Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

xác định giá trị công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải bằng phương pháp giá trị tài sản thuần để phục vụ công tác cổ phần hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.8 KB, 84 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
LỜI NÓI ĐẦU
Từ cuối những năm 80, làn sóng hợp nhất doanh nghiệp, mua bán
doanh nghiệp, chia tách cơ cấu lại doanh nghiệp phát triển rất mạnh trên thế
giới. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cũng là một hàng hoá, nó
cũng có giá trị sử dụng, giá trị và giá cả. Kinh tế thị trường càng phát triển, sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng sâu sắc, đòi hỏi sự cơ cấu lại theo
hướng hợp nhất, mua bán…diễn ra thường xuyên đòi hỏi phải xác định giá trị
của doanh nghiệp làm cơ sở cho những hoạt động đó.
Tuy nhiên do đặc tính doanh nghiệp là một hàng hoá đặc biệt bao gồm
nhiều bộ phận cấu thành, cả những bộ phận hữu hình như tài sản vật tư, nhà
xưởng, cả những bộ phận vô hình như danh tiếng, mối quan hệ các khâu trong
doanh nghiệp, cũng như giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài, năng
lực của lãnh đạo và nhân viên và tính đơn chiếc của doanh nghiệp nên việc
xác định giá trị doanh nghiệp là một việc phức tạp.
Việt Nam sau hơn 10 năm đổi mới theo hướng phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có điều tiết của nhà nước,
thì sự chia tách, sáp nhập, liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp nhằm
tăng sức mạnh trên thị trường diễn ra khá phổ biến. Trong khu vực kinh tế
quốc doanh, chủ trương của nhà nước là: đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà
nước nhằm nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp theo hướng chỉ giữ 100%
vốn nhà nước đối với những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành kinh
tế quan trọng đem lại số thu lớn cho ngân sách nhà nước, đảm bảo cân đối lớn
cho nhà nước còn lại tiến hành chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở
hữu hoặc giải thể. Tất cả những sự kiện đó làm cho vấn đề xác định giá trị
doanh nghiệp càng trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, việc xác định giá trị doanh
nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn mang tính áp đặt vì chủ yếu việc xác định giá
trị doanh nghiệp hiện nay gắn với cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nên
nếu không phải là nhà nước được lợi thì cũng là người lao động được hưởng.
1
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp


Do đó vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp không chỉ cần thiết cho công tác
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà trong sự phát triển của kinh tế thị
trường, đặc bịêt là khi có thị trường chứng khoán, xác định giá trị doanh
nghiệp sẽ là công việc thường xuyên diễn ra ở các doanh nghiệp, nên việc
nghiên cứu vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp là hết sức cần thiết và có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đối với tiến trình đổi mới quản lý doanh
nghiệp ở nước ta hiện nay cũng như trong tương lai.
Để làm sáng tỏ vấn đề trên tôi xin lấy Công ty Thương mại và Sản xuất
vật tư thiết bị Giao Thông Vận Tải làm đối tượng nghiên cứu. Qua thời gian
tìm hiểu thực tế tại Công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị GTVT cùng
với sự hướng dẫn chỉ bảo của thầy giáo hướng dẫn trực - Trường Cao Đẳng
Quản Trị Kinh Doanh, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài này làm chuyên đề tốt
nghiệp. Mặc dù rất cố gắng song quỹ thời gian có hạn nên chuyên đề này
không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong được sự chỉ dẫn của thầy cô giáo và
những người quan tâm đến đề tài này.
Nội dung cơ bản của đề tài này gồm 4 phần chính sau:
Phần 1: Những vấn đề lý luận chung về xác định giá trị doanh nghiệp.
Phần 2: Khái quát thực trạng hoạt đông sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam và sự cần thiết cổ phần hoá.
Phần 3: Xác định giá trị Công ty Thương mại và Sản xuất vật tư thiết bị
Giao Thông Vận Tải bằng phương pháp giá trị tài sản thuần để phục vụ công
tác cổ phần hoá.
Phần 4: Phương hướng và biện pháp nhằm hoàn thiện việc xác định giá
trị doanh nghiệp.


2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
PHẦN I.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ

DOANH NGHIỆP
I. DOANH NGHIỆP VÀ GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP.
1. Doanh nghiệp và các giá trị đặc trưng của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm sản xuất
cung ứng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trên thị trường với mục đích sinh lời.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của doanh nghiệp rất phong phú và đa
dạng nhưng nhìn chung các doanh nghiệp có những nét đặc trưng chủ yếu là :
- Doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ
cho xã hội.
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là quá
trình kết hợp và biến đổi các yếu tố đầu vào tạo thành các yếu tố đầu ra là sản
phẩm đem lại giá trị mới. Chính sự tạo ra giá trị mới này đưa đến sự tăng
trưởng kinh tế, phồn thịnh xã hội và củng cố địa vị của doanh nghiệp .
- Doanh nghiệp là một đơn vị phân phối.
Trong quá trình hoạt động, khi tiêu thụ các sản phẩm đầu ra, doanh
nghiệp có một khoản thu nhập và trên cơ sở đó thực hiện việc phân phối cho
các tác nhân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình như trả lương cho
người lao động, thanh toán cho người cung ứng, trả lãi vay, nộp thuế, chia cổ
tức…Như vậy, doanh nghiệp là khâu đầu của việc phân phối lần đầu và các
chính sách phân phối của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng lớn đến rất nhiều đối
tượng.
- Doanh nghiệp là một tổ chức sống.
3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Qúa trình hoạt động của doanh nghiệp là quá trình vận động không
ngừng để thực hiện các mục tiêu của nó. Nhiều nhà kinh tế cho rằng:”Doanh
nghiệp là 1 tổ chức sống giống như con người”. Điều đó đòi hỏi khi nhìn nhận
đánh giá một doanh nghiệp phải đặt nó trong trạng thái vận động.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp đều hoạt động nhằm
nhiều mục tiêu khác nhau. Các mục tiêu chung nhất của doanh nghiệp là:

