Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

một số vấn đề chủ yếu cần giải quyết để chuyển tổng công ty bưu chính viễn thông việt nam thành tập đoàn kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.5 KB, 100 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo và Thầy giáo hướng dẫn đã giúp đỡ để
em hoàn thành bản thảo chuyên đề tốt nghiệp và các cô chú trong ban kế
hoạch Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam đã tạo điều kiện tốt
nhất cho em làm tốt chuyên đề này.
Sinh viên
Tài liệu được tải từ website
1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 91/TTg ngày 7.3.1994 về
việc thí điểm thành lập Tập đoàn kinh tế, Chỉ thị số 20/1998/CT/TTg ngày
21.4.1998 về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, Chỉ thị số
15/1999/CT/TTg ngày 26.5.1999 về việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
các Tổng công ty Nhà nước Đó là những cơ sở pháp lý quan trọng để Tổng
công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam chuyển thành Tập đoàn kinh tế. Tuy
nhiên để tiến tới tập đoàn kinh tế thì phải có những bước đi thích hợp để đạt
được hiệu quả cao nhất.
Trên thế giới, quá trình nhất thể hoá, toàn cầu hoá, đặc biệt là quá trình sáp
nhập và tái cơ cấu diễn ra mạnh mẽ tại nhiều Tập đoàn, Công ty viễn thông. Về
mặt vĩ mô, việc tự do hoá trong lĩnh vực viễn thông và sức ép mở cửa thị trường
viễn thông khi tham gia APEC, WTO cũng là một xu thế lớn ảnh hưởng đến
Tổng công ty. Do đó Tổng công ty phải có những thay đổi mới để phù hợp với
cơ chế đó.
Về mặt công nghệ: Sự kết hợp mạnh mẽ giữa viễn thông – tin học, công
nghệ thông tin – truyền thông đã và sẽ làm thay đổi phương thức và phạm vi
kinh doanh của nhiều doanh nghiệp viễn thông và yêu cầu thay đổi phù hợp với
Tổng công ty.
Về cơ cấu tổ chức và cơ cấu quản lý của Tổng công ty: có một số tồn tại
phát sinh trong mô hình đang áp dụng, đòi hỏi cần có sự đổi mới để phát triển
trong giai đoạn cạnh tranh và hội nhập.


Chính vì những lý do trên mà đề tài: Một số vấn đề chủ yếu cần giải quyết
để chuyển Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam thành Tập đoàn kinh tế
đã được lựa chọn và triển khai nghiên cứu.
2. Mục tiêu, yêu cầu
Tài liệu được tải từ website
2
- Làm rõ luận cứ khoa học (cả lý luận và thực tiễn) của việc chuyển Tổng
công ty Bưu chính Viễn thông thành Tập đoàn kinh tế.
- Đề xuất mô hình Tập đoàn và các giải pháp chủ yếu để chuyển Tổng
công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam thành Tập đoàn kinh tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi mô hình tổ chức hiện đang áp dụng
tại Tổng công ty và một số vấn đề chủ yếu về tổ chức quản lý cần giải quuyết để
chuyển Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam thành Tập đoàn kinh tế.
Tài liệu được tải từ website
3
Tài liệu được tải từ website
4
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1 ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VỀ SỰ
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TẬP ĐOẠN KINH TẾ
1.1.1 Quan niệm về Tập đoàn kinh tế và đặc điểm của tập đoàn kinh
tế
Trên thế giới, Tập đoàn kinh tế được tổ chức theo những mô hình không
giống nhau và mang những tên gọi khác nhau như: Cartel, Group, Sydicate,
Consortium, Combinat, Holding Company, Intercoporation, Truts,
Conglomerte tuy được định nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung khái niệm này
được hiểu là sự liên kết giữa nhiều chủ thể kinh tế có chung lợi ích, có mối quan
hệ sở hữu và kế ước với nhau, cùng tiến hành hoạt động kinh doanh trong một

hoăch nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực kinh tế. Xét về bản chất, đó là một tổ
chức kinh tế vừa mang tính chất của một Doanh nghiệp (kinh doanh vì mục tiêu
sinh lợi), vừa mang đặc trưng của một Hiệp hội kinh tế (phục vụ mục tiêu chung
của các thành viên).
Đặc điểm khác nhau chủ yếu trong quan niệm về Tập đoàn kinh tế đó là:
Tư cách pháp nhân của Tập đoàn kinh tế. Có quan niện cho rằng Tập đoạn kinh
tế là pháp nhân kinh tế do Nhà nước thành lập gồm nhiều doanh nghiệp thành
viên có quan hệ với nhau về sản xuất, kinh doanh và tài chính trên quy mô lớn. Ở
một số nước, Tập đoàn kinh tế không phải là một định chế pháp lý, tuy Tập đoàn
kinh tế bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, hoạt động trong một hoặc nhiều
ngành khác nhau, trên một hay nhiều nước. Điều đó có nghĩa Tập đoạn kinh tế là
một cơ cấu tổ chức, một loại hình tổ chức kinh tế.
Tuy có sự khác nhau nhất định về quan niệm và tên gọi, nhưng Tập đoàn
kinh tế có một số đặc điểm sau:
Tài liệu được tải từ website
5
- Có quy mô lớn về vốn, doanh thu và lao động.
- Có số lượng lớn đơn vị thành viên.
- Có thị trường rộng lớn trong và ngoài nước, hoạt động chuyên ngành
hoặc đa ngành.
- Sở hữu vốn cổ phần gồm nhiều chủ nhưng có một công ty mẹ đóng vai
trò chi phối đối với các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển.
Công ty mẹ đứng ra chủ trì phối hợp các đơn vị thành viên thực hiện những hoạt
động vì lợi ích chung, từ việc nghiên cứu thị trường, nghiên cứu phát triển, tổ
chức các kênh phân phối, cho đến khâu mở văn phòng đại diện ở các nước khác
nhau, tổ chức việc điều hoà, huy động vốn, phân công sản xuất
- Tập đoàn kinh tế chỉ nằm một số khâu chủ yếu như nguồn vốn, đào tạo
nhân sự, xây dựng chiến lược phát triển, còn mỗi doanh nghiệp thành viên vând
giữ vai trò độc lập tương đối, với tư cách là một pháp nhân kinh tế. Nói cách
khác, Tập đoàn kinh tế dù tồn tại dưới dạng nào đi nữa nhưng không bao giờ là

