phiếu ưu đãi có lãi cổ phần gộp hay dồn lãi, cổ
phiếu ưu đãi không dồn lãi. Cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi thuận để lấy cổ phiếu
thường, đổi nghịch để lấy cổ phiếu khác ưu đãi hơn, cổ phiếu ưui đãi có thể bồi
hoàn được.
Trong cơ cấu cổ phiếu thì vốn cổ phiếu ưu đãi chiếm một tỉ trọng rất nhỏ,
còn chủ yếu là vốn cổ phiếu thường. Trong Công ty cổ phần ở các nước tư bản
phát triển, vốn cổ phiếu thường chiếm 80% vốn pháp định.
Vốn cổ phiếu của Công ty được pháp luật công nhận để đảm bảo các cam
kết của Công ty khi Công ty đi vay.

- Ngoài vốn góp của cổ đông, các Công ty cổ phần còn có quyền đi vay
nợ rồi trả lãi tức theo tỉ lệ thoả thuận, có quyền phát hành hối phiếu, tín phiếu và
các giấy nợ khác. Vốn đi vay có ý nghĩa quan trọng đối với các Công ty, nhất là
Công ty đang ở trong tình trạng khó khăn về tài chính hay Công ty muốn cải tạo
hoặc đổi mới quy trình công nghệ cũng như khi mở rộng qui mô sản xuất.
Nguồn thanh toán và trả nợ của Công ty chủ yếu là lợi nhuận thu được trong quá
trình kinh doanh.
Như vậy vốn cổ phần là do các cổ đông đóng góp bất cứ ai kể cả tư nhân,
tập thể nhà nước và cá nhân dù chỉ mua một cổ phiếu thôi cũng trở thành người
chủ sở hữu chung tài sản hợp nhất của Công ty cổ phần. Công ty cổ phần là loại
hình doanh nghiệp có nhiều chủ đồng sở hữu. Quyền trách nhiệm và lợi ích của
mỗi chủ sở hữu phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu của họ trong Công ty. Cổ đông
nắm được số lượng cổ phiếu khống chế thì có thể nắm được quyền chi phối
hoạt động của Công ty. Khi muốn thu hồi vốn nhanh, các cổ đông chỉ có cách là
bán các cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán.
1.2. Cơ cấu tổ chức và điều hành Công ty cổ phần
Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong Công ty cổ phần nên các cổ đông
không thể trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình, mà phải thông qua
các tổ chức đại diện làm nhiệm vụ tổ chức trực tiếp quản lý Công ty, bao gồm:
Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát. Đại
hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của Công ty là đại hội của những
người đồng sở hưũ đối với Công ty cổ phần.Đại hội cổ đông có 3 hình thức:
- Đại hội đồng thành lập được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành lập,
thảo luận và thông qua điều lệ Công ty. Đại hội đồng thành lập phải có nhóm cổ
đông đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của Công ty và biểu quyết đa số quá
bán.
- Đại hội cổ đông bất thường. Trong trường hợp khẩn cấp có nguy cơ đe
doạ đến sự hoạt động bình thường của Công ty như: Gặp khó khăn về tài chính;
cần thay đổi chiến lược kinh doanh; hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban
kiểm soát yếu kém cần chấn chỉnh và kiện toàn thì đại hội cổ đôngcó thể triệu

tập bất thường theo yêu cầu của Chủ tịch hoặc của trên 1/2 số thành viên của
Hội đồng quản trị; hoặc theo yêu cầu của trưởng ban kiểm soát hay đề nghị của
số cổ đông đại diện cho trên 50% số vốn điều lệ của Công ty. Nhiệm vụ quyền
hạn của đại hội cổ đông bất thường giống như nhiệm vụ quyền hạn của đại hội
cổ đông thường kỳ, song nội dung của đại hội bất thường có thể tiến hành theo
một số mục tiêu cần giải quyết cấp bách nhất, chẳng hạn để sửa đổi điều lệ Công
ty.
- Đại hội đồng cổ đông: Được triệu tập vào cuối năm tài chính hoặc bất kỳ
lúc nào mà Hội đồng quản trị hoặc kiểm soát viên thấy cần thiết để giải quyết
thuộc hoạt động kinh doanh của Công ty trong khuôn khổ điều lệ, trong đó có
các việc chủ yếu sau đây: Quyết định phương hướng nhiệm vụ phát triển Công
ty và kế hoạch kinh doanh hàng năm; thảo luận và thông qua bảng tổng kết năm
tài chính; bầu bãi miễn thành viên Hội đồng quản trị và kiểm soát viên; quyết
định số lợi nhuận trích lập các quĩ của Công ty, số lợi nhuận chia cho các cổ
đông, phân chia trách nhiệm về các thiệt hại xảy ra đối với Công ty trong kinh
doanh.
- Hội đồng quản trị là bộ máy quản lý của Công ty cổ phần. Hội đồng
quản trị bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao và quản lý giỏi,
để có khả năng hoàn thành tốt các nhiệm vụ do Đại hội đồng cổ đông giao phó.
Số thành viên của Hội đồng quản trị do đại hội cổ đông quyết định và ghi vào
điều lệ Công ty. Thông thường ở các nước những Công ty nhỏ, số thành viên
của Hội đồng quản trị có thể từ 3 -7 người; nhưng Công ty trung bình có số
thành viên Hội đồng quản trị có thể từ 9 - 13 người; những Công ty lớn số thành
viên Hội đồng quản trị có thể từ 15 - 17 người. Luật công ty của nước ta qui
định " Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý của Công ty gồm 3 - 12 thành viên".
Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi vấn đề
liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền
của đại hội đồng. Hội đồng quản trị bầu một thành viên làm chủ tịch. Chủ tịch
Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc(Tổng giám đốc) Công ty nếu điều lệ
Công ty không qui định khác. Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đứng đầu Hội