+ Mục tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận là kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh mà doanh
nghiệp thu được. Đó là phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí bỏ ra để tạo
ra số thu nhập đó. Lợi nhuận là phần giá trị tăng thêm mà nhà đầu tư thu
được. Vì thế lợi nhuận trở thành mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp, là sự
mong đợi của chủ sở hữu nó.
+ Mục tiêu cung ứng.
Sản xuất hành hoá không phải nhằm thoả mãn tiêu dùng cho chính
người sản xuất mà là để cung ứng cho khách hàng. Đó cũng là một mục tiêu
của doanh nghiệp, nó thể hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với xã hội và nhờ
thực hiện mục tiêu này mà doanh nghiệp mới thực hiện được mục tiêu lợi
nhuận.
+ Mục tiêu phát triển
Sự mong đợi của người đầu tư không chỉ dừng lại ở chỗ lợi nhuận mà
là lợi nhuận phải càng nhiều hơn . Do vậy doanh nghiệp phải hướng tới sự
phát triển xem xét đánh giá một doanh nghiệp không phải chỉ ở quá khứ hiện
tại mà phải xem xét cả ở triển vọng tương lai.
Qua các đặc trưng của doanh nghiệp cho thấy: doanh nghiệp như một
cơ thể sống bao gồm nhiều bộ phận cấu thành vận động không ngừng nhằm
đặt lợi nhuận ngày càng nhiêù cho nhà đầu tư.
4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
2. Giá trị doanh nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh
nghiệp .
2.1 Khái niệm giá trị doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp là một loại hành hóa đặc biệt:
Đối với người đầu tư mua doanh nghiệp thì giá trị sử dụng của hành
hoá này là ở chỗ nó có khả năng cung ứng một lượng hàng hoá cho xã hội và
thông qua đó người thu được khoản lợi nhuận nhất định. Do vậy khả năng thu
lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương lai là mối quan tâm hàng đầu của

người mua và cũng là căn cứ chủ yếu để người mua lượng định giá trị của
doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp là một hàng hoá đơn chiếc:
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên mỗi doanh
nghiệp có đặc điểm riêng về cơ sở vật chất kỹ thuật, về điều kiện và vị thế
kinh doanh. Do vậy, mỗi doanh nghiệp đưa ra xác định giá trị là một hàng hoá
đơn chiếc, cá biệt, không giống nhau giữa các doanh nghiệp. Do đó, đòi hỏi
trong việc xác định giá trị doanh nghiệp cần xem xét thận trọng và lựa chọn
phương pháp phù hợp.
- Kết quả định giá doanh nghiệp không phải là giá cả của doanh
nghiệp .Cũng giống như các loại hàng hoá khác, giá trị thị trường của doanh
nghiệp chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá
trị, quy luật cung cầu,…nên kết quả xác định giá trị doanh nghiệp chỉ là một
căn cứ cơ sở để xem xét thương lượng mà thôi.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp.
Từ khái niệm trên chúng ta thấy rằng, kết quả hoạt động của doanh
nghiệp trong tương lai sẽ quyết định giá trị doanh nghiệp. Kết quả hoạt động
của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố bao gồm các nhân tố thuộc
về môi trường kinh doanh và các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp. Vì vậy
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
để xác định giá trị doanh nghiệp trước hết chúng ta cần phải hiểu được các
nhân tố chủ yếu quan trọng và ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp.
Có nhiều nhân tố tác động, ảnh hưởng và làm thay đổi kết quả sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp.
Các nhân tố đó có thể là các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh và cũng có
thể là các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp.
Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh tác động đến giá trị doanh
nghiệp là các nhân tố không thuộc phạm vi kiểm soát của chính doanh nghiệp
và chịu tác động bởi diễn biến kinh tế xã hội của quốc gia và những quy định,

quy luật, luật lệ của nhà nước. Thuộc dạng những nhân tố này là tốc độ tăng
trưởng kinh tế, tình trạng lạm phát, lãi suất tín dụng, đặc biệt là lãi suất ngân
hàng, hoạt động của thị trường chứng khoán…Tất cả các nhân tố đó đều tác
động đến tỷ suất hoàn vốn, thu nhập dự kiến, mức độ rủi ro và do đó có ảnh
hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra, những mục tiêu và những ưu đãi
của nhà nước trong quá trình tái cấu trúc lại nền kinh tế cũng tác động đáng
kể đến giá trị doanh nghiệp .
Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh xét về một mặt nào đó cũng
tác động ảnh hưởng khá lớn đến giá trị doanh nghiệp . Tuy nhiên, các nhân tố
ảnh hưởng lớn và quyết định đến giá trị doanh nghiệp lại không phải là các
nhân tố thuộc môi trường kinh doanh mà là các nhân tố thuộc nội tại doanh
nghiệp. Nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp là các nhân tố chủ quan thuộc về
sự kiểm soát của chính bản thân doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp phụ
thuộc rất lớn vào những nhân tố này. Nói cách khác, những nhân tố thuộc nội
tại doanh nghiệp là những nhân tố quan trọng tạo thành giá trị doanh nghiệp.
2.2.1.Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh.
2.2.1.1.Môi trường kinh doanh tổng quát.
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Môi trường kinh tế: tốc độ tăng trưởng kinh tế mức độ ổn định của
đồng tiền, của tỷ giá ngoại tệ, của tỷ xuất đầu tư các chỉ số trên thị trường
chứng khoán… đều có tác động trực tiếp đến giá trị doanh nghiệp. Ngược lại
sự suy thoái kinh tế lạm phát phi mã là biểu hiện môi trường tồn tại doanh
nghiệp đang bị lung lay, mọi sự đánh giá về doanh nghiệp trong lúc này kể cả
đánh giá về giá trị doanh nghiệp đều bị đảo lộn hoàn toàn.
- Môi trường chính trị: sự phát triển kinh tế chỉ có thể ổn định trong
một môi trường ổn định về chính trị, các yếu tố của môi trường chính trị có sự
gắn bó chặt chẽ tác động trực tiếp đến sản xuất kinh doanh bao gồm:
+ Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống luật pháp.
+ Quan điểm tư tưởng của nhà nước đối với sản xuất kinh doanh thông

