Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.03 KB, 58 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn
hóa kiệt suất của dân tộc Việt Nam và của nhân loại đã để lại cho chúng ta một
di sản tinh thần vô giá, một hệ tư tưởng có giá trị về nhiều mặt. Trong đó tư
tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình
phát triển của dân tộc ta.
Tư tưởng đại đoàn kết đã trở thành tình cảm, suy nghĩ của mọi người Việt
Nam yêu nước, là sợi dây liên kết cả dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn đưa tới
thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam độc
lập hoàn toàn, đất nước Việt Nam thống nhất trọn vẹn năm 1975. Thực tiễn,
minh chứng rõ rằng: khi nào Đảng ta, dân tộc ta đoàn kết một lòng, thực hiện
triệt để tư tưởng đại đoàn kết của Người, thì cách mạng lúc đó thuận lợi, thu
được nhiều thành công. Ngược lại lúc nào, nơi nào dân ta vi phạm đoàn kết, xa
rời tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, thì lúc đó nơi đó cách mạng gặp khó
khăn, thậm chí tổn thất.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và
phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong thời gian qua, nhìn
chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi
sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì
việc đoàn kết tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội
còn nhiều hạn chế ở một số vùng có đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu
số... Do vậy chỉ có thể huy động sức mạnh đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí
Minh chúng ta mới đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
1
Huyện Văn Yên có vị trí, vai trò quan trọng, nằm trên trục giao thông


quan trọng cả đường thủy (sông Hồng), đường bộ (đường cao tốc Nội Bài - Lào
Cai), đường sắt (có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai). Huyện lại có đông dân
tộc anh em sinh sống với phong tục tập quán, trình độ học vấn, điều kiện kinh tế,
chế độ tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau... nên dễ bị các thế lực phản động lôi
kéo, dụ dỗ gây mất tình đoàn kết trong cơ sở Đảng cũng như trong tổ chức quần
chúng trên địa bàn huyện. Do đó vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên
địa bàn huyện là rất quan trọng và cần thiết.
Việc hiểu rõ và vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh để xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc nói chung và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa
bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa
to lớn trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy tác giả đã mạnh dạn chọn vấn đề: “Vận
dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên
địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng của cách
mạng nước ta. Do đó, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan
đến vấn đề này.
Có nhiều bài viết của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh
tầm quan trọng, vai trò và ý nghĩa của đại đoàn kết dân tộc, như: trong tác phẩm
Trường Chinh Tuyển Tập (1937 - 1954), Nxb Sự Thật, Hà Nội có bài viết “Mặt
trận dân tộc thống nhất và vấn đề đại đoàn kết”. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh
(2008) đã có bài viết “Thành tựu của đất nước là sức mạnh của đại đoàn kết dân
tộc”, Tạp chí cộng sản, số 2 (146). Đồng thời cũng khẳng định lời nói của Chủ
tịch Hồ Chí Minh “ Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê,
XêĐăng hay BaNa và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều
là anh em ruột thịt… Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của
chúng ta không bao giờ giảm bớt”; Tô Huy Rứa (2009) đã khẳng định “Đại
đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, yếu tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”,
2

Tạp chí cộng sản, số 22 (190); Phùng Hữu Phú (chủ biên) (1995) với tác phẩm
“Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh”, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
Ngoài ra, còn có các bài viết liên quan như: “Chủ tịch Hồ Chí Minh,
người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất và suốt đời xây đắp khối đại đoàn
kết dân tộc” của Vũ Kim Trọng, Tạp chí xây dựng Đảng, năm 2010; “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ”, của Hạnh Nguyễn, Tạp chí Mặt
trận, số 72, năm 2009.
Trên địa bàn miền núi huyện Văn Yên (tỉnh Yên Bái) cho đến nay đã có
một số công trình, bài viết đề cập đến nhưng ở nhiều góc độ khác nhau. Những
tài liệu nêu trên sẽ giúp ích cho việc tham khảo trong quá trình thực hiện nghiên
cứu của tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Đề tài đi sâu tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để tuyên truyền, vận động
các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân tố hăng hái tham gia
phong trào cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự nhất trí về mặt chính trị và tinh thần của xã hội
ta, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc.
Vạch ra những nguyên nhân làm hạn chế việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết
Hồ Chí Minh, cũng như đề xuất những biện pháp nhằm củng cố, xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
Đề xuất những biện pháp nhằm củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
3

Nghiên cứu đề tài này tác giả còn hi vọng sẽ góp một tài liệu nhỏ của
mình về tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh cho việc vận dụng vào công tác
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương mình.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Ở địa bàn huyện Văn yên tỉnh Yên Bái.
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa
bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với sự vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp lôgich và lịch sử, so sánh và tổng hợp cùng với
phương pháp điều tra xã hội học.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung
của đề tài gồm 2 chương.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.


