Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá mateco

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.28 KB, 87 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mang lại một sự đổi mới toàn diện trên
mọi lĩnh vực. Chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu bước ngặt quan
trọng của nền kinh tế đất nước, từng bước đưa nước ta hoà nhập vào nền kinh tế thế
giới bằng các quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và các quan hệ thương mại nói
riêng ngày càng phong phú và đa dạng. Đảng và Nhà nước ta đã nhận định rằng
việc tham gia các quan hệ mua bán quốc tế là “nhằm giới thiệu, thúc đẩy khai thác
tiềm năng và thế mạnh của đất nước trên cơ sở đó tiến hành phân công lại lao động
xã hội. Khai thác mọi tiềm năng để sản xuất sản phẩm xuất khẩu, đồng thời thông
qua hoạt động nhập khẩu để tranh thủ khai thác được thế mạnh về vốn, công nghệ
của nước ngoài cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta để thúc đẩy quá
trình tái sản xuất, tiêu dùng phát triển kịp thời với tiến trình chung của nhân loại.
Nhập khẩu có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của nước
ta hiện nay. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và
đời sống trong nước. Nhập khẩu bổ sung các hàng hoá trong nước không sản xuất
được hoặc không đủ đáp ứng nhu cầu về nhập khẩu để thay thế những hàng hoá
mà nếu sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Nhập khẩu tạo điều
kiện thúc đẩy nhanh chóng quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dich
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đảm bảo kinh tế phát triển
cân đối; thúc đẩy xuất khẩu, tạo đầu vào cho sản xuất hàng hoá.
Qua thời gian thực tập tại công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá,
bằng những kiến thức đã học được kết hợp với việc khảo sát tình hình nhập khẩu
của công ty em đã chon đề tài “Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập
khẩu của công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá MATECO” làm đề tài
1
nghiên cứu. Đề tài này chỉ xoay quanh vấn đề về hoạt động nhập khẩu ở công ty
diễn ra như thế nào và những biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu.
Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu hàng hoá


Chương II: thực trạng nhập khẩu hàng hoá ở Công ty CENTRIMEX -
Chi nhánh Hà Nội
Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập
khẩu của Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội
2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ
I. SỰ CẦN THIẾT VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MỖI QUỐC GIA - CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
1. Sự cần thiết của công tác nhập khẩu
Bất cứ nơi nào có thương mại đặc biệt là thương mại quốc tế hoạt động mạnh
thì thì những nơi đó có nền kinh tế phát triển, tuy vấn đề này không phải lúc nào
Chính Phủ quan tâm đúng mức cần thiết với vai trò của nó. Nước ta và một số
nước khác trước đây cũng có lúc xem xét độc lập kinh tế như một đòi hỏi phải xây
dựng một nền kinh tế độc lập hoàn chỉnh, tức là mang tính hoàn toàn tự cấp tự túc.
Thực tế đã chứng minh rằng ngày nay không có một quốc gia nào dù to lớn như
Liên Xô trước đây, Mỹ và Trung Quốc có đủ sức xây dựng một nền kinh tế tự cung
tự cấp vì no vô cùng tốn kém về vật chất và thời gian. Nước ta và một số nước
Đông Âu trước đây đã thực hiện nền kinh tế đóng dẫn đến tình trạng kinh tế lạc
hậu, đình đốn. Ngược lại, các nước theo đuổi chính sách tự do như Hàn Quốc và
các nước khác thuộc khối ASEAN đã có một bước tiến lâu dài trong việc phát triển
kinh tế chỉ với một thời gian ngắn, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã thực hiện xoá bỏ cơ chế kinh tế tập
trung cứng nhắc sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và thực hiện
chính sách mở cửa. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn giúp nước ta tham
gia vào phân công lao động quốc tế và thị trường thế giới.
Với mục tiêu thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc trong khi
chúng ta còn tương đối lạc hậu về kinh tế, thấp kém về kỹ thuật công nghệ thì việc
làm đó không thể ngày một ngày hai được, nước ta không chỉ dựa vào nguồn lực

sẵn có trong nước mà cần phải biết tận dụng các hiệu quả tất cả các thành tự khoa
học kỹ thuật công nghệ mới của thế giới. Nền kinh tế nước ta đòi hỏi phải có sự
3
biến động sâu sắc về cơ cấu kinh tế xã hội. Muốn vậy việc thay đổi chiến lược kinh
tế từ “đóng của” sang “mở cửa” là vô cùng quan trọng. Nền kinh tế mở sẽ tạo ra
những bước phát triển mới, tạo điều kiện khai thác lợi thế, tiềm năng sẵn có của
nước ta nhằm sử dụng chúng trong phân công lao động quốc tế một cách có lợi
nhất. Thương mại quốc tế chỉ ra và xác định cho một nước biết được đâu là lợi thế
của mình, chỉ ra đúng đắn nên đầu tư vào đâu, đầu tư vào lĩnh vực nào có lợi nhất.
Nhập khẩu sẽ là nhân tố giúp cho chúng ta tháo bỏ những vướng mắc mà các
nước nghèo thường mắc phải, phương châm đó là vay mượn công nghệ nước ngoài
trong thời kỳ đầu của công nghiệp hóa.
Thực chất ở đây, nhập khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá từ các tổ
chức kinh tế, các công ty nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại
thị trường nội địa hoặc tái xuất với mục đích thu lợi nhuận và nối liền sản xuất và
tiêu dùng với nhau.
Xu thế nhập khẩu bổ sung để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cũng là một tất
yếu, thông qua đó nước ta có thể từng bước thay đổi, hoàn thiện cơ cấu tiêu dùng
của nhân dân theo hướng hiện đại hoá. Điều đó cũng đồng thời dẫn đến việc nâng
cao kỹ thuật công nghệ sản xuất trong nước. Do vậy, Nhà nước ta đã đề ra chính
sách nhập khẩu chặt chẽ, có chon lọc, nhất là nhập khẩu vật tư thiết bị, máy móc,
kỹ thuật công nghệ để tăng cường tiếp thu công nghệ nước ngoài, từ đó phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là một trong 2 hoạt động cấu thành nên nghiệp vụ xuất nhập
khẩu, là một bộ phận không thể thiếu được trong hoạt động ngoại thương của mỗi
quốc gia. Nó tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống, thể hiện sự phụ thuộc gắn
bó lẫn nhau nhau giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Nó tác động
tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế
mỗi quốc gia về sức lao động, vốn cơ sở sản xuất, tài nguyên và khoa học kỹ thuật.