một pháp nhân kinh tế độc lập.
- Việc tham gia Tập đoàn kinh tế dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Về mặt
kinh tế, việc tham gia nhập Tập đoàn kinh tế của một chủ thể kinh tế có thể vì
sức ép cạnh tranh hoặc lý do nào khác để có điều kiện tồn tại và phát triển.
Nhưng về phương tiện pháp lý, quá trình này diễn ra trên cơ sở một hợp đồng
liên kết tự nguyện, không áp đặt. Chính vì vậy mà về mặt tổ chức, Tập đoàn kinh
tế mang tính chất của một Hiệp hội.
1.1.2 Các hình thức chủ yếu của Tập đoàn kinh tế
Về hình thức sở hữu và tên gọi trong thực tế, các Tập đoàn kinh tế có các
hình thức chủ yếu sau:
1.1.2.1 Cartel: Đây là loại hình Tập đoàn kinh tế giữa các công ty trong
một ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Các công ty này có mức độ sản xuất
Tài liệu được tải từ website
6
khác nhau hoặc thương mại, dịch vụ giống nhau thường xuyên cạnh tranh với
nhau nhưng không thắng nổi nhau, cuối cùng chúng đi đến ký kết hợp đồng với
nhau hoặc thoả thuận kinh tế nhằm mục đích hạn chế sự cạnh tranh. Trong
Cartel, các công ty vẫn giữ nguyên tính độc lập về mặt pháp lý còn tính độc lập
về kinh tế được điều hành bằng hợp đồng kinh tế. Đối tượng của thoả thuận kinh
tế có thể là: thống nhất về giá cả, phân chia thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguyên
liệu, thống nhất về chuẩn mực, kiểu loại, kích cỡ, chuyên môn hoá sản phẩm.
1.1.2.2 Syrdicate: Thực chất đây là một dạng đặc biệt của Cartel. Điểm
khác biệt căn bản so với Cartel là trong Tập đoàn dạng Syrdicate có một văn
phòng thương mại chung được thành lập do một ban quản trị chung điều hành và
tất cả các công ty phải tiêu thụ hàng hoá của họ qua kênh của văn phòng tiêu thụ
này. Như vậy, các công ty trong Syrdicate vẫn giữ nguyên tính độc lập về sản
xuất nhưng hoàn toàn mất tính độc lập về thương mại.
1.1.2.3 Conglomerate: Đây là loại Tập đoàn đa ngành, đa lĩnh vực. Các
công ty thành viên ít có mối quan hệ công nghệ sản xuất gần gũi với nhau, thậm
chí không có mối quan hệ nào về mặt công nghệ sản xuất. Mối quan hệ ở đây

chủ yếu về mặt tài chính và hành chính. Conglomerate được hình thành bằng
cách thu hút cổ phần của những công ty có lợi nhuận cao nhất, đặc biệt là những
công ty đang ở vào giai đoạn phát triển cao. Trong Conglomerate không có một
ngành nghề nào là chủ chốt. Thông qua hoạt động mua bán chứng khoán trên thị
trường, cơ cấu sản xuất của Conglomerate có xu hướng chuyển đến những ngành
nghề có lợi nhuận cao.
1.1.2.4 Concern: Đây là hình thức Tập đoàn phổ biến nhất hiện nay.
Concern không có tư cách pháp nhân. Các công ty thành viên Concern vẫn giữ
nguyên tính độc lập về mặt pháp lý. Mối quan hệ giữa những thành viên trong
Concern dựa trên cơ sở những thoả thuận về lợi ích chung. Đó là những thoả
thuận về phát minh sáng chế, nghiên cứu khoa học và công nghệ, hợp tác sản
Tài liệu được tải từ website
7
xuất kinh doanh chặt chẽ và có hệ thống tài chính chung. Thông thường, trong
Concern người ta thành lập Holding Company có vai trò như “công ty mẹ” điều
hành hoạt động của Concern. Công ty này chỉ quan tâm đến lĩnh vực tài chính
của Tập đoàn mà không quan tâm đến những lĩnh vực sản xuất. Thực chất nó là
một công ty cổ phần nắm giữ cổ phần vốn đóng góp của các công ty thành viên.
1.1.2.5 Các tập đoàn xuyên quốc gia: Trong những thập kỷ gần đây, việc
hợp nhất các công ty đã vượt qua ngoài biên giới quốc gia đã dẫn đến hình thành
các Tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia. Đó là sản phẩm của sự liên minh giữa các
nhà tư bản có thế lực nhất. Các Tập đoàn này có quy mô mang tầm cỡ quốc tế,
có một hệ thống chi nhánh dày đặc ở nước ngoài với mục đích nâng cao tỷ suất
lợi nhuận thông qua việc bành trướng quốc tế. Cơ cấu tổ chức gồm 2 bộ phận cơ
bản, đó là “công ty mẹ” thuộc sở hữu của các nhà tư bản nước chủ nhà và một hệ
thống các công ty, chi nhánh ở nước ngoài. Mối quan hệ giữa công ty mẹ với
công ty chi nhánh là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về tài chính, công nghệ, kỹ
thuật. Các công ty, chi nhánh có thể mang hình thức 100% vốn nước ngoài, cũng
có thể mang hình thức công ty hỗn hợpp, công ty liên doanh với hình thức góp
vốn cổ phần. Dù những hình thức chi nhánh ở nước ngoài như thế nào đi nữa và