4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG
ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH
1.1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một hệ thống những
luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức lực lượng cách
mạng nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là

tư tưởng xây dựng, củng cố và mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và xây dựng xã
hội mới.
1.1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của
cách mạng
Với Hồ Chí Minh “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng
và nhân dân ta” [15; 510]. Đoàn kết tạo ra sức mạnh trong mọi cuộc đấu tranh,
Người cho rằng: muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động
phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh vũ trang cách mạng, bằng cách mạng
vô sản.
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ
có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm
gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng: vua tôi đồng lòng, anh em hòa
thuận, cả nước góp sức và khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng
sách giữ nước. Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc
trong chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí
Minh và được Người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư
tưởng của mình.
5
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu cho thời kỳ
cai trị và áp bức của chúng đối với dân tộc ta trong suốt gần 80 năm trời ròng rã.
Nhưng cũng chính trong vòng gần 80 năm đó, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống
đoàn kết của dân tộc lại sôi nổi hơn bao giờ hết. Nó kết thành một làn sóng vô
cùng to lớn, mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn thông qua các xu
hướng khác nhau để cứu nước dù cuối cùng tất cả các xu hướng đó đều bị thất bại.
Hồ Chí Minh đã cảm nhận được những hạn chế trong chủ trương
tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi
hỏi khách quan của lịch sử trong giai đọan này. Đây cũng chính là lý do, là
điểm xuất phát để Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh cho

rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị
thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn kết thành một khối
thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực
lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội
mới. Muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực
lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề
chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Người đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng
vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó
Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách
mạng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải
điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những
đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn được Người nhận thức là
vấn đề sống còn của cách mạng. Ví dụ như: tại sao Pháp - một đất nước
có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải thua một
Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược?. Đó là vì đồng bào
Việt Nam đã đoàn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Toàn dân Việt Nam chỉ có
một lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước.
Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho
Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc
6
xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm
bức tường đó, chúng cũng phải thất bại.
Để thấy rõ hơn vị trí của sức mạnh lực lượng toàn dân đoàn kết trong
thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra: vì sao
có cuộc thắng lợi đó?. Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất
là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa
phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc
lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai
thắng được lực lượng đó. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: Sử

dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước
ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài
xâm lấn. Và Người khuyên dân ta rằng: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình,
đồng sức, đồng lòng, đồng minh” [8; 206]. Đây chính là con đường đưa dân ta
tới độc lập, tự do.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đại đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế: đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công, Đoàn kết
là điểm mẹ: “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu cũng tốt” [13; 392];
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”
[14; 607].
1.1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, không
thương dân thì không có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm
cho số đông đó ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự
do, hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ
thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết
dân tộc là mục tiêu cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được
quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong lời kết
thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh đã
7
thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc mục đích của Đảng Lao động
Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc.
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề
đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của
cách mạng. Hồ Chí Minh còn cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục
tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do
quần chúng, vì quần chúng. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan

của quần chúng nhân dân, trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, Đảng có nhiệm vụ
thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức
thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Như vậy, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng
cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Vì vấn đề cơ
bản của cách mạng suy cho cùng là phải có bộ tham mưu đưa ra đường lối tập
hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc. Vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải xuất phát từ
đòi hỏi khách quan của cách mạng do quần chúng tiến hành. Đại đoàn kết dân
tộc là chính sách chứ không phải là một thủ đoạn chính trị. Đảng có sứ mệnh
thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của
quần chúng thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch của cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
1.2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân có nội hàm rất rộng.
Người dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “con Rồng
cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín
ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu,
nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được mọi
người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu
rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ta đoàn
8
kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết
để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và
phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ” [12; 438]. Với tinh thần đoàn kết
rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho
việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao
gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu

nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ
lượng với con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: “Bất kỳ ai mà thật thà tán
thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù người đó trước đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [12; 438]. Để thực
hiện được đoàn kết, Người còn căn dặn: cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải
thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó
là đại đoàn kết toàn dân với nòng cốt là khối liên minh công - nông - tri thức do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết
dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: “Đại
đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là
nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã
có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” [12; 438].
Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh
công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất. Về sau, Người nêu thêm
lấy liên minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho đại đoàn kết toàn
dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết toàn dân tộc
càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại
đoàn kết dân tộc.
1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ
chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
9
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, làm
cách mạng để xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân
tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở
thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng,
toàn dân ta. Nó biến thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là
Mặt trận dân tộc thống nhất.

Cả dân tộc hay toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức
mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại
thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn,
nếu không quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ
là một số đông không có sức mạnh. Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét
trên một khía cạnh nào đó, chính là đi tìm sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải
phóng nhân dân lao động. Và sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết
dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất
chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp
với từng giai cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn
giáo… đó là các già làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, công hội, nông
hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật
giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước, các nghiệp đoàn... bao trùm nhất là Mặt
trận dân tộc thống nhất. Mặt trận chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu
nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn cả
những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu
tấm lòng vẫn hướng về quê hương, về Tổ quốc Việt Nam.
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức
Mặt trận ở nước ta đều là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo
các giai cấp tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu
10
nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất
của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn,
theo Hồ Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cở sở
yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu.

Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh
công - nông - lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ ba, hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy
việc thống nhất lợi ích của tầng lớp nhân dân là cơ sở để củng cố và không
ngừng mở rộng.
Thứ tư, khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự,
chân thành, thân ái giúp đỡ cùng nhau tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai
cấp, tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” - lấy cái chung,
đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chân thành, thẳng thắng, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Hồ Chí Minh xác định chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích cải
tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết
phải tự cải tạo bản thân chúng ta. Người nêu rõ: đoàn kết phải gắn liền với đấu
tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết, nâng cao tinh thần tự phê bình và phê
bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt trong nội bộ. Đoàn
kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê
bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái vì nước vì dân.
1.3. Nguyên tắc đại đoàn kết Hồ Chí Minh
1.3.1. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi
ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và các quyền thiêng
liêng của con người
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí
Minh. Hạt nhân của nguyên tắc này là giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích
phức tạp, chồng chéo giữa cá nhân - tập thể, gia đình - xã hội, bộ phận - toàn thể,
11
giai cấp - dân tộc, quốc gia - quốc tế theo phương châm chỉ đạo là: Dân tộc trên
hết, Tổ quốc trên hết và tất cả do con người. Ví dụ như trong: Chính sách giảm tô
25 % trong kháng chiến chống thực dân Pháp Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Chủ
ruộng giảm tô cho đúng”, đồng thời cũng nhắc nhở: “Tá diền nộp tô cho đều” [10;
591]. Chính sách này đã giải quyết thỏa đáng lợi ích ruộng đất giữa địa chủ và

nông dân nghèo trong điều kiện phải đoàn kết để kháng chiến thắng lợi. Địa chủ
có ruộng cho thuê và nông dân nghèo thuê ruộng đều phải hi sinh một phần lợi
ích của mình để đoàn kết nhau lại, thực hiện khẩu hiệu: “Tổ quốc trên hết”, “Tất
cả cho kháng chiến thắng lợi”.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ
đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt
Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm
ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết
dân tộc mình.
` Tóm lại, muốn đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân phải giải quyết đúng đắn các
mối quan hệ lợi ích dân tộc. Song, khi giải quyết các mối quan hệ lợi ích này phải đặt
quyền lợi dân tộc, quyền lợi Tổ quốc, quyền lợi toàn dân lên trên hết, lên trước hết.
1.3.2.Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
Tin vào dân, dựa vào dân là một nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh dân là gốc rễ, là nền tảng của
đại đoàn kết, dân là chủ thể của đại đoàn kết, dân là nguồn sức mạnh vô tận, và
vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng.
Nguyên tắc tin vào dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí
Minh dựa trên cơ sở:
Một là, theo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin thì cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: Đảng cộng sản Việt Nam là người
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, song nếu chỉ có một mình Đảng thôi, không có người
ngoài Đảng tin theo, ủng hộ thì cách mạng Việt Nam không thể thắng lợi được.
12
Hai là, truyền thống tư duy chính trị của dân tộc Việt Nam. Tư duy chính
trị này thể hiện rõ trong các câu ca dao, tục ngữ được Hồ Chí Minh sử dụng rất
nhiều lần, chẳng hạn “Nước lấy dân làm gốc”, “Chở thuyền là dân, lật thuyền
cũng là dân”. Hồ Chí Minh cũng từng nói: “Dễ mười lần không dân cũng chịu,
khó trăm lần dân liệu cũng xong” [10; 293]. Với Hồ Chí Minh, “Trong bầu trời

không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn
kết của nhân dân” [13; 276].
Tin vào dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là
tin vào, là dựa vào tinh thần yêu nước, ý chí giành độc lập tự do, xây dựng
một đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh;
là tin vào, là dựa vào lực lượng to lớn của nhân dân; là tin vào, là dựa vào
sáng kiến của nhân dân. Trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt tin vào lòng yêu
nước của nhân dân, với niềm tin đó Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đoàn kết,
Lương - Giáo đoàn kết, các dân tộc, các thành phần dân tộc đoàn kết… Thực
tiễn cách mạng Việt Nam đến nay đã khẳng định tư tưởng của Người là hoàn
toàn đúng, chẳng những phù hợp với đặc điểm người Việt Nam mà còn đúng
với đặc điểm của giai cấp công nhân.
1.3.3. Đoàn kết tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi,
lâu dài, đoàn kết chặt chẽ theo lập trường giai cấp công nhân
Trong quá trình thực hiện đại đoàn kết, xây dựng và phát triển lực lượng
cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nhất quán một nhận thức khoa học đó là: đoàn kết
không phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời mà là một tập hợp bền
vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức, có lãnh đạo.
Đầu 1955, nói chuyện tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu
dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị.
Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập cho Tổ quốc, ta còn phải
đoàn kết để xây dựng nước nhà” [12; 438]. Như vậy theo Hồ Chí Minh, đoàn kết
toàn dân trong các tổ chức của Mặt trận dân tộc thống nhất phải rộng rãi và lâu
13
dài, đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị, mà là một chính sách dân tộc,
một chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.
Qua câu nói trên của Hồ Chí Minh, ta thấy rõ tư tưởng của Người: toàn
dân ta phải đoàn kết cả trong cách mạng giải phóng dân tộc, cả trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa hay đoàn kết trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Theo

