Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng ngoại thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.24 KB, 72 trang )

Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

Lời mở đầu
Thế giới kinh doanh khắc nghiệt của con ngời không nằm ngoài quy
luật của thuyết "Tiến hoá": bất kỳ một thành viên nào của thế giới cũng phải
luôn luôn đấu tranh để sinh tồn, mà trong kinh doanh chúng ta gọi là "cạnh
tranh". Trong thời kỳ bao cấp, ngành ngân hàng Việt Nam nằm ngoài quy luật
phát triển này và chậm bớc so với toàn thế giới. Cùng với sự đổi mới trong hệ
thống ngân hàng theo cơ chế thị trờng, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng
ngày càng quyết liệt. Hoạt động cho vay trung và dài hạn nhận đợc nhiều sự
quan tâm chú ý do tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế
cũng nh sự phát triển bền vững của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, sự cạnh tranh
giữa các ngân hàng thơng mại trong hoạt động cho vay trung và dài hạn hiện
nay là một vấn đề bức xúc cần có hớng giải quyết đúng đắn.
Trong thời gian thực tập tại ngân hàng Ngoại thơng Việt Nam, em nhận
thấy ngân hàng có những lợi thế cạnh tranh nhất định trong hoạt động tín dụng
trung và dài hạn nhng một số hạn chế nghiêm trọng đã làm giảm khả năng cạnh
tranh của ngân hàng. Xuất phát từ những nhu cầu thực tế của ngân hàng, sau
một thời gian nghiên cứu và thực tập, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với
đề tài: "Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại th-
ơng Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn".
Các nội dung chính của luận văn đợc sắp xếp theo kết cấu sau
Chơng I : khả năng cạnh tranh của ngân hàng thơng mại trong
hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Trong chơng này, các vấn đề lí luận
chung nh khái niệm "cạnh tranh", "cạnh tranh giữa các ngân hàng thơng mại"
đợc trình bày một cách khái quát. Đồng thời, theo hớng tìm hiểu và từ những
kiến thức rút ra trong quá trình nghiên cứu , em đã mạnh dạn đa ra một hệ thống
chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng thơng mại cũng nh các
nhân tố ảnh hởng đến khả năng đó.
Chơng II: thực trạng khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại


thơng Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Trên quan
điểm là một cán bộ ngân hàng, em đã cố gắng đánh giá một cách khách quan
hoạt động cho vay trung và dài hạn của ngân hàng cũng nh các kết quả đã đạt đ-
ợc và các hạn chế trong khả năng cạnh tranh của ngân hàng cùng cới các
nguyên nhân gây ra các hạn chế đó. Thời gian thực tập tại ngân hàng và sự giúp
đỡ của các bạn đã tạo điều kiện cho em có những tài liệu cần thiết trong quá
trình đánh giá này.
Chơng III: một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thơng Việt Nam trong hoạt động tín
dụng trung và dài hạn.

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
1
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

Em xin cảm ơn cô giáo TS. Lu Thị Hơng đã góp ý và nêu ra cho em
những hớng nghiên cứu đề tài rất bổ ích và các bạn đã giúp đỡ em về mặt tài
liệu để em có thể hoàn thành tốt luận văn của mình.
Sinh viên
Đàm Thanh Hơng

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
2
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

Chơng I

Khả năng Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trung

và dài hạn của ngân hàng thơng mại
1.1 Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thơng mại
1.1.1. Khái niệm và phân loại tín dụng trung và dài hạn

Là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của hệ thống tài
chính nói riêng và nền kinh tế nói chung, ngân hàng thơng mại thực hiện những
nghiệp vụ đặc trng của mình tài trợ cho các hoạt động diễn ra không ngừng của
cuộc sống. Nếu nh theo quy định của luật pháp nớc Mĩ, việc ngân hàng đợc định
nghĩa nh 1 công ty thành viên của Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (dựa
trên nguyên tắc cơ quan chính phủ nào bảo hiểm cho tiền gửi của ngân hàng đó)
đã gây ra những xáo trộn to lớn về cách hiểu một ngân hàng là gì thì có lẽ đối
với chúng ta, cách tốt nhất để nhìn nhận và tìm hiểu về ngân hàng chính là thông
qua những loại hình dịch vụ mà nó cung ứng, qua đó có thể đa ra những nhận xét t-
ơng đối về hoạt động của một ngân hàng thơng mại.
Peter Rose đã khẳng định: ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ hạch toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1
Qua đó, ta
nhận thấy, tín dụng là một hoạt động đặc biệt quan trọng đối với hoạt động của một
ngân hàng. Thông qua các khoản mục tín dụng của mình, ngân hàng tài trợ cho
hầu hết các hoạt động sản xuất của các hãng kinh doanh hay là nguồn ứng cứu của
các tổ chức tài chính khác, trợ giúp cho các hộ gia đình và cá nhân bằng các khoản
vay tiêu dùng và đem lại một nguồn lợi vô cùng lớn cho bản thân ngân hàng.Và
hoạt động cho vay của ngân hàng không phải là chuyển một tài sản của ngân hàng
cho một ngời nào đó mà chính là tạo ra tiền mới. Điều này cũng hoàn toàn đúng
khi đối tợng cho vay là một cá nhân, một doanh nghiệp hay là chính phủ. Hoạt
động tín dụng không chỉ dựa trên chữ tín làm đầu mà còn phải phụ thuộc rất
nhiều vào môi trờng kinh doanh, xu hớng phát triển của nền kinh tế cũng nh vào

khả năng thẩm định độ tín nhiệm của khách hàng và nhiều yếu tố khác.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng, các sản phẩm dịch
vụ ngày càng đợc đa dạng nhằm đáp ứng đầy đủ đợc các nhu cầu ngày càng tăng
của khách hàng. Cùng với sự thay đổi không ngừng của thế giới tài chính, các loại
1
Peter Rose, Quản trị ngân hàng thơng mại

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
3
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

hình cho vay cũng đợc mở rộng và đổi mới. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại tín
dụng nhng không có loại nào là đặc biệt thỏa đáng và chính xác. Dới đây là một số
loại hình tín dụng đợc phân biệt dựa trên những tiêu thức khác nhau nhằm làm rõ
sự đa dạng và phát triển của hoạt động này.
(1) Dựa trên đặc điểm của sản phẩm cung ứng:

Tín dụng vãng lai
Đây là loại tín dụng lâu đời nhất nhng vẫn góp một phần quan trọng
trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một
tài khoản để khách hàng có thể sử dụng theo nhu cầu nhng không vợt quá hạn
mức trong hợp đồng. Số lợng sử dụng phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng tài chính
của khách hàng. Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán trung gian cho khách
hàng trên tài khoản. Do các điều kiện tín dụng, tín dụng vãng lai không đợc cấp
cho đầu t dài hạn, vì vậy thực chất ngân hàng cấp tín dụng vãng lai cho khách hàng
nhằm bổ sung vốn cho sản xuất lu thông thờng xuyên. Việc cấp tín dụng vãng lai
đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm. Khách hàng phải trả lãi suất cho vay và phí của
nghiệp vụ thanh toán trung gian.
Tín dụng thế chấp


Khách hàng sử dụng tín dụng thế chấp khi muốn vay một khoản nợ
ngắn hạn và thế chấp bằng động sản hay trái quyền. Giá trị vật thế chấp đợc chiết
khấu theo loại động sản và tính lỏng của động sản đó. Vật thế chấp có thể bao
gồm: các giấy tờ có giá(dài hạn hay ngắn hạn, cổ phiếu vô danh); hàng hoá; kim
loại quý; các trái quyền (yêu cầu chi trả). Khách hàng phải trả lãi suất và phí. Phí
đợc tính chủ yếu trên chi phí bảo quản vật thế chấp.


Tín dụng bảo lãnh

Về thực chất, bảo lãnh không phải là tín dụng thuần tuý. Một ngân hàng
đồng ý bảo lãnh cho khách hàng trong giao dịch mua chịu với công ty nớc ngoài
hay vay của ngân hàng nớc ngoài, đóng thuế cho nhà nớc hay trong các hợp đồng
đấu thầu. Chỉ khi nào khách hàng cha có khả năng chi trả hay công ty nớc ngoài đòi
hỏi phải có sự bảo đảm cho hàng hoá mua chịu thì ngân hàng bảo lãnh coi nh cấp
cho khách hàng một khoản tín dụng bằng cách chi trả hộ khách hàng. Khách hàng
phải trả một khoản hoa hồng bảo lãnh. Do tính rủi ro cao nên các ngân hàng thờng
phải dựa vào uy tín của khách hàng cũng nh việc kiểm tra chặt chẽ tình hình tài
chính của khách hàng để quyết định có cấp tín dụng bảo lãnh hay không.


Đồng tài trợ

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
4
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.



Có những trờng hợp hợp đồng tín dụng quá lớn và mang tính rủi ro quá
cao mà một ngân hàng không thể đảm nhận. Lúc này ngờt ta thờng sử dụng hình
thức đồng tài trợ, hay liên kết tín dụng, trong đó một số ngân hàng cùng tham gia
cho vay do một ngân hàng đứng ra làm ngân hàng đầu mối giao dịch với khách hàng
bằng các điều khoản đã đợc thoả thuận giữa các ngân hàng với nhau. Hoặc 2 hay
nhiều ngân hàng độc lập đàm phán và cho vay với khách hàng trong khi cùng thoả
thuận các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Đây là hình thức tín dụng song song.


(2) Dựa vào thời hạn của hợp đồng tín dụng thông thờng có 2 loại tín dụng:
Tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng mà khách hàng có những nhu cầu khác
nhau về thời hạn của khoản tiền vay.