Đặc biệt trong tình hình kinh tế thế giới hiện nay, các nước không ngừng thống
4
nhất, mở rộng buôn bán quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ quốc tế ngày
càng lớn mạnh, việc hình thành những trung tâm thương mại, khối mậu dịch tự do
đã chứng tỏ việc lưu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia không ngừng được hoàn
thiện và nâng cao. Khi đó vai trò của hoạt động nhập khẩu ngày càng có ý nghĩa
lớn đến việc ổn định và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng như trong khu
vực, cụ thể biểu hiện ở những điểm sau:
- Nhập khẩu hàng hoá là cơ sở để bổ sung hàng hoá trong nước không sản
xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Ngoài ra nhập khẩu còn làm
đa dạng hoá các loại hàng hoá về chủng loại và quy cách lmà thoả mãn nhu cầu
trong nước.
- Nhập khẩu tạo ra những năng lực mới trong sản xuất, giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động, không ngừng cải thiện nâng cao đời sống xã hội, hạn
chế các tệ nạn xã hội, tạo thu nhập cho nhân dân nhằm mục đích và ổn định phát
triển kinh tế xã hội.
- Nhập khẩu tạo ra sự phát triển đồng đều về trình độ xã hội, phá bỏ tình
trạng độc quyền trong sản xuất kinh doanh trong nước, phát huy nhân tố mới trong
sản xuất nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế có cơ hội tham gia và cạnh
tranh trên thương trường trong khu vực cũng như trên thế giới.
- Nhập khẩu tạo ra sự liên đới giữa kinh tế trong nước với nền kinh tế thế
giới, tạo điều kiện cho phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi
thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất.
- Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ, cung cấp nguyên vật liệu đầu
vào là việc sử dụng có hiệu quả ngoại tệ tiết kiệm để nhập khẩu vật tư hàng hoá
phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng, do đó tạo ra sự phát triển vượt bậc của
sản xuất xã hội tiêt kiệm chi phí và thời gian tạo ra sản phẩm.
Tuy nhiên việc phát huy hết vai trò của nhập khẩu còn phụ thuộc vào đường
lối, phương hướng, quan điểm của mỗi quốc gia. Vậy ở nước ta vai trò của nhập
khẩu được phát huy thế nào?

5
Chúng ta đều biết quan hệ kinh tế quốc tế trong chế độc tập trung bao cấp
của nền kinh tế nước ta chỉ thu hẹp trong phạm vi một vài nước XHCN trên các
khoản viện trợ và mua bán theo nghị định đã làm thui chột hoạt động nhập khẩu.
Sự quản lý quá sâu của Nhà nước đã làm mất đi tính linh hoạt, uyển chuyển của
hoạt động nhập khẩu, do đó không phát huy được vai trò của nó trong việc phát
triển kinh tế xã hội. Chủ thể của hoạt động nhập khẩu trong cơ chế cũ là những
doanh nghiệp Nhà nước độc quyền thụ động, cơ cấu tổ chức cồng kềnh và kém
năng động dẫn đến công tác nhập khẩu trì trệ, không đáp ứng được nhu cầu hàng
hoá trong nước. Trong hoàn cảnh đó Đại hội Đảng VI là bước đột phá đưa đến sự
chuyển mình của nước ta thoát khỏi nền kinh tế cứng nhắc. Chuyển sang nền kinh
tế mới với xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá hoạt động nhập khẩu đã phát huy
lớn mạnh được vai trò của nó. Nhập khẩu tác động đến nền kinh tế nước ta ở những
điểm sau:
Nhập khẩu góp phần phát triển sản xuất, chuyển dich cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với định hướng phát triển nền kinh
tế xã hội của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung, nhập khẩu nói riêng
phải luôn là một giải pháp có tầm cỡ chiến lược nhằm phục vụ phát triển nền kinh
tế quốc dân. Chính sách nhập khẩu phải tranh thủ cao nhất nguồn vốn, kỹ thuật
công nghệ tiên tiến cũng như sự đổi mới đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý nhằm
thúc đẩy hàng hoá của nước ta phát triển.
Nhập khẩu đã tác động tích cực đến hoạt động giải quyết công ăn việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân, không ngừng ổn định kinh tế xã hội. Thông qua hoạt
động nhập khẩu đã đáp ứng kịp thời tư liệu sản xuất cũng như trang thiết bị phục
vụ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà máy để thu hút hàng triệu lao động hàng
năm không chỉ đối với doanh nghiệp trong nước mà còn đối với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó nhập khẩu cũng tạo điều kiện cho các ngành
có liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi, ổn định, mở rộng thị trường, khai thác
6
tối đa sản xuất trong nước, nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành, từng bước

đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế trong và ngoài khu vực.
Nhập khẩu bổ sung những mất cân đối của nền kinh tế, cung cấp bổ sung
hàng hoá không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu trong
nước, nhờ đó khai thác tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế trong nước
đáp ứng đầy đủ nhu cầu thị hiếu của nhân dân.
Nhập khẩu còn có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao
chất lượng hàng nhập khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá
của nước ta xích gần tiêu chuẩn quốc tế. Khi đó buộc các doanh nghiệp phải hình
thành sản xuất kinh doanh phù hợp với thị trường, đồng thời phải hoàn thiện tốt
công tác quản lý đào tạo phù hợp với xã hội chung của thị trường nhằm tạo ra nhiều
cơ hôi mới trong quan hệ với các đối tác nước ngoài trên cơ sở mang lại lợi ích cho
cả hai bên. Tuy nhiên, để phát huy hết vai trò của hoạt động nhập khẩu thì việc tuân
thủ các hình thức nhập khẩu cũng như xác định rõ các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt
động nhập khẩu và hiểu rõ về các công cụ quản lý nhập khẩu của Nhà nước có ý
nghĩa rất quan trọng đối với quá trình kinh doanh nhập khẩu nhằm đạt được hiệu
suất cao nhất.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
3.1- Các chế độ chính sách luật pháp
Đây là yếu tố mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải
nắm rõ và tuân theo một cách vô điều kiện bởi nó thể hiện ý chí của mỗi quốc gia,
sự thống nhất chung của quốc tế, nó bảo vệ lợi ích chung của các tầng lớp trong xã
hội, lợi ích của các nước trên thương trường quốc tế.
Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác
nhau bởi vậy nó chịu sự tác động của chế độ, chính sách luật pháp ở quốc gia đó.
Chế độ, chính sách của một nước thay đổi hoặc chế độ ưu đãi của một nước hay
một nhóm nước có sự biến động ít nhiều cũng ảnh hưởng tới những nước có quan
hệ xuất nhập với nước đó. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải
7
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong hoạt động nhập khẩu do
đó tạo nên sự tin tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này.

3.2- Tỷ giá hối đoái
Nhân tố này có tầm quan trọng quyết định tới việc lựa chọn bạn hàng, mặt
hàng cũng như phương án kinh doanh của không chỉ các doanh nghiệp nhập khẩu
trực tiếp mà còn ảnh hưởng tới các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu nhưng không
phải nhập khẩu trực tiếp. Sự biến động của các nhân tố này sẽ gây ra những biến
động lớn trong tỷ trọng nhập khẩu cũng như xuất khẩu. Chẳng hạn, tỷ giá hối đoái
tăng lên nghĩa là đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với đồng ngoại tệ. Nếu như
không có các nhân tố khác ảnh hưởng sẽ có tác động khuyến khích nhập khẩu vì
hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với giá cả chung trong nước. Trong trường hợp
này tác động đối với hoạt động xuất khẩu sẽ ngược lại. Có thề nói, trong kinh
doanh quốc tế nói chung trong hoạt động nhập khẩu nói riêng thì việc dự toán được
tỷ giá hối đoái có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu.
3.3- Ảnh hưởng của sự biến động thị trường trong và ngoài nước
Ta có thể hình dung hoạt động nhập khẩu giống như một chiếc cầu nối giữa
hai thị trường tạo ra sự phù hợp, gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa
chúng, phản ánh sự biến động của một thị trường. Cụ thể như sự tồn đọng, giá cả,
giảm nhu cầu về một mặt hàng ở thị trường trong nước sẽ làm ngay lập tức lượng
hàng đó thông qua chiếc cầu nhập khẩu và ngược lại. Cũng như vậy thị trường
ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn nhu cầu trên thị trường trong nước, sự biến
động của nó về khả năng cung cấp, về sản phẩm mới, về sự đa dạng hoá dịch vụ
cũng được phản ánh qua chiếc cầu nhập khẩu để tác động trên thị trường nội địa.
3.4- Sự ảnh hưởng của nền sản xuất trong và ngoài nước
Sự phát triển của nền sản xuất, của những doanh nghiệp sản xuất trong nước
sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ đối với hàng nhập ngoại, tạo ra những sản phẩm
thay thế hàng nhập khẩu làm giảm hẳn nhu cầu về hàng nhập khẩu. Mặt khác, nền
8
sản xuất trong nước kém phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật chưa đạt đến một
trình độ nhất định thì không thể sản xuất những mặt hàng đòi hỏi công nghệ cao mà
trong nước có nhu cầu sản xuất hoặc nếu sản xuất được thì chất lượng lại không đạt

yêu cầu lúc đó nhu cầu về hàng nhập ngoại tăng lên. Nói tóm lại, nếu sản xuất
trong nước dù phát triển hay không cũng ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu.
Trong khi đó, sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài sẽ tạo ra những
sản phẩm mới và hiện đại, sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên không phải
lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động nhập khẩu bị thu hẹp mà
nhiều khi để tránh độc quyền và tạo ra sự cạnh tranh hoạt động nhập khẩu lại được
khuyến khích phát triển. Còn để đảm bảo quyền sản xuất trong nước khi nền sản
xuất ở nước ngoài phát triển thì hoạt động nhập khẩu sẽ bị hạn chế và bị kiểm soát
nghiêm ngặt.
3.5- Ảnh hưởng của giao thông vận tải và liên lạc
Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với việc vận chuyển
và thông tin liên lạc mà các bên có thể nắm rõ thông tin một cách nhanh nhất để từ
đó cũng tiến hành hoạt động kịp thời, còn việc vận chuyển hàng hoá từ nước này
sang nước khác là công việc của hoạt động nhập khẩu. Do đó, sự hiện đại hoá cũng
như áp dụng những công nghệ khoa học tiên tiến vào hệ thống thông tin liên lạc và
giao thông là yếu tố quan trọng cho hoạt động nhập khẩu. Thực tế cho thấy sự phát
triển của hệ thống thông tin liên lạc như Fax, Telex, Telephone, EMS đã đơn giản
hoá công việc của hoạt động nhập khẩu đi rất nhiều, giảm hàng loạt các chi phí,
nâng cao tính kịp thời nhanh gọn và việc hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển,
bốc dỡ, bảo quản cũng như đã góp phần làm nhanh chóng an toàn phát triển của
hệ thống thông tin liên lạc và giao thông là một trong những yếu tố không thể thiếu
được của hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên, đây không phải là nhân tố duy nhất mà
còn nhiều nhân tố khác cần được xem xét.
3.6- Ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng
9
Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng phát triển khá mạnh, nó tác động tới
tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù ở thành phần kinh tế nào những vai trò
to lớn của nó, đó là việc đảm bảo cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách
thuận lợi nhanh chóng, chính xác cho các doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu sẽ
không thực hiện được nếu như không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Dựa