qua các hệ thống, các văn bản pháp quy.
+ Quan điểm bảo vệ sản xuất, bảo vệ các nhà đầu tư, bảo vệ người tiêu
dùng.
+ Quan điểm khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài.
+ Quan điểm phân biệt đối xử thể hiện qua luật thuế, luật cạnh tranh,
luật sở hữu trí tuệ.
+ Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của
các công dân các tổ chức sản xuất.
+ Xu hướng quan điểm trong quan hệ ngoại giao và hợp tác kinh tế của
chính phủ với các quốc gia khác; quan điểm cá nhân của người đứng đầu
chính phủ cũng tác động tới quá trình sản xuất kinh doanh.
- Môi trường văn hoá xã hội
Mỗi doanh nghiệp tồn tại trong một môi trường văn hoá nhất định: Lối
sống, văn hoá, tác phong, quan niệm về chân thiện mỹ, quan niệm về nhân
cách; về văn minh xã hội thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiên dùng…
7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Môi trường xã hội thể hiện ở môi trường số lượng cơ cấu dân cư, giới
tính độ tuổi, mật độ dân số, thu nhập bình quân đầu người.
- Môi trường kỹ thuật công nghệ.
Các sản phẩm sản xuất ra hàng ngày, ngày càng đa dạng và phong phú
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong đời sống vật chất đời sống tinh thần con
người, hàm lượng tri thức có khuynh hướng gia tăng trong giá bán sản phẩm.
Trên giác độ doanh nghiệp đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối
với sự tồn tại của doanh nghiệp, sự thiếu nhạy bén trong việc chiếm lĩnh
những thành tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân đưa doanh nghiệp
tới chỗ phá sản.
2.2.1.2.Môi trường kinh doanh đặc thù.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng: thị trường là yếu tố quyết
định đến đầu ra đối với sản phẩm của doanh nghiệp, thị trường đối với một

doanh nghiệp thể hiện bằng yếu tố khách hàng, khách hàng của doanh nghiệp
có thể là tổ chức cá nhân, có thể là khách hàng hiện tại hoạc trong tương lai,
thông thường khách hàng sẽ chi phối hoạt động của doanh nghiệp nhưng cũng
có trường hợp khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng kinh doanh của doanh
nghiệp. Do vậy muốn đánh giá đúng doanh nghiệp cần phải xác định tính chất
mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với các nhà cung cấp trong quan hệ giữa
các nhà cung cấp doanh nghiệp đóng vai trò như một thượng đế. Tuy nhiên,
có thể do tính khan hiếm của nguyên vật liệu do số lượng nhà cung cấp không
đủ lớn làm cho các nguồn cung cấp của doanh nghiệp không ổn định. Khi
đánh giá doanh nghiệp ta phải xét đến sự phong phú của các nguồn cung cấp,
số lượng chủng loại các loại nguyên liệu có thể thay thế được cho nhau, khả
năng đáp ứng lâu dài cho doanh nghiệp rồi mới kể đến tính kịp thời, chất
lượng, giá cả của sản phẩm cung cấp.
8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với các hãng cạnh tranh: ngày nay được
sự ủng hộ từ phía nhà nước, trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế mức độ cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng
trở lên quyết liệt, điều này vừa là cơ hội song là thách thức đối với doanh
nghiệp.Do vậy đánh giá năng lực cạnh tranh chúng ta phải xem xét trên các
mặt về giá cả,chất lượng về dịch vụ bảo hành sữa chữa.Ngoài ra cần xem xét
được số lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh,năng lực thực sự và thế
mạnh của họ là gì chỉ ra các yếu tố mầm mống có thể làm xuất hiện các đối
thủ mới.Có như vậy mới kết luận đúng vị thế và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp .
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước .
Trong cơ chế thị trường doanh nghiệp nói chung được quyền chủ động
hoàn toàn trong SXKD,tuy nhiên sự hoạt động của doanh nghiệp luôn được
đặt với sự kiểm tra của cơ quan nhà nước.Các tổ chức này giám sát doanh

nghiệp đảm bảo làm sao không vượt quá những quy ước xã hội.Tức là thực
hiện đảm bảo đúng chính sách.Những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính
vững chắc,kinh doanh bằng thực lực.Vì vậy khi thực hiện doanh nghiệp
chúng ta cần phải xem xét yếu tố này.
2.2.2.Các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp.
2.2.2.1.Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp.
Tài sản trong một doanh nghiệp bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu
động.Tuỳ thuộc vào loại hình sản xuất hay kinh doanh mà cơ cấu tài sản trong
các doanh nghiệp khác nhau sẽ khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, trình độ của trang thiết bị và công
nghệ sản xuất là một nhân tố quan trọng quyết định chất lượng, số lượng sản
phẩm sản xuất ra. Chính vì vậy, đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản
9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
xuất,khối lượng,trình độ trang thiết bị máy móc, thiết bị và dây chuyền công
nghệ là một trong yếu tố quan trọng quyết định kết quả SXKD.
Đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch
vụ,quá trình SXKD luôn gắn liền với quá trình lưu thông phân phối hàng hoá,
dịch vụ thì TSCĐ chủ yếu là văn phòng cửa hàng phương tiện vận tải so với
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, tỷ trọng TSCĐ trong
tổng số tài sản của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại,
dịch vụ không lớn hơn nhưng có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Thông thường, các công ty kinh doanh
có trụ sở,văn phòng khang trang bề thế luôn tạo được cảm giác yên tâm, tin
tưởng cho khách hàng, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả thuận và đi
đến các hợp đồng kinh tế.
Như vậy, hiện trạng TSCĐ (bao gồm cả khối lượng và trình độ công
nghệ) có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp từ đó ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. TSCĐ càng lớn,càng hiện
đại càng làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Ngược lại TSCĐ càng lạc hậu,