Tín dụng ngắn hạn
: là loại tín dụng có thời hạn không quá 1 năm.
Loại tín dụng này đợc dùng cho các kế hoạch có tính thời điểm và thờng xuyên.

Tín dụng trung và dài hạn
: loại tín dụng có thời hạn trên 1
năm, thờng không quá 25 năm. Để có đợc sự chấp nhận của ngân hàng cho khoản
vay này, khách hàng phải thoả mãn những điều kiện ngặt nghèo về năng lực sản
xuất, tình hình tài chính và tính khả thi của dự án.

3) Dựa vào đặc điểm khách hàng:

Trên thực tế , khách hàng của ngân hàng có thể bao gồm các hãng kinh
doanh, các hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức phi lợi nhuận Nhng ta có thể phân
chia các khoản cho vay của ngân hàng thành các loại chính sau:



Cho vay kinh doanh

(commercial and industry):

Đây là khoản mục quan trọng nhất, chiếm một phần lớn trong tổng tài sản
của ngân hàng. Các khoản mục cho vay kinh doanh ngắn hạn bao gồm: cho vay
mua hàng dự trữ, cho vay vốn lu động, cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng,
cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bán lẻ, cho vay trên tài sản.
Các khoản mục này phục vụ cho nhu cầu kinh doanh đột xuất hay tạm thời của
doanh nghiệp. Các khoản cho vay dài hạn nh cho vay kinh doanh kỳ hạn, cho vay
luân chuyển, cho vay theo dự án, cho vay hỗ trợ mua lại công ty giúp cho các hãng
kinh doanh có một lợng vốn lớn hơn rất nhiều và ổn định, tạo điều kiện phát triển
cho các hãng.

Cho vay tiêu dùng và cho vay bất động sản

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
5
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.


Lí do tồn tại mạnh mẽ của loại hình tín dụng này là tâm lý gửi tiền của
dân c: ngời ta hi vọng khi gửi tiền vào một ngân hàng thì sẽ có khả năng vay lại
tiền từ chính ngân hàng đó lúc cần. Tiền huy động từ tiết kiệm trong dân c hiện nay
là nguồn vốn quan trọng nhất và sinh lợi cao nhất cho ngân hàng, vì thế các ngân
hàng không nề hà cho vay khoản mục này. Tuy nhiên tình hình tài chính của các cá
nhân và hộ gia đình không ổn định chắc chắn, khiến cho chi phí và rủi ro đối với
ngân hàng rất lớn. Cho vay tiêu dùng lại chịu tác động của chu kỳ kinh doanh. Do
vậy một đặc điểm quan trọng của tín dụng tiêu dùng là có lãi suất rất cao. Ngời

vay lại thờng không nhạy cảm với lãi suất mà yếu tố tác động chủ yếu lại là thu
nhập và trình độ dân trí của ngời vay. Cho vay mua nhà thế chấp hay cho vay
không thế chấp, cho vay theo thẻ tín dụng là những hình thức phổ biến của loại tín
dụng này.


1.1.2. Các loại hình cho vay trung và dài hạn của ngân hàng thơng mại

Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thơng mại Việt Nam
chủ yếu là cho vay kinh doanh mà đối tợng là các doanh nghiệp nhà nớc lớn. Trớc
khi có thể tìm hiểu hoạt động tín dụng này của ngân hàng thơng mại Việt Nam có
những đặc điểm gì nổi bật, ta có thể xác định một số phơng thức cho vay dài hạn
trên thế giới hiện nay.
Theo cách phân chia một cách có khoa học về phơng thức cho vay của
ngân hàng, ngờt ta chia các khoản vay làm 2 loại: cho vay luân chuyển và cho vay
theo số d.

Cho vay luân chuyển
Đây là loại hình cho vay mang lại nhiều ích lợi nhất cho khách hàng. Hãng
kinh doanh có thể vay không quá một mức tối đa giới hạn trớc, có thể hoàn trả theo
khả năng và tiếp tục vay khi có nhu cầu cho đến khi hết hạn hợp đồng tín dụng. Do
tính linh hoạt của khoản vay này mà ngân hàng không đòi hỏi phải có bảo đảm.
Đây là loại hình tín dụng đáp ứng rất kịp thời và nhanh chóng nhu cầu của khách
hàng. Khách hàng sử dụng khi không chắc chắn về thời gian của các luồng tiền
mặt hoặc quy mô chính xác của nhu cầu vay trong tơng lai. Tín dụng luân chuyển
cho phép khách hàng có thể giảm bớt ảnh hởng của những biến động của chu kỳ
kinh doanh, tạo điều kiện vay thêm trong thời kỳ khó khăn hay sẵn sàng hoàn trả
khi tình hình tài chính đợc cải thiện. Nh vậy vốn vay của ngân hàng luôn tiếp cận
kịp thời những biến động tài chính của khách hàng, vận hành song song xuyên suốt
với chu kỳ kinh doanh của khách hàng


Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
6
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

Loại cam kết tín dụng đợc sử dụng chủ yếu là cam kết vay vốn chính thức
(formal loan commitment) mang tính chất hợp đồng, lợng vốn vay tối đa đợc xác
định với một lãi suất đợc ấn định. Loại này đợc định giá cao hơn nhiều so với hạn
mức tín dụng bảo đảm (confirm credit line) ít chặt chẽ hơn. Ngân hàng thờng cho
vay khoản mục này trong trờng hợp khẩn cấp. Khách hàng đợc đánh giá tín nhiệm
tín dụng cao thờng ít khi sử dụng loại tín dụng này mà chỉ kí kết hợp đồng làm bảo
đảm để có thể nhanh chóng vay vốn từ những tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra hiện
nay một loại hình mới cũng đang đợc sử dụng ngày càng rộng rãi là thẻ tín dụng.
Các doanh nghiệp a thích loại hình này do tính hiệu quả của nó và do không phải
thờng xuyên lập các đơn xin vay cho ngân hàng.

Cho vay theo số d
Ngợc lại với cho vay luân chuyển, việc cho vay theo số d đợc tính toán
dựa trên trị số tín dụng mà tại một thời điểm nhất định khách hàng đi vay đòi hỏi
bổ sung vào tổng giá cả của khách hàng đó. Nh vậy, mỗi lần chấp nhận thực hiện
phơng thức tín dụng này, ngân hàng sẽ ngay một lần trao cho khách hàng số vốn
mà khách hàng yêu cầu. Hạn mức tín dụng chỉ phụ thuộc vào quy định của ngân hàng
trung ơng đối với mỗi khách hàng vay mà khách hàng trả nợ làm nhiều lần trong một
thời gian dài nên các ngân hàng thờng đòi hỏi phải có tài sản thế chấp hay điều kiện
bảo lãnh ngặt nghèo. Cho vay theo số d có thể gồm các hình thức sau:

Cho vay kinh doanh kỳ hạn
Các hãng kinh doanh sử dụng khoản vay này cho các hoạt động đầu t
trung và dài hạn: mua thiết bị, xây dựng công trình Khách hàng xin vay trọn gói

dựa trên chi phí dự tính của dự án và sẽ thanh toán khoản vay làm nhiều lần. Nh
vậy dòng thu nhập trong tơng lai của dự án là cơ sở của việc thanh toán khoản vay.
Các khoản vay kỳ hạn đòi hỏi phải có bảo đảm bằng tìa sản cố định thuộc sở hữu
của ngời vay. Do mức độ rủi ro lớn trong suốt quá trình thực hiện dự án mà các cán
bộ tín dụng phải cân nhắn cẩn thận các yếu tố: (1) trình độ quản lý của hãng,
(2)chất lợng hện thống kế toán và kiểm toán hãng đang sử dụng, (3)lịch sử trình
bày tình hình tài chính của hãng trong qua khứ, (4)cam đoan không thế chấp tài
sản cho các chủ nợ khác, (5)bảo hiểm tài sản của hãng có thoả đáng hay không,
(6)rủi ro công nghệ đối với hãng, (7)độ dài khoảng thời gian trớc khi dự án thu đ-
ợc lợi nhuận, (8) các xu hớng của nhu cầu thị trờng và(9) trạng thái tài sản ròng
của hãng.

Cho vay dự án dài hạn

Cho vay dự án dài hạn là loại hình cho vay kinh doanh có mức độ rủi ro
cao nhất
.
Khoản tín dụng này đợc dùng để tài trợ cho việc xây dựng các tài sản cố
định có thể mang lại thu nhập trong tơng lai có quy mô lớn hơn nhiều so với cho
vay kinh doanh kỳ hạn. Các tài sản cố định trên có thể là các công trình mang tính

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
7
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

chiến lợc quốc gia. Cũng do khoản tín dụng này có quy mô lớn và tính rủi ro cao
mà ngân hàng thờng đòi hỏi phải có bảo lãnh theo đó ngân hàng có thể thu hồi
khoản vay từ tổ chức bảo lãnh khi khách hàng không có đủ khả năng trả nợ. Đồng
thời việc cho vay đòi hỏi sự tham gia của một số tổ chức tài chính khác nhằm chia

sẻ rủi ro. Ngoài ra, các khoản tín dụng trên có thể đợc thực hiện không cần có bảo
lãnh nhng mức lãi suất áp dụng sẽ cao hơn nhiều và phải có tài sản thế chấp cho tới
khi kết thúc dự án.

