Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

vận dụng tư tưởng nhân văn của hồ chí minh trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.44 KB, 18 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Nhân văn là giá trị phổ quát, là tổ hợp các yếu tố chân - thiện - mỹ,
là hiện thân của thiên hướng vươn lên và hoàn thiện không ngừng của
chính con người. Vì vậy nhân văn bao giờ cũng là lý tưởng và mục tiêu
mà loài người hằng vươn tới, nó tồn tại, phát triển và ngày càng thể
hiện sức sống mãnh liệt của mình trong suốt tiến trình phát triển xã hội.
Khát vọng nhân văn ở con người, dù là phương Đông hay phương Tây,
cũng đều cháy bỏng và lớn lao. Ở đâu có điều kiện thuận lợi thì ở đó tư
tưởng nhân văn nảy nở và phát triển. Việt Nam với lịch sử dựng nước
và giữ nước hào hùng, gây dựng truyền thống yêu nước và đạo lý làm
người của mình, là mảnh đất ươm sẵn những hạt giống nhân văn, để từ
đó bừng lên những mầm xanh tư tưởng nhân văn .
Hồ Chí Minh, một thiên tài như được đúc kết từ tinh hoa truyền
thống nhân văn của dân tộc Việt Nam; dù khi Người bôn ba khắp năm
châu bốn biển để tìm đường cứu nước cứu dân, được sống trong nhiều
nền văn minh của các dân tộc khác nhau, được tiếp xúc với những tư
tưởng vĩ đại của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lênin, tới tận phút cuối
cùng của cuộc đời, tư tưởng nhân văn của người càng ngời sáng hơn,
trở thành lý luận, thành hiện thực vững chắc.
1
Đối với thanh niên chúng ta hiện nay, việc học tập và nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Tiếp thu những giá trị văn hoá mà
Người để lại, từ đó dần hoàn thiện mình hơn, phát huy được bản chất
tốt đẹp, ý chí vươn lên vốn có trong mỗi con người. Nhất là trong công
cuộc đổi mới và mở cửa đất nước trong điêu kiện hiện nay, việc phát
huy được những giá trị nhân văn trong mỗi con người càng trở nên cần
thiết hơn bao giờ hết. Có như vậy chúng ta mới có thể là những chủ
nhân tương lai của đất nước như lời Bác dạy với khát khao đưa đất
nước đi lên hoà nhập với cộng đồng quốc tế nhưng vẫn giữ vững được
những giá trị nhân văn truyền thống cao đẹp của dân tộc từ nghìn xưa


để lại.
2
I. ĐÔI NÉT VỀ TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN CỦA HỒ CHÍ
MINH
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu
cầu nhân bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người
những gì mà nó vốn có, trước hết là quyền được sống theo nghĩa “người
ta sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đất nước
Việt Nam - cái nôi của con rồng cháu tiên, phải để cho người Việt Nam
được gọi là Tổ quốc, chứ không cần đến một “mẫu quốc” bên phương
Tây xa xôi tới “khai hoá”! Đã là con người thì ai cũng có quyền làm
người, quyền tự do, quyền sống bình đẳng. Phải trả lại độc lập cho nhân
dân Việt Nam để họ làm chủ đất nước mình, tự mình xây dựng cuộc
sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư tưởng nhân
bản cơ bản đầu tiên được hình thành trong con người Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở đó, Người kêu gọi xoá bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử
với con người như là Con Người chân chính.
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi
ở Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các
hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng, Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa học, trở thành học
thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng cộng sản chủ nghĩa
của các lãnh tụ thiên tài là C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V. I. Lênin.
3
Thấm nhuần tư tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tự
nguyện đứng vào hàng ngũ những người cộng sản quốc tế, chiến đấu hi
sinh cho lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Và thực tế, Người đã
trở thành một trong những chiến sĩ đi tiên phong trong cuộc đấu tranh
lật đổ chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới trên phạm vi toàn
thế giới. Người quan tâm đến số phận từng con người , vận mệnh từng