không đồng bộ càng làm giảm giá trị doanh nghiệp.
Mặt khác trong một số trường hợp, người mua không quan tâm ngay
lập tức tới kết quả SXKD và khả năng phát triên của doanh nghiệp mà họ lại
quan tâm hàng đầu vào hiện trạng của tài sản vì rủi ro có thể xảy ra liên quan
tới việc phải thay thế TSCĐ mới hoặc phải tốn thêm chi phí để trang thiết bị
thêm đảm bảo cho sự đồng bộ cho dây chuyền sản xuất. Vì vậy, giá trị và tình
trạng hiện thời của TSCĐ luôn là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới giá trị
doanh nghiệp.
2.2.2.2.Trình độ quản lý.
Một yếu tố khác cũng khá quan trọng ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
của doanh nghiệp là bộ máy quản lý. Một doanh nghiệp với đội ngũ cán bộ
quản lý giỏi, được sự hỗ trợ tích cực của bộ máy điều hành năng động chắc
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao và ngược lại. Ở các nước phát triển, khi
nhà đầu tư dự định tài trợ hoặc đầu tư vào một doanh nghiệp nào đó họ rất
quan tâm đến vấn đề này. Khi đã tin tưởng vào đội ngũ quản lý giỏi đặt dưới
sự điều hành của một giám đốc năng động, có trình độ, họ sẵn sàng đầu tư và
có thể chấp nhận trả giá cao.
Một bộ máy quản lý tốt, đồng bộ sẽ tạo điều kiện sử dụng tốt nhất, có
hiệu quả nhất tài sản tiền vốn của doanh nghiệp, từ đó sẽ gia tăng thu nhập từ
kết quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Không những vậy, trình
độ quản lý tốt của lãnh đạo doanh nghiệp, còn tạo điều kiện ổn định và không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hiện nghiêm chỉnh và đúng thời
hạn thoả thuận, các hợp đồng kinh tế với khách hàng. Đây chính là một trong
những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao uy tín doanh nghiệp và mở rộng
thị trường kinh doanh tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Chính vì vậy, có thể khẳng
định một điều chắc chắn rằng: Giá trị doanh nghiệp chịu tác động rất lớn bởi
trình độ quản lý của bản thân doanh nghiệp.
2.2.2.3. Vị trí ngành nghề kinh doanh.

Trong nền kinh tế thị trường vị trí ngành nghề kinh doanh có ảnh
hưởng quan trọng đến giá trị doanh nghiệp. Một ngành nghề kinh doanh có tỷ
suất lợi nhuận cao, ổn định và đang có xu hướng phát triển, mở rộng thì các
doanh nghiệp thuộc ngành nghề kinh doanh đó sẽ được quan tâm hơn và như
vậy, các doanh nghiệp đó sẽ có giá trị lớn hơn. Ngược lại, các doanh nghiệp ở
những ngành nghề kinh doanh đang có xu hướng co lại, tỷ suất lợi nhuận thấp
và rủi ro cao thì giá trị cũng bị giảm đi.
2.2.2.4. Vị trí địa lý.
Một doanh nghiệp có vị trí thuận tiện, gần các trung tâm kinh doanh
buôn bán, gần mặt đường lớn, thuận tiện trong vận chuyển thì kinh doanh có
rất nhiều thuận lợi trong việc quan hệ, giao dịch với khách hàng trong việc
nhanh nhạy với nhu cầu thị hiếu của khách hàng để điều chỉnh kế hoạch
11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
SXKD của mình…Ngoài ra, một vị trí địa lý tốt sẽ tạo điều kiện cho doanh
nghiệp giảm được chi phí vận chuyển nguyên vật liệu cũng như chi phí vận
chuyển thành phẩm đi tiêu thụ, từ đó doanh nghiệp giảm giá vốn hàng hoá,
tăng tỷ suất lợi nhuận, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Vị trí địa lý tốt sẽ là lợi thế của doanh nghiệp và chắc chắn sẽ được nhà
đầu tư đánh giá cao, từ đó làm tằng giá trị của doanh nghiệp .
2.2.2.5. Theo trình độ tay nghề của người lao động.
Trong các doanh nghiệp, trình độ tay nghề của người lao động càng cao
càng tạo điều kiện cho việc sản xuất ra các sản phẩm đạt chất lượng cao. Hơn
thế nữa, trình độ lành nghề của người lao động sẽ rạo ra năng suất lao dộng
cao, sản phẩm sản xuất ra nhiều với giá thành thấp do sử dụng tiết kiệm
nguyên nhiên vật liệu và giảm chi phí quản lý trên một đơn vị sản phẩm. Vì
vậy, người ta luôn cho rằng: Trình độ tay nghề của người lao động đang ảnh
hưởng tới thành phẩm SXKD và từ đó ảnh hưởng tới giá trị doanh nghiệp.
Một đội ngũ những người lao động lành nghề, làm việc với năng suất,
chất lượng và hiệu quả kinh tế cao không phải doanh nghiệp nào cũng có.

Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao tay nghề của người lao động, nếu được sở hữu, quản lý doanh
nghiệp. Ngược lại nếu doanh nghiệp không có đội ngũ lao động lành nghề thì
năng suất chất lượng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó sẽ thấp và
do đó, giá trị của doanh nghiệp sẽ bị giảm xuống. Mặt khác, vì người mua sẽ
phải bỏ thêm chi phí để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công nhân nên tất yếu
trong sự trù tính của họ sẽ trừ khoản chi phí đó vào trong giá trị doanh nghiệp.
2.2.2.6. Các báo cáo chứng từ tài chính của doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp gồm nhiều loại báo cáo nhằm phản
ánh tình hình tài chính và kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian
12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
nhất định nhưng quan trọng nhất vẫn là bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh
việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh
nghiệp. Nói cách khác, báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh các luồng tiền tệ
lưu chuyển qua doanh nghiệp trong một kỳ kế toán nhât định. Dựa vào báo
cáo lưu chuyển tiền tệ, người ta có thể đánh giá được khả năng tạo ra tiền, sự
biến động tài sản thuần hoá của doanh nghiệp khả năng thanh toán của doanh
nghiệp và dự đoán các luồng tiền trong các thời kỳ tiếp theo, đó là một cơ sở
quan trọng để đánh giá giá trị doanh nghiệp.
- Bảng cân đối kế toán: là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng
quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định. Các số liệu trên bảng cân đối kế toán giúp
cho ta biết được cơ cấu tài sản của doanh nghiệp nguồn vốn và cơ cấu nguồn
vốn hình thành các tài sản đó. Nghiên cứu bảng cân đối kế toán có thể rút ra
những nhận xét, đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì
vậy, trong một vụ mua bán doanh nghiệp, người bán cần có một bảng cân đối
kế toán “vững mạnh”. Bảng cân đối kế toán càng vững mạnh thì giá trị doanh