Người, Đảng cộng sản Việt Nam phải đoàn kết lâu dài với các đảng phái và các đoàn
thể yêu nước khác trong Mặt trận dân tộc thống nhất, không phải đoàn kết nhất thời.
Điều này được Hồ Chí Minh chỉ rõ khi Người nói chuyện tại buổi lễ kết thúc ra mắt
của Đảng Lao động Việt Nam ngày 03/03/1951 như sau: “…đối với các đảng phái,
các đoàn thể trong Mặt trận dân tộc, thì Đảng Lao động Việt Nam chủ trương:
Đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết lâu dài, cùng nhau tiến bộ” [11; 184].
Về đoàn kết rộng rãi hay đại đoàn kết, theo tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh là đoàn kết cho hết các lực lượng, các cá nhân yêu nước trong dân
tộc, không để sót một lực lượng, một cá nhân nào đứng ngoài các tổ chức của
Mặt trận dân tộc thống nhất, nhưng đoàn kết phải được tổ chức theo lập
trường giai cấp công nhân và hoàn cảnh của dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: đại
đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Rồi
Người nhấn mạnh: đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của
nhà, cái gốc của cây, nhưng: “Đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các
tầng lớp nhân dân khác” [12; 438].
Tóm lại theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất
phải thật rộng rãi. Cụ thể là đoàn kết tất cả những người yêu nước, những người
thật thà tán thành một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ,
giàu mạnh, dù họ ở phe phái nào, dù trước đây đi ngược lại lợi ích dân tộc,
quyền lợi toàn dân. Song “nền gốc” hay “cơ sở chủ yếu” hoặc “nền tảng” của
đại đoàn kết phải là khối liên minh công nông và các tầng lớp nhân dân lao động
khác, trong đó trước hết là tri thức.
Hồ Chí Minh cho rằng: đoàn kết rộng rãi, đoàn kết lâu dài, nhưng đoàn
kết phải có tổ chức, có kỷ luật, có lãnh đạo hay đoàn kết phải chặt chẽ. Cụ thể:
14
Về tổ chức: Đoàn kết phải được tổ chức trong các đoàn thể quần chúng
cách mạng hay trong các đoàn thể chính trị - xã hội của Mặt trận dân tộc
thống nhất.
Về kỷ luật: Tổ chức của Mặt trận và các đoàn thể phải có kỷ luật mà mỗi

thành viên phải tự giác tuân theo.
Về lãnh đạo: Lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc là Đảng cộng sản Việt
Nam. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng cộng sản là người lãnh đạo khối đại đoàn
kết toàn dân, nhưng Người chỉ rõ Đảng cộng sản cũng là một bộ phận hữu cơ
của Mặt trận, song “Phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất
và chân thực nhất” của Mặt trận [8; 139].
Để khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, Hồ Chí Minh chỉ rõ, trước hết
Đảng phải đoàn kết nhất trí, nhất là cán bộ lãnh đạo Đảng, đây là yếu tố quyết
định sự tồn tại và sức mạnh của khối đại đoàn kết. Hồ Chủ Tịch đã đặt lên hàng
đầu: “Tư cách người kách mệnh” và chỉ rõ muốn đoàn kết trong Đảng, đoàn kết
toàn dân, Đảng luôn phải tự phê bình và phê bình, phải phê phán nghiêm khắc
bệnh quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí, vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân. Người nhấn mạnh: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng
và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình [15; 497].
Muốn đoàn kết rộng rãi, đoàn kết lâu dài, đoàn kết chặt chẽ, theo Hồ Chí
Minh, khối đoàn kết phải luôn được củng cố, trong đó củng cố liên minh công -
nông - tri thức phải được quan tâm hàng đầu. Có như thế mới củng cố và tăng
cường được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi, lâu dài theo lập trường của giai cấp công
nhân là kết quả của nhà tổ chức vĩ đại Hồ Chí Minh, biến khẩu hiệu nổi tiếng:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”
thành hiện thực, thành sức mạnh tinh thần, trí tuệ, thành sức mạnh vật chất cực
kỳ to lớn đánh thắng những thế lực thù địch, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày
càng vững mạnh.
15
Trên đây là ba nguyên tắc khi thực hiện đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí
Minh với nội dung bao trùm là: Đoàn kết rộng rãi, lâu dài nhưng phải được
Đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo, phải đặt quyền lợi của Tổ quốc, của dân tộc,
của toàn dân lên trên hết.