sở hữu tư bản ở chi nhánh dù tồn tại dưới hình thức này hay hình thức khác thì
các chi nhánh đó thực chất cũng là những bộ phận của một tổ hợp, quyền kiểm
soát chủ yếu về đầu tư, sản xuất kinh doanh vẫn thuộc về những nhà tư bản nước
mẹ.
1.1.3 Tính tất yếu khách quan của sự hình thành, phát triển Tập đoàn
kinh tế và vai trò của Tập đoàn kinh tế
Sở dĩ các Tập đoàn kinh tế được hình thành, có sức sống mạnh mẽ và có
sự phát triển không ngừng như vậy bởi vì nó phù hợp với quy luật khách quan và
những xu thế phát triển của thời đại. Đó là:
Tài liệu được tải từ website
8
1.1.3.1 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất:
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ
khoa học kỹ thuật, công nghệ và liên kết kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự phát triển
sâu rộng của phân công lao động xã hội kéo theo sự liên kết kinh tế chặt chẽ, quy
mô sản xuất và tiêu thụ, sản xuất kinh doanh không còn mang tính chất manh
mún, rời rạc và sở hữu không còn là sở hữu cá thể nữa mà đã và đang đi sâu vào
xã hội hoá, phân công và sở hữu hỗn hợp. Tập đoàn kinh tế với tư cách là một
loại hình tổ chức kinh tế, tổ chức kinh doanh, tổ chức liên kết kinh tế có ý nghĩa
là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất cần phải ra đời để đáp ứng yêu cầu
và thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
1.1.3.2 Quy luật tích tụ, tập trung vốn và sản phẩm:
Mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là một cơ thể sống, một tế bào
của nền kinh tế. Mỗi doanh nghiệp tồn tại, phát triển trong cạnh tranh, do đó phải
tái sản xuất mở rộng không ngừng. Quá trình đó cũng là quá trình tích tụ, tập
trung vốn vào sản xuất. Doanh nghiệp tích luỹ vốn từ lợi nhuận đem lại và tăng
thêm vốn từ các nguồn khác (đi vay, liên doanh liên kết, góp vốn cổ phần ), nhờ
vậy vốn và khả năng sản xuất của doanh nghiệp được nâng lên. Hoặc doanh
nghiệp mạnh, lớn thôn tính, chấp nhận sự sáp nhập của các doanh nghiệp nhỏ

hơn. Do đó, vốn và khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được nâng
lên. Trong quá trình vận động khách quan như vậy, Tập đoàn kinh tế sẽ được ra
đời và phát triển.
1.1.3.3 Quy luật cạnh tranh, liên kết và tối đa hoá lợi nhuận:
Đấu tranh giành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là quy luật
hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Cuộc cạnh tranh nghiệt ngã
ấy sẽ không bao giờ chấm dứt và sẽ dẫn đến 2 xu hướng chính:
Tài liệu được tải từ website
9
- Các doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh sẽ thôn tính, hút mình
vào các doanh nghiệp bị đánh bại, do vậy trình độ tập trung hoá sản xuất và vốn
được nâng lên.
- Nếu cạnh tranh quá nhiều năm mà không phân thắng bại thì trong số các
doanh nghiệp đó sẽ có liên kết lại với nhau hoặc tìm doanh nghiệp khác để liên
kết nhằm tăng khả năng cạnh tranh hơn nữa. Quá trình liên kết giữa các doanh
nghiệp có thể diễn ra theo các hình thức sau:
+ Liên kết ngang: diễn ra giữa các công ty hoạt động trong cùng một
ngành. Tuy nhiên để chống lại xu thế độc quyền hoá, luật pháp nhiều nước
không cho phép kiểu liên kết ngang đó thông qua việc ban hành các đạo luật
chống độc quyền.
+ Liên kết dọc: đó là sự liên kết giữa các công ty trong cùng một dây
chuyền công nghệ sản xuất mà trong đó mỗi công ty đảm nhận một bộ phận hoặc
một số công đoạn nào đó. Trong Tập đoàn dạng này liên kết giữa nhiều ngành
nghề khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
+ Liên kết hỗn hợp: Trong thực tế ngày càng xuất hiện nhiều quan hệ liên
kết kiểu ngang- dọc, bao gồm rất nhiều các công ty hoạt động trong lĩnh vực
kinh tế khác nhau, ít hoặc thậm chí không có mối liên hệ kinh tế trực tiếp với
nhau. Đó là sự liên kết đa ngành, đa lĩnh vực. Như vậy, Tập đoàn kinh tế ra đời,
phát triển là sản phẩm tất yếu của quá trình cạnh tranh, liên kết để tối đa hoá lợi
nhuận.

1.1.3.4 Tiến bộ khoa học kỹ thuật – công nghệ
Yếu tố quyết định cho các doanh nghiệp thắng lợi trong cạnh tranh và đạt
được lợi nhuận cao là việc nghiên cứu và ứng dụng những tiến bộ khoa học-
công nghệ. Để đổi mới công nghệ cần phải có nhiều vốn, tiến hành trong thời
gian nhiều năm, trong khi đó rủi ro lại cao và cần có lực lượng khoa học kỹ thuật
đủ mạnh. Một doanh nghiệp nhỏ, manh mún, biệt lập không đủ sức làm được
Tài liệu được tải từ website
10
việc trên. Điều đó đòi hỏi pảhi có doanh nghiệp lớn mà Tập đoàn kinh tế là một
loại hình tiêu biểu.
1.1.3.5 Vai trò của Tập đoàn kinh tế
- Sự hình thành và phát triển của Tập đoàn kinh tế làm tăng sức mạnh kinh
tế và khả năng cạnh tranh của Tập đoàn cũng như từng đơn vị thành viên. Tập
đoàn kinh tế cho phép các nhà kinh doanh huy động nguồn lực vật chất cũng như
con người và vốn to lớn trong xã hội vào qúa trình sản xuát kinh doanh tạo ra sự
hỗ trợ trong việc cải tổ cơ cấu tổ chức sản xuất, hình thành những công ty hiện
đại, quy mô, có tiềm lực kinh tế lớn. Việc hình thành tập đoàn một mặt cho phép
hạn chế đến mức tối đa giữa các công ty thành viên, mặt khác nhờ mối liên kết
chặt chẽ giữa các công ty sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chúng thống nhất
phương hướng, chiến lược trong phát triển kinh doanh chống lại sự cạnh tranh từ
bên ngoài.
- Tập đoàn kinh tế giúp khắc phục khả năng hạn chế về vốn của từng công
ty cá biệt. Trong Tập đoàn kinh tế nguồn vốn được huy động từ các công ty
thành viên tập trung vào những công ty, những dự án có hiệu quả nhất. Nhờ có
Tập đoàn mà vốn của các công ty thành viên luôn được sử dụng vào những nơi
có hiệu quả nhất; tập trung vốn vào những dự án đầu tư tạo ra sức mạnh quyết
định cho phát triển tập đoàn. Vốn của công ty này được huy động vào công ty
khác và ngược lại đã giúp cho các công ty liên kết chặt chẽ với nhau hơn, quan
tâm đến hiệu quả nhiều hơn và giúp nhau phát huy hiệu quả nguồn vốn của từng
công ty và của cả Tập đoàn.