đồng quản trị nói chung phải là người có kiến thức kinh tế và trình độ kinh
doanh, am hiểu pháp luật Nhà nước và thông thạo các hoạt động thương mại.
- Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của Công
ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về thực hiện các nhiệm vụ và
quyền hạn được giao. Việc lựa chọn Giám đốc có thể thông qua dưới nhiều hình
thức thi tuyển khác nhau, nhằm bảo đảm khách quan và lựa chọn đúng được
nhân tài để điều hành Công ty. Về thực chất, Giám đốc điều hành Công ty là
người làm thuê cho Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc không làm việc theo
nhiệm kỳ mà làm việc theo thời hạn hợp đồng ký kết với Chủ tịch Hội đồng
quản trị.
Công ty cổ phần có số lượng thành viên kiểm soát tuỳ theo qui định trong
điều lệ của Công ty. Những người này không phải là thành viên Hội đồng quản
trị hoặc Giám đốc.
Nguyên tắc của sự phân công quyền lực giữa các bô phận trong cơ cấu tổ
chức của Công ty cổ phần ở mỗi nước không hoàn toàn giống nhau, nhưng nhìn
chung phải bảo đảm thực hiện quyền của chủ sở hữu, vai trò của chủ kinh doanh
và sự kiểm soát của đại hội cổ đông thể hiện ở những qui định trong điều lệ và
hoạt động của Ban kiểm soát.
1.3. Phân chia lợi nhuận trong Công ty cổ phần
Trong Công ty cổ phần, quan hệ phân phối được thực hiện theo nguyên
tắc vốn góp của các cổ đông và lệ thuộc trực tiếp vào lợi nhuận của Công ty. Lợi
nhuận của Công ty sau khi dùng cho các khoản chung cần thiết, phần còn lại
được chia đều cho các cổ phần. Phần lợi nhuận mà các cổ đông thu được tỉ lệ
thuận với lượng vốn góp của họ và được gọi là lợi tức cổ phần. Mức lợi tức cổ
phần phụ thuộc trực tiếp vào trình độ và kết quả kinh doanh của Công ty. Mức
lợi tức cổ phần cao không những có lợi cho các cổ đông, mà còn ảnh hưởng trực
tiếp làm tăng giá cổ phiếu của Công ty trên thị trường chứng khoán. Thông
thường các chủ sở hữu góp vốn cổ phần với mục đích thu lợi tức cổ phần cao
hơn lãi suất trên thị trường vốn.
Những đặc điểm của các quan hệ trên cho thấy, nếu trong các Công ty

khác, người chủ sở hữu tài sản đồng thời là người tổ chức và quản lý hoạt động
của Công ty, quan hệ với bạn hàng thì Công ty cổ phần người sở hữu tài sản của
Công ty là"người sở hữu thuần tuý" "người chủ tiền tệ thuần tuý" việc điều
khiển và quản lý Công ty được thực hiện thông qua chế độ thuê Giám đốc. Chủ
sở hữu chỉ thực hiện quyền sở hữu của mình trên phương diện thuê lợi tức cổ
phần trên cơ sở hoạt động của Công ty, tham gia Đại hội cổ đông, quyết định
các vấn đề có tính chất chiến lược của Công ty như thông qua điều lệ, phương
án xây dựng Công ty, quyết toán tài chính, giải thể, bầu và ứng cử vào các cơ
quan lãnh đạo của Công ty. Người Giám đốc của Công ty "chỉ đơn giản điều
khiểu và quản lý tư bản người khác", anh ta chỉ là người làm thuê với loại lao
động đặc biệt mà "giá cả được qui định trên thị trường lao động cũng như bất cứ
lao động nào khác". Như vậy đặc điểm nổi bật của Công ty cổ phần là quyền sở
hữu được tách ra khỏi chức năng của nó. Khác với các loại Công ty khác, Công
ty cổ phần là Công ty có phát hành cổ phiếu.
2. Vai trò của Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức doanh nghiệp phổ biến trong
nền kinh tế thị trường, có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp
phần hoàn thiện cơ chế thị trường, thể hiện:
Một là: Do quan hệ sở hữu trong Công ty cổ phần là thuộc về các cổ đông
nên qui mô sản xuất có khả năng mở rộng to lớn và nhanh chóng, sớm ra đời các
doanh nghiệp lớn cần một số lượng vốn lớn mà không một chủ thể riêng lẻ nào
có thể thực hiện được. Một khoản đầu tư vốn riêng lẻ ban đầu không đủ để xây
dựng một doanh nghiệp lớn trong một thời gian ngắn. Bởi vì, việc tích tụ dựa
vào tích luỹ của mỗi cá nhân diễn ra vô cùng chậm chạp. Trong khi đó, việc tập
trung vốn của Công ty cổ phần thông qua phát hành cổ phiếu để huy động vốn
xã hội lại diễn ra rất nhanh. Về điểm này trong bộ"Tư bản", C.Mac nêu nhận
xét:"Nếu cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một số tư bản riêng lẻ lớn
lên tới mức có thể đảm đương được xây dựng đường sắt, thì có lẽ đến ngày nay
(giữa Thế kỷ XIX) thế giới vẫn chưa có đường sắt. Ngược lại qua các Công ty
cổ phần, sự tập trung đã thực hiện việc đó trong nháy mắt".

Hai là, thu hút rộng rãi vốn xã hội vào mở rộng sản xuất kinh doanh.
Trong các Công ty cổ phần, một cổ phần góp vốn được ghi trên mặt cổ phiếu
(mệnh giá cổ phiếu) thường được qui định từ mức rất thấp. Chẳng hạn mức tối
thiểu của một cổ phiếu ở Pháp là 3 Frăng, ở Mỹ: 1- 5 USD; ở Đức: 1 - 7 DM, ở
Nhật 100 yên,v.v Vì thế, cách huy động vốn của Công ty cổ phần không chỉ
thu hút được vốn từ các nhà đầu tư lớn, mà còn tạo ra cơ hội để người lao động
kể cả người nghèo đều có thể mua được cổ phiếu.
Ở đây, Công ty cổ phần có quan hệ trực tiếp với sự phát triển của tín
dụng, Ngân hàng. C. Mác xác định rằng quan hệ tín dụng là cơ sở của quan hệ
cổ phần. Sự phát triển của Công ty cổ phần là sự phát triển đầy đủ của chế độ tín
dụng, có nghĩa là tiền vốn đã trở thành máu của nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên,
so với tiền gửi vào các quĩ tín dụng và ngân hàng thì đầu tư vào Công ty cổ phần
thường có sức hấp dẫn và lôi cuốn hơn. Bởi vì, người mua cổ phiếu không chỉ
mong đợi thu được một khoản lợi tức bằng mức gửi vào Ngân hàng, mà còn hy
vọng vào tương lai Công ty cổ phần làm ăn phát đạt sẽ đưa lại thu nhập cao hơn.
Người mua cổ phiếu là người tìm kiếm tương lai của Công ty cổ phần. Công ty
cổ phần là một hình thức để thu hút vốn tiền tệ trong xã hội. Sự khơi thông
nguồn vốn qua Công ty cổ phần là một sự phản ánh tính chất xã hội hoá các
hàng hoá yếu tố sản xuất. Đây là tiêu chí của nền kinh tế hàng hoá phát triển.
Ba là, từ chỗ hình thành trên cơ sở xã hội hoá, Công ty cổ phần lại đẩy
nhanh xã hội hoá sản xuất, thu hút đông đảo lực lượng xã hội vào quản lý, đồng
thời vẫn đề cao vai trò quản lý chuyên nghiệp. Công ty cổ phần trở nên phổ
biến tới mức mọi người (không kể đó là nhà tư bản hay người lao động) đều
mua cổ phiếu,chứng tỏ hình thức này có cơ chế nội tại của nó, có thể tạo điều
kiện cho các quan hệ sở hữu xâm nhập vào nhau. Đây là cơ sở để tập trung xã
hội về tư liệu sản xuất và lao động. Công ty cổ phần không chỉ giúp việc chuyển
hoá quĩ tiêu dùng thành quĩ sản xuất trong phạm vi toàn xã hội, mà còn góp
phần giảm bớt lượng dự trữ tiền mặt trong xã hội, đẩy nhanh quá trình tái sản
xuất, nâng cao hiệu quả vận động vốn xã hội.
Sự tổ chức của Công ty cổ phần còn tạo điều kiện tập hợp nhiều lực lượng

