-1-
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi Việt Nam tiến hành đường lối đổi mới kinh tế vào năm 1986, sau 25
năm, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển biến quan trọng đưa nước ta thoát khỏi
tình trạng khó khăn, nghèo đói, bắt đầu phát triển vượt bậc trên mọi phương diện kinh
tế, xã hội, thương mại và quan hệ quốc tế. Vị thế của Việt Nam không ngừng được củng
cố, nâng cao và ngày càng vững mạnh. Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việc gia
nhập WTO đã tạo những tiền đề quan trọng cho nước ta tiếp tục phát triển và hội nhập
sâu vào nền kinh tế toàn cầu.
Việc mở cửa thị trường theo nghĩa vụ thành viên cũng khiến thị trường Việt Nam
chịu tác động trực tiếp từ thị trường thế giới. Điều đó vừa là cơ hội vừa là thách thức. Vị
thế Việt Nam tiếp tục được nâng lên trên trường quốc tế. Hội nhập đã mở ra cơ hội mở
rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng sự tham gia của các
thành phần vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Thị trường xuất khẩu được mở rộng, các
doanh nghiệp có cơ hội phát triển mối liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài
để hình thành các chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng, tiếp thu chuyển giao công nghệ, nhanh
chóng làm quen với luật chơi mới và tích lũy kinh nghiệm. Mở cửa thị trường sẽ làm
cho hoạt động của các doanh nghiệp có sự thay đổi căn bản. Doanh nghiệp trở thành
động lực của nền kinh tế và trực tiếp đối đầu với các vần đề của cạnh tranh quốc tế.
Là một doanh nghiệp cổ phần hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập
khẩu tổng hợp, Công ty Cổ Phần XNK Intimex nhận thấy sự cạnh tranh ngày càng cao
trên thị trường Việt Nam và Thế giới. Vì vậy, việc tìm ra các giải pháp mang tính chiến
lược, thay đổi cơ cấu tổ chức Công ty, hình thành Tập Đoàn để nâng cao năng lực cạnh
tranh là điều tất yếu mà Công ty đang tính đến.
-2-
1.Tính cấp thiết của đề tài :
Công Ty Cổ Phần XNK Intimex là một công ty lớn trong lĩnh vực xuất khẩu
nông sản, luôn là một trong ba đơn vị xuất khẩu cà phê và hô tiêu lớn nhất Việt Nam.
Hệ thống phân phối rộng khắp, hệ thống các công ty thành viên và công ty liên kết ngày
càng tăng lên. Công ty không ngừng mở rộng ngành nghề kinh doanh, hợp tác đầu
tư….Chính điều này đòi hỏi Công ty phải có chiến lược và bước đi phù hợp trong thời
gian tới, mà việc chuyển đổi sang mô hình tập đoàn là một bước đi hợp lý. Việc chuyển
đổi sang mô hình tập đoàn kinh tế sẽ có những lợi thế sau :
Thứ nhất, Công ty được thành lập cách đây trên 5 năm từ việc cổ phần hóa chi
nhánh Công ty Intimex Việt Nam tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Chính vì thế từ lâu nhiều
người vẫn lầm tưởng Công ty cổ phần XNK Intimex là Công ty cổ phần Intimex Việt
Nam. Với việc phát triển mạnh mẽ như hiện nay, Công ty cổ phần XNK Intimex cần
xây dựng cho mình một thương hiệu riêng nhằm tránh sự nhầm lẫn này.
Thứ hai, với hệ thống công ty thành viên ngày càng phát triển, việc chuyển đổi
theo mô hình tập đoàn kinh tế sẽ giúp công ty tăng cường hiệu quả quản lý, tiết kiệm chi
phí, làm cho Công ty ngày càng lớn mạnh, các công ty thành viên trong tập đoàn có thể
sử dụng thương hiệu của tập đoàn. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay,
việc lựa chọn chuyển đổi theo mô hình tập đoàn kinh tế đảm bảo cho Công ty phát triển
bền vững không ngừng.
Thứ ba, với việc chuyển đổi sang mô hình tập đoàn kinh tế sẽ phát huy được lợi
thế của kinh tế quy mô lớn, khai thác một cách triệt để thương hiệu, hệ thống dịch vụ
đầu vào, đầu ra và dịch vụ chung của cả tập đoàn. Đồng thời, khi chuyển đổi sang mô
hình tập đoàn kinh tế, công ty mẹ và các công ty thành viên liên kết sẽ có mối quan hệ
chặt chẽ hơn tạo điều kiện cho chúng thống nhất phương hướng, chiến lược trong phát
triển kinh doanh, tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của từng công ty
thành viên.
Thứ tư, khi chuyển sang mô hình tập đoàn kinh tế, với cương vị tập đoàn kinh tế
nếu xây dựng được một thương hiệu lớn mạnh có tiếng, sẽ là giải pháp bảo vệ sản xuất
trong nước, cạnh tranh lại với các công ty đa quốc gia, tập đoàn lớn của các nước khác.
-3-
Ngoài ra, còn có thể vươn ra và không ngừng mở rộng, củng cố thị trường trên thế giới,
kể cả thị trường các nước phát triển.
Thứ năm, với mô hình tập đoàn kinh tế sẽ có điều kiện đa dạng hóa về ngành
nghề kinh doanh, kết hợp với việc phát huy các ngành thế mạnh sẵn có đòi hỏi công ty
phải mở rộng sản xuất kinh doanh, cần một lượng vốn lớn để hoạt động. Chính vì thế
khi chuyển đổi sang mô hình tập đoàn kinh tế, công ty mẹ và các công ty con có thể dễ
dàng tiếp cận và huy động được các nguồn vốn đa dạng với chi phí hợp lý thông qua các
kênh như niêm yết và phát hành thêm cổ phần, phát hành trái phiếu, thu xếp vốn phục
vụ cho đầu tư dự án, tiếp cận với các nguồn vốn từ nước ngoài…
Thứ sáu, với định hướng trở thành một tập đoàn kinh doanh nông sản và thực
phẩm hàng đầu Việt Nam, trong đó mũi nhọn là cà phê, hồ tiêu và các loại nông sản –
thực phẩm khác, khi chuyển đổi sang mô hình Tập đoàn kinh tế, Công ty sẽ có nhiều
điều kiện thuận lợi để tập hợp các công ty thành viên chuyên về cà phê thành Tổng
Công ty Cà Phê Intimex và các công ty nông sản còn lại khác để thành Tổng Công ty
Nông sản – Thực phẩm Intimex (trực thuộc Tập đoàn Intimex). Với những tổng công ty
chuyên ngành này, Tập đoàn Intimex sẽ vừa có được những “quả đấm thép” tạo ra
nguồn doanh thu lợi nhuận lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh chủ đạo của mình,
vừa đảm bảo được mục tiêu đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh của Tập đoàn.
Xuất phát từ những đòi hỏi cấp thiết đó, tác giả đã chọn đề tài :“ Giải pháp
chuyển đổi Công Ty Cổ Phần XNK Intimex thành tập đoàn kinh tế ” để làm luận
văn thạc sĩ của mình.
2.Mục đích nghiên cứu :
Hệ thống hóa được những khái niệm cũng như những yếu tố để hình thành tập
đoàn kinh tế.
Xác định được những mặt tồn tại trong quá trình thí điểm chuyển một số tổng
công ty nhà nước sang mô hình công ty mẹ-công ty con.