dân tộc, từng quốc gia khắp năm châu. Cuộc cách mạng mà người theo
đuổi là cuộc đấu tranh giai cấp, lật đổ giai cấp bóc lột, giải phóng giai
cấp bị bóc lột, đưa loài người tiến đến một xã hội tốt đẹp. Tư tưởng Hồ
Chí Minh vì thế có tầm giai cấp quốc tế, tầm nhân loại.
Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sâu sắc lý tưởng cộng sản chủ nghĩa,
lấy nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản để thực hiện lý tưởng nhân văn cụ
thể của con người: xoá bỏ xã hội cũ thối nát và phản nhân đạo để xây
dựng một xã hội mới mà ở đó, người với người là đồng chí, bạn bè, anh
em, sống hoà bình, hợp tác, hữu nghị trong thế giới đại đồng. Chính vì
vậy khi Quốc tế II phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau,
Người đã chọn Quốc tế III, vì nó đề ra mục tiêu đúng với tư tưởng của
Người là chống phong kiến, đế quốc, giải phóng dân tộc, mà thực chất
là giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa - vấn đề bức xúc nhất, bản chất
nhất của cách mạng thế giới lúc bấy giờ.
4
Giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa, theo Hồ Chí Minh không
phải là nhiệm vụ cuối cùng, mà là khâu đột phá để tiến tới giải quyết
vấn đề cách mạng thế giới. Giải phóng từng dân tộc là điều kiện cho
việc giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa; giải phóng giai cấp vô sản
là để đi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mục tiêu đó quán xuyến toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của Người. Đó cũng là nền tảng cho tinh thần
đoàn kết giữa các dân tộc toàn nhân loại trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa Quốc tế chân chính. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
và giải phóng con người, theo Người, cũng chỉ mới là tiền đề để thực
hiện mục tiêu thiêng liêng nhất của con người là phát triển toàn bộ bản
chất người với mọi phẩm chất tốt đẹp, với mọi tiềm năng và năng lực
sáng tạo cũng như khả năng hưởng thụ cao các giá trị văn hoá do chính
mình sáng tạo ra.
Chính với quyết tâm thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh
có một thái độ hết sức khoan dung, độ lượng, một tinh thần đoàn kết,

hoà hợp. Phê phán phản đối tư tưởng biệt phái, chia rẽ các tín ngưỡng
tôn giáo trong nước và trên thế giới, Người tiếp thu tất cả tinh hoa trí
tuệ, ước mơ, khát vọng chân chính của nhân loại nhằm đạt tới mục đích
cuối cùng là đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Người đã hội tụ những
tinh hoa của tất cả các tư tưởng nhân văn của nhân loại, từ tư tưởng
5
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Trung, Hiếu của đạo Nho, tinh thần từ
bi, cứu nhân độ thế, phấn đấu đạt tới sự sáng láng của đạo Phật, đến
ước mơ vươn tới một xã hội cao đẹp, con người hoàn thiện của đạo
Thiên chúa. Người đã chắt lọc ưu điểm trong các học thuyết của Khổng
Tử, Thích ca Mâu ni, Tôn Dật Tiên, Giê-su… Đặc biệt người đã tìm
thấy ở học thuyết Mac-Lênin nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa.
Người nhận thấy rằng, ở tất cả các vị tiền bối đều có chung một ưu
điểm là mưu cầu hạnh phúc cho con người. Công lao đó của Người, tự
nó đã thể hiện một tinh thần, một bản chất nhân văn lớn lao, cao cả, vì
cuộc sống tốt đẹp của con người, vì hạnh phúc và tiến bộ của nhân gian.
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh còn thể hiện một cách đặc sắc
ở khát vọng và tinh thần quyết tâm biến tư tưởng thành hiện thực. Cốt
lõi của thế giới quan duy vật, phương pháp luận khoa học và nhân sinh
quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh chuyển hoá thành một tổ
hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh , rồi nó lại được thăng hoa,
biến thành một chất tư tưởng mới rất riêng, trong đó có sự hoà quyện
giữa chiều sâu lý luận và sinh khí cuộc sống. Tiếp thu bản chất khoa
học và cách mạng, tinh thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác- Lênin,
Người thực hiện khát vọng cháy bỏng của mình là biến tình thương
người , tình yêu cuộc sống thành hành động.
6
Lòng nhân ái Hồ Chí Minh bao la rộng, lớn bao nhiêu đối với nhân
loại thì cũng sâu nặng bấy nhiêu đối với con người, dân tộc Việt Nam.
Nhận nhiệm vụ từ Quốc tế cộng sản, trở về Tổ quốc, Người dành tất cả

tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở thành lãnh tụ của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà , Người không màng danh lợi cá nhân, suốt
đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc
và sự phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao
quát toàn bộ cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc
lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng đó được kết
tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉ đối với nhân dân Việt Nam
mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: Không có gì quý hơn độc
lập, tự do.
Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh đã vạch ra con
đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là “ Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội”. Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất
nước còn nô lệ. Vì vậy ham muốn tột bậc của Người là “làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”. Độc lập,
tự do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh,
trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hi sinh cống hiến của
Người. Bởi vì đó là điều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ
cho nhân dân Việt Nam.
7
Lý tưởng nhân văn đó được Hồ Chí Minh biến thành mục tiêu của
cách mạng Việt Nam là xây dựng xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa.
Với sức mạnh khoa học của chủ nghĩa Mac- Lênin, với niềm tin sắt đá
vào tương lai và ý chí quyết tâm của người cộng sản, Người đã lãnh đạo
nhân dân Việt Nam lam nên những chiến công hiển hách. Tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh thấm sâu trong đường lối của Đảng, trở thành
ngọn cờ hướng dẫn nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ
năm 1954 chấn động địa cầu và đại thắnng mùa xuân 1975 thần thánh.
Đất nước giành được độc lập, dân tộc giành được tự do,nhiệm vụ
trọng tâm của dân tộc Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là lô-
gích tất yếu của lý thuyết phát triển theo hướng nhân văn, vì chủ nghĩa

xã hội là xã hội phù hợp nhất với bản chất con người, là xã hội tốt đẹp
nhất mà loài người hằng vươn tới. Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Người lãnh đạo toàn dân xây dựng không phải là thứ chủ nghĩa xã hội
cực đoan, hẹp hòi, vị kỷ của một giai cấp, một đảng phái nào. Mục tiêu
và phương thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh
cũng không chỉ là chuyên chính, phá bỏ, cũng không phải là một cái gì
đó mơ hồ, không tưởng như nhiều người, nhiều đảng đương thời trên
thế giới quan niệm. Đó là chủ nghĩa xã hội hiện thực, cụ thể gắn liền
với dặc điểm lịch sử, truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc. Chủ
8
nghĩa xã hội mà người lãnh đạo ở Việt Nam là một xã hội mới công
bằng, nhân đạo và tốt đẹp, nhằm mục tiêu cụ thể là: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người hạnh phúc.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo thực
sự là một cuộc cách mạng giải phóng và phát triển mọi tiềm năng của
dân tộc, của xã hội, cụ thể là giải phóng và phát triển con người. Người
luôn quan niệm rằng: “ Nếu nước độc lập mà người dân không hưởng
hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Chính tấm lòng
nhân hậu Hồ Chí Minh đã đúc kết nên tư tưởng nhân văn của Người:
con người không chỉ được giải phóng về mặt xă hội, mà chủ yếu và
cuối cùng là giải phóng và phát triển toàn bộ bản chất và bản tính tốt
đẹp của mình. Bản chất sâu xa, lớn lao trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh là, tất cả đều vì sự phát triển con người Việt Nam: xoá bỏ tha hoá,
trả lại cho con người phẩm chất Người, giải phóng toàn bộ tiềm năng,
thể chất, trí tuệ, tài năng sáng tạo của con người, tạo mọi điều kiện cho
con người phát triển toàn diện - hài hoà về đức - trí - thể - mỹ . Với tinh
thần đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến thanh, thiếu niên. Vì thanh
niên là:” người chủ tương lai của nước nhà”,”nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Người yêu cầu
Chính phủ phải chú ý đặc biệt tới việc giáo dục thanh, thiếu niên về thể