xã hội vào hoạt động quản lý chung: Bằng việc mua cổ phiếu ở các Công ty cổ
phần, người lao động tham gia và quản lý Công ty với tư cách là chủ sở hữu
đích thực.
Trong Công ty cổ phần, do chức năng của vốn tách rời quyền sở hữu vốn,
nên cho phép sử dụng nhà quản lý chuyên nghiệp. Hội đồng quản trị với tư cách
đại diện chủ sở hữu, có thể thuê giám đốc điều hành hoạt động sản xuất kinh
doanh. Giám đốc là một nghề, việc sử dụng giám đốc như vậy là điều kiện để
phát huy tính chủ động sáng tạo của chủ quản lý - một yếu tố không thể thiếu
được cho một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả trong kinh tế thị trường.
Thêm vào đó, cách huy động vốn của Công ty cổ phần làm cho hoạt động
của doanh nghiệp vượt ra khỏi giới hạn cuả mình, hình thành các Công ty cổ
phần xâm nhập vào nhau, có quan hệ dọc, ngang rộng rãi, tạo ra các quan hệ
kinh tế nhiều bên, nâng cao hơn nữa trình độ xã hội hoá.
Bốn là, hoạt động của Công ty cổ phần khơi thông nguồn vốn đầu tư gắn
chặt với sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận và thua lỗ là hai vấn
đề liên quan trực tiếp đến quyết định đầu tư. Nhà kinh tế học người Mỹ
Samuelson nói rằng:"Lợi nhuận là cái bánh mì tẩm đường mà người ta dùng để
kích thích khả năng kinh doanh; thua lỗ là cái roi da mà người ta sẽ nhận lấy,
nếu sử dụng những phương pháp không kinh tế, hay là sử dụng những yếu tố sản
xuất sẽ mang lại lợi nhuận nhưng người tiêu dùng lại không muốn bỏ tiền ra
mua những sản phẩm mang lại lợi nhuận này". Để có nhiều lợi nhuận (mà thực
thể của nó đối với những người có vốn là lợi tức), người chủ tiền tệ phải hướng
đầu tư vào các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, từ bỏ các doanh nghiệp kém
cỏi không có hoặc có ít lợi nhuận. Do mục đích của các chủ góp vốn cổ phần
muốn thu được lợi tức cổ phần cao hơn mức lãi suất trên thị trường vốn, nên họ
chỉ có thể mua cổ phiếu ở các Công ty có tương lai phát đạt. Và như vậy, cổ
phiếu là một công cụ tài chính quan trọng định hướng đầu tư của xã hội vào các
ngành, lĩnh vực kinh tế có tương lai. Điều này càng trở nên có ý nghĩa đối với
các nước muốn đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện
đại trong sự kết hợp vai trò của cơ chế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của Nhà

nước. Tất nhiên, để có sự chuyển dịch và lưu thông nguồn vốn xã hội qua các
Công ty cổ phần, cần phải ra đời và phát triển thị trường chứng khoán. Thị
trường chứng khoán là nơi để cho các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được các
nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh; là nơi khai thông các
nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư; là cơ chế phân bổ
các nguồn đầu tư theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường; và là cơ sở quan trọng
để Nhà nước thông qua đó để sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt
động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu lựa chọn. Thiếu thị trường
chứng khoán không có nền kinh tế thị trường phát triển. Song sự ra đời của thị
trường chứng khoán không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà
là kết quả của sự phát triển chung về kinh tế xã hội, trong đó sự ra đời và phát
triển, hoạt động một cách hoàn hảo của các Công ty cổ phần giữ vai trò quyết
định.
Năm là, Công ty cổ phần tạo ra cơ chế phân bố rủi ro đặc thù, đồng thời
tạo ra khả năng tồn tại lâu bền cho doanh nghiệp. Trong kinh tế thị trường hoạt
động của mỗi doanh nghiệp không thể khẳng định là không gặp rủi ro, có thể bị
phá sản; tức là nếu người chủ tiền tệ dùng toàn bộ nguồn vốn của mình đầu tư
vào một doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro lớn hơn so với đầu tư vào nhiều doanh
nghiệp. Cách thức huy động vốn của Công ty cổ phần tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư tài chính mua cổ phiếu ở nhiều Công ty, giải vốn ra nhiều ngành để giảm
bớt tổn thất nếu một Công ty nào đó bị phá sản. Mặt khác, vốn tự có của các
Công ty cổ phần là vốn của nhiều cổ đông khác nhau, nên nếu Công ty bị phá
sản thì đây là hình thức san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông - một cách giảm nhẹ
"nỗi đau kinh tế" cho một chủ sở hữu (nếu đó là doanh nghiệp một chủ). Vì thế,
Công ty cổ phần có vai trò tạo ra cơ chế phân bổ rủi ro - đặc thù mà các loại
hình doanh nghiệp khác không thể có đựơc.
Công ty cổ phần có khả năng tồn tại vô hạn vì vốn góp cổ phần độc lập
với các cổ đông. Người chủ tiền tệ bỏ tiền ra mua cổ phiếu của Công ty cổ phần
nhưng không có quyền rút vốn, mà chỉ có quyền sở hữu cổ phiếu. Họ có thể tự
do mua bán cổ phiếu trên thị trường và có quyền thừa kế. Vì thế, khác với các