Xác định được những thuận lợi, hạn chế của Công ty cổ phần XNK Intimex hiện
nay khi chưa chuyển sang mô hình tập đoàn.
-4-
Tìm được những giải pháp hữu hiệu nhằm từng bước giúp Công ty cổ phần XNK
Intimex chuyển sang mô hình tập đoàn.
3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công Ty Cổ Phần XNK Intimex
từ năm 2006 đến năm 2010 trước khi chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình CTM-
CTC. Từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm chuyển Công Ty Cổ Phần XNK Intimex
thành Tập Đoàn Kinh Tế.
4.Phƣơng pháp nghiên cứu :
Cơ sở lý luận của luận văn là những lý thuyết về kinh tế học, các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta, Luật doanh nghiệp nhà nước(DNNN), Luật doanh nghiệp, các
văn bản pháp luật liên quan và những kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về
mô hình tập đoàn kinh tế.
Luận văn áp dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp. Trên cơ
sở đó, luận văn xây dựng cơ chế hoạt động và giải pháp nhằm chuyển đổi Công ty cổ
phần XNK Intimex thành tập đoàn kinh tế.
5.Bố cục luận văn :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1 : Cơ sở lý luận hình thành tập đoàn kinh tế và mô hình CTM-CTC
Chương 2 : Phân tích thực trạng hoạt động tại Công ty Cổ Phần XNK Intimex.
Chương 3 : Những Giải pháp nhằm chuyển đổi Công ty Cổ Phần XNK Intimex thành
tập đoàn kinh tế.
-5-
CHƢƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH
TĐKT VÀ MÔ HÌNH CTM-CTC
1.1. Khái quát về tập đoàn kinh tế
1.1.1. Khái niệm:
Các nhà kinh tế học đã đưa ra nhiều định nghĩa về TĐKT như sau
“TĐKT là một tập hợp các công ty hoạt động kinh doanh trên các thị trường khác nhau
dưới sự kiểm soát về tài chính hoặc quản trị chung, trong đó các thành viên của chúng
ràng buộc với nhau bằng các mối quan hệ tin cậy lẫn nhau trên cơ sở sắc tộc hoặc bối
cảnh thương mại” (Leff, 1978);
Còn theo Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương CIEM thì :
"Khái niệm tập đoàn kinh tế được hiểu là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách
pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về vốn, tài
chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi
ích của các bên tham gia. Trong mô hình này, "công ty mẹ" nắm quyền lãnh đạo, chi
phối hoạt động của "công ty con" về tài chính và chiến lược phát triển."
Nhìn chung Tập đoàn kinh tế có thể được định nghĩa theo cách này hoặc cách
khác nhưng có những đặc trưng cơ bản sau:
- Giữa các thành viên trong tập đoàn có mối liên kết nhất định;
- Trong tập đoàn có một hạt nhân đóng vai trò nòng cốt;
- Tập đoàn là một liên hiệp các pháp nhân chứ không phải là một pháp nhân. Tổ
chức thành lập tập đoàn phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, tích cực giúp
đỡ nhau, tối ưu hóa tổ hợp, kết cấu hợp lý, dựa vào khoa học kỹ thuật, làm tăng sức
mạnh cho tổ chức. Vì vậy, trong cơ cấu tổ chức của tập đoàn sẽ bao gồm CTM đóng vai
trò là hạt nhân cho các CTC.
-6-
1.1.2. Các phƣơng thức hình thành tập đoàn kinh tế trên thế giới
Phương thức hình thành các tập đoàn kinh tế(TĐKT) diễn ra thông qua hai hình
thức cơ bản là phân nhánh và thâu tóm.
1.1.2.1. Phƣơng thức phân nhánh
Khi CTM phát triển mạnh về mô hình, có tiềm lực về tài chính mạnh và muốn
mở rộng phạm vi hoạt động sả006E xuất kinh doanh(SXKD) trên nhiều quốc gia để
bành trướng về quy mô hoạt động SXKD, CTM đầu tư thành lập các CTC có tư cách
pháp nhân phù hợp với ngành nghề kinh doanh của CTM.
1.1.2.2. Phƣơng thức thâu tóm
Khi CTM có tiềm lực lớn về tài chính, muốn thâu tóm dần quyền lực kiểm soát
của các công ty khác thông qua các phương thức sau:
Phương thức sát nhập (Merger): Khi một hoặc nhiều công ty từ bỏ pháp nhân của mình
(gọi là công ty bán) để gia nhập vào công ty khác có điều kiện tốt hơn và sử dụng pháp
nhân của công ty này để hoạt động (gọi là công ty mua) nhằm các mục tiêu như tập
trung vốn hoạt động, giảm số lượng công ty để tập trung hỗ trợ cần thiết, tăng lợi nhuận
do giảm chi phí quản lý, tăng hiệu năng trong SXKD nhờ lợi thế về quy mô, tăng cường
khả năng cạnh tranh trên thương trường,...Công ty mua sẽ thu nhận các tài sản và công
nợ của công ty bán với một giá nhất định nào đó. Công ty sẽ trả cho chủ sở hữu của
công ty bán bằng tiền mặt hoặc bằng chứng khoán của chính công ty mua.
-7-
Sơ đồ 1.1 : Mô hình sát nhập
Phương thức hợp nhất (Unification): khi các công ty có sức mạnh ngang nhau sẽ từ bỏ
pháp nhân của mình để hình thành một pháp nhân mới nhằm thực hiện những hoạt động
của công ty hợp nhất với các mục tiêu như tập trung vốn hoạt động, giảm số lượng công
ty để tập trung hỗ trợ cần thiết, tăng lợi nhuận do giảm chi phí quản lý, tăng hiệu năng
trong sản xuất kinh doanh nhờ lợi thế về qui mô, tăng cường khả năng cạnh tranh trên
thương trường...
Sơ đồ 1.2 : Mô hình hợp nhất
Phương thức mua lại (Acquisition): việc mua lại sẽ không tạo ra một công ty mới và
diễn ra dưới hai phương thức:
- Phương thức mua lại cổ phần: công ty mua lại cổ phần của công ty bán trực
tiếp từ các cổ đông của công ty bán. Việc mua bán này không phụ thuộc vào sự đồng ý
hay không đồng ý của lãnh đạo công ty bán và thường khó dẫn đến sự sát nhập hay hợp
nhất hoàn toàn vì công ty bán vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân của mình. Quyền lợi
của công ty mua lúc này là quyền lợi của nhà đầu tư.
Công Ty X
Công Ty X
Công Ty Y
Công Ty Z
Công Ty X
Công Ty Y
-8-
- Phương thức mua lại tài sản: công ty mua lại tài sản trực tiếp từ công ty bán.
Với hình thức mua lại tài sản, công ty mua không cần thiết phải đánh giá lại nợ của
công ty bán, vì nó không phụ thuộc trách nhiệm của công ty mua.
Hình thức phổ biến của các nước trên thế giới là mua lại cổ phần. Nếu công ty
mua lại trên 50% số cổ phần của công ty bán thì quan hệ giữa hai công ty là quan hệ
CTM- CTC. CTM là công ty thu nhận, CTC là công ty bị thu nhận. Với hình thức mua
lại, các CTC không bị mất tư cách pháp nhân, sau khi mua lại, CTM và CTC cùng tồn
tại và cùng hoạt động với hai tư cách pháp nhân khác nhau, nhưng có quan hệ với nhau
về sở hữu vốn.