- Thành lập Tập đoàn kinh tế còn là giải pháp hữu hiệu, tích cực cho việc
đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất
kinh doanh của công ty thành viên vì hoạt động nghiên cứu ứng dụng khoa học
công nghệ mới đòi hỏi sự hợp tác của đội ngũ cán bộ nghiên cứu. Chỉ có trên cơ
Tài liệu được tải từ website
11
sở liên kết các công ty lại với nhau mới tạo ra được tiềm năng nghiên cứu khoa
học to lớn đó.
1.1.4 Phân biệt giữa Tổng công ty và Tập đoàn kinh tế
1.4.1 Về tư cách pháp nhân:
Tổng công ty theo mô hình Tập đoàn kinh tế theo quyết định 91/TTg là
pháp nhân kinh tế do Nhà nước thành lập do nhiều doanh nghiệp thành viên có
quan hệ với nhau về tài chính và các dịch vụ liên quan có quy mô tương đối lớn.
Trong kho đó Tập đoàn kinh tế được định nghĩa như tổ hợp (hay tập hợp các tổ
chức sản xuất kinh doanh, sản xuất và cung ứng một hoặc nhiều loại sản phẩm ở
trong và ngoài nước, nhưng đặt dưới sự chỉ đạo và kiểm soát của một trung tâm
là “công ty mẹ”. Về mặt pháp lý, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc tập đoàn
có thể là chi nhánh thuộc sở hữu hoàn toàn của công ty mẹ, hoặc công ty có tư
cách pháp nhân nhưng công ty mẹ phải nắm giữ cổ phần có khả năng khống chế.
Tổng công ty được coi là một pháp nhân kinh tế, các đơn vị thành viên có
mức độ độc lập khác nhau. Tập đoàn kinh tế có phải là một pháp nhân kinh tế
hay không? Đó là một vấn đề chưa được làm rõ. Có quan niệm cho rằng, Tập
đoàn kinh tế là một chủ thể pháp lý; cũng có quan điểm khẳng định “Tập đoàn
kinh tế là một khái niệm thể hiện một hình thức hay cơ cấu tổ chức, hơn là một
chủ thể pháp lý”.
1.1.4.2 Về sở hữu:
Tổng công ty theo Quyết định 91/TTg là tập hợp các doanh nghiệp đều
thuộc sở hữu Nhà nước. Bởi vậy, Nhà nước (người chủ sở hữu) có toàn quyền
với việc thành lập, quản lý Tổng công ty, bao gồm cả những vấn đề nhân sự của
bộ máy quản lý. Trong việc thành lập, việc sử dụng các biện pháp tổ chức hành

chính để đưa các doanh nghiệp độc lập vào Tổng công ty là tất yếu, cần thiết và
có khả năng thực hiện. Thông thường Tập đoàn kinh tế có sở hữu đa dạng, đó là
sự tập hợp các chủ sở hữu có liên quan đến con đường hình thành, phương thức
Tài liệu được tải từ website
12
tổ chức quản lý, điều hành Tập đoàn kinh tế. Tự mở rộng và bành trướng; thôn
tính và thâm nhập; tự nguyện liên kết là ba con đường hình thành Tập đoàn kinh
tế thường được áp dụng xen kẽ với nhau. Có thể khẳng định rằng tính qúa độ
của Tổng công ty trong bước chuyển tới Tập đoàn kinh tế là ở điểm này: Bước
đầu Nhà nước tập hợp các doanh nghiệp nhà nước để hình thành các tổ chức
kinh tế mạnh nhằm đảm bảo những cân đối lớn của nền kinh tế. Trong quá trình
hoạt động cùng với sự chuyển dịch nền kinh tế sang cơ chế thị trường, sự đa
dạng sở hữu sẽ được thiết lập nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đẩy nhanh
tốc độ phát triển. Cũng cần khẳng định rằng độ hấp dẫn ấy cũng tuỳ thuộc vào
hiệu quả hoạt động, triển vọng phát triển của Tổng công ty. Nếu không đạt được
điều này sẽ không có độ hấp dẫn nào cả. Khi đã có độ hấp dẫn, các doanh nghiệp
khác sẽ tự nguyện tham gia.
1.1.4.3 Về lĩnh vực hoạt động:
- Tổng công ty theo quyết định 91/TTg có thể hoạt động kinh doanh đa
ngành song nhất thiết phải có định hướng ngành chủ đạo. Trên thực tế, các Tổng
công ty lớn được hình thành ở nước ta là kinh doanh đơn ngành. Các hoạt động
kinh doanh có thể diễn ra dưới nhiều sắc thái khác nhau nhưng đều nằm gọn
trong phạm vi của ngành đó. Tên gọi của Tổng công ty thường trùng với tên gọi
của ngành kinh doanh. Quy định trên đây phù hợp với điều kiện thực tế thời gian
qua ở nước ta: tập hợp các doanh nghiệp cùng ngành và các doanh nghiệp phù
trợ; hạn chế sự tuỳ tiện trong phát triển kinh doanh.
- Tập đoàn kinh tế có nhiều loại, nhưng xét theo lĩnh vực kinh doanh, có
thể chia thành 2 loại:
+ Tập hợp các doanh nghiệp liên kết theo chiều dọc.
+ Tập hợp các doanh nghiệp kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau.

Nhưng đặc trưng lớn nhất của Tập đoàn kinh tế, đặc biệt là giai đoạn
trưởng thành là sự đa dạng của lĩnh vực kinh doanh. Bởi vậy có thể coi tính đơn
Tài liệu được tải từ website
13
ngành của các Tổng công ty ở nước ta hiện nay là sự khởi đầu của Tập đoàn kinh
tế mà thôi.
1.1.4.4 Về cơ cấu tổ chức quản lý
Về nguyên tắc và ở những khía cạnh chung nhất, Tổng công ty và Tập
đoàn kinh tế có những nét tương đồng về cơ cấu tổ chức quản lý: Hội đồng quản
trị, Ban điều hành, Ban kiểm soát. Đương nhiên có sự khác biệt trong cơ cấu tổ
chức quản lý, các mối quan hệ quản lý là không tránh khỏi. Ngay trong cùng
laọi hình Tổng công ty hay Tập đoàn kinh tế cũng có sự khác biệt ấy. Nhận biết
được sự tương đồng và khác biệt giữa Tổng công ty của nước ta hiện nay với
Tập đoàn kinh tế mà chúng ta sẽ tiến tới có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần tạo
nên sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương, xác định nội dung công việc cụ
thể cần tiến hành cho phù hợp với giai đoạn quá độ và hướng đích cần phải đi tới
(về mô hình tổ chức mà chúng ta sẽ tiến tới có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần
tạo nên sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương, xác định nội dung công
việc cụ thể cần tiến hành cho phù hợp với giai đoạn quá độ và hướng đích cần
phải đi tới (về mô hình tổ chức). Tập đoàn kinh tế là tổ hợp các công ty trong
một ngành hay những ngành khác nhau trong phạm vi một nước hay nhiều nước,
trong đó có một “công ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các
“công ty con” về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Tập đoàn kinh tế là một
cơ cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh vừa có chức năng liên kết kinh tế
nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi
nhuận.
1.2 GIỚI THIỆU MỘT SỐ TẬP ĐOÀN KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI
1.2.1 Giới thiệu một số Tập đoàn kinh tế nói chung và một số Tập
đoàn Viễn thông trên thế giới
1.2.1.1 Một số Tập đoàn Viễn thông trên thế giới