trên các mối quan hệ, uy tín nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng rất thuận tiện cho
các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu vì sẽ được đảm bảo về mặt lợi
ích và trong nhiều trường hợp có uy tín với ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho
vay với lượng vốn lớn, kịp thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp có được cơ hội kinh
doanh.
3.7- Ảnh hưởng của những nhân tố khác.
Ngoài các nhân tố trên, còn có một số nhân tố khác cũng ảnh hưởng nhất
định đến hoạt động nhập khẩu.
Ảnh hưởng của phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng của mỗi quốc gia sẽ
quyết định đến lượng hàng cũng như hình thức kinh doanh nhập khẩu.
Ảnh hưởng của sự phát triển kỹ thuật công nghệ trên thế giới làm đa dạng
hoá chủng loại tạo ra những nhu cầu do đó cũng đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu.
Sự xuất hiện của liên kết kinh tế ở phạm vi khu vực và trên phạm vi toàn thế
giới: khi tham gia vào các khối liên kết kinh tế (ASEAN, EU, APEC ) thì mọi
quốc gia đềi giành cho nhau những ưu đãi đặc biệt về thuế quan, các chính sách
khuyến khích do đó sẽ làm cho giá hàng hoá nhập khẩu rẻ hơn nên hoạt động
nhập khẩu sẽ gia tăng.
Những nhân tố này là khách quan mà bản thân doanh nghiệp chỉ có thể nhận
thức và có phương hướng kinh doanh cho phù hợp chứ không thể tự mình làm tác
động biến đổi chúng.
Trên đây là một số nhân tố ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động nhập khẩu của
bất kỳ một quốc gia nào. Muốn hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả thì doanh nghiệp
10
hay quốc gia đều phải xem xét, phân tích kỹ lưỡng các nhân tố đó để tránh rủi ro.
Đây cũng chính là công việc không thể thiếu được trong hoạt động nhập khẩu.
II. CÁC HÌNH THỨC NHẬP KHẨU VÀ CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ
NHẬP KHẨU
1. Các hình thức nhập khẩu
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động của điều kiện kinh doanh,

Nhà nước tạo ra nhiều hình thức xuất nhập khẩu khác nhau. ở đây, ta chỉ xét một
vài hình thức nhập khẩu phổ biến đang được áp dụng tại các doanh nghiệp nước ta
hiện nay.
1.1- Doanh nghiệp tự doanh.
Khái niệm: hoạt động nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu độc lập
của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường
trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có
lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của Nhà nước cũng như của quốc tế.
Đặc điểm: trong nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp phải đứng mũi chịu
sào tất cả. Đây là hoạt động phải được xem xét cẩn thận ngay từ bước ban đầu là
nghiên cứu thông tin cho đến việc ký kết hợp đồng bởi doanh nghiệp phải tự bỏ
vốn của mình chịu mọi phí tổn giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu
kho, chi phí để tiêu thụ hàng hoá, các khoản thuế phải nộp khi doanh nghiệp tự
doanh, doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hoá
doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu, thuế mặt hàng. Thông thường, doanh
nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với bên nước ngoài còn hợp đồng mua bán trong
nước sau khi hàng về sẽ lập sau.
1.2- Nhập khẩu uỷ thác
Khái niệm: Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh
nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng
hoá nhưng lại không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác
11
cho một doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành
nhập khẩu theo yêu cầu của mình.
Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để nhập khẩu
hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí
uỷ thác.
Đặc điểm: Trong hoạt động nhập khẩu này doanh nghiệp nhận uỷ thác không
phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường
hàng nhập mà chỉ đứng ra làm đại diện bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bạn

hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay
bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì các doanh nghiệp chỉ được tính phí uỷ
thác chứ không được tính doanh thu và không chịu thuế doanh thu.
Khi nhập khẩu uỷ thác thì các doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập 2 hợp
đồng:
- Một hợp đồng ngoại
- Một hợp đồng nội uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác
1.3- Nhập khẩu liên doanh
Khái niệm: là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một
cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất
nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ
trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này
phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên lãi cùng chia, lỗ cùng chịu
Đặc điểm: so với nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp bớt chịu rủi ro hơn
bởi vì mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất
định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng tăng theo vốn góp. Việc phân
chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp; lãi lỗ tuỳ theo hai bên thoả thuận
phân chia dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên phải gánh vác.
12
Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được tính
kim ngạch nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ tính doanh số trên số
hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế doanh thu trên số hàng đó.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải thực hiện 2 hợp đồng:
- Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác
Sự phân chia trên là dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu, nếu quan tâm
đến hình thức thanh toán trong hoạt động này thì có thể thấy 2 hình thức chính là
mua bán, thanh toán bằng tiền và thanh toán bằng hàng hay còn gọi là mua bán đối
lưu. Mua bán bằng tiền là hình thức thông thường và trong phạm vi ở đây cần quan