Công ty con
B(Công ty mẹ sở
hữu 100% vốn)
Công ty mẹ A
Công ty con
C(Công ty mẹ sở
hữu 75% vốn)
Công ty con
D(Công ty mẹ sở
hữu 51% vốn)
Sơ đồ 1.3 : Mô hình mua lại (Mô hình công ty mẹ – công ty con)
1.1.3. Các hình thức liên kết của các tập đoàn kinh tế trên thế giới
1.1.3.1. Tập đoàn kinh tế liên kết theo hàng ngang
TĐKT liên kết theo hàng ngang là TĐKT liên kết những công ty trong cùng một
ngành nhằm hạn chế sự cạnh tranh bằng thỏa thuận thống nhất về giá cả, phân chia thị
trường tiêu thụ, … Hình thức liên kết này thường dẫn đến độc quyền hạn chế cạnh
-9-
tranh, đi ngược với xu thế của cơ chế thị trường. Hình thức liên kết này thể hiện rõ nét
trong Cartel, Syndicate, Trust ...Chúng xuất hiện phổ biến ở các nước phát triển vào thế
kỷ thứ XIX đến những năm 20 của thế kỷ XX. Hiện nay hình thức liên kết này không
được phổ biến nữa, do nguồn vốn tập trung vào một ngành thường có rủi ro lớn và nhà
nước ngăn cấm, hạn chế vì nó tạo độc quyền, hạn chế cạnh tranh, đi ngược với một
nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường.
1.1.3.2.Tập đoàn kinh tế liên kết hàng dọc
TĐKT liên kết theo hàng dọc là TĐKT liên kết giữa các ngành trong cùng một
dây chuyền công nghệ. Cùng với sự phát triển của thị trường và nhu cầu ngày càng gia
tăng của người tiêu dùng, các doanh nghiệp sản xuất trong cùng ngành kinh tế – kỹ
thuật có xu hướng ngày càng gia tăng quy mô sản xuất. Vì vậy tất yếu xảy ra sự liên kết,
tập hợp của các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành. Lúc này hoạt động của các doanh
nghiệp sản xuất liên kết với nhau lại tiếp tục gặp khó khăn trong việc đáp ứng các nhu
cầu về các đầu vào của quy trình sản xuất và việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Vì vậy, các
doanh nghiệp thương mại được liên kết chuyên đảm nhận các chức năng cung ứng sản
phẩm đầu vào và đảm nhận chức năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Sự liên kết các doanh
nghiệp theo quy trình trên, hình thành TĐKT liên kết theo hàng dọc. Trên thế giới có rất
nhiều tập đoàn lớn thuộc dạng này như Concern, Conglomenrate, Cheabol…
Chúng vẫn
còn phổ biến trong giai đoạn hiện nay và bành trướng hoạt động SXKD sang hầu hết
các nước trên thế giới.
1.1.3.3.Tập đoàn kinh tế liên kết hỗn hợp
TĐKT liên kết hỗn hợp là TĐKT đa ngành liên kết các doanh nghiệp không cùng
lĩnh vực hoạt động SXKD, không cạnh tranh lẫn nhau và không cùng dây chuyền công
nghệ. Hình thức TĐKT này đang được ưa chuộng và trở thành xu hướng chính hiện
nay, có cơ cấu gồm có ngân hàng hoặc công ty tài chính, công ty thương mại và công ty
sản xuất công nghiệp. Hoạt động tài chính ngân hàng là một bộ phận rất quan trọng, nó
là hoạt động không thể tách rời trong cơ cấu kinh doanh của các TĐKT lớn.
-10-
1.1.4.Đặc điểm của tập đoàn kinh tế
Qua nghiên cứu về các TĐKT trên thế giới, dù tên gọi khác nhau với phương
thức hình thành và nội dung liên kết hoạt động không giống nhau, nhưng các TĐKT có
một số đặc điểm cơ bản sau:
1.1.4.1.Quy mô rất lớn về vốn, doanh thu, lao động, phạm vi hoạt động
Hầu hết các TĐKT lớn ngày nay đều là các TĐKT đa quốc gia, hoạt động SXKD
mang tính toàn cầu với mạng lưới chi nhánh rộng khắp thế giới với quy mô rất lớn về
vốn, doanh thu, lao động:
Quy mô vốn: Trong TĐKT vốn được tập trung từ nhiều nguồn khác nhau, cả
trong và ngoài nước, được bảo toàn và phát triển không ngừng, đẩy nhanh quá trình tích
tụ và tập trung vốn cho tập đoàn. Xem xét quá trình phát triển của các TĐKT trên thế
giới ta thấy rằng, tích tụ vốn, đầu tư có hiệu quả và đa dạng hoá đầu tư vốn theo lãnh
thổ địa lý, ngành nghề kinh doanh là nền tảng để một doanh nghiệp không ngừng phát
triển, từ một công ty thành một TĐKT hùng mạnh. Điều căn bản nhất là TĐKT có thể
tự tạo ra vốn để hoạt động.
Doanh thu: Nhờ ưu thế về vốn, TĐKT có khả năng chi phối và cạnh tranh trên
thị trường, mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, do đó đạt doanh thu lớn.
Lực lượng lao động: Lực lượng lao động trong tập đoàn không chỉ lớn về số
lượng mà còn mạnh về chất lượng, được tuyển chọn và đào tạo rất nghiêm ngặt.
Phạm vi hoạt động: TĐKT có phạm vi hoạt động rất rộng, không chỉ ở phạm vi
lãnh thổ một quốc gia, mà nhiều quốc gia hoặc phạm vi toàn cầu. Nhờ ưu thế về vốn,
nguồn nhân lực, áp dụng sự tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại... TĐKT đã phân công
lao động trong nội bộ trên phạm vi toàn cầu. TĐKT thực hiện chiến lược cạnh tranh,
chiếm lĩnh thị trường quốc tế, mở rộng quy mô bằng cách thành lập chi nhánh ra nước
ngoài tăng cường hợp tác, liên doanh liên kết và phân công quốc tế.
-11-
1.1.4.2.Hoạt động kinh doanh đa ngành nghề, đa lĩnh vực
Các tập đoàn hầu hết đều hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Ban đầu
các tập đoàn có thể hoạt động trong một hoặc một số ngành nghề, trong quá trình phát
triển thì chiến lược phát triển và hướng đầu tư luôn thay đổi để phù hợp với sự phát
triển của tập đoàn và môi trường kinh doanh quốc tế, nhưng mỗi ngành nghề đều có
định hướng chủ đạo, lĩnh vực đầu tư mũi nhọn với những sản phẩm đặc trưng của tập
đoàn.