Cho vay hỗ trợ hoạt động mua lại công ty
Một hình thức tín dụng đang phát triển hiện nay là cho vay hỗ trợ hoạt
động mua lại công ty bằng nợ đòn bẩy - Lbos(leveraged buyouts). Khi một nhóm
các nhà quản lý của một công ty tin rằng nó bị định giá trên thị trờng thấp hơn so
với khả năng vốn có, họ sẽ mua lại công ty khi sử dụng đòn bẩy tài chính với tỷ lệ
nợ rất cao (thờng chiếm 80-90% giá trị của vụ mua lại) với tin chắc rằng công ty sẽ
đạt đợc doanh thu cao hơn chi phí nợ vay nhờ vào việc quản lý tốt hơn. Đây chính
là một đặc điểm nổi bật của nền tài chính thế giới mới. Tuy nhiên loại hình tín
dụng này cũng gặp rất nhiều rủi ro khi các công ty vay nợ quá nhiều không có đủ
khả năng trả nợ nếu lãi suất tăng hay nền kinh tế suy thoái. Đây là kết quả tổng hợp
của 3 nhân tố: (1)luồng thu nhập của hãng thấp tơng đối so với giá mua lại nên
không đủ bù đắp cho chi phí nợ vay, (2)các ngân hàng và tổ chức tài chính khác gia
tăng sức ép thu nợ, (3)vốn của các nhà quản lý và cổ đông bị rút ra quá sớm gây ra
thâm hụt nghiêm trọng trong ngân quỹ của công ty khi mà thu nhập của công ty
cha đủ mạnh để bù đắp các luồng ra này.
Trên đây mới chỉ là những loại hình tín dụng phổ biến trên thế giới hiện
nay nhng mỗi quốc gia có những nền kinh tế với những nét đặc thù riêng nên
không thể hoàn toàn áp dụng những hình thức trên trong kinh doanh ngân hàng ở
Việt Nam. Chúng ta mới chỉ tạm thời đa ra những chuẩn mực của thế giới phát
triển để định hớng cho sự vận hành của bộ máy ngân hàng Việt Nam trong tơng
lai.

1.2. Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng thơng mại

1.2.1.Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng thơng mại

1.2.1.1.
Cạnh tranh là gì?

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
8
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

Cạnh tranh là hành động của một cá nhân hay tổ chức cố gắng để
chiến thắng hoặc giành đợc công việc kinh doanh từ các đối thủ của mình

Longman, Dictionary of Business English

Tơng tự nh vậy, theo kinh tế học, cạnh tranh là sự tranh giành thị trờng
(khách hàng ) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Nh vậy, một nền kinh
tế thị trờng luôn đòi hỏi phải có cạnh tranh mà cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành
thị phần chỉ có trong khuôn khổ của kinh tế thị trờng. Cạnh tranh đợc phân chia
thành 2 loại: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trờng có cạnh
trạnh hoàn hảo là thị trờng có quá nhiều ngời bán và ngời mua cùng một hàng hoá
đồng nhất đến mức không ai có thể ảnh hởng đến giá cả thị trờng. Nếu có ít nhất
một ngời bán lớn đến mức có thể ảnh hởng tới giá thị trờng thì xảy ra cạnh tranh
không hoàn hảo(tình trạng độc quyền). Độc quyền đợc biểu hiện dới các dạng:
độc quyền tuyệt đối (một ngành chỉ có duy nhất một nhà cung cấp) ; độc quyền
nhóm (một ngành do một số ít nhà cung cấp chi phối) hay một dạng đặc biệt trong
nền kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa: chủ nghĩa t bản độc quyền nhà nớc(sự câu
kết giữa một nhóm tài phiệt t bản với nhà nớc t bản).
Để đạt đợc lợi nhuận trong nền kinh tế thị trờng, những nhà kinh doanh
phải thông qua cạnh tranh. Vì vậy cạnh tranh trở thành một yếu tố không thể thiếu
trong sự vận động của thị trờng và là đối tợng của nhiều môn khoa học kinh tế và
luật pháp.

Adam Smith, cha đẻ của cuốn Của cải của các dân tộc, 1776, đã có
những nhận xét vô cùng xác đáng: Trong cuộc cạnh tranh, mỗi cá nhân cố gắng
vì lợi ích của riêng mình đã vô tình đem lại lợi ích lớn nhất cho xã hội.
2
. Theo ông
một thị trờng tự do là một đòi hỏi cho sự tăng trởng chung của toàn xã hội.
Tuy nhiên, Paul A. Samuelson lại cho rằng sự can thiệp của chính phủ là cần
thiết ngời ta không chỉ vỗ bằng một bàn tay và đã đa ra học thuyết 2 bàn tay nổi
tiếng. Điều này có thể đợc giải thích bằng sự mất ổn định của môi trờng cạnh tranh tự
do đợc biết đến dới cái tên thất bại thị trờng, dẫn đến những cuộc khủng hoảng kinh
tế mang tính chu kỳ. Ta cũng có thể có những nhận định sau:

Trên thực tế, không có một thị trờng nào là cạnh tranh hoàn hảo hay hoàn toàn
độc quyền. Mọi nền kinh tế thị trờng đều ở trạng thái cạnh tranh không hoàn hảo.
Cả hai loại lực lợng độc quyền và cạnh tranh kết hợp với nhau trong việc xác định
2
Adam Smith, Của cải của các dân tộc.1776

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
9
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

phần lớn giá cả
3
. Nh vậy, đánh giá một thị trờng có tính cạnh tranh hay độc quyền
chỉ là tơng đối. Về nguyên tắc, một nền kinh tế có nhiều yếu tố cản trở sự cạnh
tranh là một nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh và ngợc lại.

Trong nền kinh tế thị trờng, cạnh tranh một mặt tạo động lực của sự phát triển kinh

tế, mặt khác là cách hữu hiệu nhất để tối đa hoá lợi nhuận và lợi ích của cả ngời cung
cấp và ngời tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ.

Theo quy luật chung, cạnh tranh luôn có xu hớng dẫn đến độc quyền một mặt do
tác động của quy luật hiệu quả kinh tế theo quy mô, mặt khác độc quyền là hình thức
đem lại cho các nhà cung cấp lợi nhuận siêu ngạch. Vì thế cuộc cạnh tranh trên thị tr-
ờng là cuộc ganh đua giành vị trí độc tôn. Đây cũng chính là một khía cạnh không
hoàn hảo của cạnh tranh.

Cạnh tranh bằng phơng thức độc quyền có thể gây ra những tác hại to lớn: nhà
cung cấp tạo sự khan hiếm giả bằng cách hạn chế số lợng hàng hoá và đặt mức giá
cao một cách giả tạo để kiếm lời một cách không chính đáng; do không bị cạnh tranh
nên nhà sản xuất không có nhu cầu sáng tạo, đổ mới công nghệ nên hạn chế áp dụng
tiến bộ khoa học-kỹ thuật và giảm năng suất lao động.

Vai trò điều tiết của chính phủ là vô cùng quan trọng nhằm hạn chế những điểm
không hoàn hảo của thị trờng. Nhiệm vụ tạo lập môi trờng kinh tế có cạnh tranh,
chống độc quyền chắc chắn thuộc về những chức năng riêng của chính phủ.

các
nền kinh tế phát triển, luật chống độc quyền luôn đợc đặc biệt chú ý.

Cùng với khái niệm cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh đã trở thành một nội
dung quan trọng đối với bất cứ cá nhân hay tổ chức nào đang hoạt động trong nền
kinh tế. Tuy nhiên sau vài thập kỷ trớc của sự phồn thịnh và bành trớng mạnh mẽ,
nhiều công ty đã đánh mất cái nhìn đúng đắn về lợi thế cạnh tranh trong việc tranh
đấu để đạt đợc sự tăng trởng và theo đuổi mục đích đa dạng hoá. Các công ty trên
toàn thế giới phải đối mặt với sự tăng trởng ngày càng chậm cũng nh việc các dối
thủ cạnh tranh trong nớc và trên thế giới không còn hành động nh thể chiếc bánh
lợi nhuận còn đủ lớn cho tất cả. Và nh vậy, lợi thế cạnh tranh lại càng quan trọng

hơn bao giờ hết.
Vậy thì trớc hết, lợi thế cạnh tranh là gì? Từ điển kinh doanh của nhà
xuất bản Longman cho rằng lợi thế cạnh tranh là một khía cạnh của một sản
3
Paul A. Samuelson, Kinh tế học , tập II.