1.4. Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh cùng với việc xác định mục
tiêu đoàn kết đúng, thực hiện đúng và đầy đủ các nguyên tắc đoàn kết, còn phải
có phương pháp tiến hành đoàn kết. Hồ Chí Minh đã đưa ra một số phương pháp
đoàn kết:
1.4.1. Phương pháp tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng
Tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đoàn kết phải thật sự khoa
học. Do vậy, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là việc tìm tòi lựa chọn các
nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi
của quần chúng. Phương pháp này nhằm làm cho mọi người nhận thức được sự
cần thiết phải tập hợp nhau lại, từ đó tự giác tham gia tổ chức đoàn kết quần
chúng cách mạng trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Nội dung tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng được Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng và xác định đúng ngay từ đầu. Đó là những nguyện vọng
chung, sâu xa nhất của cả dân tộc, của toàn dân (như hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân giàu, dân chủ, nước mạnh). Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn chú ý tới cả
nguyện vọng riêng của mỗi giai cấp, của mỗi tầng lớp nhân dân (chẳng hạn như
ruộng đất cho nông dân nghèo). Nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động quần
chúng đoàn kết phải đáp ứng được hai yêu cầu chung và riêng. Hồ Chí Minh nhận
thức sâu sắc vấn đề này và thực hiện rất thành công trong cách mạng Việt Nam ngay
từ năm 1941 trở đi.
Tùy theo hoàn cảnh và yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, để
đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh đã đưa vào cương lĩnh cách mạng của Đảng
những mục tiêu chiến lược phản ánh đúng những đòi hỏi cấp bách của lịch sử,
những khát vọng cháy bỏng của toàn dân. Trước cách mạng tháng Tám năm
1945, Người nêu cao mục tiêu chiến lược: “Độc lập dân tộc, người cày có
16
ruộng”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người chỉ rõ mục tiêu
chiến lược của thời kỳ này là: độc lập hoàn toàn cho dân tộc, thống nhất trọn vẹn
cho đất nước. Người khẳng định: Không có gì quý hơn độc lập tự do.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung tuyên truyền, vận động sát hợp với từng
giai cấp, từng cộng đồng xã hội như đối với giai cấp công nhân, nông dân, tri
thức, văn nghệ sĩ, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân, với thanh niên,
phụ nữ, đồng bào dân tộc ít người, với cộng đồng tôn giáo, với quan lại, với
nhân sĩ yêu nước, với người lầm đường lạc lối... Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tất
cả, phấn đấu hi sinh vì tất cả những khát vọng, những ước mơ sâu lắng của dân
tộc và của mỗi con người. Do vậy tư tưởng đại đoàn kết của Người có sức mạnh
to lớn tập hợp đoàn kết toàn dân.
Có thể nói, Hồ Chí Minh là bậc thầy trong công tác vận động, giáo dục toàn
dân thực hiện đại đoàn kết. Bản thân Người cũng tỏa sáng một mãnh lực tập hợp,
đoàn kết toàn dân, tập hợp đoàn kết các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
1.4.2. Phương pháp xây dựng, kiện toàn không ngừng phát triển hệ
thống chính trị cách mạng
Hệ thống chính trị cách mạng nước ta từ 1945 đến nay bao gồm:
+ Đảng cộng sản, cụ thể là Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Nhà nước cách mạng Việt Nam.
+ Các đoàn thể chính trị - xã hội trong Mặt trận Tổ quốc thống nhất
do Đảng lãnh đạo.
Theo Hồ Chí Minh, sự thống nhất bền vững của hệ thống chính trị là nhân
tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
Về Đảng cộng sản, theo người Đảng cộng sản Việt Nam có vai trò quyết
định nhất đối với sự hình thành, phát triển và sức mạnh của đại đoàn kết trong
hệ thống chính trị cách mạng. Vì vậy, Người hết sức quan tâm tới công tác xây
dựng Đảng, sao cho Đảng thật sự là một tổ chức chính trị vững mạnh, trong
sạch, đoàn kết, nhất trí... đủ sức lãnh đạo khối đoàn kết toàn dân.
Về Nhà nước cách mạng, theo Hồ Chí Minh hoạt động của nó ảnh hưởng
rất lớn đến đoàn kết toàn dân và đến cả đoàn kết quốc tế. Bởi vì đối với mỗi
17
chính sách, mỗi quyết định, mỗi việc làm đúng của các cấp chính quyền, Nhà
nước có sức mạnh rất to lớn nó gắn nhân dân với Đảng, gắn nhân dân với nhau

thành một khối, đồng thời tăng thêm đoàn kết giữa nhân dân ta, giữa dân tộc ta
và bạn bè thế giới; ngược lại, có thể làm dạn nứt khối đoàn kết toàn dân, ảnh
hưởng xấu tới đoàn kết quốc tế. Vì vậy để khối đoàn kết toàn dân tồn tại, sức
mạnh đoàn kết được tăng cường, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây
dựng, củng cố Nhà nước, cách mạng. Nhất là Ủy ban nhân dân các cấp, nơi trực
tiếp tổ chức, quản lý điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Về các đoàn thể chính trị - xã hội, theo Hồ Chí Minh đây là sợi dây gắn
kết Đảng với nhân dân, gắn kết nhân dân với nhau, thực hiện đoàn kết và cũng
là nơi thể hiện sức mạnh đoàn kết. Vì vậy, theo Người xây dựng củng cố, phát
triển, đoàn kết các tổ chức quần chúng hay các đoàn thể chính trị - xã hội trong
Mặt trận dân tộc thống nhất thực sự là vấn đề chiến lược, không thể xem đây là
vấn đề sách lược của cách mạng.
Hồ Chí Minh là Người sáng tạo vun đắp Mặt trận dân tộc thống nhất,
đồng thời là người thầy về phương pháp và tổ chức các đoàn thể chính trị - xã
hội nói chung, Mặt trận dân tộc thống nhất nói riêng. Về tổ chức các đoàn thể
quần chúng cách mạng, Người đưa ra:
Thứ nhất, các tổ chức, đoàn thể quần chúng phải được xây dựng từ thấp
đến cao phù hợp với yêu cầu và nhận thức của quần chúng. Lúc đầu có thể là các
tổ chức sơ khai, truyền thống (như hội hiếu hỷ, đồng hương...) trên cơ sở đó xây
dựng các đoàn thể cách mạng đơn giản, rồi tiến tới xây dựng các đoàn thể cách
mạng chặt chẽ rộng khắp, đấu tranh chính trị là chủ yếu.
Thứ hai, hình thức các tổ chức, các đoàn thể quần chúng phải hết sức đa
dạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giới tính, tên gọi các đoàn thể phản
ánh đúng mục đích chính trị cốt yếu nhất của mỗi thời kì cách mạng.
Thư ba, cương lĩnh, chươnh trình hoạt động của các tổ chức, các đoàn thể
quần chúng phải hết sức rõ ràng, thiết thực, nội dung phải phong phú phù hợp
với nguyện vọng và yêu cầu của mỗi đối tượng quần chúng.
18
Thứ tư, cán bộ các tổ chức, đoàn thể quần chúng phải đặt công tác dân vận
lên hàng đầu.