Bên cạnh các đơn vị sản xuất, thường có các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, thương mại, dịch vụ, nghiên cứu khoa học và đào tạo,... Ví dụ tập đoàn
Mitsubishi- là một trong những TĐKT lớn của Nhật Bản, các hoạt động kinh doanh của
nó trải rộng trên nhiều lĩnh vực như sắt thép, cơ khí đóng tàu, hoá chất và các dịch vụ
ngân hàng, bảo hiểm, ngoại thương, vận tải,... Trong đó ngành mũi nhọn là công nghiệp
nặng và phát triển tài nguyên. Tập đoàn Petronas (Malaysia) hoạt động đa dạng trong
nhiều lĩnh vực như: thăm dò và khai thác dầu khí, lọc dầu, hoá dầu, kinh doanh thương
mại các sản phẩm dầu khí hàng hải, kinh doanh bất động sản, siêu thị, vui chơi giải
trí,… có cả học viện công nghệ, Học viện hàng hải và Trung tâm đào tạo kỹ thuật công
nghệ… Xu hướng chung là các tổ chức tài chính, ngân hàng và nghiên cứu ứng dụng
ngày càng được chú ý hơn, vì đó là đòn bẩy cho sự phát triển TĐKT.
Hoạt động đa ngành đã góp phần phân tán rủi ro của các tập đoàn, bảo đảm cho
hoạt động của các tập đoàn được an toàn và hiệu quả hơn trên thương trường kinh
doanh quốc tế.
1.1.4.3.Về cơ cấu tổ chức
Đa số các tập đoàn được tổ chức theo mô hình CTM – CTC. CTM sở hữu số
lượng lớn vốn cổ phần trong các công ty con. Nó chi phối các công ty con về phương
diện tài chính, công nghệ và trên cơ sở đó chi phối về chiến lược phát triển. Công ty mẹ
thường là công ty cổ phần được thành lập và hoạt động theo luật công ty của nước sở
tại, có thể có vốn góp của chính phủ. Công ty con cũng thường được tổ chức dưới dạng
công ty cổ phần, có tư cách pháp nhân riêng. Công ty mẹ sở hữu 100% hoặc ít nhất 50%
-12-
cổ phần có quyền biểu quyết trong Công ty con, hoặc Công ty mẹ có khả năng kiểm
soát, khống chế mặc dù không nắm trên 50% cổ phần của Công ty con.
Công ty mẹ thành lập hoặc tham gia góp vốn hay mua cổ phần của các công ty
con. Các công ty con lại đi đầu tư vào các công ty khác(gọi là công ty cháu). Phần lớn
các công ty con, công ty cháu mang họ của công ty mẹ.
1.1.4.4.Về quản lý, điều hành:
Công ty mẹ thông qua quyền lực tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp của mình để
tham gia vào hội đồng quản trị của công ty con nhằm thực hiện việc điều hòa, huy động
vốn, quản lý vốn, xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược thị trường, chiến lược sản
phẩm, chiến lược đầu tư, đào tạo nhân sự... cho tập đoàn. Các chiến lược của tập đoàn
được soạn thảo từ cơ quan đầu não của CTM và thực hiện thống nhất cho các CTC. Nhờ
việc thực hiện chiến lược tổng quát như vậy mà tập đoàn vừa tạo được sức mạnh thống
nhất tập trung lại vừa tạo ra sự năng động, linh hoạt cho các công ty con trong việc lựa
chọn chiến lược phát triển cho riêng mình và tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
1.1.4.5.Về quan hệ nội bộ trong tập đoàn
CTM và các CTC có mối quan hệ phụ thuộc, hỗ trợ về mặt chiến lược, tài chính,
tín dụng, đầu tư, quyền tài sản, phân phối lợi ích, trao đổi thông tin, nhân sự, văn hóa
tập đoàn. Giữa các công ty thành viên có mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc chặt chẽ với
nhau và phụ thuộc vào CTM nhằm phục vụ mục tiêu chung của tập đoàn. Mục tiêu của
CTC thường trùng với CTM. Tập đoàn chỉ tồn tại và phát triển vững mạnh khi xây dựng
cơ chế hoạt động dựa trên sự thống nhất lợi ích kinh tế của từng CTC với lợi ích chung
của cả tập đoàn và thực hiện chủ yếu bằng hợp đồng kinh tế.
Các công ty thành viên trong tập đoàn được phân công hoạt động SXKD theo
từng phân đoạn chuyên ngành, theo sản phẩm đầu ra hoặc theo khu vực hoạt động
không trùng lắp và không cạnh tranh nội bộ.
-13-
1.2.Những vấn đề cơ bản về mô hình CTM-CTC ở các tập đoàn kinh tế.
1.2.1.Tổng quan về mô hình công ty mẹ – công ty con.
Qua nghiên cứu khái niệm về mô hình công ty mẹ – công ty con ở một số nước
trên thế giới, có thể nêu khái niệm chung về mô hình công ty mẹ-công ty con như sau:
Công ty mẹ-công ty con là một tổ hợp gồm nhiều doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
độc lập, trong đó doanh nghiệp có tiềm lực mạnh nhất về vốn, công nghệ, thị trường
đầu tư và chi phối doanh nghiệp khác trở thành công ty mẹ; doanh nghiệp nhận vốn đầu
tư và bị doanh nghiệp khác chi phối trở thành công ty con. Việc chi phối, kiểm soát chủ
yếu là về vốn, công nghệ, thị trường, thương hiệu.
Một công ty mẹ với nhiều công ty con hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau,
nhiều địa bàn khác nhau, tạo nên một thế mạnh chung gọi là “tập đoàn”. Các mối quan
hệ về vốn, về quyền, nghĩa vụ, lợi ích giữa công ty mẹ và các công ty con được xác định
rõ ràng trên cơ sở vốn đầu tư. Đây là điểm mấu chốt trong mô hình công ty mẹ-công ty
con.
Ở Việt Nam theo Điều 18 Nghị định số 153/2004/NĐ-CP ngày 9/8/2004 của
Chính phủ: “TCT theo mô hình CTM-CTC là hình thức liên kết và chi phối lẫn nhau
bằng đầu tư, góp vốn, bí quyết công nghệ, thương hiệu, thị trường giữa các doanh
nghiệp(DN) có tư cách pháp nhân, trong đó có một công ty nhà nước(CTNN) giữ quyền
chi phối các doanh nghiệp thành viên(DNTV) khác gọi là CTM và các DNTV khác bị
CTM chi phối gọi là CTC hoặc có một phần vốn góp không chi phối của CTM gọi là
công ty liên kết.”
Theo Điều 3 Luật DNNN thì “CTNN giữ quyền chi phối DN khác là công ty sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp trên 50% vốn điều lệ của DN khác,
giữ quyền chi phối đối với DN đó” và “Quyền chi phối đối với DN là quyền định đoạt
đối với điều lệ hoạt động, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý
chủ chốt, việc tổ chức quản lý và quyết định quản lý quan trọng khác của DN đó”.
-14-
1.2.2.Đặc trƣng của mô hình công ty mẹ – công ty con.
Tuy cách diễn giải khác nhau nhưng có thể rút ra một số đặc trưng của quan hệ
công ty mẹ – công ty con như sau:
- Công ty mẹ và công ty con đều là doanh nghiệp độc lập, có tư cách pháp nhân
đầy đủ, có vốn và tài sản riêng, bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý.
- Mối quan hệ giữa công ty mẹ – công ty con không mang tính cấp trên cấp dưới,
mà là mối quan hệ về sở hữu vốn với doanh nghiệp có vốn đầu tư của mình và được xác
định theo các quy định của pháp luật và điều lệ của công ty. Ngoài mối quan hệ về sở
hữu thì các mối quan hệ khác về kinh tế như mua – bán, thuê-cho thuê đều là mối quan
hệ giữa hai pháp nhân kinh tế.