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
10
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

phẩm hay một dịch vụ do một công ty cung cấp đã mang lại lợi thế cho công ty
đó so với các đối thủ khác. Nhng theo Micheal Porter, một nhà nghiên cứu kinh
tế chuyên sâu về cạnh tranh thì về cơ bản, lợi thế cạnh tranh phát triển nhờ vào
những sản phẩm mà công ty có thể cung cấp cho ngời mua có giá trị cao hơn chi
phí công ty phải chịu để tạo ra đợc sản phẩm đó
4
. Giá trị của sản phẩm là thứ
ngời mua sẵn sàng trả tiền, và lợi nhuận tăng thêm xuất phát từ việc mời chào
giá cả thấp hơn của đối thủ cạnh tranh để giành đợc lợi nhuận tơng đơng hoặc
cung cấp những dịch vụ duy nhất có lợi ích lớn hơn đủ bù đắp cho giá thành cao
hơn. Nh vậy, có 2 hình thức cơ bản của lợi thế cạnh tranh: dẫn đầu về giá và sự
phân biệt. Ta sẽ tiếp tục phân tích việc thực hiện 2 hình thức này trong cạnh
tranh giữa các ngân hàng ở phần sau.
Tổng hợp các ý kiến trên, ta nhận thấy, lợi thế cạnh tranh của một công
ty là những đặc tính nổi trội hơn về mặt giá cả hay tính năng khác biệt của
sản phẩm giúp cho công ty đứng vững trên thị trờng và giành đợc u thế hơn
so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Cũng nh doanh nghiệp hay các công ty trong một nền kinh tế, ngân
hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên ngân hàng cũng gặp phải

những khó khăn trên thị trờng với vô số những đối thủ cạnh tranh đang ngày
càng phát triển cả về số lợng và chất lợng. Vì vậy vấn đề cạnh tranh đối với
ngân hàng cũng vô cùng cấp thiết. Ta hãy cùng tìm hiểu cạnh tranh trong ngân
hàng thì có gì khác biệt với các ngành kinh tế khác.
1.2.1.2. K
hái niệm "
c
ạnh tranh giữa các ngân hàng thơng mại"
Môi trờng kinh tế của một ngân hàng chịu sự tác động của một số yếu tố
trong đó không thể không kể đến môi trờng hoạt động của bản thân các ngân hàng.
Ngành ngân hàng các nớc phát triển theo những phơng thức không hoàn toàn
giống nhau, tuy nhiên luôn tồn tại một lực lợng quan trọng là ngân hàng Nhà nớc
hay ngân hàng trung ơng điều hành mọi hoạt động về mặt chính sách của khối
ngân hàng nói chung. Các ngân hàng thơng mại có thể thuộc nhà nớc hay do t
nhân lãnh đạo dới hình thức hội đồng quản trị nhng đều liên quan mật thiết đến
mọi hoạt động của nền kinh tế và không chỉ một ngân hàng có thể tạo nên thị trờng
mà cần có sự tham gia hoạt động của các ngân hàng khác. Nơi đâu có dân c và sản
xuất kinh doanh, nơi đó có ngân hàng. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng và tổ chức tài
chính phi ngân hàng ngày càng phát triển đang đặt các ngân hàng vào một tình thế
4
Micheal Porter, Competitive strategies, 1985

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
11
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

khó khăn: những nghiệp vụ trớc kia do ngân hàng đảm nhận nay đợc các tổ chức
khác thực hiện dới những hình thức ngày càng đa dạng và phong phú hơn, hớng tới
những thị trờng mà ngân hàng đã bỏ ngỏ. Rõ ràng ngân hàng đang phải cùng lúc

cạnh tranh với nhiều lực lợng: các ngân hàng trong cùng khối và các tổ chức tài
chính phi ngân hàng có những thế mạnh riêng.
Có thể nói, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng là sự nỗ lực hoạt động
đồng bộ của ngân hàng trong một lĩnh vực khi cung ứng cho khách hàng những
sản phẩm dịch vụ có chất lợng cao nhằm khẳng định vị trí của ngân hàng vợt lên
khỏi các ngân hàng khác trong cùng lĩnh vực hoạt động ấy.
Sức mạnh đồng bộ của toàn bộ ngân hàng đợc phát huy khi ngân hàng
tận dụng đợc hết những khả năng sắn có của mình để nâng cao vị thế cạnh tranh.
Mỗi ngân hàng đều có những lợi thế riêng và đều có khả năng tận dụng những lợi
thế ấy nếu có những nhận thức thực sự hiệu quả và đúng đắn, tức là mỗi ngân hàng
đều có khả năng phát triển mạnh mẽ hơn. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh
của ngân hàng đợc đánh giá nh một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khả năng kết
hợp các lợi thế cạnh tranh mà ngân hàng đang có để biến đổi thành những
công cụ hữu hiệu trong việc khẳng định vị trí của ngân hàng trên thị trờng.
Tuy nhiên sự cạnh tranh giữa các ngân hàng không phải đã đợc tán th-
ởng từ lâu. Đặc điểm của ngành ngân hàng là một môi trờng hoạt động trong đó
các ngân hàng vừa là nhà cung ứng vừa là khách hàng của nhau. Vì vậy hoạt động
của mỗi ngân hàng ảnh hởng trực tiếp và gián tiếp tới các ngân hàng khác và toàn
bộ hệ thống. Một câu hỏi luôn đợc đặt ra đối với những ngời quan tâm: Có cần
thiết phải có cạnh tranh giữa các ngân hàng? . Để trả lời cho câu hỏi này, ta lại
phải bắt đầu giải quyết câu hỏi khác : Cạnh tranh giữa các ngân hàng là xấu hay
tốt, lợi hay hại?. Qua đó, tính tất yếu của cạnh tranh trong ngành ngân hàng sẽ đ-
ợc minh chứng.
Hoạt động ngân hàng liên quan rất mật thiết tới những đánh giá độ an
toàn, đặc biệt là sự an toàn liên quan tới tơng lai. Theo ý kiến của nhiều ngời, sự
bất ổn định chắn chắn sẽ xảy ra do cạnh tranh trong cùng hệ thống, ít nhất là ở cấp
độ cá nhân hãng kinh doanh, thật sự không dễ chịu đối với hoạt động ngân hàng.
Theo lời của thống đốc ngân hàng Italy những năm 50 thì cạnh tranh giữa các ngân
hàng cũng đáng sợ nh là nguồn gốc tiểm ẩn của những sự sụp đổ nghiêm trọng.
Các nớc trên thế giới đã có những hành động ngăn chặn cạnh tranh trong

ngành ngân hàng nhằm bảo đảm cho một môi trờng hoạt động "an toàn" cho các

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
12
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

nhà tài chính. Một cách cụ thể hơn, sự giám sát chặt chẽ đã đợc áp dụng: các cải
cách luật pháp đợc áp dụng ở hầu hết các nớc sau cuộc khủng hoảng tài chính và
ngân hàng những năm 30 cùng chia sẻ một ý cơ bản là nhằm duy trì sự ổn định
trong ngành ngân hàng và tài chính, cạnh tranh bị giới hạn
5
. Ngời ta tin tởng rằng
trong một môi trờng độc quyền nhóm bán, các ngân hàng có thể thu thêm đợc
nhiều lợi nhuận, điều này làm thúc đẩy sự ổn định của bản thân các ngân hàng nói
riêng và cả hệ thống ngân hàng nói chung. Thị phần phân chia giữa các ngân hàng
tỏ ra là đủ cho mọi thành viên của thị trờng và không ai phải cạnh tranh để làm mất
thế ổn định đã đợc định sẵn. Trong điều kiện này, bản thân các ngân hàng có thể
giảm bớt các tổn thất dễ dàng hơn và ngành ngân hàng luôn luôn có những quỹ đủ
để ứng cứu cho một tổ chức yếu kém trong những trờng hợp hiếm hoi có khó khăn
xảy ra. Khi đó, một phơng pháp thờng đợc dùng để giải quyết khủng hoảng của
một ngân hàng là kêu gọi các tổ chức khác và thuyết phục họ tiếp quản tổ chức có
vấn đề.
Cho đến gần đây, việc hạn chế cạnh tranh vẫn đợc duy trì và ủng hộ. Các
nhà hoạch định chính sách hạn chế cạnh tranh trong ngân hàng bằng nhiều cách.
Có thể ví dụ ra đây nh: hạn chế việc cấp giấy phép ngân hàng và phân biệt giữa các
dịch vụ tài chính về mặt luật pháp (nh giữa ngân hàng thơng mại và ngân hàng đầu
t) nh ở Mỹ cho đến thời gian gần đây, và nhiều nớc khác không áp dụng hệ thống
ngân hàng toàn cầu. Một loại ràng buộc khác đợc sử dụng rộng rãi là phân loại thị
trờng theo địa lý. Nó đợc áp dụng khi có lệnh cấm hoạt động ngân hàng và mở chi

nhánh giữa các bang ở Mỹ. Tại các nớc khác, ngân hàng thờng bị giới hạn chỉ đợc
cho vay một khoản tiền hạn chế ở ngoài khu vực có trụ sở chính, trong khi việc
thành lập các chi nhánh mới bị giới hạn thông qua các thủ tục hành chính đặc biệt.
Trong nhiều trờng hợp, ngời giám sát có quyền kiểm tra một số lợng rất lớn các
hoạt động ngân hàng và mỗi hành động thuộc loại này lại đợc uỷ quyền rõ ràng.
Trong khi đó, chính sách tiền tệ cũng gắn liền với quan điểm cạnh tranh
là xấu. Công cụ chủ yếu để quản lý tiền tệ là trần lãi suất, quy định một lãi suất cao
nhất đợc phép cho hoạt động tín dụng. Hơn nữa, lãi suất trao đổi đợc cố định
không phải với ý nghĩa là có một lãi suất trung tâm cố định mà trên thực tế đợc
quyết định bởi ngân hàng trung ơng trong từng ngày.
5
Tommaso Padoa-Schioppa,thành viên uỷ ban điều hành ngân hàng trung ơng chân Âu, Competiton among
banks, good or bad?