1.4.3. Phương pháp xử lý các mối quan hệ nhằm mở rộng tới mức cao
nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp tới mức tối đa trận tuyến thù địch
Trong cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp trong phạm vi một nước
cũng như trên thế giới bao giờ cũng phân định thành ba tuyến lực lượng: cách
mạng - trung gian - phản cách mạng. Cuộc đấu tranh một mất một còn giữa cách
mạng và phản cách mạng, thành bại của cách mạng không chỉ phụ thuộc vào sức
mạnh của hai lực lượng đối địch mà nó còn tùy thuộc một phần rất lớn vào việc
bên nào lôi kéo được lực lượng trung gian. Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí
Minh là phương pháp xử lý mối tương quan ba chiều đó. Phương pháp xử lý các
mối quan hệ của Hồ Chí Minh theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Theo Hồ Chí Minh, sự đoàn kết thống nhất của các lực lượng cách mạng
là điều kiện tiên quyết để thu hút, tập hợp các lực lượng trung gian vào trận
tuyến cách mạng, lợi dụng mâu thuẫn và cô lập lực lượng thù địch.
Với các lực lượng trung gian, thì phương pháp đoàn kết Hồ Chí Minh là
xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm. Khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu
nước, chân thành hợp tác và trọng dụng. Nhiều lần, Hồ Chí Minh tha thiết kêu
gọi tất cả những người thật thà yêu nước không phân biệt tầng lớp nào, tín
ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng về phe nào. Chúng ta hãy thật thà
cộng tác vì dân vì nước. Người cho rằng điều cần thiết nhất là phải đoàn kết, cần
xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ, để phục vụ nhân dân.
Đối với các thế lực thù địch của cách mạng, phương pháp của Hồ Chí
Minh là chủ động, kiên quyết tiêu diệt trên cơ sở đã triệt để phân hóa, cô lập
chúng đến cao độ. Trong phương pháp của Người chứa đựng nhiều cấp độ:
Một là, theo dõi chặt chẽ, khai thác triệt để mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù.
Hai là, lôi kéo và tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ được.
Ba là, hòa hoãn tạm thời với những lực lượng, bộ phận nào còn có thể
hòa hoãn được.
19
Bốn là, thu hẹp và cô lập cao độ lực lượng thù địch nguy hiểm, trực tiếp nhất.

Đối với các thế lực phản động nhất, ngoan cố nhất, phương pháp của Hồ
Chí Minh là kiên quyết không ngừng thế tiến công và hễ còn một tên xâm lược
trên đất nước ta thì ta phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi.
Như vậy, trong phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh có phương pháp xử
lý mối quan hệ ba chiều là cách mạng - trung gian - phản cách mạng. Hồ Chí Minh
đã xử lý hài hòa giữa chiến lược và sách lược, giữa cứng rắn về nguyên tắc và mềm
dẻo linh hoạt trong giải pháp, từ đó làm cho mọi tầng lớp nhân dân, mọi phần tử
quốc dân tin vào chính sách đại đoàn kết của Đảng cộng sản Việt Nam, tạo ra Lực -
Thế - Thời cho cách mạng để giành chiến thắng một cách hiệu quả nhất.
Tiểu kết chương 1
Qua tìm hiểu những vấn đề cơ bản trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc có một vai trò cực kỳ quan trọng. Nó không chỉ là
lời giải đáp đúng đắn cho những bài toán của cách mạng vào thời điểm chiến
tranh mà ngay cả thời bình, trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn giữ nguyên giá
trị. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 80 năm qua đã chứng minh hùng hồn
sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành sợi chỉ đỏ
xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã
thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến
nó thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người, tạo thành sức
mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch
sử cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán triệt và thực hiện đúng thì khi đó, nơi
đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi, nơi nào, lúc nào rời xa tư
tưởng đó thì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất.
20
CHƯƠNG 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN VĂN YÊN TỈNH YÊN BÁI
2.1. Đặc điểm tình hình tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhân dân huyện
Văn Yên tỉnh Yên Bái
2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Văn Yên là một huyện miền núi phía Bắc của tỉnh Yên Bái, được thành
lập từ tháng 3 năm 1965. Có tọa độ địa lý 21
0
35' - 22
0
10' vĩ Bắc, 104
0
23' -
104
0
60' kinh Đông. Phía Bắc giáp huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai, phía Đông Bắc
giáp huyện Lục Yên, Yên Bình, phía Đông Nam giáp huyện Trấn Yên, phía
Nam giáp Văn chấn, phía Tây giáp huyện Mù Cang Trải tỉnh Yên Bái và huyện
Văn Bàn tỉnh Lào Cai.
Văn Yên có thị trấn Mậu A là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của huyện. Với vị trí nằm trên tuyến đường sắt Yên Bái - Lào Cai nối với Côn
Minh (Trung Quốc), tuyến đường tỉnh lộ 151 Yên Bái - Khe Sang, đường thủy
sông Hồng và đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai. Với lợi thế này, thị trấn Mậu A
sẽ là động lực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa
bàn huyện. Huyện Văn Yên cách trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái 40 km về phía Bắc.
Toàn huyện có 26 xã và 1 thị trấn, với 312 thôn bản, 60 tổ dân phố.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 139.154,11 ha. Văn Yên là đơn vị hành
chính có diện tích lớn nhất tỉnh. Địa hình của huyện khá đa dạng và phức tạp,
đồi núi liên tiếp và cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc thuộc thung lũng sông
Hồng kẹp giữa dãy núi cao là Con Voi và Púng Luông. Hệ thống sông ngòi dày
đặc với các kiểu địa hình khác nhau vùng núi cao hiểm trở, vùng đồi bát úp lượn