- Công ty mẹ thực hiện quyền kiểm soát, chi phối công ty con tương ứng với tỷ lệ
vốn góp, vốn cổ phần đầu tư ở công ty con và bằng hình thức như quyền bỏ phiếu chi
phối đối với các quyết định của công ty con, quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm Hội đồng
quản trị(HĐQT), Ban lãnh đạo hoặc quyền tham gia quản lý, điều hành.
- Vị trí công ty mẹ và công ty con chỉ trong mối quan hệ giữa hai công ty với
nhau và mang tính tương đối, nghĩa là công ty con này hôm nay là công ty con của công
ty mẹ song ngày mai có thể chỉ là công ty liên kết hoặc hoàn toàn độc lập với công ty
mẹ.
- Trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con là trách nhiệm hữu hạn trong
phạm vi phần vốn góp hay cổ phần của công ty mẹ ở công ty con.
- Cấu trúc trong mô hình quan hệ này thường có nhiều cấp: công ty mẹ, công ty
con, công ty cháu… Ở mỗi cấp đều có các đơn vị hạch toán độc lập và phụ thuộc.
1.2.3.Những ƣu và nhƣợc điểm của mô hình công ty mẹ – công ty con
1.2.3.1.Ƣu điểm
Các nghiên cứu về mô hình CTM-CTC ở các Tập đoàn kinh tế trên thế giới cho
thấy mô hình này có những ưu điểm sau:
-15-
- Mô hình này không hạn chế dòng vốn đầu tư trong một khuôn khổ tổ chức –
hành chính, trong một lĩnh vực ngành nghề được quy định trước hay trên một địa bàn
khép kín nào đó. Vì vậy, CTM có thể đầu tư vào nhiều CTC với nhiều lĩnh vực kinh
doanh khác nhau, do đó có thể phân tán rủi ro trong hoạt động SXKD và đầu tư tài
chính của CTM.
- Do tính linh động trong đầu tư vốn, CTM có thể chủ động tái cấu trúc lại cơ cấu
đầu tư vốn của mình để phù hợp với chiến lược phát triển kinh doanh và mang lại hiệu
quả đầu tư cao nhất bằng cách mua hoặc bán cổ phần sở hữu tại các CTC.
- CTM dễ dàng điều chỉnh quy mô của tập đoàn phù hợp với từng thời kỳ của
nền kinh tế.
- Cơ cấu tổ chức công ty mẹ – công ty con cho phép công ty mẹ kiểm soát một
cách hiệu quả các công ty con mà không cần phải sở hữu 100% vốn điều lệ của công ty
con. Hơn nữa CTM có vốn góp chi phối ở CTC, có thể thông qua CTC đó để đầu tư vốn
vào công ty cháu và CTM có thể nắm quyền chi phối ở các công ty cháu đó. Với kiểu
quan hệ nhiều tầng bậc như thế CTM có thể khống chế và điều tiết được một lượng vốn
lớn hơn rất nhiều lần so với vốn điều lệ của CTM.
- Thông qua công ty tài chính trong tập đoàn, tập đoàn có thể tập trung, điều hòa
vốn, khắc phục được tình trạng hạn chế vốn ở từng đơn vị riêng lẻ. Các công ty trong
tập đoàn có thể huy động vốn trong nội bộ tập đoàn dễ dàng, nhanh chóng và giảm chi
phí sử dụng vốn hơn so với huy động vốn trên thị trường.
- Mô hình này làm tăng sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các công ty trong
tập đoàn. Mối quan hệ trong các công ty thành viên hạn chế tối đa sự cạnh tranh giữa
các công ty thành viên trong tập đoàn, tạo điều kiện thống nhất phương hướng, chiến
lược SXKD của cả tập đoàn.
- Mô hình CTM-CTC góp phần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng
kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của cả tập đoàn. Vì việc nghiên cứu,
ứng dụng khoa học kỹ thuật, đòi hỏi khả năng tài chính lớn với đội ngũ cán bộ nghiên
cứu chuyên môn cao mà mỗi công ty thành viên không có khả năng thực hiện được.
-16-
1.2.3.2.Nhƣợc điểm:
Tuy mô hình công ty mẹ công ty con có những ưu điểm trên nhưng cũng phát
sinh một số nhược điểm:
Khi công ty mẹ tái bố trí lại cơ cấu đầu tư thì công ty con có thể bị gạt bỏ ra khỏi
tập đoàn thông qua việc bán phần vốn góp của công ty mẹ.
Có thể nảy sinh một số mâu thuẫn giữa các công ty con và cả tập đoàn. Một số
hoạt động của một công ty con sẽ có lợi cho công ty đó, nhưng lại bất lợi cho cả tập
đoàn. Một công ty con có thể muốn đầu tư phát triển sản phẩm mới, vì có thể các hoạt
động này được thực hiện ở công ty khác có lợi hơn.
Mô hình này thường dẫn đến độc quyền, hạn chế cạnh tranh, nên có thể gây tổn
thất cho nền kinh tế. Vì thế chính phủ các quốc gia phải thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ
mô của mình để hạn chế những mặt trái này.Tuy nhiên, với những ưu điểm vượt trội
nên công ty mẹ – công ty con là mô hình hoạt động chủ yếu của các doanh nghiệp trong
các nước theo nền kinh tế thị trường và nhất là các tập đoàn kinh tế.
1.3.Những kinh nghiệm tổ chức tập đoàn kinh tế ở một số nƣớc trên thế giới
1.3.1.Hàn Quốc
Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc điều hành Cheabol
Minh bạch hoá quản lý bằng cách công bố các báo cáo tài chính, thông tin tài
chính và thông tin kinh doanh, điều hành chaebol
Không cho phép công ty mẹ bảo lãnh nợ cho công ty con thuộc tập đoàn.
Xác lập và khống chế các tỉ lệ tài chính nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho tập
đoàn. Trong đó tỉ lệ nợ vay trên vốn sở hữu không quá 200%.
Tập trung vào ngành nghề chuyên môn nhằm gia tăng tính cạnh tranh ở mức độ
toàn cầu.
Quy trách nhiệm cá nhân các lãnh đạo gia đình chaebol trong việc điều hành và
lãnh đạo tập đoàn. Huỷ bỏ hội đồng các tổng giám đốc, các công ty mẹ cũng như cơ
quan điều hành các hoạt động ngoài ngành. Gia tăng quyền hạn cho cổ đông thiểu số.
-17-
Đánh thuế lên giá trị quà tặng nhằm công khai và tránh hối lộ.
Cấm các chaebol sở hữu các công ty tài chính phi ngân hàng.
Khống chế đầu tư lòng vòng vào các công ty thành viên và cấm một số giao dịch
giữa các công ty thành viên với nhau.
Nghiêm cấm lễ lộc, quà cáp, hình thức tác động không hợp lệ đối với những
người thừa kế chaebol.
1.3.2.Nhật Bản
Trước chiến tranh thế giới thứ 2, nền kinh tế Nhật Bản có nhiều chuyển biến, nổi
bật là sự xuất hiện của các tập đoàn kinh tế lớn gọi là các Zaibatsu.
Đặc điểm chính của các Zaibatsu: Các công ty trong ngành công nghiệp khác
nhau gắn bó với nhau vì cùng nguồn gốc và cùng chung một quyền sở hữu, cùng được
một ngân hàng cung cấp tiền và thường buôn bán giao dịch với nhau.