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
13
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

Một trong những yếu tố quan trọng nhất là chính sách cạnh tranh: cho
đến khi luật cạnh tranh đợc quan tâm thì có lẽ Mỹ là nớc duy nhất ban hành luật
Chống độc quyền từ những năm 30. Nhiều nớc ở châu Âu chỉ ban bố luật cạnh
tranh vào khoảng 2 thập kỷ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, trong khi ở Italy, cơ
quan chống độc quyền đầu tiên đợc thành lập năm 1990. Tơng tự, ở những nơi có
cơ quan luật pháp và cơ quan chức năng trong việc bảo hộ cạnh tranh thì thờng là
những phán quyết của họ không hề đợc chính thức mở rộng ra lĩnh vực ngân hàng.

những nơi có cơ quan có thẩm quyền trách nhiệm về vấn đề cạnh tranh thì bản
thân cơ quan đó lại làm nhiệm vụ giám sát . Thậm chí ở Mỹ, hệ thống dự trữ liên
bang(FED) cũng có một số thẩm quyền pháp lý trong lĩnh vực cạnh tranh của một

vài ngân hàng mà nó kiểm soát. Mô hình này cũng đợc áp dụng ở Italy và Hà Lan
là những nơi mà ngân hàng trung ơng đợc uỷ quyền với rất nhiều nhiệm vụ trong
lĩnh vực cạnh tranh. Thậm chí ở những nơi có cơ sở mạnh mẽ của quyền cạnh tranh
nh trờng hợp EU từ năm 1958 thì cũng thờng không đợc mở rộng ra lĩnh vực ngân
hàng. Cho đến tận những năm 1980 toà án t pháp chân Âu mới tuyên bố không nên
loại trừ hoạt động ngân hàng ra khỏi phạm vi thực thi của các điều khoản trong
Hiệp ớc liên quan đến cạnh tranh.
Tuy nhiên những quan niệm trên đã dần bị thay đổi theo thời gian. Giữa hệ
t tởng cũ và mới đang ngày có nhiều xung đột và có những khác biệt quan trọng.
Những chính sách mới đang ngày càng đợc áp dụng nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của mỗi ngân hàng. Chính sự phân biệt giữa cái cũ cạnh tranh trong ngân
hàng là xấu và cái mới cạnh tranh là tốt là đã chứng tỏ một tất yếu khách quan:
cạnh tranh giúp cho các ngân hàng tồn tại và phát triển.
Các ngân hàng phát triển mạnh trong thời kỳ thống trị của mình khi các
ngành công nghiệp phụ thuộc vào ngân hàng là chính để có đợc nguồn vốn hỗ trợ
sản xuất. Ngân hàng tồn tại ở thế độc tôn và phát triển mạnh mẽ trong những năm
50-60, khi mà chiếc bánh thị phần còn đủ chia cho các thành viên kể cả những
ngân hàng hoạt động không mấy linh hoạt. Tuy nhiên sự ra đời ồ ạt của các tổ chức
tài chính trung gian đe dọa lợi thế của các ngân hàng thơng mại khi cung cấp các
dịch vụ tài chính mới cũng nh các dịch vụ truyền thống do các ngân hàng đảm
nhiệm. Các trung gian này cung cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính
khác biệt và tạo cho ngời mua sản phẩm tức là các doanh nghiệp và hộ gia đình có
cơ hội chọn lựa đa dạng hơn, thị trờng ngân hàng mở rộng hơn. Tốc độ phát triển
của ngành ngân hàng chững lại. Giờ đây những kẻ bại trận là các ngân hàng không

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
14
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.


thể nhận thức đợc rằng vị thế trớc kia của mình không còn nh cũ và phải đổi mới
và thực sự chiến đấu, tức là cạnh tranh, để có thể đứng vững và tiếp tục phát triển.
Ngày nay ngời ta cho rằng khi các ngân hàng mạnh lên nhờ sự rèn luyện trong
cạnh tranh thì hệ thống ngân hàng sẽ mạnh hơn và có sức đàn hồi tốt hơn sau các
cú sốc của nền kinh tế. Tất nhiên cạnh tranh là có chọn lựa. Quan niệm trên đồng
nghĩa với việc các nhà chức trách phải chấp nhận cho những ngân hàng yếu kém
nhất rời khỏi thị trờng.
Một trong những chuyển biến quan trọng nhất đợc thể hiện qua việc chính
sách cạnh tranh đợc áp dụng cho ngành ngân hàng, và các giám sát viên chứng
khoán coi ngân hàng không khác bất cứ một công ty hữu hạn nào khác. Một trong
những đặc điểm của thị trờng cạnh tranh hoàn hảo là thông tin. Tất cả mọi ngời
đều nắm đợc thông tin và đều tận dụng các thông tin ấy, nhờ đó không một cá nhân
nào có thể ảnh hởng đến thị trờng. Nhng thị trờng không thể hoàn hảo do thông tin
bất cân xứng. Để có một thị trờng cạnh tranh lành mạnh, ngời ta quan niệm là phải
có thật nhiều thông tin và phải thật đầy đủ và chính xác. Từ quan điểm trên, giám
sát viên thông tin tới mức độ rõ ràng nhất và điều đó càng cung cấp một bức tranh
chi tiết hơn về vị trí của ngân hàng phát hành cổ phiếu mới. Mặt khác, có một
truyền thống của giám sát viên ngân hàng là nếu ngân hàng có điểm nào yếu kém,
có lẽ tốt nhất là không nên để cho thị trờng biết. Do đó có một cuộc tranh luận tự
nhiên, hay thậm chí là sự căng thẳng giữa 2 loại giám sát viên ngân hàng này.
Chừng nào giám sát về chứng khoán không đa ra những quyền hạn đối với ngân
hàng, cho dù vì ngân hàng là một tổ chức công cộng hay do có truyền thống là
chúng có những đặc quyền khác với các công ty hữu hạn, thì sự căng thẳng này sẽ
không tăng lên.
Ngoài lí do tồn tại khiến các ngân hàng phải cạnh tranh, các ngân hàng dù
đã có những thoả thuận để tránh cạnh tranh lẫn nhau nhng trong một nền kinh tế
không ai kinh doanh không vì để tăng thêm tài sản của mình, khối ngân hàng cũng
không thể loại trừ. Đây là một tất yếu của nền kinh tế. Không ngân hàng nào lại có
thể bỏ qua các cơ hội đem lại cho mình nhiều lợi ích hơn và hoạt động chỉ dựa theo
nguyên tắc đạo đức thuần tuý. Có thể nói rằng các ngân hàng cạnh tranh không

phải để xoá bỏ sự có mặt của đối phơng trên thị trờng mà trớc hết là khẳng định đ-
ợc mình, để vợt lên đối phơng. Thực chất ngân hàng cần thiết phải tồn tại theo một
hệ thống để tạo cơ sở giúp đỡ lẫn nhau. Và khi đã có ngân hàng này tận dụng cơ
hội thì ngân hàng kia cũng không thể bỏ ngơ trớc những điều kiện mà với sức

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
15
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

mạnh riêng của mình họ có thể thu lợi nhiều hơn. Cho dù đây là một thị trờng độc
quyền nhóm, các bộ phận có thể phân chia một cách hoà bình với nhau trong nhiều
lĩnh vực nhng sự xuất hiện nhanh chóng và phát triển chóng mặt của các tổ chức
khác và xu thế phát triển không ngừng để tồn tại không cho phép bất cứ ngân hàng
nào có thể đứng ngoài cuộc cạnh tranh.
Ngoài ra, sự ổn định về vị trí trên thị trờng góp phần làm cho các ngân
hàng rơi vào tình trạng chây ỳ trớc sự phát triển đầy tính biến động của nền kinh tế.
Không lờng trớc đợc sự phát triển của các tổ chức khác, bộ máy lãnh đạo và hoạt
động không linh hoạt, sản phẩm không sáng tạo và tiện dụng hơn các dịch vụ khác
ngày càng phát triển trên thị trờng cùng với một phơng thức kinh doanh sai lầm
không tiến bộ đã đẩy nhiều ngân hàng vào tình trạng khó khăn. Thị phần bị xâm
phạm, thu nhập giảm và mất khách hàng là những biểu hiện tiêu biểu của một
ngân hàng đang bị các đối thủ cạnh tranh chèn ép. Không một ngân hàng nào
muốn mình ở trong một tình thế bấp bênh nh thế. Muốn khẳng định lại mình,
ngân hàng phải có những hành động quyết liệt giành lại thị phần và thu hút lại các
khách hàng đã mất cũng nh tạo thêm đợc nhiều mối quan hệ mới. Nh vậy, chính
ngân hàng cũng đã tham gia vào hoạt động cạnh tranh một cách tự phát và tất yếu.
Nhng để hành động có hiệu quả và đạt đợc những thành tựu đáng kể, ngân hàng
còn cần nhiều hơn là ý thức cạnh tranh. Đó chính là khả năng tận dụng những lợi
thế cạnh tranh của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh.

Nhng nói cách khác, sự lựa chọn trong hệ thống ngân hàng có thể đợc hiểu
là phải loại bỏ những ngân hàng yếu kém và chỉ để lại những ngân hàng mạnh nhất
và có đủ khả năng nhất điều khiển thị trờng. Khi đó thị trờng này lại có xu hớng trở
thành thị trờng độc quyền nhóm, các ngân hàng có thoả thuận với nhau, cùng nhau
ngăn chặn sự xâm nhập của các tổ chức mới và lại tiếp tục lũng đoạn thị trờng. Nh
vậy cạnh tranh trong thị trờng ngân hàng đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nớc
nhằm giữ vững đợc sự công bằng trong cạnh tranh trên thị trờng.
Ngành ngân hàng tạo lập nên một thị trờng đặc biệt, trong đó các sản phẩm
mang tính tơng tự và bổ sung cho nhau. Các ngân hàng vừa là các đối thủ cạnh
tranh vừa là bạn hàng của nhau. Một mặt, các thành viên của thị trờng tích cực
cạnh tranh để có thể khẳng định vị trí của mình trên thị trờng và chiếm lĩnh thị tr-
ờng tuỳ thuộc mục tiêu của từng cá nhân thành viên. Mặt khác, với t cách là một
bộ phận của bộ máy vận hành thị trờng tài chính mà mỗi mắt xích liên quan đến
nhau và bảo đảm cho sự hoạt động xuyên suốt của cả thị trờng, mỗi ngân hàng

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
16
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

cũng phải dựa vào nhau và tơng trợ cho nhau những lúc khó khăn, trớc hết là để
đảm bảo những biến đổi bất thờng này không ảnh hởng quá mạnh đến hoạt động
của thị trờng và của nền kinh tế mà theo lý thuyết hệ thống là cũng ảnh hởng đến
lợi ích của bản thân ngân hàng, bên cạnh đó còn tạo lập quan hệ lâu dài và có hi
vọng ở sự giúp đỡ ứng cứu trong tơng lai. Đây chính là một khía cạnh đặc biệt của
khái niệm cạnh tranh đợc vận dụng đối với hoạt động của ngân hàng thơng mại.
1.2.1.3.
Khái niệm cạnh tranh của ngân hàng thơng mại trong
hoạt động tín dụng trung và dài hạn
?