loại hình doanh nghiệp khác, vốn cổ phần đã góp tồn tại và gắn liền với quá
trình "sống" của Công ty cổ phần, mặc dù chủ sở hữu cụ thể có thay đổi. Công
ty cổ phần tồn tại liên tục không bị ảnh hưởng bởi cổ đông chết hay tù tội ,
thậm chí tồn tại ngay cả trong trường hợp nó chỉ đem lại lợi tức bằng mức lãi
suất nếu gửi tiền đó vào Ngân hàng.
Tóm lại: Công ty cổ phần là hình thức tổ chức mang tính chất xã hội hoá
cao, không những thể hiện ở phương diện sở hữu mà còn tập trung ở việc sử
dụng vốn.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là tập hợp những điều kiện, yếu
tố bên trong và bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao
gồm:
3.1. Khách hàng: Là cá nhân, nhóm người, doanh nghiệp có nhu cầu và
có khả năng thanh toán về hàng hoá , dịch vụ của doanh nghiệp mà chưa được
đáp ứng và mong được thoả mãn.
Thị trường của doanh nghiệp là tập hợp các khách hàng rất đa dạng, khác
nhau về lứa tuổi, giới tính, mức thu nhập, nơi cư trú, sở thích tiêu dùng và vị trí
trong xã hội Người ta có thể chia khách hàng nói chung thành những nhóm
khách hàng khác nhau, mỗi nhóm có đặc trưng riêng phản ánh quá trình mua
sắm của họ (những đặc điểm này sẽ là gợi ý quan trọng để doanh nghiệp đưa ra
các biện pháp phù hợp, thu hút khách hàng).
3.2. Tiềm năng và mục tiêu của doanh nghiệp : Mỗi một doanh nghiệp
có một số tiềm năng phản ánh thực lực của doanh nghiệp trên thị trường. Đánh
giá đúng đắn, chính xác các tiềm năng của doanh nghiệp cho phép xây dựng
chiến lược, kế hoạch kinh doanh, tận dụng tối đa thời cơ với chi phí thấp để
mang lại hiệu quả trong kinh doanh.
Các nhân tố quan trọng để đánh giá tiềm năng của doanh nghiệp so với
các đối thủ cạnh tranh:

- Sức mạnh về tài chính.
- Trình độ quản lý và kỹ năng của con người trong hoạt động kinh doanh.
- Tình hình trang thiết bị hiện có
- Các bằng phát minh sáng chế
- Nhãn hiệu hàng hoá và uy tín của doanh nghiệp
- Hệ thống tổ chức quản lý, mạng lưới kinh doanh và quan điểm quản lý.
- Nguồn cung cấp vật tư
- Sự đúng đắn của mục tiêu kinh doanh và khả năng kiên định trong quá
trình thực hiện hướng tới mục tiêu.
3.3. Người cung ứng: Là các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp hàng hoá,
dịch vụ cần thiết cho doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp
phải xác định số lượng, chủng loại mặt hàng, sự lớn mạnh và khả năng cung ứng
nguồn hàng trong hiện tại lẫn trong tương lai. Để có quyết định mua đúng đắn,
doanh nghiệp phải xác định rõ đặc điểm của từng nguồn hàng, trên cơ sở đó lựa
chọn đơn vị cung ứng tốt nhất về chất lượng, có độ tin cậy bảo đảm cao và giá
hạ.
3.4. Đối thủ cạnh tranh: đó là các đối thủ cạnh tranh có mặt hàng giống
như mặt hàng của doanh nghiệp hoặc các mặt hàng có thể thay thế lẫn nhau.
Người ta phân chia các đối thủ cạnh tranh:
- Các doanh nghiệp khác đưa ra sản phẩm, dịch vụ cho cùng một khách
hàng ở mức giá tương tự (đối thủ sản phẩm).
- Các doanh nghiệp cùng kinh doanh một hay một số loại sản phẩm (đối
thủ chủng loại sản phẩm).
- Các doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh trên một lĩnh vực nào đó.
- Các doanh nghiệp cùng cạnh tranh để kiểm lời của một nhóm khách
hàng nhất định.
3.5. Trung gian thương mại: là cá nhân, tổ chức giúp doanh nghiệp
tuyên truyền quảng cáo, phân phối hàng hoá và bán hàng đến tay người tiêu
dùng. Họ là những cá nhân, tổ chức quảng cáo, tiếp thị, vận chuyển hàng hoá
đến người tiêu dùng, bán buôn, bán lẻ và làm đại lý bán hàng cho doanh nghiệp.

3.6. Công chúng: là bất kỳ nhóm người nào có một quyền lợi thực tế và
hiển nhiên hay tác động đến khả năng doanh nghiệp nhằm trở thành đối tượng
của doanh nghiệp, bao gồm công luận, chính quyền, công chúng tích cực và
công chúng nội bộ doanh nghiệp. Không ngoan nhất doanh nghiệp phải bỏ thời
gian và chi phí để hướng dẫn công chúng; thấu hiểu nhu cầu, ý kiến và liên kết
họ nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
3.7. Chính trị và luật pháp, để thành công trong kinh doanh các doanh
nghiệp phải phân tích, dự đoán về chính trị và luật pháp cùng xu hướng vận
động của nó bao gồm:
- Sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao
- Sự cân bằng các chính sách của Nhà nước
- Vai trò và chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ.
- Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống
kinh tế.
- Sự phát triển quyết định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
- Hệ thống luật pháp , sự hoàn thiện và hiệu lực thi hành chúng.
3.8. Các yếu tố kinh tế: Các yếu tố kinh tế bao gồm các nhân tố tác động
đến sức mua của khách hàng và dạng tiêu dùng hàng hoá, " là máy đo nhiệt độ"
của thị trường, quy định cách thức doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực của
mình.
- Sự tăng trưởng kinh tế.
- Sự thay đổi về cơ cấu sản xuất và phân phối.
-Tiềm năng kinh tế và sự gia tăng đầu tư
- Lạm phát, thất nghiệp, sự phát triển ngoại thương
- Các chính sách tiền tệ tín dụng
3.9. Kỹ thuật và công nghệ: yếu tố kỹ thuật và công nghệ làm cơ sở cho
yếu tố kinh tế là sức mạnh "tàn phá sáng tạo" dẫn đến sự ra đời sản phẩm mới sẽ
tác động vào mô thức tiêu thụ và hệ thống bán hàng. Ngược lại yếu tố kỹ thuật
bị ảnh hưởng của cách thức quản lý vĩ mô.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân

- Tiến bộ kỹ thuật và khả năng ứng dụng kỹ thuật trong hoạt động kinh
doanh.
- Chiến lược phát triển kỹ thuật, công nghệ của nền kinh tế.
3.10. Yếu tố văn hoá xã hội: ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và hành
vi của con người, qua đó ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của khách hàng, bao
gồm:
- Dân số và xu hướng vận động.
- Các hộ gia đình và xu hướng vận động
- Sự di chuyển của dân cư
- Thu nhập của dân cư và xu hướng vận động, phân bố thu nhập giữa các
nhóm người và các vùng địa lý.
- Việc làm và vấn đề phát triển việc làm.
- Dân tộc và các đặc điểm tâm sinh lý
3.11. Môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng.
Doanh nghiệp cần lưu ý đến các mối đe doạ và cơ hội phối hợp và các
khuynh hướng của môi trường tự nhiên.
- Sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu thô gồm các nguyên liệu vô tận, nguyên
liệu tái sinh và nguyên liệu không thể tái sinh được.
- Sự gia tăng chi phí năng lượng
- Mức tăng ô nhiễm buộc các doanh nghiệp tìm hướng thay thế để sản
xuất và đóng gói sản phẩm không tác hại đến môi trường.
- Sự thay đổi vai trò Nhà nước trong bảo vệ môi trường
- Trình độ hiện tại cơ sở hạ tầng sản xuất: đường xá giao thông, thông tin
liên lạc
II. NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ DOANH
NGHIỆP SAU KHI ĐÃ CHUYỂN SANG HÌNH THỨC CỔ PHẦN
1. Kết quả bước đầu của các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá.
Trong số 38 doanh nghiệp đã cổ phần hoá, có 12 doanh nghiệp đã hoạt
động từ 1 năm trở lên theo Luật công ty. Nhưng Công ty đã cổ phần hoá hoạt
động đều có lãi các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu đều đạt cao hơn trước. Nhìn

chung:
- Vốn điều lệ (kể cả vốn của Nhà nước): tăng bình quân 19.06%/năm.
- Doanh thu: Tăng bình quân 46%/năm
- Lợi nhuận: Tăng bình quân 44%/năm
- Các khoản nộp ngân sách: Tăng bình quân 82%/năm
- Tỷ suất lợi nhuận năm 1997 trên vốn sở hữu (gồm vốn góp ban đầu và
vốn tích luỹ) là 44%.
- Số lao động làm việc tại Công ty cổ phần tăng bình quân 30%/năm
- Thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm
Ngoài ra, người lao động có cổ phần trong Công ty còn được chia lợi tức
trên vốn góp cổ phần từ lợi nhuận sau thuế 22 - 24%/năm (nếu gửi tiết kiệm thì
tối đa cũng chỉ được 12%/năm).
Tóm lại, các doanh nghiệp đã chuyển thành Công ty cổ phần đều cho thấy
hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên rõ rệt. Nhờ hiệu quả được nâng cao nên
tăng thêm được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông (trong đó có cổ đông Nhà
nước và người lao động) vừa được hưởng cổ tức ở mức cao, vừa tăng giá trị vốn
góp tại Công ty. Nhà nước ngoài việc được tăng trưởng vốn góp, được chia cổ
tức, các khoản nộp ngân sách Nhà nước cũng tăng nhanh.
2. Kết quả cụ thể của một số doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hoá
từ 3 - 5 năm.
2.1. Công ty Vifoco
Công ty cổ phần Việt Phong (Vifoco) có nguồn gốc từ nguồn gốc thực
phẩm gia súc Vifoco của tập đoàn mại bản, hoạt động từ năm 1992. Song năm
1975 Nhà máy trưng mua và tổ chức lại thành xí nghiệp quốc doanh, năm 1997
đổi tên thành xí nghiệp thức ăn Tân Bình, hoạt động theo cơ chế bao cấp, sản
lượng năm cao nhất 12.000 tấn. Chuyển sang cơ chế thị trường xí nghiệp khó
khăn về vốn, nguyên liệu, thị trường, phải mất một thời gian mới khắc phục
được, xí nghiệp đầu tư cải tạo máy móc, đa dạng hoá sản phẩm, mở nhiều đại lý,
tăng vốn kinh doanh lên gần 3 tỷ đồng. Khi Nhà nước có chủ trương cổ phần
hoá, xí nghiệp đăng ký với Bộ thực hiện cổ phần hoá; xí nghiệp đăng ký với Bộ

thực hiện cổ phần hoá; được Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm (nay
là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn), Bộ Tài chính đồng ý. Bộ tài chính
ra quyết định số 879 TC/QĐ - CPH năm 1993 cho phép xí nghiệp thức ăn chăn
nuôi Vifoco thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm làm thí điểm
chuyển thành công ty cổ phần và quy định cổ phần Nhà nước để lại 20% tổng
giá trị doanh nghiệp, bán lại cho cán bộ công nhân viên chức và người nghỉ hưu
của doanh nghiệp 50%, bán ra ngoài nhân dân 30%.
Thời gian tiến hành cổ phần hoá chậm, giá trị doanh nghiệp xác định
thay đổi tăng từ 5,5 tỷ - năm 1993 lên 8 tỷ - năm 1995 nội bộ xí nghiệp không
nhất trí, một số cán bộ công nhân viên chức đổi ý xin từ chối cổ phần hoá (trong
đó có cả chủ tịch công đoàn). Nhưng do quyết tâm của lãnh đạo Bộ và qui tụ
được cán bộ công nhân viên chức tiếp tục thực hiện cổ phần hoá và nhất trí thay
đổi tỉ lệ cổ phần:cổ phần Nhà nước giữ lại 30%, bán cho cán bộ 50%, bán cho
nhân dân chỉ còn 20%.
Sau một năm cổ phần hoá (tháng 7/1995- 7/1996) Công ty cổ phần Việt
Phong đã đạt hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn trước khi cổ phần hoá thể hiện qua
các chỉ tiêui
- Doanh thu 62 tỉ đồng tăng 122,9%
- Lãi 6,5 tỉ đồng tăng 153%
- Nộp ngân sách 3,5 tỉ đồng tăng 118%.
Ngoài ra Nhà nước còn thu được cổ tức 6 tháng đầu năm 1996 là
469.992.600 đồng.
- Lao động tăng từ 84 người (trong đó có 64 người biên chế) lên 153
người (90 người biên chế).
- Thu nhập bình quân đạt trên 1 triệu đồng/người/tháng, 6 tháng cuối năm
1995 cổ tức chia cho cổ đông là 3,3% cổ phần tháng. Sau 6 tháng mỗi cổ phần
tăng giá trị 8,57%.
2.2. Xí nghiệp cơ điện lạnh
Xí nghiệp cơ điện lạnh được thành lập và phát triển trên cơ sở xí nghiệp
liên hiệp thiết bị lạnh trực thuộc sở công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, được