tâm đến hình thức nhập khẩu đối lưu hay đổi hàng.
1.4- Nhập khẩu đối lưu
Khái niệm: nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là 2 loại nghiệp vụ
chủ yếu của buôn bán đối lưu, nó là một hình thức nhập khẩu gắn với xuất khẩu,
thanh toán trong hợp đồng này không phải dùng tiền mà dùng chính bằn hàng hoá.
Ở đây mục đích của nhập khẩu hàng không chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập khẩu
mà còn nhằm để xuất được hàng thu cả lãi từ hoạt động xuất.
Đặc điểm: Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến
hành cùng một lúc hoạt động xuất và nhập, do đó có thể thu lãi từ 2 hoạt động.
Hàng xuất và hàng nhập tương đương về giá trị, tính quý hiếm cân bằng về
giá. Bạn hàng bán cũng chính là bạn hàng mua.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính của kim ngạch nhập khẩu
và kim ngạch xuất khẩu, doanh số trên cả hàng nhập và hàng xuất.
Ngoài ra chia theo mục đích hàng nhập khẩu có thể phân ra nhập hàng tiêu
thụ trong nước và nhập hàng để tái xuất. Ở nước ta hiện nay chủ yếu là nhập về tiêu
dùng trong nước, nhập tái xuất ít, chưa ở mức độ cao thế nhưng trong tương lai sẽ
phát triển thông dụng.
1.5- Nhập khẩu tái xuất
13
Khái niệm: là hoạt động nhập hàng vào trong nước nhưng không phải để tiêu
thụ trong nước mà để xuất sang một nước nào đó nhằm thu lợi nhuận, những hàng
nhập này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, nhập khẩu tái xuất
luôn thu hút 3 nước tham gia: nước xuất khẩu , nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Đặc điểm: Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập 2 hợp đồng:
- Một hợp đồng nhập khẩu
- Một hợp đồng xuất khẩu
Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí ghép mối bạn hàng xuất và
nhập sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt
động.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất và nhập,

doanh số tính trên giá trị hàng xuất do đó phải chịu thuế doanh thu.
Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển
thẳng sang nước thứ 3, nhưng trả tiền thì phải luôn do người tái xuất thu từ người
nhập khẩu và trả cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi
tức về tiền hàng do thu được nhanh và trả chậm.
Trên đây đã khái quát một số hình thức nhập khẩu thông dụng ở nước ta hiện
nay, cho dù là hình thức nào thì các bước tiến hành hoạt động nhập khẩu ở doanh
nghiệp xuất nhập khẩu cũng theo một trình tự chung.
2. Các công cụ quản lý nhập khẩu của Nhà nước
Mỗi quốc gia trên thế giới sử dụng công cụ khác nhau để quản lý hoạt động
nhập khẩu, có những nước đánh thuế cao đối với nhập khẩu, có những nước lại
quản lý nhập khẩu qua ngoại tệ, qua các biện pháp phi thuế quan. Hiên nay, Việt
Nam đang áp dụng những biện pháp quản lý nhập khẩu như sau:
2.1- Thuế nhập khẩu
Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu là để góp phần vào việc bảo vệ và
phát triển sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước.
14
Có nhiều cách đánh thuế khác nhau như thuế quan tính theo đơn vị vật chất
của hàng hoá nhập hoặc thuế quan tính theo giá trị hàng hoá là mức thuế tính theo
tỷ lệ % của mức giá hàng hoá trả cho nhà nhập khẩu hay thuế quan hỗn hợp là kết
hợp của hai dạng trên.
Biểu thuế được xây dựng trên cơ sở chính sách quản lý nhập khẩu của mỗi
nước. Mức thuế tính chung cho tất của các nước theo từng mặt hàng nhưng cũng có
thể tính riêng cho từng nhóm nước. Mức thuế có thể có một nhưng cũng có thể có 2
mức: mức thông thường và ưu đãi. Thuế ưu đãi là thuế dành riêng cho nước được
hưởng quyền đãi ngộ tối huệ quốc, được hưởng mức thuế ưu đãi theo luật định.
Ở Việt Nam có 2 loại thuế sau:
- Thuế suất thông thường: là mức thuế đánh vào các hàng hoá nói chung,
không phụ thuộc vào xuất xứ của hàng hoá từ nước nào. Các nước đều dùng chung

một mức thuế.
- Thuế ưu đãi: áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu theo hiệp định thương
mại đã ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với một số nước nào đó. Trong đó có điều
khuản ưu đãi về thuế nhập cho từng mặt hàng với số lượng cụ thể. Để khuyến khích
nhập khẩu phục vụ sản xuất và xuất khẩu, luật thuế nhập khẩu còn quy định các
trường hợp được miễn giảm và hoàn thuế. Hàng nhập khẩu được xét miễn thuế
gồm:
+ Hàng nhập khẩu phục vụ cho an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học,
giáo dục, đào tạo.
+ Hàng nguyên liệu, vật tư để gia công xuất khẩu theo hợp đồng đã ký.
+ Hàng nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên
nước ngoài hợp tác liên doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác liên doanh trong các
trường hợp cần khuyến khích đầu tư theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam.
+ Hàng là quà tặng, quà biếu trong mức quy định
15
+ Những mặt hàng của công dân Việt Nam đi công tác và học tập, lao động
và hợp tác chuyên gia mang theo hoặc gửi về trong nước theo mức quy định của
Chính phủ Việt Nam
+ Hàng xuất khẩu của cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế được hưởng các
tiêu chuẩn miễn trừ do Chính phủ Việt Nam quy định phối hợp với điều ước quốc
tế mà doanh nghiệp Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
+ Thuế còn được hoàn lại cho người nhập khẩu trong trường hợp hàng là vật
tư, nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất
Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu là bảo hộ sản xuất trong nước và tạo
nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò quan trọng
trong việc bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ, mới được hình thành ở Việt Nam
chưa các khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi ở đây không phải là thuế suất mà là những biện
pháp kinh tế cơ bản, mục tiêu chính là cạnh tranh trên thị trường thế giới, thống