Mỗi Zaibatsu có một ngân hàng hoạt động với chức năng cung cấp tiền. Tiền gửi
của công chúng được đưa tới các công ty thành viên khác của nhóm bằng những khoản
vay hoặc bảo hiểm cho việc phát hành cổ phần và giấy nợ. Khả năng dễ dàng huy động
vốn đã cho phép các Zaibatsu dẫn đầu trong công cuộc phát triển công nghiệp nặng
nhiều vốn như cơ khí và hoá chất giữa hai cuộc đại chiến thế giới.
Quy mô và mức độ chi phối nền kinh tế: Phần lớn nền kinh tế công nghiệp Nhật
Bản lúc bấy giờ bị chi phối bởi bốn Zaibatsu lớn là Mitsubishi, Yasuda, Iwasaki, Mitsui
và một số Zaibatsu nhỏ. Vào năm 1941 thì bốn Zaibatsu này có thể kiểm soát 39% đầu
tư toàn quốc vào ngành công nghiệp nặng.
Kinh nghiệm trong việc điều hành Các Zaibatsu
Các vị trí quan trọng của công ty con phải là người do công ty mẹ đề cử.
Một mặt, phát triển ổn định và bền vững những lĩnh vực kinh doanh truyền thống.
Mặt khác, nghiên cứu và phát triển những ngành kinh doanh mới.
-18-
1.3.3.Trung Quốc
Ở Trung Quốc các tập đoàn kinh tế được biết đến với tên gọi là các tập đoàn xí
nghiệp. Do yêu cầu cạnh tranh của thị trường, một số xí nghiệp đã liên kết lại với nhau
thành một thực thể kinh tế.
Lấy xí nghiệp lớn và trọng tâm làm cốt lõi, có thực lực kinh tế hùng hậu, có vị
trí tương đối quan trọng trong nền kinh tế. Tập đoàn xí nghiệp ở Trung Quốc có nhiều
chức năng như sản xuất, nghiên cứu khoa học, tiêu thụ, phục vụ. Các xí nghiệp thành
viên trong tập đoàn xí nghiệp có mối quan hệ trao đổi, tức là thực hiện nguyên tắc lãi
cùng hưởng, lỗ cùng chịu, khuyến khích cạnh tranh và gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự ra
đời của các tập đoàn xí nghiệp ở Trung Quốc là sự phát triển quan trọng trong việc liên
hợp kinh tế ngang, nó thích ứng với yêu cầu hợp tác sản xuất lớn, chuyên môn hoá, xã
hội hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và tỏ ra có sức sống khá mạnh trong nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa.
1.3.4.Thái Lan
Hoạt động của các doanh nghiệp ở Thái lan đã có những bước tiến đáng kể để
hoà nhập với nền kinh tế thế giới và chính sự xuất hiện của TĐKT Thái Lan đã chứng
minh cho quá trình hội nhập này. Có thể đơn cử cho sự phát triển của tập đoàn xi măng
SIAM là ví dụ: Tập đoàn ximăng SIAM được hình thành trên cơ sở phát triển công ty xi
măng Siam. Từ một công ty với nhiệm vụ ban đầu là sản xuất và cung ứng xi măng, đến
nay tập đoàn SIAM đã mở rộng hoạt động ra rất nhiều ngành sản xuất và thương mại
khác nhau.
Sự phát triển của tập đoàn được thực hiện chủ yếu bằng hai cách:
Thứ nhất là các bộ phận của các công ty do sự phát triển của sản xuất, các bộ
phận của các công ty tự lớn lên và khi có đủ khả năng sản xuất đã tách thành những
công ty độc lập nhưng vẫn là thành viên của tập đoàn để đáp ứng nhu cầu trong nước
tăng nhanh.
Thứ hai là hàng loạt các công ty thành viên của tập đoàn được thành lập theo
kiểu công ty liên doanh với nước ngoài. Phát triển các công ty liên doanh cho phép khai
-19-
thác được các nguồn đầu tư và công nghệ nước ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh
phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh trong nước và xuất khẩu.
Sự phát triển và mở rộng sản xuất, kinh doanh của tập đoàn xi măng Siam chủ
yếu tập trung vào 20 năm trở lại đây. Hàng loạt các công ty mới được hình thành và các
công ty liên doanh ra đời từ sau những năm 80. Điều đó phản ánh một thực tế khách
quan là sự phát triển của tập đoàn gắn bó chặt chẽ với tình hình phát triển và tăng
trưởng kinh tế của Thái Lan, đồng thời nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế Thái Lan phát
triển nhanh hơn.
1.4.Khái quát quá trình hình thành tập đoàn kinh tế theo mô hình CTM-CTC ở
Việt Nam
1.4.1.Sự ra đời TĐKT ở Việt Nam
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước chủ trương hình thành một số
tập đoàn kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa
cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn,
hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự
gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo nghiên cứu triển khai với
sản xuất kinh doanh.
Ở Việt Nam, mô hình TĐKT liên kết theo hàng ngang đã có mầm mống hình
thành từ những năm giữa của thập kỷ 90; Ví dụ cụ thể là ngân hàng thương mại cổ phần
Á Châu có một số công ty xoay quanh như công ty xây dựng An Cư, Công ty xây dựng
Tam Thắng, công ty thương mại Việt – Trung, công ty thương mại Việt – Mỹ,... Mặc dù
quy mô của chúng còn khá khiêm tốn, nhưng một số chuyên gia cho rằng từ mô hình
này có thể phát triển hiệu quả thành một TĐKT thực thụ với trung tâm điểm (công ty
mẹ) là ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu và các vệ tinh (công ty con) là công ty
thương mại Việt – Trung, công ty thương mại Việt – Mỹ.
Mô hình tập đoàn kinh tế liên kết hàng dọc được phát triển rộng rãi với việc hình
thành một số tổng công ty(TCT) như TCT nhựa lấy công ty nhựa Bình Minh làm nòng
cốt, TCT rượu bia trong đó công ty bia Sài Gòn là công ty chủ chốt...
-20-
Mô hình tập đoàn liên kết hỗn hợp ở nước ta hình thành trên cơ sở kinh doanh và
phân phối nhiều loại hàng khác nhau không nhất thiết do chính tập đoàn này sản xuất.
Đó là dạng mô hình TCT thương mại Sài Gòn có trên 20 công ty là thành viên.
Thời gian gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sự phát
triển của thị trường chứng khoán, khá nhiều các TĐKT tư nhân hình thành và phát triển
mạnh như: tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, tập đoàn Hoà Phát, tập đoàn Gạch Đồng Tâm,
tập đoàn Mai Linh… Bên cạnh đó, các tập đoàn kinh tế Nhà nước hàng đầu cũng đã
được hình thành từ việc chuyển đổi các TCT Nhà nước như: tập đoàn Điện Lực, tập
đoàn Bưu Chính Viễn Thông, tập đoàn Dầu Khí, …
1.4.2.Những thành quả và hạn chế.