nghiệp càng cao. Tuy nhiên, khi nghiên cứu xem xét bảng cân đối kế toán,
cũng cần lưu ý là: giá trị trên bảng cân đối kế toán là giá trị lịch sử và chưa
phản ánh đầy đủ giá trị của các tài sản vô hình tiềm ẩn của doanh nghiệp.
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: là báo cáo tài chính tổng hợp
phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong
một kỳ kế toán bao gồm kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và kết quả các
hoạt động khác. Đồng thời báo cáo cũng nêu tình hình thực hiện nghĩa vụ đối
với nhà nước về thuế và các khoản nộp khác. Khi mua một doanh nghiệp
người mua quan tâm đến lợi nhuận sẽ thu được trong tương lai nhưng lợi
nhuận trong quá khứ của doanh nghiệp cũng là một căn cứ quan trọng, nên
13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
việc xem xét lợi nhuận thực hiện của doanh nghiệp thể hiện trên báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh là việc cần thiết và quan trọng ảnh hưởng đến việc
định giá mua doanh nghiệp.
Tóm lại, nghiên cứu các nhân tố tác động, ảnh hưởng đến giá trị doanh
nghiệp giúp ta thấy được các nhân tố làm gia tăng gía trị và các nhân tố làm
giảm giá trị doanh nghiệp, trong đó có những nhân tố có thể định lượng được,
nhưng có những nhân tố không định lượng được đòi hỏi người làm công tác
xác định giá ngoài những hiểu biết chuyên môn còn phải có giác quan nghề
nghiệp nhạy cảm và sức thuyết phục người đầu tư.
Đối với bên bán, sau khi nắm được các nhân tố tác động, ảnh hưởng
đến giá trị doanh nghiệp, họ sẽ tìm thấy những điểm yếu của doanh nghiệp
mình mà cố gắng cải thiện những yếu điểm đó trước khi đưa ra bán. Họ sẽ tìm
mọi cách để nêu bật các điểm mạnh của doanh nghiệp nhằm tăng thêm giá trị
doanh nghiệp. Người bán phải phân tích cho được những điểm mạnh điểm
yếu của doanh nghiệp mình dưới lăng kính của người mua.
Đối với người mua, hiiêủ được các nhân tố tác động, ảnh hưởng đến giá
trị doanh nghiệp sẽ giúp người mua nắm được thực chất giá trị doanh nghiệp
mà mình đang quan tâm. Và điều quan trọng hơn là qua phân tích của bản

thân và phân tích cung cấp số liệu của bên bán, người mua sẽ hiểu được thực
trạng tình hình tài chính, tình hình hoạt động của doanh nghiệp một cách có
hiệu quả nhất khi trở thành chủ sỡ hữu chính thức của doanh nghiệp đó.
2.3. Xác định giá trị doanh nghiệp .
Xác định giá trị doanh nghiệp là một quá trình xác định giá tiền tệ cho
một doanh nghiệp mà giá trị này có thể được người mua hoặc nhà đầu tư chấp
nhận. Xác định giá trị doanh nghiệp trong khi doanh nghiệp này đang là một
thực thể hoạt động và đang được các nhà đầu tư quan tâm.
14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Xác định giá trị doanh nghiệp là một khâu rất quan trọng trong quá
trình đổi mới doanh nghiệp, cấu trúc lại nền kinh tế và cũn thường được áp
dụng khi các doanh nghiệp, tổ chức sắp xếp, cơ cấu lại dây chuyền sản xuất
hoặc các bộ phận SXKD.
Một số vấn đề cần quán triệt khi xác định giá trị doanh nghiệp:
- Giá của một doanh nghiệp được xác định tại một thời điểm cụ thể.
Đối với một doanh nghiệp, giá trị của nó chỉ được xác định khi có một
nhu cầu giao dịch nào đó như mua bán, chia tách, sáp nhập, liên doanh,liên
kết…Nói một cách khác, giá trị doanh nghiệp được xác định nhằm đáp ứng
được mục đích nhất định.
Do đặc trưng của doanh nghiệp là một cơ thể sống nên vật tư tái sản
của nó luôn vận động không ngừng. Bởi vậy, giá trị doanh nghiệp dù xác định
theo phương pháp nào cũng phải dựa vào các thông tin, số liệu, tài liệu có
được tại một thời điểm và đặc biệt là phải phân tích xem xét trong bối cảnh
thị trường tại thời điểm đó. Khi các điều kiện về số liệu, tình hình thị trường
thay đổi thì giá trị doanh nghiệp cũng thay đổi theo. Giá trị doanh nghiệp khi
đã xác định luôn luôn gắn với một thời điểm cụ thể nhất định và khi điều kiện
thị trường thời gian thay đổi thì giá trị đã xác định trước đó có thể không còn
sử dụng được và ta phải tiến hành xác định lại.
- Giá của một doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả tương lai đã được

dự tính tại doanh nghiệp đó.
Như trên đã nói, khi người mua trả cho người bán giá trị doanh nghiệp
là để thu được các khoản thu nhập từ kết quả hoạt động của doanh nghiệp
trong tương lai. Giá trị doanh nghiệp phụ thuộc vào hai yếu tố : Các khoản thu
nhập trong tương lai và tỷ suất lợi nhuận mong muốn của các nhà đầu tư.
Yếu tố thứ nhất là các khoản thu nhập trong tương lai được xác định
dựa vào việc dự đoán kết quả hoạt động SXKD trong tương lai. Kết quả hoạt
15
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
động SXKD trong tương lai của doanh nghiệp được dự tính càng cao thì giá
trị doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Yếu tố thứ hai là tỷ suất lợi nhuận vốn mong đợi của nhà đầu tư. Đây là
chi phí cơ hội sử dụng vốn mà người đầu tư trù tính trên cơ sở xem xét tỷ suất
lợi nhuận vốn tối thiểu cần đạt được với mức độ rủi ro gặp phải.
- Giá trị của một tài sản được xác định trên cơ sở những lợi nhuận
tương lai của nó.
Theo nguyên tắc kế toán, giá hạch toán là gốc ( hay còn gọi là giá lịch
sử ), mọi hàng hoá tài sản của doanh nghiệp đều được hạch toán, phản ánh
trên sổ sách theo giá mua vào. Giá thị trường không tính đến yếu tố lạm phát.
Do đó, trong trường hợp có lạm phát, giá hạch toán sẽ không phản ánh đúng
giá trị thực chất của tài sản, hàng hoá mà doanh nghiệp đang quản lý, sử
dụng.
Khác với nguyên tắc kế toán, định giá doanh nghiệp là quá trình xác
định giá trị của một doanh nghiệp đang là một thực thể hoạt động, mọi tài sản
đều được coi là đang tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp tham ra vào quá trình tạo ra lơị nhuận của doanh nghiệp. Vì
vậy, giá trị của một tài sản được xác định trên cơ sở những lợi nhuận tương lai
của nó. Một tài sản sẽ có giá trị cao khi nó có khả năng tạo ra nhiều lợi nhuận
trong tương lai và ngược lại.
- Giá trị tài sản ròng ảnh hưởng đến giá trị của doanh nghiệp.