nhất chung với năng suất và hiệu quả cao. Thuế cần được đơn giản để mọi người
hiểu là nghĩa vụ của mình. Thuế chồng lên thuế sẽ là một yếu tố làm tăng giá, làm
giảm tính cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước.
2.2- Hạn nghạch nhập khẩu (Quota)
Hạn nghạch nhập khẩu là một công cụ phổ biến trong hàng rào phi thuế
quan. Nó được hiểu là mức quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một
mặt hàng hay một nhóm hàng được nhập khẩu từ một thị trường trong một thời
gian nhất định (thường là một năm) thông qua hình thức giấy phép. Hạn nghạch
nhập khẩu là một hình thức hạn chế về số lượng nhập khẩu đồng thời gây ảnh
hưởng đến giá nội địa của hàng hoá. Khi hạn nghạch nhập khẩu được quy định cho
một loại sản phẩm đặc biệt nào đó thì Nhà nước đưa ra một định ngạch nhập khẩu
mặt hàng nào đó trong một khoản thời gian nhất định không kể nguồn gốc hàng hoá
đó từ đâu đến. Nếu hạn nghạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường thì hàng
16
hoá đó có thể chỉ được nhập khẩu từ thị trường đã định với số lượng bao nhiêu
trong thời gian bao lâu.
Việc áp dụng hạn nghạch trong quản lý nhập khẩu nhằm
- Bảo hộ sản xuất trong nước: Về mặt này hạn nghạch nhập khẩu tương đối
giống thuế nhập khẩu. Giá hàng nội địa sẽ tăng lên do hạn nghạch nhập và nó cho
phép các nhà sản xuất trong nước thực hiện một quy mô sản xuất với hiệu quả thấp
hơn là sơ với điều kiện thương mại tự do. Đối với Chính phủ và các doanh nghiệp
trong nước việc cấp hạn nghạch nhập khẩu sẽ cho biết trước khối lượng hàng nhập
khẩu.
- Bảo đảm cam kết của Chính phủ ta với nước ngoài: những cam kết này
mang ý nghĩa chính trị và kinh tế.
Ở Việt Nam, danh mục số lượng (hoặc giá trị) các mặt hàng nhập khẩu quản
lý bằng hạn nghạch cho từng thời kỳ do Chính phủ phê duyệt trên cơ sở đề nghị của
uỷ ban kế hoạch Nhà nước duy nhất có thẩm quyền phân bổ hạn nghạch trực tiếp
cho doanh nghiệp và cũng là cơ quan có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện phân
bổ hạn nghạch đã cấp.

Người được cấp hạn nghạch nhập khẩu là các doanh nghiệp được Nhà nước
cho phép kinh doanh xuất nhập khẩu, bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Một doanh nghiệp khi xuất khẩu cần phải biết mặt hàng của mình có
nằm trong danh mục hàng nhập khẩu của nước bạn hay không, hạn nghạch quy
định cho mặt hàng đó ở mức nhập khẩu là bao nhiêu? Sự thay đổi những quy định
xin cấp hạn nghạch của nước nhập khẩu ra sao đây cũng là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược với các nhà xuất nhập khẩu.
2.3- Giấy phép nhập khẩu
Giấy phép nhập khẩu là một công cụ để quản lý nhập khẩu khác với hạn
nghạch giấy phép nhập khẩu được áp dụng rộng rãi hơn.
Sau đây là danh sách một số hàng hoá khi đi qua cửa khẩu Việt Nam đều
phải có giấy phép nhập khẩu.
17
- Hàng nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương
- Hàng nhập khẩu theo các dự án đầu tư chuyển giao công nghệ của nước
ngoài
- Hàng hội chợ triển lãm hàng quảng cáo
- Vật tư nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu để gia công nhập khẩu
- Hàng nhập khẩu theo con đường viện trợ và vay nợ
Có hai loại giấy phép thường gặp:
- Giấy phép tự động: khi người nhập khẩu xin cấp giấy phép nhập khẩu thì sẽ
được cấp ngay không đòi hỏi gì cả.
- Giấy phép không tự động: đối với là giấy phép này muốn nhập khẩu phải
có hạn nghạch nhập khẩu và bị ràng buộc bởi các hạn chế khác về nhập khẩu.
Người nhập khẩu am hiểu nâng cao quy định của Nhà nước và việc cấp giấy phép
và những phí tổn co liên quan đến việc xin giấy phép để hoạt động kinh doanh
thuận lợi và có hiệu quả cao.
2.4- Quản lý ngoại tệ
Đối với những nước thiếu ngoại tệ như nước ta, áp dụng những biện pháp
kiểm soát ngoại tệ bằng cách điều tiết nhập khẩu một số loại sản phẩm thông qua

việc phân phối ngoại tệ để nhập khẩu các hàng hoá đó qua ngân hàng quốc gia.
Nhiều nước còn quy định “hạn nghạch ngoại tệ” trên cơ sở hạn nghạch nhập khẩu
được cấp. Người nhập khẩu có thể ký hợp đồng mua hàng ở nước ngoài nhưng phải
được quyền sử dụng ngoại tệ để thanh toán cho khách hàng theo quy chế quản lý
ngoại tệ ở nước mình.
18
III. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU.
Quy trình nhập khẩu diễn ra dưới sơ đồ sau:

Hoạt động nhập khẩu có những nhiệm vụ phức tạp hơn nhiều so với hoạt
động kinh doanh nội địa do có sự khác biệt về chủ thể và khoảng cách địa lý. Vì
vậy, để thực hiện hoạt động nhập khẩu có hiệu quả thì doanh nghiệp xuất nhập
khẩu cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm. Mỗi
bước, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu, thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt trong
Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Xin giấy phép nhập khẩu
Mở L/C khi bên bán báo
Đôn đốc bên bàn giao hàng
Thuê tàu
Làm thủ tục hải quan
Nhận hàng
Mua bảo hiểm hàng hoá
Kiểm tra hàng hoá
Giao cho đơn vị đặt hàng
Làm thủ tục thanh toán
Khiếu nại (nếu có)
19
mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt lợi thế nhằm đảm bảo cho hoạt động đạt
hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ, kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
1. Nghiên cứu thị trường

Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản
xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó xuất hiện khái
niệm về thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên, rất cần thiết đối
với bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, không loại trừ doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu. Nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu gồm các công đoạn sau:
1.1- Nhận biết sản phẩm nhập khẩu
Mục đích của việc nhận biết sản phẩm nhập khẩu là lựa chọn được mặt hàng
kinh doanh có lợi nhất. Muốn vậy, doanh nghiệp phải trả lời được các câu hỏi sau:
- Thị trường trong nước đang cần những mặt hàng gì? Các doanh
nghiệp cần xác định được mặt hàng cùng với nhãn hiệu, mẫu mã, phẩm chất, giá cả
và số lượng hàng hoá đó.
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó trong nước ra sao? Mỗi loại mặt hàng
đều có thói quen tiêu dùng riêng, điều đó thể hiện ở thời gian tiêu dùng, thị hiếu và
quy luật biến đổi của quan hệ cung cầu về mặt hàng đó trên thị trường.
- Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Bất cứ một sản
phẩm nào cũng đều có chu kỳ sống riêng. Nắm được mặt hàng mà doanh nghiệp dự
tính kinh doanh đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống sẽ xác định được các biện
pháp cần thiết để nâng cao doanh số bán hàng và thu được nhiều lợi nhuận.
- Tình hình sản xuất của mặt hàng đó trong nước như thế nào? Muốn
kinh doanh có hiệu quả thì bất kể doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến quan
hệ cung cầu về mặt hàng kinh doanh. Vấn đề mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu cần xem xét ở đây là: khả năng sản xuất, thời vụ sản xuất, tốc độ phát
triển của mặt hàng đó trong nước. Việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu không chỉ
dựa vào những tính toán, ước tính và những biểu hiện cụ thể của hàng hoá mà còn
20
dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu thị trường để dự đoán các xu hướng
biến động của giá cả thị trường trong và ngoài nước, khả năng thương lượng để đạt
tới điều kiện mua bán ưu thế hơn.
1.2- Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng

Đối với người nhập khẩu, việc tìm hiểu dung lượng thị trường hàng hoá cần
nhập là rất quan trọng. Có thể hiểu dung lượng thị trường của một hàng hoá là một
khối hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định (thế giới, khu
vực, quốc gia) trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Nghiên cứu dung
lượng thị trường cần xác định nhu cầu thật của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu
hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm, các khu vực trên từng lĩnh vực
sản xuất và tiêu dùng. Cùng với việc xác định nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả
năng cung cấp của thị trường, bao gồm việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng
sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán.
Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi tuỳ theo diễn biến của
tình hình tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Có
thể chia làm 3 loại nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường căn cứ vào thời
gian ảnh hưởng của chúng:
+ Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chất chu
kỳ. Đó là sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa và tính chất thời vụ
trong sản xuất lưu thông và phân phối hàng hoá. Sự vận động của tình hình kinh tế
TBCN có tính chất quan trọng ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá trên thế
giới. Có thể nói như vậy vì hầu hết hàng hoá trên thế giới đều được sản xuất ở các
nước TBCN. Nắm vững tình hình kinh tế TBCN đối với thị trường hàng hoá có ý
nghĩa quan trọng trong việc vận dụng kết quả nghiên cứu về thị trường và giá cả để
lựa chọn thời gian giao dịch nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
+ Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị trường: bao
gồm những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách của Nhà nước và
21
các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu tập quán của người tiêu dùng, ảnh hưởng
của khả năng sản xuất hàng hoá thay thế hoặc bổ sung.
+ Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường như hiện
tượng gây đầu cơ đột biến về cung cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên tai, hạn hán,
động đất và các yếu tố chính trị xã hội.
Nắm được dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó giúp các

nhà kinh doanh cân nhắc để đề ra quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng chớp
thời cơ giao dịch. Cùng với việc nghiên cứu dung lượng thị trường các nhà kinh
doanh phải nắm được tình hình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ
cạnh tranh và các dấu hiệu về chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán
quốc tế để hoà nhập nhanh chóng với thị trường.
1.3- Nghiên cứu giá cả trên thị trường quốc tế.
Trên thị trường thế giới, giá cả chẳng những phản ánh mà còn điều tiết mối
quan hệ cung cầu hàng hoá. việc xác định đúng đắn giá hàng hoá trong xuất nhập
khẩu có một ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả thương mại quốc tế.
Giá cả trong hoạt động xuất nhập khẩu là giá cả quốc tế. Giá quốc tế có tính
chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Giá cả đó
phải là giá cả giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện
đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được. Dự đoán xu hướng
biến động của giá cả và các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng ấy. Xu hướng biến
động của giá cả hàng hoá trên thế giới rất phức tạp, có lúc theo chiều hướng tăng,
có lúc theo chiều hướng giảm, có biệt có những lúc giá cả hàng hoá có xu hướng ổn
định nhưng xu hướng này chỉ là tạm thời. Để có thể dự đoán được xu hướng biến
động trên thị trường thế giới trước hết phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán
về tình hình thị trường loại hàng hoá đó, đánh giá đúng ảnh hưởng của nhân tố tác
động đến xu hướng vận động của giá cả hàng hoá.
Các nhân tố tác động đến giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới có rất nhiều
và có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau. Khi dự đoán xu hướng biến động
22
của giá cả trong thời gian dài cần phân tích đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tác
động lâu dài như: chu kỳ, giá trị khi dự đoán xu hướng biến động của giá cả trong
thời gian ngắn cần phân tích đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của những biến đổi về
cung cầu và các nhân tố mang tính tạm thời như: thời vụ, nhân tố tự nhiên.
2. Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu
Sau khi tiến hành công việc nghiên cứu thị trường quốc tế, cần lựa chọn hình
thức giao dịch thích hợp trước khi tiến hành kí kết hợp đồng. Trong hoạt động mua