Tín dụng trung và dài hạn là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân
hàng. Bất cứ một ngân hàng nào cũng phải sử dụng nghiệp vụ này nhằm sử dụng
nguồn vốn huy động đợc đem lại thu nhập cho ngân hàng. Vì thế cạnh tranh trong
hoạt động tín dụng cũng chính là việc tận dụng hết những lợi thế của ngân hàng về
nguồn vốn, hệ thống thông tin để chiếm lĩnh thị trờng cho vay trung và dài hạn
đảm bảo cho ngân hàng thu đợc nguồn lợi nhuận lớn nhất khi cung cấp các dịch vụ
và thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Nhu cầu của khách hàng ở đây đợc hiểu theo nghĩa là đòi hỏi của khách
hàng về chất lợng tín dụng. Ngân hàng không những phải quan tâm đến việc mình
cung cấp cho khách hàng dịch vụ gì mà còn phải chú ý mình cung cấp dịch vụ đó
theo cách nào, cho ai và vì mục đích gì. Chỉ có nh vậy khách hàng mới thực sự cảm
nhận đợc nỗ lực của ngân hàng trong mối quan hệ hai bên cùng có lợi này. Không
chỉ khách hàng cần ngân hàng mà ngân hàng còn cần có khách hàng để tồn tại.
Trong môi trờng cạnh tranh thì nhận thức này lại cần đợc các ngân hàng nhận thức
đợc một cách triệt để.
1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh của ngân hàng th ơng mại
a) Tổng d nợ cho vay trung và dài hạn
Đây là chỉ tiêu cho biết rõ nét nhất về kết quả cho vay trung và dài hạn của
ngân hàng. Giá trị của các khoản cho vay phản ánh phần nào khả năng thu hút
khách hàng của ngân hàng cũng nh cho biết ngân hàng có khoản vốn huy động
mạnh đến thế nào mới có thể cung ứng một cách đầy đủ cho những khoản vay trên.
Kết hợp với chỉ tiêu thị phần, khối lợng của d nợ tín dụng trung và dài hạn khẳng
định vị trí của ngân hàng trên thị trờng.
b) Chất lợng khách hàng

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
17
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.


Chỉ cần nhìn vào các khách hàng của một ngân hàng, ngời ta đã có mờng t-
ợng đợc phần nào khả năng thu hồi nợ của ngân hàng và qua đó biết đợc hoạt động
cho vay của ngân hàng có đáng tin cậy không cũng nh những thế mạnh khác của
ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn thông tin tốt về khách hàng mới có thể bảo
đảm về khả năng tài chính của khách hàng và quyết định cho vay. Khách hàng còn
cho biết ngân hàng quan hệ với khách hàng tốt nh thế nào nhờ vào khả năng của
đội ngũ lãnh đạo. qua danh sách khách hàng ta còn có thể có thông tin về uy tín và
danh tiếng của ngân hàng. C
hất lợng khách hàng đợc đánh giá thông qua uy tín,
danh tiếng và tình hình tài chính và một loạt những thông số khác về khách
hàng mà ngân hàng phải tìm hiểu đợc trớc khi cho vay. Khách hàng tốt nên là
một doanh nghiệp có tiếng tăm trên thị trờng, vì cũng giống nh ngân hàng, uy
tín của doanh nghiệp cũng do những thành quả đạt đợc trong quá khứ gây dựng
nên. Không một ngân hàng nào muốn mạo hiểm cho một doanh nghiệp không
có tên tuổi và chỗ đứng trên thị trờng hay một doanh nghiệp đã có tiếng xấu
trong hoạt động trớc đây vay vốn với lí do một trong những mục tiêu hoạt động
của ngân hàng là an toàn. Tình hình tài chính của khách hàng có ổn định mới
bảo đảm khách hàng hoạt động có hiệu quả và do đó có khả năng trả nợ cho
khách hàng khi có một dự án khả thi và một phơng án trả nợ vay hợp lý.
c) Trình độ của cán bộ tín dụng
Chỉ tiêu này đợc biểu hiện thông qua trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín
dụng. Cán bộ tín dụng có trình độ cao bảo đảm cho quá trình thẩm định dự án
không sai sót và có độ tin cậy cao. Trình độ của cán bộ tín dụng còn thể hiện chính
sách đào tạo và đãi ngộ cũng nh khả năng thu hút nhân tài của ngân hàng, tạo
thành một lực lợng làm nên một nửa thành công của ngân hàng: đó chính là nguồn
nhân lực có chất lợng cao.
d) Thị phần tín dụng
Các ngân hàng cạnh tranh với nhau mà một trong những kết quả của cuộc
cạnh tranh đó đợc phản ánh trên thị phần của mỗi ngân hàng. Thị phần cho biết độ
tập trung về phía mỗi ngân hàng trong một lĩnh vực hoạt động thông qua tỷ lệ phần

trăm của từng ngân hàng đó so với cả một tổng thể ví dụ nh khối ngân hàng quốc
doanh chẳng hạn. Thị phần cũng cho biết khả năng chiếm giữ thị trờng của một
ngân hàng cụ thể. Lẽ tất nhiên, không phải ngân hàng nào có thị phần lớn hơn sẽ
tập trung đợc nhiều ảnh hởng về mình nhng điều này cũng cho thấy vị thế và sự ổn
định của ngân hàng này trên thị trờng. Vì vậy thị phần luôn là một mục tiêu đợc
các nhà quản trị ngân hàng quan tâm để đạt đợc lớn hơn so với các đối thủ cạnh

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
18
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

tranh khác. Trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn, ta quan tâm chủ yếu đến thị
phần tín dụng trung và dài hạn của mỗi ngân hàng hay thị phần tín dụng nói chung,
từ đó có thể có những nhận xét khách quan về hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ
này tại ngân hàng.
e) Khả năng giải quyết nợ xấu
Chỉ tiêu này đợc thể hiện thông qua các biện pháp mà ngân hàng đã sử
dụng từ xa tới nay trong quá khứ để giải quyết nợ xấu, góp phần nâng cao năng lực
tài chính của ngân hàng, đem lại lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng. Khi một ngân
hàng có thể làm tốt công tác này chứng tỏ ngân hàng đó có những quyết sách phù
hợp và linh hoạt nhằm cải cách hệ thống hoạt động của ngân hàng.
Nh trên đã khẳng định, khả năng cạnh tranh của một ngân hàng không phải
là một chỉ tiêu đơn lẻ mà nó đợc đánh giá tổng hợp thông qua sự kết hợp các chỉ
tiêu nói trên. Chỉ có nh vậy chỗ đứng của ngân hàng trên thị trờng mới có thể đợc
phản ánh một cách chính xác và đầy đủ, chi tiết, cung cấp cho chúng ta những
nhận xét thấu đáo hơn về hoạt động của một ngân hàng trong tơng lai.
1.2.3. Các công cụ cạnh tranhcủa ngân hàng thơng mại
Trong sách Lợi thế cạnh tranh, nhà kinh tế học Micheal Porter đã nhận
xét: trong cạnh tranh, mỗi công ty có 2 hình thức cơ bản của lợi thế cạnh tranh: dẫn

đầu về giá hay sự khác biệt. Cho dù công ty có vô số những điểm mạnh và điểm
yếu so với các đối thủ cạnh tranh thì công ty chỉ có thể có một trong hai hình thức
cạnh tranh trên.
T
ầm quan trọng của bất kỳ một điểm mạnh hay yếu nào cũng là
do ảnh hởng của công ty lên giá cả hay sự khác biệt. Đến lợt mình, u thế về giá và
sự khác biệt lại xuất phát từ cấu trúc của ngành đó. Nó phản ánh khả năng của
công ty khi đơng đầu với 5 lực lợng thị trờng tốt hơn so với các đối thủ của mình.
2 hình thức cạnh tranh trên gắn liền với quy mô hoạt động mà công ty tìm
kiếm nhằm chỉ đạo 3 chiến lợc cạnh tranh nói chung: chiến lợc về giá, chiến lợc
phân biệt và chiến lợc trọng điểm. Mỗi loại chiến lợc lại phù hợp với từng mục tiêu
cạnh tranh mà công ty vơn tới với những cách thức khác nhau.
a)
Cạnh tranh bằng lãi suất
Dẫn đầu về giá có lẽ là chiến lợc rõ ràng nhất, trong đó công ty cố gắng
trở thành một nhà sản xuất có giá thấp trong toàn ngành. Đối với các ngành sản
xuất khác, đây có thể là một trong những chiến lợc hiệu quả nhất và giá cả có thể