sóng nhấp nhô xen kẽ với các thung lũng và các cánh đồng phù sa nhỏ hẹp ven
sông. Toàn huyện có khoảng 70% diện tích có địa hình dốc từ 25
0
trở lên. Với
những đặc điểm về địa hình nêu trên nên diện tích rừng ở Văn Yên thuộc rừng
21
nhiệt đới thường xanh với nhiều loại cây lá rộng, nhiều tầng. Có nhiều loại gỗ
quý hiếm như pơmu, nghiến, táu, lát hoa, chò chỉ... Bên cạnh đó có các loại
động vật quý hiếm như cầy hương, lợn rừng, hươu, gấu, vượn... còn có nhiều
lâm đặc sản như cọ, song, quế, chè.... Khí hậu thuộc loại vùng nhiệt đới ẩm gió
mùa, nắng lắm, mưa nhiều, nền nhiệt cao, chia làm 2 tiểu vùng khí hậu là Bắc
Trái Hút và Nam Trái Hút. Nhiệt độ trung bình trong năm là 22
0
C, mùa đông
nhiệt độ thấp nhất 3
0
C, mùa hè cao nhất 40
0
C. Khí hậu mát ở vùng cao cho phép
trồng nhiều cây dược liệu quý và chăn nuôi gia súc có sừng như: trâu, bò, hươu,
dê...
2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội
* Tình hình kinh tế
Huyện Văn Yên có 3 vùng kinh tế trọng điểm:
+ Vùng thâm canh lúa gồm 13 xã: Yên Hưng, Yên Thái, Ngòi A, Mậu A,
Mậu Đông, Đông Cuông, Hoàng Thắng, Xuân Ái, Yên Hợp, An Thịnh, Yên Phú,
Đại Phác và Tân Đồng (trong đó thị trấn Mậu A là trung tâm huyện lỵ).
+ Vùng trồng mầu và cây ăn quả gồm 6 xã: Lăng Thíp, Lâm Giang, Châu
Quế Thượng, Châu Quế Hạ, An Bình, Đông An.
+ Vùng trồng quế gồm 8 xã: Phong Dụ Thượng, Phong Dụ Hạ, Xuân

Tầm, Mỏ Vàng, Nà Hẩu, Quang Minh, Viễn Sơn và Đại Sơn.
Nền kinh tế của huyện tăng trưởng bền vững, có sự chuyển biến rõ ràng,
đạt được những thành tựu nổi bật. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp
với điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, bước đầu tạo ra vùng sản xuất hàng
hóa tập trung phục vụ cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực, đúng hướng, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ. Trong tổng 139.154,11 ha diện tích đất tự nhiên
thì đất sản xuất nông nghiệp là 17.383,14 ha, lâm nghiệp là 104.421,53 ha. Sản
xuất nông - lâm nghiệp được xác định là nghành kinh tế mũi nhọn của huyện.
Mặc dù có điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế, nhưng nền kinh tề huyện
Văn Yên vẫn còn khó khăn như xuất phát điểm nền kinh tế thấp, nhận thức về
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều hạn chế, cơ sở kĩ thuật
22
còn thiếu và lạc hậu, sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường kém, đời sống
nhân dân trong huyện vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là vùng cao, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số… thu nhập bình quân trên đầu người thấp đạt 1,996 triệu/năm.
Tình trạng lao động chưa có việc làm hoặc có việc làm nhưng chưa ổn định còn
lớn. Mặc dù năm 2009 đã có hàng ngàn hộ nông dân được vay vốn nhưng vẫn
còn tới 50% số hộ thiếu vốn đầu tư sản xuất.
* Tình hình văn hóa - xã hội
- Về giáo dục: Hệ thống giáo dục của huyện khá hoàn chỉnh gồm các ngành
học, bậc học. Có đội ngũ cán bộ giáo viên giỏi, có trình độ chuyên môn cao. Cơ
sở hạ tầng phục vụ cho lĩnh vực giáo dục được đầu tư nhưng so với yêu cầu vẫn
còn khó khăn, bất cập.
Toàn huyện có 70 trường phổ thông trong đó có 41 trường tiểu học, 26
trường trung học cơ sở và 4 trường trung học phổ thông. Huyện có 27/27 xã, thị
trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ. Tuy nhiên,
công tác giáo dục vẫn còn yếu kém, phát triển chậm và không đều, mới khoảng
50% số người trong độ tuổi từ 6 - 9 đi học. Trong đó ở dân tộc Dao, Mông, Xa
Phó tỷ lệ đi học thấp hơn nhiều. Đội ngũ giáo viên vùng cao vừa thiếu vừa yếu