bán quốc tế có một số phương thức giao dịch chủ yếu sau:
2.1- Giao dịch thông thường
Giao dịch thông thường là giao dịch có thể thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc,
trong đó nười bán và người mua trực tiếp quan hệ với nhau bằng cách gặp mặt hoặc
qua thư từ, điện tín để bàn bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch.
Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nhiên, không có sự ràng buộc với
lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết phải gắn với việc bán. Phương thức
giao dịch này có ưu điểm là hai bên có thể thảo luận trực tiếp dễ dàng, giảm chi phí
trung gian và dễ thâm nhập thị trường. Tuy nhiên, nó cũng có phần hạn chế với thị
trường trong nước.
2.2- Giao dịch qua trung gian
Trong hình thức giao dịch này có người thứ ba làm trung gian giữa người
bán và người mua. Người trung gian phổ biến trên thị trường là các đại lý và môi
giới.
Đại lý: Là các tư nhân hay pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo
sự uỷ thác của người uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác với các đại lý là quan hệ
hợp đồng đại lý. Căn cứ vào quyền hạn được uỷ thác người ta chia ra làm ba loại
đại lý, đó là: đại lý toàn quyền, tổng đại lý, đại lý đặc biệt.
Sử dụng đại lý và môi giới có nhiều thuận lợi như: doanh nghiệp sẽ có những
thông tin chính xác về thị trường, giảm bớt chi phí nghiên cứu thị trường. Song
23
hình thức này có nhược điểm là gây ra sự mất liên lạc trực tiếp với khách hàng và
lợi nhuận bị chia sẻ.
2.3- Giao dịch tại hội chợ triển lãm
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào thời gian nhất định, tại
đó người bán trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết
hợp đồng.
Triển lãm là việc trưng bày, giới thiệu những thành tựu của một ngành, một
nền kinh tế nào đó. Ngày nay, triển lãm không chỉ là nơi trưng bày mà còn là nơi
thương nhân hoặc tổ chức kinh doanh tiếp xúc, giao dịch, ký kết hợp đồng.

Trên đây là một số phương thức giao dich, buôn bán chủ yếu trên thị trường
quốc tế, căn cứ vào mặt hàng nhập khẩu, đối tượng giao dịch, thời gian giao dịch và
khả năng của nhà kinh doanh để lựa chọn phương thức giao dịch cho phù hợp.
3. Đàm phán, ký kết hợp đồng
3.1- Đàm phán
Trong kinh doanh quốc tế, có ba hình thức cơ bản đó là: đàm phán qua thư
tín, qua điện tín và gặp gỡ trực tiếp. Mỗi một hình thức đều có những ưu điểm,
nhược điểm riêng. Vì vậy, phải tuỳ vào từng điều kiện cụ thể của các doanh nghiệp,
tuỳ vào bạn hàng để lựa chọn hình thức đàm phán cho thích hợp.
Quá trình đàm phán bao gồm những bước sau:
- Hỏi giá: Là việc bên mua đề nghị bên bán cho biết những điều kiện
của mặt hàng, chất lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán, thời
hạn và đồng tiền thanh toán.
- Báo giá: Là việc người bán thông báo trở lại người mua và người
mua đã nhận được có nghĩa là có sự cam kết của người bán về việc sẽ bán hàng.
- Hoàn giá: Bên mua không chấp nhận báo giá trên và đã đưa ra đề
nghị mới.
- Chấp nhận giá: Là đồng ý mọi điều kiện về chào hàng mà bên kia
đưa ra, khi đó hợp đồng được thực hiện.
24
- Xác nhận giá: bên mua và bên bán sau khi đã thống nhất thoả mãn
lợi ích sẽ lập hai biên bản xác nhận, bên lập ký trước và gửi cho bên kia ký xong
giữ lại một bản và gửi trả lại một bản.
3.2- Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Sau khi các bên đã tiến hành đàm phán có kết quả thì việc tiếp theo là ký kết
hợp đồng ngoại thương.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận của những bên đương sự có
quốc tịch khác nhau, trong đó bên bán có nghãi vụ phải chuyển vào quyền sở hữu
của bên mua một khối lượng hàng hoá nhất định, bên mua có trách nhiệm trả tiền
và nhận hàng.

Phương pháp ký kết hợp đồng:
Tuỳ từng điều kiện của hợp đồng kinh tế ngoại thương có thể ký kết bằng
các hình thức sau:
- Hai bên ký vào một bản hợp đồng mua bán ngoại thương ( bằng một văn
bản )
- Người bán xác nhận (bằng văn bản) là người mua đã đồng ý với các điều
khoản của thư chào hàng tự do, nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết.
- Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua
- Trao đổi bằng thư xác nhận những thoả thuận bằng đơn đặt hàng từ trước
đây của hai bên.
Trước khi ký kết hợp đồng cần có sự thống nhất với nhau tất cả mọi điều
khoản cần thiết. Khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một điều khoản nào đó là khó
khăn và bất lợi. Văn bản thông thường do một bên soạn thảo, trước khi ký bên mua
phải xem xét thật kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu với những thoả thuận đã đạt được
trong đàm phán. Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sáng sủa, phản ánh đúng nội
dung đã thoả thuận, tránh mập mờ gây khó hiểu. Những điều khoản của hợp đồng
phải được xuất phát từ những đặc điểm của hàng hoá định mua bán, từ điều kiện
hoàn cảnh tự nhiên, xã hội và quan hệ giữa hai bên. Trong hợp đồng không có
25

×