thành lập ngày 17/5/1987. Trong tình hình đổi mới ở nước ta, công nhận nền
kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, Ban giám đốc và tập thể người
lao động tại Xí nghiệp đã mạnh dạn hưởng ứng đăng ký làm thí điểm cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tuy bước chuẩn bị cổ phần hoá của xí nghiệp cả
một năm, nhưng do chuẩn bị kỹ nên các bước tuần tự tiếp theo của việc cổ phần
hoá được tiến hành khá gọn nhẹ và suôn sẻ.
Được sự đồng ý cho phép thí điểm cổ phần hoá của Bộ Tài chính ngày
6/7/1993 chiếu theo đề nghị của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và
đến ngày 27/8/1993, xí nghiệp đã hoàn tất việc định giá doanh nghiệp và được
Bộ tài chính công nhận chính thức với quyết định số 615TC/QD/CPH ngày
27/8/1993 với tổng giá trị doanh nghiệp là 16.017.913.896 đồng Việt Nam.
Ngày 6/9/1993, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định số
1327/QĐ - UBND duyệt đề án cổ phần hoàn tất và cho phép phát hành cổ phiếu
và ngày 15/9 đến ngày 10/10/1993 tất cả 160.000 cổ phiếu, với mệnh giá
100.000đồng Việt Nam đã được bán hết.
Kết quả bước đầu đáng phấn khởi: nếu doanh thu năm 1993 là 46.597
triệu đồng thì năm 1996 đã lên đến 307.095 triệu đồng, tăng 6,59 lần. Huy động
được thêm nhiều vốn để phát triển kinh doanh. Vốn kinh doanh của công ty cổ
phần cơ điện lạnh tăng gần 3 lần (từ 16.295 triệu năm 1993 lên 49.921 triệu năm
1996). Nguồn vốn tăng thêm của Công ty cổ phần từ hai nguồn: Bán cổ phiếu và
trích lợi nhuận để tái đầu tư. Công ty cổ phần cơ điện lạnh đã chia lãi cho cổ
đông với tỉ lệ lãi trên vốn khoảng 30%/năm, tỉ lệ lãi này cao hơn lãi gửi tiết
kiệm và lãi cho vay của các Ngân hàng thương mại quốc doanh hiện nay, nộp
ngân sách 14.473 triệu đồng. Sau 3 năm hoạt động ở hình thức tổ chức doanh
nghiệp mới Công ty cổ phần cơ điện lạnh đã đưa doanh thu tăng lên 7,2 lần, lợi
nhuận tăng 5 lần, thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động tăng 1,6
lần.
2.3. Xí nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuyền Bình Định.
Tiền thân là xí nghiệp cơ khí tàu thuyền được thành lập theo quyết định số
46/QĐ - UB ngày17/1/1976 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghĩa Bình (nay là tỉnh

Bình Định là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập trực thuộc Sở thuỷ sản với nhiệm
vụ đóng mới và sửa chữa các loại tàu đánh cá bằng vỏ gỗ.
Từ ngày 5/10/1994 sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh cho phép, xí
nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuyền đã thành lập Ban chuẩn bị cổ phần hoá
để phối hợp với Ban chỉ đạo cổ phần hoá của Tỉnh xây dựng đề án cổ phần hoá.
Đến ngày 19/7/1995 Bộ tài chính ra quyết định số 24TC/QĐ/TCDN chính thức
cho phép đơn vị làm thí điểm chuyển thành Công ty cổ phần và thành lập hội
đồng thẩm định giá trị doanh nghiệp và ngày 23/10/1995 Bộ tài chính ra quyết
định số 2883/ TC - TCDN về việc thẩm định và công nhận giá trị tài sản của xí
nghiệp là 1.150.000.000. Kết thúc quá trình chuẩn bị theo đúng tiến độ đề ra,
ngày 24 - 25/6/1996 Công ty cổ phần chính thức đi vào hoạt động với số lượng
cổ phiếu theo điều lệ là 11.500 cổ phiếu ứng với sổ cổ đông là 82 người, trong
đó:
- Cán bộ công nhân viên chức là 26 cổ đông với số cổ phiếu bằng
11,16% vốn.
- Cổ đông Nhà nước nắm giữ lượng cổ phiếu chiếm 51,36% vốn
- Bên ngoài doanh nghiệp là 55cổ đông với số cổ phiếu bằng 37,38% vốn.
Sau một năm hoạt động tổng doanh thu Công ty cổ phần đóng mới và sửa
chữa tàu thuyền Bình định năm 1996 là 4.494.000.000 đồng đến hết tháng
6/1997 con số đó đã lên đến 3 tỉ và theo dự kiến trong năm 1997 doanh thu sẽ
đạt lên đến hơn 6 tỉ và con số này theo Hội đồng quản trị công ty là chắc chắn
họ sẽ đạt được.
Như vậy từ thực tế và kết quả hoạt động với doanh nghiệp nhà nước được
cổ phần hoá có thể rút ra nhận định bước đầu.
Khi thực hiện cổ phần hoá, ngoài phần vốn của Nhà nước (thường chiếm
30% tổng giá trị) nhờ việc bán cổ phiếu cho cán bộ, công nhân viên chức trong
doanh nghiệp (thường từ 3 - 50%) và cho các đối tượng ngoài xã hội nên đã huy
động, thu hút được một số lượng vốn của xã hội vào sản xuất. Ví dụ: Công ty xe
khách Hải Phòng, trước khi cổ phần hoá năm 1991 vốn của xí nghiệp chỉ có 486
triệu đồng, sau khi cổ phần hoá (tính đến 31/12/1996) vốn của Công ty là 2,16 tỉ