dục, đức dục và trí dục.
9
Một điểm đáng được lưu ý là, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có
tính vượt thời đại, đó là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai,
lo cho tương lai của đất nước. Trong chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất
nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh
đã thấy trước thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Người luôn
nghĩ tới và đặt kế hoạch cho sự phát triển tương lai của đất nước. Người
có kế hoạch đào tạo nhân tài cho đất nước, kể cả đào tạo ở nước ngoài.
Trong hoàn cảnh đời sống vật chất còn rất nhiều khó khăn, Người vẫn
quan tâm xây dựng đời sống văn hoá, phát triển khoa học kỹ thuật. Đặc
biệt, Người rất quan tâm tới xây dựng và phát triển đời sống tinh thần
của nhân dân. Theo Người, giá trị thiêng liêng nhất, cao quý nhất và
trường tồn nhất của con người chính là giá trị tinh thần. Càng lùi xa
chiến tranh, lùi xa đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn của quá khứ,
chúng ta càng thấy tư tưởng đó của Người là đúng đắn và sẽ mãi giữ
nguyên giá trị.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN CỦA HỒ CHÍ
MINH TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Tư tưởng cộng sản chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh nâng những yêu
cầu có tính nhân bản lên tầm cao hơn, đó là tính nhân văn thực thụ.
Tính nhân văn ở đây không còn bị giới hạn trong khuôn khổ giải quyết
vấn đề vị trí của con người, giải thoát con người khỏi kiếp ngựa trâu do
10
chế độ nô lệ trói buộc, mà là giải quyết vấn đề xây dựng vị thế con
người trong xã hội mới. Tư tưởng của Người lúc này không chỉ là xoá
bỏ tình trạng tha hoá, đưa con người về đúng vị trí của mình, mà còn là
phát huy mọi tiềm năng của con người để xây dựng mội cuộc sống mới.
Muốn vậy, trước hết phải thực hiện tư tưởng nhân văn tư sản là tự do,
bình đẳng và bác ái. Sau đó, từng bước thực hiện lý tưởng nhân văn

cộng sản chủ nghĩa để tiến tới xây dựng một xã hội cộng đồng và hoà
hợp. Ở đó con người không chỉ có đủ các điều kiện để phát huy mọi tài
năng trong xây dựng xã hội mới, mà còn có đủ điều kiện để phát triển
toàn diện, hài hoà chính bản thân mình với tư cách là mục đích tối cao
của con người. Đây là tầm nhân văn cao nhất của con người, của xã hội
loài người trên phương diên lý thuyết. Tư tưởng này thể hiện ở tầm cao
hơn, sâu hơn còn bởi vì nó mở ra tính nhân văn vô tận của chủ nghĩa
cộng sản: Con người là mục đích của lịch sử, của mọi hoạt động của
chính con người”.
Để trước hết thực hiện quyền tự do dân chủ cho nhân dân thì nhà
nước cần có những giải pháp hành chính hợp lý và chú trọng đến quyền
lợi của nhân dân. Trong điều kiện hiện nay, để có được những điều trên,
trước hết cần cải cách tổ chức và đổi mới hoạt động của bộ máy nhà
nước theo hướng phát huy ngày càng đầy đủ quyền làm chủ của nhân
11
dân. Quyền làm chủ của nhân dân phải được thực hiện bằng những quy
chế cụ thể, không thể thực hiện chỉ bằng hô hào khẩu hiệu.
Việc ban hành sửa đổi chính sách pháp luật phải dựa trên cơ sở trưng
cầu ý kiến rộng rãi trong nhân dân. Thực hành theo đúng quy chế dân
chủ ở cơ sở, bảo đảm trên thực tế dân được biết, được nói, được bàn,
được kiểm tra giám sát, được lựa chọn và bãi miễn đại biểu do mình
bầu ra. Cùng với xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng bộ
máy, cải cách thể chế hành chính, Đảng và nhà nước phải có quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ công chức một
cách toàn diện, coi trọng cả đức lẫn tài, trong đó dức là gốc. Trong xác
định tiêu chuẩn, cụ thể hoá tiêu chuẩn với từng chức danh cán bộ, công
chức, phải coi trọng hàng đầu đến tiêu quan điểm quần chúng, thái độ
phục vụ nhân dân. Trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, cần dặc
biệt coi trọng bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lập trường giai cấp, động
cơ học tập, rèn luyện, phấn đấu; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo tại