Trong một doanh nghiệp, mọi tài sản đều được quản lý và sử dụng
nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, không
phải mọi tài sản doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng đều là tài sản của doanh
nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp (hay nói chính xác là giá trị tài sản ròng của
doanh nghiệp) chính là giá trị tài sản doanh nghiệp đang sử dụng sau khi đã
trừ các khoản công nợ phải trả.
16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Như vậy, khi đánh giá trị một doanh nghiệp, chúng ta không chỉ nhìn
vào khối lượng tài sản doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng mà phải xem xét
đến nguồn vốn hình thành nên những tài sản đó. Chỉ sau khi loại bỏ hoàn toàn
các khoản công nợ phải trả giá trị tài sản còn lại (giá trị tài sản ròng) mới
quyết định giá trị doanh nghiệp.
- Quan hệ cung cầu (số lượng người mua quan tâm đến doanh nghiệp)
ảnh hưởng đến giá trị thị trường của doanh nghiệp.
Giá trị thị trường của một tài sản là giá bán của tài sản đó. Mức giá đó
là mức giá phổ biến trong những điều kiện thị trường xác định. Thực tế, các
thông tin về tài sản và giá trị tài sản thường không có sẵn và do đó, giá trị của
một tài sản là mức giá mà phần lớn những người mua sẽ trả.
Trong thực tế, nhà đầu tư khác nhau thường sử dụng các phương pháp
khác nhau để đánh giá trị doanh nghiệp. Đặc biệt, mỗi nhà đầu tư lại có một
cách nghiên cứu, đánh gía, phân tích thị trường riêng và do đó, nhiều nhà đầu
tư cũng sử dụng một phương pháp xác định giá trị của một doanh nghiệp
nhưng vẫn có thể cho ra các kết quả khác nhau. Sự cách biệt của giá trị mà
các nhà đầu tư đưa ra thường là do các thông tin mà các nhà đầu tư nắm bắt
được không giống nhau và nhận thức về rủi ro của các nhà đầu tư cũng khác
nhau.
Đối với doanh nghiệp, giá trị cuối cùng của nó phụ thuộc vào nhu cầu
thị trường, do đó một doanh nghiệp khi có nhiều người mua quan tâm tới giá
trị trên thị trường của doanh nghiệp đó sẽ cao hơn nhiều so với giá trị tài sản

thực.
II. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG
CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG.
Hiện nay trên thế giới đang sử dụng rất nhiều phương pháp để đánh giá
doanh nghiệp : phương pháp vốn hoá lợi nhuận, phương pháp lưu lượng tiền
17
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
tệ chiết khấu, phương pháp xác định giá trị theo tài sản, phương pháp so sánh
công ty, phương pháp chi phí, phương pháp thâm nhập thị trường…Tuy
nhiên, có thể gộp lại thành hai phương pháp chính để xác định giá trị dựa vào
giá trị tài sản ròng và phương pháp hiện tại hoá nguồn tài chính tương lai.
Trong phạm vi chuyên đề này, chúng ta sẽ tập trung trình bày hai
phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp chủ yếu đó.
1. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo giá trị tài sản
thuần.
1.1. Cơ sở lý luận.
Theo phương pháp này quan niệm doanh nghiệp cũng giống như một
hàng hoá thông thường, giá trị của một doanh nghiệp được tính bằng tổng giá
trị thị trường của số tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào sản xuất kinh
doanh.
1.2. Phương pháp xác định.
Mặc dù giá trị doanh nghiệp được coi là tổng giá trị các tài sản cấu
thành doanh nghiệp nhưng để thực hiện một giao dịch mua bán doanh nghiệp
người ta phải xác định tài sản thuần.
Công thức xác định: V = A- Db
Trong đó: V: Giá trị tài sản thuần của doanh nghiệp.
A: Tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Db: Tổng số nợ phải trả của doanh nghiệp.
Theo công thức này người ta có hai cách tính
Cách 1: Dựa vào số liệu trên bảng cân đối kế toán.

- Ưu điểm
18
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Đây là cách tính đơn giản dễ dàng nếu như việc ghi chép phản ánh các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh được đầy đủ, doanh nghiệp chấp hành tốt quy
định về chế độ kế toán hiện hành.
Cách này giúp cho người đánh giá chỉ ra mức độ độc lập về mặt tài
chính. Khả năng tự chủ trong điều hành sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, nó là căn cứ thích hợp để các nhà đầu tư đánh giá khả năng an toàn
của đồng vốn bỏ ra, đánh giá vị thế tín dụng của doanh nghiệp.
Mặc dù có nhiều cách đánh giá trị doanh nghiệp, xong theo cách này nó
minh chứng cho các nhà đầu tư và bên liên quan thấy được rằng đầu tư vào
doanh nghiệp luôn luôn được đảm bảo bằng giá trị của các tài sản hiện có
trong doanh nghiệp chứ không phải bằng cái có thể như các phương pháp
khác. Tuy nhiên giá trị doanh nghiệp xác định bằng phương pháp này chỉ là
số liệu cần thiết để tham khảo quá trình vận dụng các phương pháp khác.
- Nhược điểm:
Toàn bộ giá trị tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán được tập hợp
từ các bảng kê, các sổ tổng hợp mặc dù rất trung thực và khách quan nhưng
chỉ mang tính lịch sử không còn phù hợp ở thời điểm định giá doanh nghiệp
ngay cả khi nền kinh tế không co lạm phát.
Giá trị còn lại của tài sản cố định phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp
phụ thuộc vào phương pháp khấu hao mà doanh nghiệp sử dụng, phụ thuộc
vào thời điểm mà doanh nghiệp xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ
của tài sản cố định. Vì vậy, giá trị còn lại của tài sản cố định trên sổ kế toán
thường không phù hợp với giá trị thị trường tại thời điểm xác định giá trị
doanh nghiệp.
Giá trị hàng hoá vật tư, công cụ lao động tồn kho hoặc đang dùng trong
sản xuất, một mặt sử dụng vào cách sử dụng giá hạch toán, mặt khác còn phụ
thuộc vào lựa chọn các tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho lượng hàng