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
19
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

đợc sử dụng nh một yếu tố cơ bản đánh giá trình độ cạnh tranh của công ty. Tuy
nhiên ngành ngân hàng có những đặc trng riêng nên đòi hỏi phải có những phân
tích khác. Dữ liệu về giá của các giao dịch đơn lẻ có thể có ích và cần thiết cho các
ngành khác nhng rất ít thông tin loại này phù hợp với ngân hàng.
Các ngân hàng khó có thể sử dụng công cụ này trong cạnh tranh vì
những đặc thù rất riêng của ngành ngân hàng. Sản phẩm của các ngân hàng hầu
nh là giống nhau tạo nên sự đơn điệu chung trên thị trờng sản phẩm nhng những

ngân hàng có ý định hạ giá để tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình sẽ không
thành công. Ngân hàng nào cũng có tiềm năng cạnh tranh về giá nên giá cho vay
chung trên thị trờng chính là giá thấp nhất đảm bảo cho ngân hàng vẫn còn có thể
có lãi từ hoạt động cho vay. Bất cứ ngân hàng nào muốn phá vỡ thế ổn định đó sẽ
kéo theo sự chuyển động của cả một hệ thống và tính suy yếu cũng mang tính hệ
thống sâu sắc. Vợt qua giới hạn cuối cùng, ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ
thua lỗ trong hoạt động kinh doanh và tiếp đó là khả năng tài chính giảm sút, làm
mất đi khả năng cạnh tranh trong tơng lai do không thể đáp ứng đợc các nhu cầu
của khách hàng.
Tuy nhiên, ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy là các ngân hàng có thể sử
dụng những lãi suất khác nhau cho những khách hàng khác nhau trong những
khoản vay thoạt trông là cùng loại và cùng quy mô. Điều này một phần là do các
nhân tố rủi ro khác nhau và các điều khoản khác nhau của khoản vay: tài sản bảo
đảm, thời điểm trả nợ,v.vKhách hàng có nhiều sự lựa chọn, bao gồm cả lựa chọn
không cần vay vì có khả năng tài chính vững mạnh, thờng nhận đợc lãi suất thấp
hơn so với những khách hàng có ít hơn hay không có lựa chọn nào.
Những sự lựa chọn trên cho phép khách hàng mua hàng giữa các ngân
hàng và các tổ chức tài chính khác để có đợc những điều kiện tốt nhất. Nếu điều
này xảy ra ở quy mô lớn, sự khác biệt về lãi suất của mỗi ngân hàng đối với các
khoản cho vay sẽ có xu hớng thu hẹp lại và sẽ chỉ có một sự khác biệt không đáng
kể về lãi suất giữa các ngân hàng trên cùng một thị trờng. Nói cách khác, quyền lực
của độc quyền bán quan hệ nghịch đảo với khả năng lựa chọn của khách hàng.
Tóm lại, đối với ngành ngân hàng, cạnh tranh bằng lãi suất không phải
là một công cụ đem lại lợi ích mong muốn. . Một minh chứng dẽ thấy nhất là tại
các nớc phát triển, lãi suất không phải là một công cụ đợc a thích và trên thị trờng
liên ngân hàng, lãi suất LIBOR và SIBOR không cách biệt nhau bao nhiêu. Để có
thể sử dụng công cụ này có hiệu quả trong cạnh tranh là một điều vô cùng khó

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
20

Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

khăn, trong những trờng hợp cụ thể thì biện pháp an toàn và thực tế nhất là bám
theo lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ơngĐây cũng chính là cách thức mà các
ngân hàng trên thế giới đang sử dụng trong cho vay trung và dài hạn nhằm bảo
đảm đợc kết quả hoạt động kinh doanh nhng cũng không vợt quá khỏi ngỡng của
lãi suất cạnh tranh.

b)
Cạnh tranh bằng sự phân biệt
Nh trên đã khẳng định, một ngân hàng muốn tạo đợc sự khác biệt với các
ngân hàng khác thì phải có những vũ khí chiến lợc riêng thật hiệu quả nhằm đạt đ-
ợc sự tán thởng và ủng hộ cao nhất của khách hàng, từ đó mới có thể hi vọng sẽ tạo
đợc chỗ đứng trên thị trờng và hoạt động có chất lợng, vợt lên hẳn các đối thủ cạnh
tranh trớc đó. Loại bỏ yếu tố lãi suất không hiệu quả, chúng ta có thể xem xét một
số công cụ chủ yếu của ngân hàng trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn nh
sau: uy tín của ngân hàng, năng lực của bộ máy lãnh đạo, nguồn vốn tự có và huy
động , hệ thống thu thập và xử lý thông tin, khả năng phân tích rủi ro, chất lợng
nguồn nhân lực, công nghệ ngân hàng và đổi mới công nghệ, và công tác quản trị
chiến lợc.
(1) Uy tín của ngân hàng
Uy tín của một tổ chức tài chính có lẽ là tài sản quan trọng nhất và cũng
là tài sản vô hình nhất của nó, một loại tài sản có thể phân biệt đợc những đối thủ
thành công nhất trong ngành dịch vụ tài chính so với những ngời còn lại. Nó là sản
phẩm của những thành tích tích luỹ đợc trong quá khứ của một tổ chức. Uy tín có
thể nâng cao từ nhiều nguồn khác nhau nhng nói chung là đợc rút ra từ một khả
năng và chuyên môn cụ thể mà thị trờng đánh giá cao và bản thân tổ chức đó đã
phát triển trong một thời gian.
Khái niệm về uy tín đã đợc sử dụng để giải thích cho rất nhiều hiện tợng

cạnh tranh và thờng đợc liên hệ với vị trí của ngân hàng trên thị trờng nh là kết quả
của sự phối hợp đồng bộ của tất cả các thành phần nh công nghệ tài chính và đổi
mới, hệ thống thông tin, chất lợng nguồn nhân lực, khả năng phân tích rủi ro và cơ
sở về vốn. Uy tín, hay còn đợc gọi là good will, gắn kết chặt chẽ với ngân hàng
nh là một sản phẩm của những hoạt động trong quá khứ đợc phản ánh trong tơng
lai.

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
21
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

Uy tín của một ngân hàng thờng đợc quyết định qua nhận xét của những
khách hàng đã sử dụng dịch vụ ngân hàng. Một khi ngân hàng đã tạo đợc vị trí
trong lòng khách hàng, điều này sẽ là một lợi thế cho ngân hàng trong việc quảng
cáo và bán sản phẩm mới. Thị trờng của ngân hàng rộng lớn và phức tạp với rất
nhiều kênh thông tin dày đặc cũng có tính 2 mặt của nó. Nếu ngân hàng hoạt động
tốt và phục vụ khách hàng tận tình chu đáo, điểm tốt mà ngân hàng thu đợc sẽ lan
rộng nhanh chóng. Nhng khi ngân hàng sơ sót thì danh tiếng của ngân hàng còn bị
hạ thấp nhanh chóng hơn. Trên thị trờng tín dụng trung và dài hạn, uy tín của ngân
hàng giúp cho khách hàng có những lựa chọn tốt nhất để quyết định vay vốn đầu t.
(2) Bộ máy lãnh đạo
Không phải ngân hàng nào cũng có nhiều lợi thế nh địa điểm, nguồn vốn
tự có để có thể phát huy thành một lợi thế cạnh tranh của mình. Vậy trong trờng
hợp này, các ngân hàng trên làm thế nào để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển giữa
những lực lợng hùng hậu khác? Một trong những chiếc chìa khoá của sự thành
công chính là năng lực sáng tạo và điều hành của bộ máy lãnh đạo ngân hàng. Sức
mạnh của bộ máy này là biết đánh giá, kết hợp một cách tài tình tất cả mọi nguồn
lực có trong tổ chức và phát huy tối đa khả năng của từng bộ phận vào kết quả tổng
hợp chung của ngân hàng. Để có thể thành công trong môi trờng cạnh tranh hiện

nay, các nhà quản trị ngân hàng cần có những tố chất sau đây:

Khả năng chuyên môn: tuy có ý kiến cho rằng ngời quản lý ngày nay không
cần thiết phải có những hiểu biết chuyên sâu nhng thực chất, muốn có một sự sắp
xếp cho cơ chế hoạt động của bất cứ một bộ máy thì ngời quản lý phải có những
hiểu biết nhất định, nhờ thế mới có thể phát huy đợc khả năng của từng bộ phận
trong tổ chức. Khi mỗi cá nhân và bộ phận đợc đặt vào đúng vị trí và năng lực hoạt
động của mình , họ mới có thể phát huy hết khả năng phục vụ cho lợi ích của ngân
hàng cũng nh là lợi ích của chính họ.

Khả năng phán đoán: ban lãnh đạo ngân hàng cần phải có tầm nhìn xa chiến l-
ợc, nhờ đó có thể phán đoán tơng đối chính xác các xu hớng của thị trờng, có khả
năng phân tích và dự đoán tác động của các biến đổi hiện tại, từ đó đa ra các chiến
lợc ở tầm vĩ mô nhằm trang bị cho ngân hàng những vũ khí hiệu quả nhất giữ vững
vị trí trên thị trờng.