Tài liệu được tải từ website
14
Việc nghiên cứu các mô hình của các Tập đoàn viễn thông trên thế giới
cần được xem xét trong quá trình phát triển của nó, tức là các mô hình này mang
tính động cao. Các mô hình nghiên cứu hiện vẫn đang biến đổi, đặc biệt là việc
sáp nhập và liên kết ngày càng trở thành một trào lưu mạnh mẽ trên thế giới.
Liên kết ngày nay đã trở thành động lực phát triển mạnh mẽ nhất. Một số
liên minh được thành lập giữa các hãng viễn thông lớn trên thế giới. Ví dụ như
liên minh Global One gồm ba nhà cung cấp: US.Sprint là nhà cung cấp dịch vụ
viễn thông quốc tế, giải pháp dữ liệu lớn ở Mỹ, France Telecom là nhà cung cấp
dịch vụ viễn thông lớn nhất ở Pháp và Deutsche Telekom ở Đức. Việc liên kết
này sẽ góp phần giúp cho việc bổ sung thị trường của nhau, ví dụ như các hãng
của Mỹ sẽ tìm kiếm khả năng mở rộng thị trường ở châu Âu và ngược lại. Việc
liên kết cũng tạo ra khả năng cung cấp các giải pháp toàn bộ cho khách hàng. Vì
là ngành phát triển nhanh nên yêu cầu của khách hàng ngày càng cao hơn và một
hãng viễn thông sẽ khó khăn hơn trong việc cung cấp giải pháp cho khách hàng,
đặc biệt là khi có sự hạn hẹp của thị trường.
Sáp nhập: là một hình thức cao hơn và páht triển hơn của việc liên kết.
Vấn đề cơ bản là nó tạo ra một pháp nhân lớn hơn, khả năng toàn cầu cao hơn.
Các hãng sáp nhập với nhau ngoài khả năng mở rộng thị trường, cung cấp giải
pháp tốt hơn như ở trên sẽ tiết kiệm chi phí đặc biệt là chi phí nghiên cứu phát
triển và chi phí tổ chức mạng lưới phân phối, nâng cao uy tín và khả năng cạnh
tranh dẫn đến giá cổ phiếu tăng. Việc sáp nhập đặc biệt là các công ty độc lập cỡ
vừa, dần trở thành một trào lưu do tính cạnh tranh cao nên số lượng các công ty
nhất thiết phải giảm đi, các công ty nhỏ không có đủ thị phần để duy trì hoạt
động. Vấn đề sáp nhập có sự khác biệt cơ bản nhất với vấn đề liên kết là có sự
đầu tư phân chia lại cổ phần giữa các tập đoàn, thực chất là mua lại hoặc đầu tư
chéo.
Tài liệu được tải từ website
15

Mô hình Tập đoàn viễn thông của một số nước trên thế giới được nghiên
cứu chủ yếu gồm:
- Deutsche Telekom (Đức)
- AT & T (Mỹ)
- Telstra (Australia)
- Unicom – Liantong ( Trung quốc)
- Các Tập đoàn này đều có một đặc điểm chung sau:
* Kinh doanh đơn ngành: Các Tập đoàn này đều chủ yếu kinh doanh dịch
vụ viễn thông. Đây là điểm khác biệt cơ bản đối với Tổng công ty Bưu chính
Viễn thông Việt Nam thể hiện ở việc tổng công ty ngoài việc kinh doanh dịch vụ
viễn thông còn có dịch vụ bưu chính và công nghiệp sản xuất thiết bị phục vụ
mạng lưới. Các Tập đoàn này đã tiến hành tách dịch vụ bưu chính ra khỏi viễn
thông và tách việc sản xuất công nghiệp ra khỏi dịch vụ khai thác mạng. Điển
hình là Tập đoàn AT&T trước kia là một tập đoàn lớn nhất thế giới bao gồm cả
khai thác dịch vụ và sản xuất thiết bị cung cấp trong nội bộ tập đoàn. Tuy nhiên
năm 1994 hãng này đã tách làm đôi gồm AT&T vẫn tiếp tục cung cấp dịch vụ
viễn thông tại Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới và hãng LUCENT
Technologies chuyên sản xuất thiết bị viễn thông cung cấp cho mạng. Hãng sản
xuất nàu cũng kế thừa các cơ sở nghiên cứu phát triển để thực hiện các công
nghệ hiện đại nhất phục vụ sản xuất thiết bị. Việc kinh doanh đơn ngành không
có nghĩa là chỉ kinh doanh một sản phẩm đơn nhất đã tạo điều kiện cho các tập
đoàn này phát triển nhanh chóng. Do chuyên doanh một dịch vụ nên các Tập
đoàn có điều kiện tập trung nghiên cứu các nhu cầu của khách hàng để phát triển
thêm rất nhiều sản phẩm truyền thông đặc biệt là sản phẩm giá trị gia tăng được
thực hiện trên nền các sản phẩm đã có sẵn mà chỉ mất thêm ít chi phí.
Tài liệu được tải từ website
16
Tất cả các ngành kinh doanh khác nếu có đều xoay quanh nhiệm vụ chủ
yếu là phục vụ cho ngành kinh doanh chủ chốt mang tính chất cốt lõi của tập
đoàn như: nghiên cứu phát triển phần mềm, mở rộng kinh doanh dịch vụ tài