1.4.2.1.Những thành quả đạt đƣợc
Sau mười năm, kể từ năm 2001, vừa làm vừa rút kinh nghiệm các TĐKT theo
mô hình CTM-CTC, chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực. Theo như hội nghị
thường niên giữa Thường trực Chính phủ và các Tập đoàn ngoại trừ Vinashin, tổng
doanh thu năm 2010 của 21 tập đoàn, tổng công ty 91 còn lại ước đạt 1.173.489 tỷ
đồng, tăng 22% so với kế hoạch. Cũng trong năm 2010, 21 tập đoàn, tổng công ty 91 đã
nộp ngân sách nhà nước đạt 173.549 tỷ đồng, tăng 31% so với thực hiện năm 2009.
Phương thức hình thành tổ hợp CTM-CTC ở nước ta thời điểm qua đã thể hiện
rất rõ sự đa dạng, có trường hợp hình thành từ Viện nghiên cứu khoa học (trường hợp
Viện máy và dụng cụ công nghiệp). Từ công ty thành viên hạch toán độc lập của TCT
Nhà nước; từ công ty Nhà nước độc lập; từ TCT Nhà nước. Đa số các trường hợp là
chuyển đổi, tổ chức từ mô hình TCT cũ như TCT Công nghiệp tàu thủy, TCT Bia –
Rượu – Nước giải khát Hà Nội, TCT Điện Lực Việt nam, TCT Bảo Hiểm Việt Nam,
TCT Bưu Chính Viễn Thông… Một số trường hợp lại do DNNN chủ động góp vốn với
các DN khác để thành lập những pháp nhân mới và hoạt động theo Luật doanh nghiệp
mà điển hình là Công ty may Việt Tiến đã góp vốn với DNNN của tỉnh Cần Thơ để
hình thành công ty may Tây Đô, với DNNN của tỉnh Đồng Nai để thành lập công ty
-21-
may Đồng Tiến. Hiện nay Việt Tiến là CTM trong TCT may Việt Nam, điều hành tới
33 đầu mối sản xuất kinh doanh trong tổ hợp của mình.
Trên thực tế, nhìn chung các đơn vị thí điểm đều hình thành CTM vừa trực tiếp
SXKD một lĩnh vực chính, vừa đầu tư tài chính vào DN khác. Điều này cũng là hợp lý
vì trong giai đoạn đầu, CTM cần phải nắm giữ một số hoạt động SXKD chính nhằm duy
trì vị thế và khả năng chi phối và hỗ trợ đối với CTC, đặc biệt là bảo lãnh tín dụng và sử
dụng thương hiệu chung. Sau khi mô hình đã vận hành trôi chảy. CTM sẽ tăng dần tỷ
trọng hoạt động đầu tư tài chính so với hoạt động trực tiếp SXKD. Khi tập trung hoạt
động đầu tư tài chính, CTM có điều kiện tập trung tối đa hóa hiệu quả đầu tư phát triển,
tập trung vào định hướng chiến lược hoạt động cho tổ hợp nghiên cứu đổi mới công
nghệ, cơ cấu sản phẩm, phát triển thị trường, phát huy được lợi thế so sánh về vốn, công
nghệ, thương hiệu và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tổ hợp mẹ – con còn tạo điều
kiện cho các đơn vị giảm chi phí sản xuất do giảm được chi phí kinh doanh trung gian,
thay chi phí giáo dục bằng các chi phí giao dịch nội bộ, giảm lao động gián tiếp do bớt
một số đầu mối, phòng ban chuyên môn trước đây có ở tất cả các thành viên nay chỉ tồn
tại ở CTM. Các TCT Bia, rượu, nước giải khát đã rất hiệu quả xét trên khía cạnh này.
Mô hình CTM-CTC cũng làm thay đổi căn bản quan hệ, trách nhiệm, quyền hạn,
lợi ích giữa CTM với các CTC, công ty liên kết từ điều hành quản lý kiểu CTM tham
gia quản lý CTC với tư cách là cổ đông, thành viên góp vốn, nhận cổ tức từ CTC theo tỷ
lệ vốn góp, xóa bỏ việc thu phụ phí quản lý từ các CTC, CTC tự chủ trong hoạt động
kinh doanh, mọi quan hệ về thương mại với CTM đều thông qua hợp đồng kinh tế, từ
đó tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong tổ hợp với CTM đó là sự gắn kết
bằng lợi ích kinh tế.
Về phía mình, các công ty thành viên đã được cổ phần hoá và hoạt động theo mô
hình mới, là pháp nhân độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, đã khắc phục được tình trạng trông chờ, ỷ lại vào CTM về mọi vấn đề sản
xuất kinh doanh như trước kia. Các CTC đã thật sự linh hoạt trong quản lý, điều hành,
chuyên môn hóa sản phẩm để tối đa hóa lợi nhuận, tự do nâng cao năng lực cạnh tranh
cho cả tổ hợp. Chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình CTM-CTC, tạo điều kiện cho
các công ty Nhà nước độc lập làm ăn có hiệu quả có thể mở rộng hoạt động kinh doanh
-22-
của mình bằng cách tách các bộ phận độc lập tương đối để hình thành những thực thể
kinh doanh mới và qua đó cho phép các công ty có tiềm lực có thể vươn lên để thành
những tổ hợp tập đoàn lớn có sức cạnh tranh mạnh. Mô hình CTM-CTC tạo động lực và
điều kiện để các TCT Nhà nước đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa công ty thành viên.
Trước đó các TCT còn rất e ngại cổ phần hóa, vì càng cổ phần hóa càng giảm bớt doanh
nghiệp thành viên. Mô hình mới tạo điều kiện cho các TCT, công ty Nhà nước thực hiện
việc đa dạng hóa các khoản vốn đầu tư nhằm phân tán rủi ro, linh hoạt hơn trong điều
chỉnh vốn từ những nơi kém hiệu quả từ công ty con, công ty liên kết thua lỗ chuyển
sang doanh nghiệp có hiệu quả hơn, huy động rộng rãi tiềm năng về vốn ngoài xã hội
cho sự phát triển của cả TCT.
Việc thí điểm cho thấy những mặt được và tác dụng của chuyển đổi sang mô
hình mới, không chỉ là đối với các doanh nghiệp chuyển đổi, mà quan trọng hơn là nhờ
đó rút ra được những kinh nghiệm đối với các cơ quan Nhà nước.
Việc chuyển đổi các TCT, các công ty thành viên TCT xác định rõ được địa vị
pháp lý, tư cách pháp nhân, tránh tình trạng pháp nhân trong pháp nhân như hiện nay
giữa TCT Nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập.
Tóm lại, các kết quả đạt được của mô hình CTM-CTC tại các đơn vị thực hiện chuyển
đổi trong thời gian vừa qua chỉ dừng lại ở kết quả của việc thực hiện cổ phần hoá các
DNNN. Cho đến nay, hiệu quả của TĐKT là chưa có, vì các doanh nghiệp đang trong
quá trình quá độ để phát triển thành TĐKT. Vì vậy, để các tổ hợp CTM-CTC trở thành
TĐKT cần phải có thời gian hoà nhập và những giải pháp định hướng để các DNNN nói
riêng và TĐKT tại Việt Nam nói chung phát triển thành TĐKT thực thụ.
1.4.2.2.Những hạn chế cần khắc phục
Chuyển đổi tổng công ty Nhà nước sang mô hình công ty mẹ - công ty con là
một hướng đi phù hợp với xu thế phát triển của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, đây là giai đoạn quá độ hình thành các TĐKT nên phát sinh một số vấn đề
cần tháo gỡ để quá trình chuyển đổi mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp và
Nhà nước:
Vấn đề năng lực và cách điều hành của CTM
-23-
Mặc dù chuyển sang mô hình CTM - CTC một số doanh nghiệp vẫn giữ thói
quen điều hành bằng mệnh lệnh hành chính trong mối quan hệ giữa “mẹ” với “con”.