19
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
dự trữ. Do vậy, số lượng kế toán phản ánh giá trị tài sản đó cũng được coi là
không đáng tin cậy ở thời điểm đánh giá doanh nghiệp.
Cách 2: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá thị trường.
Để xác định theo phương pháp này trước hết người ta loại ra khỏi danh
mục đánh giá những tài sản không cần thiết và không đáp ứng yêu cầu xuất
kinh doanh, sau đó đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá trị
thị trường để tính cho từng tài sản hoặc từng loại tài sản cụ thể.
Đối với tài sản cố định và tài sản lưu động là hiện vật đánh giá theo giá
thị trường, nếu trên thị trường hiện đang có bán, trong thực tế thường không
tồn tại. Tài sản cố định cũ đã qua sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau khi đó
người ta sử dụng theo công cụ hay khả năng phục vụ của tài sản để áp dụng tỷ
lệ khấu trừ trên giá trị tài sản cố định mới đối với những tài sản cố định không
còn tồn tại trên thị trường, người ta áp dụng một hệ số quy đổi so với những
tài sản tương tự có tính năng tương đương nhưng khác loại.
Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm kê đối chiếu số dư
trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ được quy đổi bằng đồng ngoại tệ theo tỷ giá tại
thời điểm đánh giá, vàng bạc kim khí đá quý cũng được đánh giá như vậy.
Các khoản phải thu do khả năng đòi nợ các khoản này ở nhiều mức độ
khác nhau. Do vậy, bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ,
xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản thu nhằm loại ra
những khoản mà doanh nghiệp không có khả năng đòi nợ.
Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp về nguyên tắc phải
đánh giá một cách toàn diện giá trị doanh nghiệp hiện đang sử dụng các
khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, nếu khoản đầu tư này không lớn người ta tính
trực tiếp vào giá thị trường của chúng dưới hình thức chứng khoán hoặc căn
cứ vào số liệu của các bên đối tác liên doanh để xác định theo cách thứ nhất
đã được đề cập ở trên.
20

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản tính theo
phương pháp chiết khấu dòng tiền thu nhập tương lai. Với các tài sản vô hình
theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của các tài sản vô hình đã
được xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến lợi thế thương mại
của doanh nghiệp. Sau cùng giá trị tài sản thuần được tính bằng cách lấy tổng
giá trị của các tài sản đã được xác định trừ đi các khoản nợ đã phản ánh ở bên
nguồn vốn của bảng cân đối kế toán và trừ đi khoản tiền thuê tính trên giá trị
tăng thêm của số tài sản được đánh giá lại tại thời điểm xác định giá trị doanh
nghiệp.
1.3. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp.
- Nhược điểm.
+ Phương pháp giá trị tài sản thuần quan niệm doanh nghiệp như một
tập hợp rời rạc các loại tài sản với nhau. Việc bán doanh nghiệp cũng giống
như việc bán các loại tài sản riêng rẽ. Phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp được sử dụng cũng giồng như kỹ thuật định giá tài sản thông thường,
giá trị doanh nghiệp chỉ đơn giản được tính bằng tổng giá trị thị trường của số
tài sản trong doanh nghiệp tại một thời điểm, điều đó có nghĩa là đánh giá
doanh nghiệp trong một trạng thái tĩnh, doanh nghiệp đã không được coi như
một thực thể, một tổ chức đang tồn tại và phát triển. Do vậy sẽ không có tầm
nhìn chiến lược về doanh nghiệp, đây là một hạn chế bởi người mua doanh
nghiệp nhằm mục đích sở hữu các khoản thu nhập trong tương lai chứ không
phải để bán lại ngay các tài sản hiện thời.
+ Phương pháp này không cung cấp và xây dựng được những cơ sở và
thông tin cần thiết để các bên có liên quan đánh giá về triển vọng sinh lời của
doanh nghiệp, đó là những lý do người ta khó giải thích được cùng giá trị tài
sản thuần như nhau mà doanh nghiệp mà doanh nghiệp này lại có giá bán cao
hơn doanh nghiệp kia (ngay cả khi không có tác động của yếu tố cạnh tranh).
21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