cả về năng lực sư phạm và tinh thần trách nhiệm.
- Về y tế: Cơ sở y tế của huyện phát triển, trang thiết bị hiện đại, đội ngũ
bác sĩ, y tá đông đảo và có chuyên môn tay nghề giỏi. Tất cả các xã trong huyện
đều có các trạm y tế, phòng y tế, trung tâm y học dự phòng... Có 22 xã, thị trấn đã
được công nhận chuẩn quốc gia về y tế, đang thực hiện mới 3 xã đạt chuẩn quốc gia
về y tế trong năm 2010.
Ngành y tế của huyện đã làm tốt công tác y tế dự phòng, phòng chống
dịch bệnh, khống chế được dịch bệnh, không có dịch lớn xảy ra trên địa bàn.
Làm tốt công tác khám chữa bệnh cho nhân dân, đã chú trọng, quan tâm khám,
chữa bệnh cho đồng bào dân tộc ít người, các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn, các đối tượng chính sách, người nghèo, người có công với cách
mạng... Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số được duy trì và thực hiện
một cách có hiệu quả.
23
Tuy nhiên chất lượng khám chữa bệnh chưa cao, tinh thần thái độ phục vụ của
cán bộ y tế với nhân dân còn nhiều thiếu sót. Vẫn còn một số xã có cơ sở y tế hoặc có
nhưng đã bị xuống cấp, một số nơi còn thiếu cán bộ y tế theo quy định. Tình trạng
thiếu thuốc còn khá phổ biến.
- Công tác văn hóa - thông tin và thể thao: đã có bước đẩy mạnh phát triển
hơn trước, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đã tổ
chức được nhiều phong trào, cuộc vận động lớn như: cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, cuộc vận động vì người nghèo “Ngày vì
người nghèo”, cuộc vận động “Người Việt nam ưu tiên dùng hàng Việt nam”, tổ
chức thành công các chương trình phục vụ lễ hội (đền Đông Cuông, đền Nhược
Sơn…), lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành lập huyện, tuyên truyền cho đại hội Đảng
các cấp và tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, quản lý tốt
các dịch vụ văn hóa trên địa bàn đảm bảo kinh doanh lành mạnh.
Phong trào thể dục thể thao của huyện được thúc đẩy. Việc xây dựng nếp
sống văn hóa đi vào nề nếp. Thường xuyên kiểm tra thực hiện đề án xây dựng xã
văn hóa đối với các xã Yên Thái, Đại Phác, Yên Hưng và Xuân Ái, kiểm tra các

hoạt động của làng văn hóa trên địa bàn huyện, củng cố và tăng cường các thiết
chế văn hoá tại các cấp cơ sở.
Công tác phát thanh truyền hình được đảm bảo, góp phần nâng cao nhu cầu
nghe nhìn của nhân dân. Tổ chức hội nghị tập huấn điều tra thống kê hiện trạng
phổ cập dịch vụ Internet, điện thoại và nghe nhìn năm 2010 cho 27 xã, thị trấn.
Công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ được tăng
cường, quản lý chặt chẽ các hoạt động văn hóa trên địa bàn huyện. Tuy nhiên,
chất lượng các mặt văn hóa, giáo dục còn thấp, đạo đức xã hội ở một bộ phận
dân cư còn có biểu hiện xuống cấp, các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan chưa được
đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả.
* An ninh - quốc phòng
Do địa bàn của huyện nằm trên nhiều tuyến đường quan trọng, cho nên việc
giữ vững an ninh là rất cần thiết, vì nó tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, thúc
24
đẩy văn hóa - giáo dục ngày càng đi lên… Cho nên vấn đề cấp bách là phải giữ
vững an ninh - quốc phòng.
Huyện đã xây dựng được khu vực phòng thủ quân sự - quốc phòng, trong
đó trọng tâm là xây dựng các xã, thị trấn vững mạnh toàn diện, an toàn là chính,
cho nên an ninh - quốc phòng của huyện được củng cố vững chắc. Coi trọng
nâng cao nhận thức cho lực lượng vũ trang nhân dân về chiến lược “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch.
Lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên thường xuyên được huấn luyện,
xây dựng vững mạnh về mọi mặt: 100% các đối tượng theo quy định được bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng, trên 80% nhân dân được giáo dục kiến thức quốc
phòng - an ninh, 100% các xã có đất thao trường cho công tác huấn luyện. Công
tác tuyển quân hàng năm bảo đảm chi tiêu và chất lượng. Phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc được tăng cường, tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững.
* Công tác tôn giáo
Với đặc thù là địa phương có tỷ lệ giáo dân chiếm 17,5% dân số toàn

huyện và chiếm gần 40% tổng số giáo dân toàn tỉnh, trên địa bàn huyện có 11
dân tộc anh em cùng sinh sống. Đảng bộ đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp
làm tốt công tác đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Tạo điều kiện cho dân tộc
thiểu số phát triển bình đẳng về kinh tế, văn hóa xã hội, quan tâm xây dựng cơ
sở hạ tầng, điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, cho vay vốn phát triển
sản xuất với lãi xuất ưu đãi, hướng dẫn làm ăn, chuyển giao khoa học kỹ thuật…
góp phần từng bước ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng
bào dân tộc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng theo quy định của luật pháp đối với
đồng bào có đạo. Tình hình hoạt động trong các tôn giáo tương đối ổn định, các
hoạt động cơ bản thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Tăng cường vận
động giáo dân sống tốt đời, đẹp đạo. Đồng bào giáo dân sống tốt đời đẹp đạo
luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật Nhà nước và quy
định của địa phương, ngăn chặn kịp thời các hoạt động tôn giáo trái phép.
25

×