Điều lệ hoạt động của khá nhiều công ty mẹ – con chưa thể hiện sự bình đẳng các doanh
nghiệp pháp nhân độc lập, dành quyền cho công ty mẹ quá nhiều và cho công ty con
quá ít.
CTM hầu hết vẫn là công ty 100% vốn Nhà nước. Chưa dám cổ phần hóa nên
nguồn lực tài chính của CTM còn yếu, vì vậy chưa thực sự làm được vai trò của CTM.
Nhiều CTM chưa xác định và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của
người chủ sở hữu đối với phần vốn góp chi phối tại các CTC. Quy chế hoạt động và báo
cáo của người đại diện chủ sở hữu chưa rõ, dẫn đến CTM không nắm chắc được toàn bộ
hoạt động kinh doanh của CTC.
Nhiều CTM chưa đủ vốn điều lệ theo yêu cầu. Một số CTM tuy tiềm lực tài
chính yếu nhưng vẫn cứ duy trì là công ty Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ nên khả năng
chi phối, hỗ trợ các công ty con rất hạn chế, làm cho hiệu quả hoạt động chung của tổ
hợp không cao. Trong một vài trường hợp, khi các CTC có nhu cầu nâng quy mô vốn để
đầu tư phát triển bằng cách phát hành thêm cổ phiếu thì công ty mẹ không đủ khả năng
tiếp tục đầu tư vốn mua cổ phần để chi phối CTC. Khi đó, CTM có thể sẽ dùng quyền
phủ quyết để không tăng vốn. Đây là một nguy cơ cản trở CTC phát triển đã diễn ra
trong thực tế.
Vấn đề cơ cấu tổ chức của CTM
Hiện nay tại Việt Nam mô hình CTM có HĐQT được áp dụng phổ biến nhất và
cũng là mô hình được quy định trong Luật DNNN 2003. Tuy nhiên, theo mô hình này,
cơ cấu tổ chức không khác gì, cơ cấu tổ chức của TCT. Vẫn là cơ cấu tổ chức ấy, vẫn
những con người ấy và vẫn cách điều hành ấy, có nghĩa là trên phương diện giấy tờ văn
bản thì một tổ chức mới đã thay thế cho tổ chức cũ, nhưng bộ máy hoạt động thì chưa
thực sự có những đổi mới cần thiết.
Mâu thuẫn về thẩm quyền và lợi ích.
Trong mô hình CTM-CTC sẽ tồn tại hai dòng thẩm quyền và hai lợi ích: thẩm
quyền và lợi ích của cả tập đoàn và thẩm quyền và lợi ích nội bộ của các công ty thành
viên. Khi hai dòng thẩm quyền cùng tác động tạo ra khó khăn trong quản lý điều hành
-24-
và khi hai loại lợi ích không thống nhất sẽ tạo ra mâu thuẫn giữa các chủ thể. Một thành
viên HĐQT của một công ty thành viên cũng có hai loại bổn phận và trách nhiệm. Thứ
nhất, người đó phải trung thành với lợi ích của các cổ đông của công ty, những người đã
ủy thác tài sản cho họ. Thứ hai, họ phải trung thành với những lợi ích của cả tập đoàn.
Mâu thuẫn về lợi ích có thể nảy sinh giữa các công ty thành viên và cả tập đoàn.
Một số hoạt động của một công ty thành viên sẽ có lợi cho công ty đó, nhưng lại bất lợi
cho cả tập đoàn. Một công ty thành viên có thể muốn đầu tư phát triển sản phẩm mới,
mua thêm máy móc thiết bị, tăng số lượng công nhân nhưng xét trên bình diện cả tập
đoàn thì điều này lại không có lợi, vì có thể các hoạt động này được thực hiện ở các
công ty khác sẽ phù hợp hơn. Một CTC có thể muốn theo chiến lược phát triển nhanh,
nhưng CTM tại muốn CTC đó theo chiến lược duy trì, vì đã có một số CTC khác triển
vọng phát triển tốt hơn theo chiến lược phát triển nhanh.
Nếu CTM sở hữu toàn bộ CTC thì vấn đề này dễ giải quyết, vì lợi ích của cả tập
đoàn là mục tiêu cuối cùng, nhưng nếu CTC còn có các cổ đông nhỏ khác thì đây là một
vấn đề nan giải, vì trong quan hệ lợi ích người này được thì người kia sẽ mất.
TÓM TẮT CHƢƠNG 1
Việc Xây dựng và phát triển các TĐKT là một công việc khó khăn và phức tạp, cần
phải có thái độ khoa học, thật sự cầu thị, mạnh dạn học hỏi các quốc gia khác, nhất là kinh
nghiệm xây dựng TĐKT của các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan.
Từ đó đặt ra sách lược và bước đi thích hợp với tình hình của Việt Nam, đưa tư tưởng kinh
doanh lên đỉnh cao, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế, đồng thời hướng hoạt động của
các TĐKT ra nước ngoài. Phần kế tiếp luận văn sẽ đi vào phân tích thực trạng hoạt động
của Công Ty Cổ Phần XNK Intimex.
-25-
CHƢƠNG 2 : PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN XNK INTIMEX
2.1.Giới thiệu về Công Ty Cổ Phần XNK Intimex
2.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của Công Ty Cổ Phần XNK Intimex
Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Intimex, tên viết tắt là Intimex HoChiMinh,
được thành lập theo chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4103004940 của Sở Kế hoạch
và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp lần đầu ngày 26/06/2006. Công ty chính thức đi
vào hoạt động theo mô hình Công ty cổ phần kể từ ngày 01/07/2006.
Tiền thân của Công ty là Chi nhánh Công ty XNK Intimex tại Thành phố Hồ Chí
Minh trực thuộc Công ty XNK Intimex – thuộc Bộ Thương mại, được thành lập theo
Quyết định số 590/ IN/TCCB ngày 14/08/1995 của Công ty Xuất nhập khẩu Dịch vụ
Thương mại Intimex. Công ty được thành lập trên cơ sở cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước theo quyết định số 3200/QĐ-BTM ngày 30/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Thương
mại về việc phê duyệt phương án cồ phần hóa Chi nhánh Công ty XNK Intimex tại
thành phố Hồ Chí Minh và chuyển Công ty thành Công ty cổ phần.
Vốn điều lệ hiện tại : 115.200.000.000 đồng
Các thành tích đạt đƣợc
Trong quá trình hình thành và phát triển, Công ty đã đạt được những thành tích và các
danh hiệu cao quý như:
+ Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín 2006 do Bộ Thương mại cấp.
+ Doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu xuất sắc 2006 do Ủy ban Quốc gia và
Hợp tác Kinh tế và Báo Thương mại cấp.
+ Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín năm 2007 do Bộ Công Thương bầu chọn.
+ Doanh nghiệp đã có thành tích hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác năm
2007 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tặng.
+ Top 15 Doanh nghiệp Thương mại Dịch vụ xuất sắc năm 2008 do Bộ Công
Thương, Báo Công Thương tổ chức.