đồng (tăng hơn 4 lần). Như vậy, mục tiêu thu hút rộng rãi các nguồn vốn của xã
hội để phát triển sản xuất thông qua giải pháp cổ phần hoá, nhưng Nhà nước vẫn
giữ vai trò chủ đạo nhờ duy trì cổ phần chi phối giám sát các hoạt động bằng
pháp luật và nội dung các điều lệ hoạt động với qui định của Nhà nước.
Quyền lợi của người lao động đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi
của Công ty, người lao động một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì
quyền lợi của mình, mặt khác cũng yêu cầu Hội đồng quản trị, giám đốc điều
hành, phải chỉ đạo và lãnh đạo Công ty hoạt động có hiệu quả để lợi nhuận cao
hơn.
Bộ máy quản lý Công ty cũng được bố trí tinh giảm, gọn nhẹ. Trong các
doanh nghiệp đã cổ phần hoá, bộ máy quản lý bao gồm Hội đồng quản trị, Ban
giám đốc và Ban kiểm soát. Giám đốc điều hành doanh nghiệp do Hội đồng
quản trị thuê, mọi vấn đề quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, giám đốc phải báo cáo, bàn bạc với Hội đồng quản trị. Việc biên
chế người giúp việc, bộ máy hành chính, sử dụng công quĩ ở doanh nghiệp
cũng không được tuỳ tiện mà phải tuân theo điều lệ và qui định chặt chẽ của
Công ty. Quản trị doanh nghiệp trong Công ty cổ phần với cơ chế công khai tài
chính đầy đủ sẽ hạn chế những tiêu cực, tạo được lòng tin và thuận lợi cũng như
phát huy hết khả năng của giám đốc, cán bộ công nhân viên chức. Chính nhờ
những thay đổi tích cực như vậy mà các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá
đều có tốc độ phát triển nhanh năng suất, chất lượng và hiệu quả, do đó lợi
nhuận cũng tăng; tạo công ăn việc làm cho người lao động. Ví dụ: Công ty cơ
điện lạnh năm 1993 chỉ có 207 cán bộ công nhân viên chức, đến năm 1996 có
647 người. Công ty cổ phần dịch vụ vận tải đường biển khi cổ phần hoá (năm
1993) có 56 lao động, đến năm 1996 đã có 286 người làm việc tại công ty.
Các doanh nghiệp Nhà nước đã chuyển sang Công ty cổ phần chẳng
những bảo toàn được vốn mà còn tăng đáng kể tỉ suất lợi nhuận trên vốn đạt khá
cao. Nhà nước huy động thêm vốn để đầu tư và các doanh nghiệp Nhà nước
khác, người lao động vẫn được tiếp tục làm việc và đời sống được cải thiện hơn,
đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng năm cao hơn khi còn là doanh nghiệp

Nhà nước.
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
Ở CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Xuất phát từ thực trạng hoạt động các doanh nghiệp Nhà nước.
Sau 10 năm đổi mới, các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang chuyển biến
khá căn bản. Nhưng nhìn chung các doanh nghiệp Nhà nước vẫn rất khó khăn
hiệu quả kinh doanh còn thấp, nhiều doanh nghiệp vẫn làm ăn thua lỗ triền
miên, hoạt động cầm chừng; hiệu quả sử dụng thiết bị của doanh nghiệp Nhà
nước còn rất thấp, mức tiêu hao năng lượng và nguyên liệu của hầu hết các
doanh nghiệp Nhà nước là rất lớn từ 50% trở lên; chất lượng sản phẩm của
nhiều doanh nghiệp rất thấp và khả năng cạnh tranh yếu; sự đóng góp của doanh
nghiệp Nhà nước cho ngân sách chưa tương xứng với phần đầu tư của Nhà
nước cho nó, cũng như với tiềm lực của doanh nghiệp Nhà nước; tình trạng mất
và thất thoát lớn về vốn diễn ra hết sức nghiêm trọng, việc quản lý đối với doanh
nghiệp Nhà nước còn quá yếu kém, đặc biệt nghiêm trọng là tình hình buông
lỏng quản lý tài chính làm Nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu;
tình trạng phân hoá, chênh lệch trong thu nhập ngày càng tăng.
2. Xuất phát từ vai trò Công ty cổ phần.
- Do quan hệ sở hữu trong Công ty cổ phần là thuộc về các cổ đông nên
qui mô sản xuất có khả năng mở rộng to lớn và nhanh chóng, sớm ra đời các
doanh nghiệp lớn cần một lượng vốn lớn mà không một chủ thể riêng lẻ nào có
thể thực hiện được. Một khoản đầu tư vốn riêng lẻ ban đầu không đủ để xây
dựng một doanh nghiệp lớn trong một thời gian ngắn.
- Để có nhiều lợi nhuận (mà thực thể của nó đối với những người có vốn
là lợi tức), người chủ tiền tệ hướng đầu tư của mình vào các doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả, từ bỏ các doanh nghiệp kém cỏi, không có hoặc có ít lợi
nhuận. Do mục đích của các chủ góp vốn cổ phần muốn thu được lợi tức cổ
phần cao hơn mức lãi suất trên thị trường vốn, nên họ chỉ có thể mua cổ phiếu ở
các Công ty có tương lai phát đạt.
- Để có sự chuyển dịch và lưu thông nguồn vốn xã hội qua các Công ty cổ

phần, cần phải ra đời và phát triển thị trường chứng khoán. Thiếu thị trường
chứng khoán không có nền kinh tế thị trường phát triển, song sự ra đời của thị
trường chứng khoán không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà là
kết quả của sự phát triển chung về kinh tế xã hội, trong đó sự ra đời và phát
triển, hoạt động một cách hoàn hảo của các Công ty cổ phần giữ vai trò quyết
định.
- Người mua cổ phiếu không chỉ mong đợi thu được một khoản lợi tức
bằng mức gửi vào ngân hàng mà còn hy vọng vào tương lai Công ty cổ phần
làm ăn phát đạt sẽ đưa lại thu nhập cao hơn. Người mua cổ phiếu là người tìm
kiếm tương lai của Công ty cổ phần, mức lợi tức cổ phần phụ thuộc trực tiếp vào
trình độ và kết quả kinh doanh của Công ty. Mức lợi tức cổ phần cao không
những có lợi cho các cổ đông, mà còn ảnh hưởng trực tiếp làm tăng giá cổ phiếu
của Công ty trên thị trường chứng khoán.
3. Xuất phát từ quan điểm năng suất, chất lượng và hiệu quả mà đòi
hỏi các doanh nghiệp đã cổ phần hoá phải tiếp tục hoàn thiện.
Trong nền kinh tế hàng hoá, qui luật giá trị tác động mạnh sự cạnh tranh
khốc liệt giữa các doanh nghiệp, buộc họ phải tìm cách cải tiến nâng cao trình
độ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm sao cho
giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng mức giá trị hàng hoá xã
hội, thì mới có thể tiếp tục tồn tại và phát triển. Điều này thường chỉ những
doanh nghiệp lớn có qui mô sản xuất ở mức độ nhất định mới có đủ khả năng để
trang bị kỹ thuật hiện đại, làm cho năng suất lao động tăng lên, do đó mới có thể
giành thắng lợi trong cạnh tranh. Còn doanh nghiệp nào có giá trị hàng hoá cá
biệt cao hơn mức giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị thua lỗ và bị phá sản. Để tránh
những kết cục bi thảm có thể xảy ra trong cạnh tranh các doanh nghiệp phải
không ngừng tích tụ vốn để mở rộng qui mô sản xuất và hiện đại hoá các trang
thiết bị tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH HIỆN NAY CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN XÂY DỰNG VÀ SẢN XUẤT VẬT LIỆU XÂY DỰNG YÊN TỪ