trường với bồi dưỡng tại chức và rèn luyện thử thách trong hoạt động
thực tiễn ở địa phương, cơ sở.

Trong bố trí, sử dụng cán bộ công chức, phải thật sự công tâm và
chặt chẽ. Những người tài cao đức tốt, có uy tín cao trong nhân dân cần
phải được bố trí, đề bạt với cương vị tương xứng. Những người dù tài
12
giỏi đến đâu, nhưng có biểu hiện suy thoái về đạo đức, bị nhân dân oán
ghét thì kiên quyết xử lý. Đồng thời chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
cho cán bộ, công chức nhà nước để họ chuyên tâm với công việc, hết
lòng hết sức với dân.
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân cần phải có quyết tâm
cao, nhận thức thống nhất, giải pháp đồng bộ trong cuộc đấu tranh
phòng ngừa và chống tham nhũng. Kịp thời bổ sung hoàn thiện các cơ
chế, quy định về quản lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công, ngân
sách nhà nước và các quỹ do nhân dân đóng góp. Một mặt xác định rõ
chế độ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, đề cao sự gương mẫu, chủ
động và kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng của người đứng
đầu các địa phương, cơ quan, đơn vị. Mặt khác có cơ chế khuyến khích
và bảo vệ những người tích cực đấu tranh, xây dựng thiết chế để nhân
dân tham gia giám sát, phát hiện, đấu tranh phòng chống tham nhũng.
Biểu dương và nhân rộng những gương cần, kiệm, liêm, chính, có chính
sách tôn vinh những người có tài năng, tâm huyết, có đóng góp xứng
đáng trong sự ngiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Trong tình hình mới hiện nay, với xu hướng mở rộng hợp tác để
cùng phát triển trên toàn cầu diễn ra hết sức mạnh mẽ. Cộng với sự tiến
13
bộ ngày một vượt bậc của các thành tựu khoa học và công nghệ. Nhà
nước ta cần chú trọng đến công tác giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ.

Muốn vậy trước hết là phải có cải tiến trong công tác giáo dục. Trong
thời gian qua, đã có nhiều ý kiến đánh giá về nhiều thiếu sót trong công
tác giáo dục hiện nay, trong đó nổi bật lên là vấn đề đào tạo đại học và
những tiêu cực trong thi cử. Trong khi đó giáo dục đóng vai trò quan
trọng bậc nhất trong việc hình thành nhân cách của một con người. Như
Hồ Chí Minh đã từng nói :” Lành dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do
giáo dục mà nên”. Có thể nói, Người rất quan tâm đến công tác giáo
dục và bồi dưỡng nhận thức cho nhân dân.
Với tư tưởng thấm nhuần tính nhân văn của Người, việc giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ hôm nay là điều hết sức cần thiết.
Cần phải nhận thức đây là một trong những nhiệm vụ có tầm chiến lược
của sự nghiệp cách mạng mà Đảng đang lãnh đạo nhân dân kiên định
theo con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn.
Việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải có tư duy sáng tạo, nhằm
tìm ra cách tổ chức thực hiện hiệu quả, phù hợp, tạo bầu không khí học
tập thật khoa học, mang tính sư phạm cao. Việc lồng ghép giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh phải được thường xuyên chú trọng trong những bài
học có nội dung kiến thức phản ánh giá trị của Người.
14
Bên cạnh hình thức lồng ghép trong dạy học cũng rất cần và phải coi
đây là một hướng đổi mới phương pháp giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh, đó là ngoại khoá lịch sử, ngoại khoá văn học. Bởi vì hình thức
ngoại khoá có tác dụng mở rộng không gian và thời gian cũng như thời
lượng học tập, phát huy tính tích cực học tập, tìm hiểu, nghiên cứu của
học sinh, giúp học sinh tự tin trong việc nêu hiểu biết và suy nghĩ của
mình về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ kính yêu.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng cần
thiết phải từng bước đáp ứng một số điều kiện chuyên môn và cơ sở vật
chất phục vụ dạy và học. Trong đó phải đặt lên hàng đầu việc hướng
dẫn nội dung, phương pháp chuyên môn từ phía Bộ Giáo dục và Đào

tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, để giáo viên có căn cứ thực hiện. Tiếp đến
là việc tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên các
môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, trang bị cho họ những hiểu biết
cần thiết cho tiến hành giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh theo đặc trưng
môn học.
Làm được như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ thật sự thẩm thấu
trong nhận thức và trong tâm hồn của học sinh phổ thông, đặt nền móng
cho việc nâng cao lập trường chính trị của thế hệ trẻ Việt Nam trước
15
yêu cầu giáo dục giá trị nhân cách đáp ứng sự nghiệp xây dựng đất
nước.


KẾT LUẬN

Thật hiếm thấy ở một vị lãnh đạo quốc gia nào mà phần quan tâm
đến con người , đến nhân dân lại được đặt trên tầm lớn lao, sâu sắc
nhưng hết sức cụ thể, thiết thực như ở Hồ Chí Minh. Có thể nói, tính
nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dặt hạnh phúc nhân dân
lên trên hết. Ở Hồ CHí Minh, nhân dân không phải là khái niệm chung
mơ hồ mà là cộng đồng Việt Nam, là đồng bào, là từng con người, từng
cán bộ, từng cuộc đời, từng hoàn cảnh cụ thể. Cho đến lúc đi xa, Người
chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển và tiến bộ của Đảng,
của toàn dân tộc; Người vẫn dành muôn vàn tình thương yêu cho mọi
người.
16
Có thể khái quát, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là triết lý nhân
văn Hồ Chí Minh. Trong thực tế, Hồ CHí Minh không trình bày tư
tưởng nhân văn của mình bằng một học thuyết với một hệ thống các
khái niệm, phạm trù như một triết lý kinh viện. Triết lý nhân văn Hồ

Chí Minh được hình thành từ trong khối óc, con tim của Người về lòng
yêu nước, tình thương người và đạo lý làm người; về con đường để
nhân dân Việt Nam nói riêng, loài người tiến bộ nói chung, thực hiện
những ước mơ, khát vọng cao đẹp của mình, tiến tới một cuộc sống độc
lập, tự do, hoà bình, giàu mạnh, xã hội văn minh, con người hạnh phúc.
Nhiều chính khách và nhiều nhà khoa học quốc tế đã gọi con người Hồ
Chí Minh là con người của khí phách dân tộc, lương tâm thời đại, tinh
hoa loài người.
Có thể nói, việc đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào nghiên cứu và giảng
dạy nói chung, việc chúng ta cùng nhau nhắc lại triết lý nhân sinh của
Hồ Chí Minh, triết lý gắn kết chủ nghĩa nhân đạo với tư tưởng nhân văn
sâu sắc, gắn kết độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, lấy thực tiễn làm
điểm xuất phát, lấy giải phóng và phát triển con người làm mục tiêu,
nói riêng có ý nghĩa thiết thực và bổ ích. Nó không chỉ giúp chúng ta ôn
lại những lời căn dặn quý báu mà người để lại, mà còn khẳng định tư
tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và mãi mãi là tài sản tinh thần to lớn của
Đảng và dân tộc ta trên con đường xây dựng xã hội mới, thực hiện công
17
nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
18

×