Khả năng, nghệ thuật đối nhân xử thế: khả năng này không những thể hiện
trong phơng pháp bố trí nhân lực, khuyến khích cố gắng của nhân viên trong ngân

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
22
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

hàng để thu đợc hiệu quả làm việc xuất sắc nhất mà còn đợc áp dụng trong giao
tiếp đối với khách hàng và các cấp có thẩm quyền. Hoạt động ngân hàng diễn ra ở
trung tâm của xã hội, mối quan hệ của ngân hàng với các thành phần kinh tế khác
lại dày đặc cũng nh chịu ảnh hởng tác động của các bộ ngành khác nhau trong nền
kinh tế nên sự khéo léo và uyển chuyển trong giao tiếp của cán bộ lãnh đạo ngân
hàng sẽ mang lại cho ngân hàng những u thế đặc biệt trong mối quan hệ với khách

hàng và bộ máy chính quyền trung ơng và địa phơng. Điều này cho thấy ngân hàng
không chỉ đơn thuần thực hiện công việc kinh doanh mà ngân hàng phải thực hiện
công việc kinh doanh đó một cách nghệ thuật. Nh vậy chính là cán bộ lãnh đạo
ngân hàng đã thể hiện đợc văn hoá trong kinh doanh của ngân hàng.
(3) Nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động
Trong những năm gần đây, các tổ chức tài chính và các bộ phận của
chúng đã bắt đầu có sự chú ý ngày càng tăng đối với việc sử dụng nguồn vốn nh là
một sức mạnh cạnh tranh giống nh năng lực điều hành. Điều này luôn là sự thật
đối với các hoạt động đợc thể hiện trên bảng cân đối tài chính, ví dụ nh giới hạn
cho vay trên nguồn vốn trong trờng hợp các khoản cho vay, và cũng chính trong
lĩnh vực này, chất lợng chung của các tài sản ngân hàng đã xấu đi trông thấy ỏ
nhiều nớc.
Tuy nhiên cũng có những lí do tại sao ngân hàng thơng mại lại miễn cỡng
trong việc tăng nguồn vốn cơ bản. Họ sẽ phải đối mặt với việc thu nhập bị loãng đi
và với tầm quan trọng của chính sách đòn bẩy, và một vài tổ chức đã phát hành các
món nợ hạng dới, các giấy tờ thanh toán có lãi suất thả nổi vô thời hạn và những
hình thức nợ khác có thể đợc coi nh vốn chủ sở hữu.
Đặc biệt trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn mà đối tợng cho vay là
các dự án có quy mô vốn vay lớn thì điều kiện này lại càng quan trọng. Ngân hàng
phải có đủ lợng vốn cần thiết mà không mong đợc hoàn trả ngay trong một thời
gian dài, thờng xuyên phải xem xét cho gia hạn nợ. Ngân hàng cũng phải đảm bảo
trong khoảng thời gian đó không bị thiếu hụt ngân quỹ cho các hoạt động bình th-
ờng khác của ngân hàng. Chính vì vậy, nguồn vốn đang ngày càng trở thành một
công cụ cạnh tranh quan trọng trong cho vay trung và dài hạn.
(4) Khả năng phân tích rủi ro
Các tổ chức tài chính tự tài trợ cho mình bằng cách tạo lập ra các tài sản tài
chính do ngời khác nắm giữ. Những trừơng hợp dễ nhận thấy nhất là tài khoản tiền
gửi của khách hàng, giao dịch liên ngân hàng, và phát hành chứng chỉ tiền gửi cũng

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A

23
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

nh cổ phiếu. Do đó các tài sản cũng đợc xếp loại từ các tài sản có lãi suất thấp và
tính lỏng cao cho tới tài sản có lãi suất cao và tính lỏng thấp . Mỗi loại có một loại
rủi ro đặc trng. Trong bối cảnh này, chất lợng của một ngân hàng (khả năng phân
tích rủi ro) là một yếu tố quyết định quan trọng đến khả năng ngân hàng có thể bán
các sản phẩm tài chính của mình cho ngời khác với chi phí thấp nhất có thể.
Các khoản vay liên ngân hàng đã trở thành một nguồn tài trợ quan trọng
cho các ngân hàng, nguồn này trở thành một nguồn kém an toàn và có chi phí cao
hơn nguồn tiền gửi của khách hàng. Trong lúc đó, cho vay liên ngân hàng là một
khoản tài trợ bổ sung cho bên tài sản của bảng cân đối. Khả năng phân tích rủi ro
trở nên có ý nghĩa đặc biệt trong hoàn cảnh này. Những ngân hàng có chất lợng
phân tích kém hơn sẽ rơi vào khó khăn khi họ bắt buộc phải trả một khoản phí cao
hơn những ngân hàng khác để tự tài trợ cho mình trên thị trờng liên ngân hàng, vì
tình trạng yếu kém về chất lợng tín dụng của họ bị phản ánh thông qua khoản phí
này do các ngân hàng khác đặt ra.
Nh vậy trong tơng lai, khả năng phân tích tài chính sẽ là một vũ khí quan
trọng giúp cho ngân hàng đợc đánh giá chất lợng tín dụng cao hơn. Đồng thời nó
cũng cung cấp cho ngân hàng những thông tin cần thiết trong hoạt động đầu t của
mình, nâng cao khả năng an toàn và giảm bớt những biến động về nguồn vốn huy
động của ngân hàng trong lĩnh vực cho vay. Một nguồn vốn ổn định cho phép ngân
hàng phục vụ khách hàng tốt hơn và khẳng định mạnh mẽ hơn uy tín của ngân
hàng.
(5) Hệ thống thu thập thông tin
Nếu tiền là thông tin vận động thì các dịch vụ tài chính chính là lĩnh vực
cần thông tin nhất trong nền kinh tế. Nhiều dịch vụ tài chính ( VD nh dịch vụ t vấn
tài chính) có bản chất hoàn toàn là thông tin, và sự vận động của các tổ chức tài
chính để thoát ra khỏi các hoạt động có hình thức trao đổi hàng hoá trở thành các

hoạt động kinh doanh có giá trị gia tăng cao hơn đang tăng cờng tầm quan trọng
của các sản phẩm đòi hỏi có nhiều thông tin, cả về khối lợng và chất lợng. Các
dịch vụ không có bản chất thông tin cũng vẫn có xu hớng phụ thuộc ngày càng
nhiều vào chất lợng thông tin vì giá trị của mình. Hơn thế nữa, thông tin không đối
xứng giữa các đối thủ cạnh tranh và khách hàng của họ góp phần rất lớn vào việc
giải thích những khác biệt trong hoạt động cạnh tranh.
Một trong những chức năng quan trọng nhất của các tổ chức tài chính là
đánh giá rủi ro lại phụ thuộc rất nhiều vào chất lợng thông tin. Tất cả các hình thức

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
24
Gii phỏp nõng cao kh nng cnh tranh ca ngõn hng Ngoi thng Vit Nam
trong hot ng tớn dng trung v di hn.

cho vay và các hoạt động liên quan đến tín dụng phụ thuộc vào việc thu thập, xử lý
và đánh giá một khối lợng thông tin rất lớn. Tơng tự, sự đồng hoá thông tin về các
nhu cầu của khách hàng rất quan trọng trong quá trình phát triển và đáp ứng nhu
cầu của các dịch vụ.
Có 3 yếu tố liên quan tới nhận định thông tin là yếu tố quyết định trong
hoạt động cạnh tranh:
1. Thông tin là nhân tố duy nhất trong quá trình sản xuất có thể đợc sử dụng đồng
thời trong quá trình thực hiện của một số lợng bất kỳ các dịch vụ và điều này đem
lại một số tính chất đặc trng cho thông tin. Thông tin thứ cấp cho tổ chức này có
thể là thông tin sơ cấp cho bộ phận khác và phục vụ cho những mục đích khác
nhau.
2. Chu kỳ phân nửa của thông tin có chiều hớng rất ngắn và có thể giảm. Do mức
độ biến đổi của thị trờng cao, những thông tin tài chính có tính quan trọng sống
còn nhanh chóng mất tác dụng, và những diễn biến đợc bảo đảm vào lúc đó không
còn đợc đánh giá cao ngay sau đó
3. Sự phức tạp ngày càng tăng của môi trờng cạnh tranh và sự đa dạng của các loại

hình dịch vụ tài chính đã làm tăng khó khăn đối với các công ty và cá nhân khi lập
kế hoạch cho các nhu cầu tài chính của họ một cách rõ ràng. Thật vậy, khách hàng
cần có một phơng tiện để đánh giá những thông tin thích hợp, một cách nào đó để
phân biệt giữa thông tin có liên quan với thông tin không liên quan. Các tổ chức tài
chính có thể cung cấp các dịch vụ thực hiện công việc này.
Nói tóm lại, thông tin đa khách hàng đến với ngân hàng và ngân hàng dựa
vào thông tin để chọn lựa khách hàng. Cán bộ tín dụng coi thông tin là một công
cụ quan trọng trong công tác thẩm định dự án. Cho vay trung và dài hạn gặp rất
nhiều rủi ro và thông tin là rất cần thiết để ngân hàng có thể quyết định dự án có
khả thi hay không hay khách hàng có thể tin cậy đợc không, tình hình tài chính của
khách hàng có đúng nh đã báo cáo hay không. Nhờ có hệ thống thông tin mà cán
bộ ngân hàng còn có thể nắm bắt đợc những nhu cầu của khách hàng và sáng tạo
ra những sản phẩm đa dạng hơn nhằm thoả mãn khách hàng tốt hơn.
(6)

Chất lợng của nguồn nhân lực:
Trong khi trong một thời gian dài ngời ta đã nhận thấy các dịch vụ tài chính
cơ bản là kinh doanh bằng con ngời thì chỉ mới gần đây tầm quan trọng của việc
có đợc một nguồn nhân lực thực sự tài giỏi hơn mới bộc lộ ra với tất cả các đấu thủ

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
25

×