chính, trên mạng sẵn có, các dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng internet như dịch
vụ điện thoại, hội nghị truyền hình
* Nguyên lý liên kết: các Tập đoàn này đều có bộ phận tập đoàn riêng
phục vụ tất cả các dịch vụ chung của các công ty thuộc tập đoàn như: tài chính,
luật pháp, quan hệ với chính phủ, nhân lực, quan hệ công chúng, quảng cáo. Các
công ty trong tập đoàn được chia theo phạm vi địa lý hoạt động và các sản phẩm
thông tin cung cấp cho khách hàng. Các công ty thuộc tập đoàn đều là những
công ty độc lập, có tư cách pháp nhân riêng và lợi ích riêng và đều được niêm
yết trên thị trường chứng khoán theo hình thức các công ty cổ phần. Sở hữu chủ
gắn liền với quyền, lợi ích và trách nhiệm là chất keo dính các đơn vị trong tập
đoàn.
Qua việc phân tích trên đây ta thấy mô hình tổ chức của các Tập đoàn viễn
thông trên thế giới tuy có một số điểm khác nhau nhưng đang dần trở nên thống
nhất. Điểm này càng chứng tỏ vấn đề hội nhập kinh tế thế giới của các doanh
nghiệp viễn thông phải đảm bảo tính cạnh tranh toàn cầu của một dịch vụ mang
tính cộng đồng cao.
1.2.1.2 Tập đoàn kinh tế SAMSUNG:
Qua nghiên cứu có thể rút ra một số nhận xét từ mô hình Tập đoàn kinh tế
SAMSUNG như sau:
- Tập đoàn SAMSUNG góp phần cơ bản vào sự thành công của quá trình
công nghiệp hoá và biến Hàn Quốc trở thành một nước tiên tiến về mặt công
nghệ thông qua sự phát triển công nghệ cao và phương thức quản lý tiên tiến.
Tài liệu được tải từ website
17
- Từ chuyên môn hoá trong lĩnh vực thương mại chỉ sau một thời gian
ngắn, SAMSUNG đã nhanh chóng trở thành một tập đoàn kinh tế hùng mạnh
dưới hình thức một Congolomerate kinh doanh mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề.
- Phương hướng đầu tư linh hoạt theo nguyên tắc đa dạng hoá các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Sự đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh theo
hướng phát triển tất cả các nghành nào có lợi nhuận cao. Tuy nhiên, trong

phương hướng chiến lược luôn có các lĩnh vực chủ chốt như các sản phẩm công
nghệ cao, các ngành mũi nhọn tương lai.
- Phương hướng đầu tư linh hoạt theo nguyên tắc đa dạng hoá các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Sự đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh theo
hướng phát triển tất cả các nghành nào có lợi nhuận cao. Tuy nhiên, trong
phương hướng chiến lược luôn có các lĩnh vực chủ chốt như các sản phẩm công
nghệ cao, các ngành mũi nhọn tương lai. Trong suốt quá trình phát triển, Tập
đoàn SAMSUNG rất chú trọng đến nghiên cứu khoa học công nghệ và phát triển
sản phẩm mới. Ví dụ trong năm 1989, SAMSUNG đã dành 4,25 doanh thu cho
nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới. Tập đoàn đóng vai trò là một trung tâm
nghiên cứu chuyển giao công nghệ cho các công ty thành viên với mục đích đưa
vào sử dụng, khai thác nhanh nhất, có hiệu quả nhất tiến bộ khoa học công nghệ
mà bản thân mỗi công ty thành viên không thể đảm đương nổi.
- Sự thành công của SAMSUNG cũng là kết quả của cách thức quản lý
tiên tiến, năng động, linh hoạt phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước và
trên thế giới trong từng giai đoạn cụ thể. Tập đoàn luôn tìm cách đổi mới tổ chức
quản lý, thực hiện một kiểu tổ chức quản lý phi tập trung dựa trên cơ sở đa dạng
hoá sản phẩm để đối phó kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu và sự
đa dạng hoá của thị trường. Các công ty thành viên vẫn giữ tính độc lập pháp lý
nhưng chiến lược phát triển chung của Tập đoàn vẫn được giữ vững. Tập đoàn là
Tài liệu được tải từ website
18
trung tâm hỗ trợ giúp đỡ, điều hoà tài chính vào những lĩnh vực có khả năng phát
triển đem lại lợi nhuận cao.
- Trong suốt quá trình phát triển luôn có sự gắn bó chặt chẽ và tương
đồng giữa chính sách công nghiệp hoá của đất nước với phương hướng chiến
lược của Tập đoàn. Chẳng hạn để thực hiện chính sách công nghiệp hoá hướng
vào xuất khẩu của Chính phủ, một trong những trọng tâm chiến lược sản xuất
kinh doanh của Tập đoàn là tập trung đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu. Khi
chính sách công nghiệp hoá chuyển sang khuyến khích phát triển thị trường

trong nước, các hoạt động của Tập đoàn bắt đầu hướng vào các hoạt động nhập
khẩu. Tỷ lệ hàng hoá nhập khẩu và bán hàng nội địa tăng lên khá nhanh trong
những năm gần đây. Chính nhờ luôn đi đầu trong việc thực hiện những chính
sách công nghiệp hoá của đất nước, Tập đoàn SAMSUNG luôn nhận được sự
động viên tích cực, kịp thời của Chính phủ. Ngược lại, sự phát triển của Tập
đoàn đã phản ánh và phục vụ thành công nhiệm vụ công nghiệp hoá đất nước.
- Thành công của Tập đoàn còn là vì Tập đoàn có một chiến lược kinh
doanh táo bạo. Chiến lược đó một mặt dựa vào nghiên cứu dự đoán nhu cầu của
thị trường trong tương lai, mặt khác tận dụng tối đa những điều kiện thuận lợi và
những cơ hội do chính sách công nghiệp hoá của chính phủ đưa lại. Tức là có sự
gắn bó chặt chẽ giữa cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước. Trong quá
trình phát triển Tập đoàn sẵn sàng chấp nhận và tham gia cạnh tranh trên thị
trường thế giới, tăng cường quốc tế hoá hoạt động sản xuất kinh doanh trên
phạm vi toàn cầu.
1.2.1.3 Tập đoàn MITSUBISHI:
Một số nhận xét rút ra từ việc nghiên cứu tập đoàn knh tế MITSUBISHI
là:
- Quá trình hình thành và phát triển của Tập đoàn diễn ra với những nét
đặc thù gắn liền với lịch sử và đặc điểm của dân tộc Nhật bản. Đó là lịch sử phát
Tài liệu được tải từ website
19
triển lâu dài và nhanh chóng trở thành Tập đoàn kinh tế hùng mạnh. Đó là sự kết
hợp hài hoà giữa ba yếu tố: tính dân tộc đặc thù, khả năng nắm bắt xu thế hiện
đại trên thế giới và có được sự hướng dẫn tích cực của Nhà nước.
- Chính phủ Nhật bản có vai trò rất lớn đối với sự hình thành và phát triển
của Tập đoàn. Nền kinh tế có hướng dẫn của Nhật bản đã góp phần thúc đẩy sự
phát triển nhanh chóng và tạo điều kiện đưa các Công ty Nhật Bản trong đó có
MITSUBISHI lớn mạnh ngang tầm với các công ty độc quyền quốc tế trong khi
lại hạn chế được sự thâm nhập của các tập đoàn tư bản nước ngoài. Ngược lại,
các tập đoàn kinh tế Nhật Bản là nhân tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng

mạnh mẽ của Nhật Bản.
- Vai trò ngoại thương đặc biệt lớn, MITSUBISHI và hầu hết các Tập
đoàn kinh tế Nhật Bản hiện nay đều bắt đầu tư những hoạt động ngoại thương.
Bắt đầu từ kinh doanh chuyên môn hoá vận tải biển và các hoạt động xuất khẩu,
MITSUBISHI đã nhanh chóng mở rộng hoạt động sang rất nhiều các sản phẩm,
các lĩnh vực khác gồm cả thương mại, tài chính, đầu tư sản xuất. Để hỗ trợ cho
các hoạt động cho các hoạt động kinh doanh thương mại, Tập đoàn luôn có sẵn
các nguồn tài chính lớn.
- Đặc điểm trong tổ chức quản lý của MITSUBISHI là các công ty con
không phải độc lập hoàn toàn mà hoạt động như các công ty vệ tinh giữ được
nguyên tự do ở mức đáng kể. Thông thường các công ty thành viên trong tập
đoàn ở Mỹ có tính độc lập cao hơn so với các công ty Nhật Bản.
- Qua nghiên cứu Tập đoàn MITSUBISHI ta còn thấy một thành công nữa
là giải quyết tốt việc tách quyền sở hữu ra khỏi quyền quản lý. Phần lớn các Tập
đoàn kinh tế Nhật bản là các Tập đoàn có sở hữu gia đình nhưng việc quản lý lại
rất hiệu quả. Trong nhiều trường hợp, người quản lý tập đoàn không phải là
thành viên của gia đình. Yếu tố quyết định là sự lựa chọn đội ngũ cán bộ quản lý
có năng lực thực sự.
Tài liệu được tải từ website
20
1.2.2 Những kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu các Tập đoàn kinh
tế trên thế giới
1.2.2.1 Quá trình hình thành:
Tập đoàn kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất, vốn kinh nghiệm cho thấy nguồn vốn tự tích luỹ đóng vai trò cơ bản trong
việc hình thành các Tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên qúa trình tích tụ, đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh chỉ là một bộ phận trong toàn bộ qúa trình hình thành
Tập đoàn kinh tế. Một cách đi phổ biến góp phần đẩy nhanh quá trình thành lập
các Tập đoàn kinh tế là quá trình tập trung sản xuất, vốn. Quá trình này diễn ra
theo những phương thức khác nhau bằng con đường thôn tính theo kiểu cá lớn

nuốt cá bé thông qua việc mua lại các công ty nhỏ yếu hơn, biến chúng thành
một bộ phận không thể tách rời của công ty mẹ hay theo con đường tự nguyện
sáp nhập với nhau để hình thành một công ty lớn hay chống lại nguy cơ bị thôn
tính và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
1.2.2.2. Cơ cấu tổ chức và mối quan hệ quan hệ kinh tế:
Trong hầu hết các Tập đoàn kinh tế đều có một công ty mẹ và các công ty
thành viên. Các công ty thành viên vẫn có tính độc lập về mặt pháp lý. Mối quan
hệ của các thành viên chủ yếu dựa trên mối quan hệ liên kết về lợi ích kinh tế
được điều khiển bởi các hợp đồng hoặc các thoả thuận về kinh tế. Công ty mẹ và
các công ty thành viên có mối quan hệ phụ thuộc và hộ trợ về mặt chiến lược, tài
chính, tín dụng.Giữa các công ty thành viên cá mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc
vào công ty mẹ, nhằm phục vụ mục tiêu chung của Tập đoàn kinh tế. Mục tiêu
chung đó cũng trùng với mục tiêu của công ty mẹ. Các mối quan hệ hỗ trợ của
Tập đoàn kinh tế hoàn toàn dựa vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và
phương thức đầu tư có hiệu quả cao cuả các công ty thành viên.
1.2.2.3. Phương thức quản lý:
Tài liệu được tải từ website
21
Hầu hết các Tập đoàn kinh tế đều theo đuổi chính sách phi tập trung hoá.
Để quản lý Tập đoàn kinh tế đều có một Hội đồng quản trị chung, trụ sở thường
nằm ở công ty mẹ. Thông thường trong Hội đồng quản trị có các thành viên từ
các công ty con. Hội đồng quản trị này được hình thành theo nguyên tắc số vốn
cổ đông của đóng góp của các thành viên, Hội đồng quản trị chỉ kiểm soát về
mặt tài chính, chiến lược đầu tư thông qua việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế còn
các thành viên hoàn toàn tự chủ trong kinh doanh. Kiểu quản lý này vừa phát
huy được tính năng động tự chủ của các công ty thành viên vừa tạo được sự
thống nhất chung trong Tập đoàn.
1.2.2.4. Chiến lược kinh doanh:
Việc hình thành Tập đoàn kinh tế xuất phát từ lợi ích kinh tế của các công
ty thành viên và của bản thân Tập đoàn. Để phục vụ lợi ích chung và riêng đó,

tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh, nâng cao lợi nhuận và có
sự phối hợp đồng bộ, trợ giúp lẫn nhau, phát huy sức mạnh tổng hợp thì các Tập
đoàn kinh tế dù phương thức quản lý có mức độ tập trung hoặc phi tập trung
khác nhau đều đưa ra một chiến lược chung cho toàn bộ Tập đoàn. Chiến lược
này được soạn thảo từ trụ sở trung tâm đầu não của Tập đoàn và thực hiện thống
nhất trong tất cả các công ty thành viên. Chiến lược chung của tập đoàn thông
thường được tập trung vào lĩnh vực đầu tư phát triển kinh doanh và nghiên cứu
triển khai công nghệ mới. Việc thực hiện chiến lược chung tổng quát vừa mang ý
nghĩa tạo ra sự thống nhất tập trung tăng cường sức mạnh chung theo định
hướng, lại vừa tạo ra sự uyển chuyển năng động, linh hoạt của các công ty thành
viên trong việc lựa chọn phương hướng mục tiêu chiến lược phát triển của riêng
mình. Một mặt, chiến lược đầu tư phát triển mới, công nghệ mới thông qua hoạt
động sức mạnh tài chính và các nguồn lực của các Tập đoàn kinh tế tập trung
vào lĩnh vực then chốt có ý nghĩa quyết định đến khả năng phát triển và mở rộng
thị trường, củng cố và nâng cao danh tiếng và uy tín của Tập đoàn kinh tế và của
Tài liệu được tải từ website
22
mọi thành viên. Mặt khác, nhờ có một định hướng chung, các công ty thành viên
chủ động, xác định, lựa chọn chiến lược kinh doanh riêng phù hợp với môi
trường và điều kiện cụ thể trong từng ngành, từng khu vực thị trường trong sự
kết hợp hài hoà với chiến lược chung của Tập đoàn kinh tế. Chiến lược của Tập
đoàn kinh tế là một căn cứ định hướng có hiệu quả trong việc xác định mục tiêu
phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi thành viên.
1.2.2.5 Nguyên tắc hoạt động:
Nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận luôn được khẳng định trong mọi trường
hợp. Thông thường để hạn chế cạnh tranh nội bộ giữa các công ty thành viên
trong Tập đoàn kinh tế thường có các thoả thuận về phân chia thị trường tiêu thụ
sản phẩm và một vài trường hợp có thoả thuận về giá cả. Nhưng những thoả
thuận về giá cả thường bị các nước nghiêm cấm vì chúng dẫn đến hạn chế cạnh
tranh. Bởi vậy, ngày nay các công ty thành viên được hoàn toàn tự do trong việc

xác định giá cả theo cơ chế thị trường nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Cạnh
tranh trong nội bộ các công ty thành viên được hạn chế tới mức tối đa thông qua
phân công phát triển chuyên môn hoá. Các công ty thành viên được chủ động
hoàn toàn trong việc sử dụng nguồn vốn tự có của mình trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Tập đoàn kinh tế không có quyền can thiệp vào nguồn lợi nhuận thu
được từ nguồn vốn đó. Nguồn vốn vay từ Tập đoàn kinh tế phải thông qua Tập
đoàn kinh tế về mục tiêu vay vốn, phương án đầu tư phát triển phù hợp với
phương hướng chiến lược của Tập đoàn kinh tế sẽ được ưu tiên hàng đầu. Quan
hệ tài sản giữa công ty mẹ và công ty thành viên chủ yếu là quan hệ hỗ trợ tạo
điều kiện thuận lợi cho các công ty thành viên vay vốn từ nguồn vốn cổ phần
chung của Tập đoàn kinh tế. Các công ty thành viên được hưởng lãi suất từ việc
vay vốn này theo tỷ lệ cổ phần đóng góp. Để thực hiện chức năng này Tập đoàn
kinh tế thường thành lập một công ty được gọi là Holding Company. Công ty
Tài liệu được tải từ website
23
này không quan tâm đến hoạt động sản xuất mà chỉ hoạt động như một công ty
tài chính chung của Tập đoàn kinh tế.
Tài liệu được tải từ website
24
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG MÔ HÌNH TỔNG CÔNG TY
BƯU CHÍNH – VIỄN THÔNG VIỆT NAM
2.1 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG TỚI TỔ CHỨC
QUẢN LÝ CỦA TỔNG CÔNG TY
2.1.1 Đặc điểm về sự phát triển của dịch vụ Bưu chính Viễn thông
- Ngành Bưu chính Viễn thông là một ngành kinh tế kỹ thuật thuộc kết cấu
hạ tầng phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội. Nó được xếp vào lĩnh vực cơ sở hạ
tầng của xã hội. Ngành Bưu chính Viễn thông là ngành phát triển nhanh trong
thời gian gần đây, đặc biệt là khi có cuộc cách mạng Khoa học kỹ thuật trong
công nghệ thông tin. Thông tin ngày càng trở thành một nhu cầu thiết yếu cho xã
hội và tiến tới trong thế kỷ 21 sẽ trở thành “xã hội thông tin”. Đây là một đặc

điểm rất quan trọng trong quan điểm phát triển theo mô hình Tập đoàn của Tổng
công ty. Do sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của khoa học công nghệ và
việc gắn liền với một nền tảng xã hội, ngày nay dịch vụ của Tổng công ty ngày
càng mang tính cấp thiết và xã hội hoá cao hơn. Trong quá trình cung cấp các
dịch vụ cho khách hàng cần có bộ phận để nắm bắt sự phản hồi trực tiếp và hàng
ngày của khách hàng. Dịch vụ phải hướng tới khách hàng và đón đầu được các
yêu cầu của xã hội.
- Thông qua việc phát triển và hội tụ các công nghệ khác nhau cũng như
các ngành khác nhau, việc ra đời thêm rất nhiều dịch vụ mới, trong số đó có
nhiều dịch vụ giá trị gia tăng được thực hiện trên nền dịch vụ cơ bản đã tạo ra
một số lượng rất lớn các sản phẩm chứ không chỉ đơn thuần một vài sản phẩm
như trước kia. Những sản phẩm mà cách đây một thời gian chưa có được ý tưởng
nay đã trở thành hiện thực như: điện thoại di động toàn cầu sử dụng vệ tinh tầm
thấp, các dịch vụ phát thanh, truyền hình theo yêu cầu được thực hiện trên mạng
điện thoại. Việc số lượng dịch vụ tăng nhanh và đa dạng cũng có ảnh hưởng trực
Tài liệu được tải từ website
25

×