+ Phương pháp này đã bỏ qua phần lớn các yếu tố phi vật chất nhưng
lại có giá trị thật sự và nhiều khi lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong doanh nghiệp
như: trình độ quản lý, trình độ tay nghề công nhân, uy tín thị phần của doanh
nghiệp. Có những doanh nghiệp có tài sản không đáng kể xong triển vọng
sinh lời lại rất cao.
Trong nhiều trường hợp xác định giá trị tài sản ròng quá phức tạp như
xác định giá trị của một tập đoàn có nhiều chi nhánh, có nhiều chứng khoán
đầu tư ở nhiều doanh nghiệp khác nhau, mỗi chi nhánh lại có một số lượng
các tài sản lớn đặc biệt đã qua sử dụng (hoặc không còn bán trên thị trường)
trong trường hợp đó đòi hỏi phải tổng kiểm kê đánh giá lại một cách chi tiết
mọi tài sản của các chi nhánh dẫn đến chi phí tốn kém, thời gian kéo dài, kết
quả phụ thuộc nhiều vào các thông số kỹ thuật của tài sản, như vậy sai số có
khả năng ở mức cao.
- Ưu điểm.
+ Phương pháp đã chỉ ra giá trị của những tài sản cụ thể cấu thành giá
trị doanh nghiệp, giá trị của các tài sản là căn cứ cụ thể có tính pháp lý rõ ràng
nhất về khoản thu nhập mà người mua chắc chắn sẽ nhận được khi sở hữu
doanh nghiệp, nó khẳng định số tiền mà người mua bỏ ra luôn luôn được đảm
bảo bằng một lượng tài sản có thực.
+ Việc định giá trị thị trường của số tài sản có thể bán tại thời điểm
đánh giá đã chỉ ra một khoản thu nhập tối thiểu mà người sở hữu sẽ nhận
được. Đó cũng là mức giá thấp nhất là cơ sở đầu tiên mà các bên có liên quan
đưa ra trong quá trình đàm phán về giá bán của doanh nghiệp.
+ Đối với những doanh nghiệp nhỏ mà số tài sản không nhiều việc định
giá tài sản không đòi hỏi nhiều kỹ thuật phức tạp. Giá trị yếu tố vô hình không
đáng kể, các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh không rõ ràng thiếu căn
cứ xác định các khoản thu nhập trong tương lai. Đây là phương pháp thích
hợp nhất.
22
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính tương lai.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động đều bị chi phối bởi các quy
luật kinh tế cơ bản trong đó có quy luật lợi nhuận. Theo quy luật này, lợi
nhuận và đặc biệt là lợi nhuận cao luôn là mục đích hàng đầu của mọi người
kinh doanh và là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp.
Chính vì vậy khi xem xét đánh giá giá trị doanh nghiệp, các nhà đầu tư
luôn quan tâm tới khả năng tạo ra lợi nhuận thông qua kết quả hoạt động dự
tính của doanh nghiệp trong tương lai.
Tuy nhiên, kết quả hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp không
phải là giá trị doanh nghiệp mà chỉ là cơ sở để xác định giá trị doanh nghiệp.
Phương pháp tính toán xác định giá trị doanh nghiệp có thể sử dụng lơi nhuận
dự tính trong tương lai của doanh nghiệp được gọi là phương pháp đinh giá
doanh nghiệp dựa vào lợi nhuận trong tương lai.
Phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng giá trị doanh nghiệp
không phải đơn thuần là tổng số số học giá trị các tài sản hiện có mà giá trị
doanh nghiệp là tổng hợp các giá trị kinh tế được đo bằng khả năng sinh lời
của doanh nghiệp trong tương lai và đó chính là cơ sở để đánh giá doanh
nghiệp theo phương pháp này.
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng sinh lời của doanh nghiệp đều
có thể tính bằng tiền và thể hiện bằng rất nhiều chỉ tiêu khác nhau, trong đó
các nhà đầu tư quan tâm nhất là chỉ tiêu lợi nhuận và chỉ tiêu thông lượng tiền
mặt. Chính vì vậy, khi đánh giá doanh nghiệp người ta thường sử dụng chỉ
tiêu lợi nhuận hoặc chỉ tiêu thông lượng tiền mặt.
2.1. Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần.
2.1.1. Cơ sở lý luận.
Trong bất cứ một doanh nghiệp nào qua quá trình sản xuất kinh doanh,
doanh thu sau khi trừ đi chi phí (bù đắp khoản chi phí) thực hiện nghĩa vụ nộp
23
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
thuế cho nhà nước (thuế thu nhập). Phần còn lại là lợi nhuận thuần (lợi nhuận

ròng) thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp giá trị của doanh nghiệp được đo
bằng độ lớn của khoản lợi nhuận thuần mà doanh nghiệp có thể mang lại cho
chủ sở hữu trong suốt thời gian tồn tại doanh nghiệp.
2.1.2. Phương pháp xác định.
Để đảm bảo sự nhất quán trong việc đánh giá các khoản lợi nhuận
thuần phát sinh ở các thời điểm khác nhau trong tương lai, người ta thực hiện
quy đổi chúng về thời điểm hiện tại theo một lãi suất nhất định còn gọi là tỉ
suất hiện tại hoá. Vì vậy giá trị doanh nghiệp được tính bằng công thức như
sau :
( ) ( )
n
n
ii
i
V
+
++
+
+
+
=
1
Pr

1
Pr
)1(
Pr
2
21

0
Với V
0
là giá trị của doanh nghiệp.
Prt (t =
n;1
) là lợi nhuận thuần năm thứ t.
Để đơn giản hoá người ta coi P
r1
, P
r 2
… lợi nhuận hàng năm bằng nhau.
Giả định doanh nghiệp tồn tại mãi mãi lúc đó công thức được viết lại như sau:
( ) ( )
n
n
ii
i
V
+
++
+
+
+
=
1
Pr

1
Pr

)1(
Pr
2
21
0
( )
i
i
t
n
t
Pr
1
1
Pr
1
=
+
Σ=
=
Trong đó:
P
r
: là khoản lợi nhuận thuần có thể đạt đượchàng năm trong tương lai,
để xác định được P
r
người ta thường căn cứ vào số liệu lợi nhuận thuần mà
doanh nghiệp đã đạt được trong quá khứ sau đó tính số trung bình kết quả về
lợi nhuận thuần có thể lấy trong 3 năm, 5 năm, 10 năm.
i : là tỉ suất hiện tại hoá được khuyến nghị là phải chọn một mức lãi

xuất nào đó vừa phản ánh được yếu tố thời giá của tiền tệ, vừa phản ánh được
24
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
chi phí cơ hội của đồng vốn phản ánh được mức đọ rủi ro mà người mua phải
gánh chịu khi đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Trong thực tế i thường được chọn
là lãi suất trái phiếu kho bạc, lãi suất cho vay dài hạn. Tuỳ từng loại doanh
nghiệp, song theo kinh nghiệm i thường giao động từ 20 – 30%.
V
0
: là giá trị doanh nghiệp
* Chú ý : Khi sử dụng phương pháp
- Khoản trích khấu hao về tài sản cố định thường phải tính lại thì các
doanh nghiệp thường trích khấu hao trên giá trị tài sản chưa được đánh giá lại
tại thời điểm xác định. Thời hạn trích khấu hao, phương pháp trích khấu hao
cũng có thể khác nhau hoặc giữa các đơn vị thuộc doanh nghiệp, do đó cần
phải xác định lại. Để phản ánh rõ giá trị hao mòn của tài sản cố định từ đó xác
định đúng lợi nhuận thuần.
- Phải xác định lại một số khoản chi phí nếu thấy cần thiết như tiền
lương, tiền thưởng.
- Việc phân bổ các chi phí cho hàng tồn kho cũng cần phải xác định lại
cho thống nhất.
- Những khoản thu nhập phải được loại trừ.
Sau khi điều chỉnh lợi nhuận quá khứ ta có thể áp dụng phương pháp
bình quân số học hoặc bình quân gia quyền chi phí để tính lợi nhuận trong
tương lai.
2.1.3. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp.
- Ưu điểm.
+Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần dựa trên quan niệm cho
rằng giá trị doanh nghiệp được xác định bởi giá trị hiện tại của khoản lợi
nhuận sau thuế thu nhập. Phương pháp này được ứng dụng cho những doanh

nghiệp không có nhiều tài sản để khấu hao, khả năng tích luỹ vốn từ lợi nhuận
25

×