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN XÂY DỰNG VÀ SẢN XUẤT VẬT LIỆU XÂY DỰNG YÊN TỪ
VÀ ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY
1. Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp được chia
làm 3 giai đoạn
Giai đoạn I: Từ năm 1975 đến năm 1992
Trong bối cảnh đất nước được thống nhất, chúng ta có điều kiện và có khả
năng khai thác hiệu quả tiềm năng của đất nước, nhưng lúc đó chúng ta cũng
đứng trước những khó khăn gay gắt bắt nguồn từ trình độ phát triển kinh tế của
cả nước còn thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, kinh tế hàng hoá ít phát
triển, chưa có tích luỹ nội bộ nền kinh tế, nền kinh tế còn bị lệ thuộc nặng nề
vào bên ngoài. Mặt khác, chiến tranh kéo dài đã để lại những hậu quả kinh tế
nặng nề làm cho đất nước phát triển chậm lại nhiều năm gây ra nhiều hậu quả
kinh tế - xã hội mà nhiều năm mới hàn gắn được . Trước tình hình đó, Đảng và
Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để khôi phục và phát triển kinh
tế, đưa đất nước tiến lên .
Trên cơ sở đó xí nghiệp gạch ngói Yên Từ ra đời và nó trực thuộc sự
quản lý của huyện Yên Mô. Để khắc phục hậu quả sau chiến tranh thì cơ chế kế
hoạch hoá tập trung phát huy đựơc tác dụng vì vậy nhiệm vụ của xí nghiệp lúc
này là cung cấp sản phẩm gạch, ngói cho địa phương, kế hoạch sản xuất và tiêu
thụ do cấp trên giao chỉ tiêu.
Giai đoạn II: Từ năm 1992 đến năm 1997
Trong giai đoạn này, đất nước chúng ta đang thực hiện kế hoạch 5 năm
1991 - 1995 kế hoạch đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới.
Bứơc vào kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, bối cảnh quốc tế có những thay
đổi lớn và tác động sâu sắc đến Việt Nam. Từ năm 1991, nguồn vay bên ngoài
giảm mạnh nợ nước ngoài phải trả hàng năm tăng lên. Thị trường xuất và nhập
khẩu của Việt Nam bị đảo lộn. Việt Nam phải chuyển một phần đáng kể khối
lượng buôn bán từ các thị trường truyền thống (CMEA) sang các thị trường mới.
Ở nước, khủng hoảng kinh tế xã hội vẫn chưa chấm dứt. Việt Nam vẫn là

môt nước nghèo, có nền kinh tế kém phát triển. Có thể nêu ra đây một số chỉ
tiêu quan trọng so sánh với các nước láng giềng.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế tính theo đầu người
(số liệu 1990)
Việt
Nam
Trung
Quốc
Thái
Lan
Dân số, triệu người 67,6 1134 56
Lương thực, kg/người 318 165 375
Điện, Kwh/người 130 524 684
Thép, kg/người 1,49 55
Xi măng, kg/người 37,5 184 271
Nguồn: Word Development Report, WB, 1993
Tính theo: Niên giám thống kê 1993
Cơ cấu kinh tế còn nặng nề về nông nghiệp, công nghiệp phát triển tương
đối chậm (xem bảng 2)
Bảng 2: Cơ cấu GDP phân theo ngành (% giá hiện hành)
1990 1991
Công nghiệp 18,8 19,8
Nông, lâm nghiệp 40,3 39,5
Dịch vụ 36,3 37,5
Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 1993
NXB Thống kê, 1994 trang 26
Với nền kinh tế vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn
nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp
(2,9% GDP năm 1990), lạm phát vẫn còn cao(67% năm 1991), quá trình đổi mới
nền kinh tế theo hướng thị trường còn nhiều trở ngại, Việt Nam đang đứng trước

nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới. Có thể so sánh trình độ phát triển của Việt Nam so với Trung Quốc và Thái
Lan theo chỉ tiêu giá trị sau:
Bảng 3: Chỉ tiêu GDP bình quân đầu người năm 1991 (USD/người)
Việt Nam Trung Quốc Thái Lan
-Theo tỷ giá hối đoái chính
thức
93 370 1570
- Theo sức mua tương đương
PPP
1100 1990 3986
Nguồn:- Human Development Report UNDP, 1993
- World Development Report, WB, 1993
Khoảng cách xa 2- 4 hoặc hơn của Việt Nam so với các nước láng giềng
bản thân nó chưa đủ là nguy cơ. Tính chất phức tạp là ở chỗ Việt Nam nằm
trong vùng Đông Nam á phát triển năng động. Các nước đều có nhịp độ tăng
trưởng cao. Do đó, muốn đuổi kịp phải mất nhiều năm, và đòi hỏi liên tục tăng
trưởng nhanh, tăng trưởng nhanh "vượt trước".
Đứng trước những thách thức to lớn đó, Đại hội lần thứ VII của Đảng
vào tháng 6 năm 1991 đã thông qua "cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", "chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội đến năm 2000" (với mục tiêu tăng gần gấp đôi GDP vào năm 2000 so với
năm 1990) và ra mục tiêu tổng quát của 5 năm 1991 - 1995 là vượt quá khó
khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính
trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng
khủng hoảng hiện nay"
*
. Đại hội cũng đã đề ra mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5
năm 1991 - 1995 " đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát ổn định, phát triển và
nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống

nhân dân và bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế".
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Đại hội vạch ra phải đẩy mạnh ba chương
trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu
kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hoá, hình thành về cơ bản và vận hành
tương đối thông suốt cơ chế quản lý mới. Trong 5 năm phải tạo chuyển biến rõ
rệt về cơ cấu kinh tế theo các phương hướng lớn là:
*
Đảng cộng sản Việt Nam : văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB sự thật, Hà nội 1991 trang 60

×