Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

giải pháp hạn chế nợ xấu của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại hàng công thương khu vực ii hai bà trưng trong giai đoạn tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.63 KB, 52 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, do quá trình mở cửa, hội nhập với thế giới,
nền kinh tế Việt Nam đang phát triển ngày càng mạnh mẽ trên tất cả các mặt,
các ngành, các lĩnh vực. Trong đó nổi bật lên là sự phát triển như vũ bảo của hệ
thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng ngày càng lớn mạnh cả về số lượng
và chất lượng. Hoạt động huy động vốn cũng như cho vay, đầu tư, thanh toán
ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, sự lớn mạnh đó lại kéo theo những vấn để nổi cộm khác. Nợ
xấu cũng là một hiện tượng đáng phải quan tâm. Theo thống kê của IMF thì nợ
xấu của Việt Nam tính đến cuối năm 2004 là 15% và để giữ cho tỉ lệ nợ xấu
trong năm 2005 – 2006 không trầm trọng thêm là vô cùng khó khăn.
Trong bối cảnh chung của toàn bộ hệ thống ngân hàng hiện nay, tình hình
nợ xấu tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực II Hai Bà Trưng cũng
vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Do đó, em quyết định lựa chọn đề tài:
“Giải pháp hạn chế nợ xấu của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại hàng Công
Thương khu vực II Hai Bà Trưng trong giai đoạn tới” để nghiên cứu cho
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung chuyên đề của em gồm có ba phần như sau:

Chương 1: Tổng quan về hạn chế nợ xấu

Chương 2: Thực trạng về xử lý nợ xấu của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
Chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực II Hai Bà Trưng trong giai đoạn
2002 - 2005 vừa qua

Chương 3: Các giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu trong cho vay doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhành Ngân Hàng Công Thương khu vực II Hai Bà
Trưng trong thời gian sắp tới
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HẠN CHẾ NỢ XẤU
1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1. Khái niệm
Dịch vụ ngân hàng đã hình thành và phát triển từ lâu đời, nó tồn tại song
song với gần như tất cả các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử phát triển của
loài người. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì các Ngân hàng
Thương mại ngày càng lớn mạnh, có ảnh hưởng tới mọi mặt của cuộc sống.
Như vậy, ngân hàng thương mại là gì? NHTM được hiểu là một doanh
nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh tiền tệ.
Là một doanh nghiệp bởi vì NHTM cũng có những hoạt động như các
doanh nghiệp khác. Trước hết, để có thể hình thành và phát triển, mỗi ngân hàng
đều phải có nguồn vốn của riêng mình đồng thời số vốn này phải đủ lớn để có
thể đảm bảo an toàn khi cho vay. Ngoài ra, trong quá trình thành lập và vận hành
thì tất cả các ngân hàng đều phải có chi phí và thu nhập, có nghĩa vụ nộp thuế
cho Ngân sách Nhà nước, phải đăng ký kinh doanh, có tiến hành mua bán, trao
đổi…
Tuy nhiên, đây là doanh nghiệp đặc biệt bởi đối tượng kinh doanh của nó
là loại hàng hoá đặc biệt – tiền tệ. Sản phẩm mà ngành này cung cấp cho xã hội
là loại hàng hoá không bao giờ tồn kho và đồng thời, người cung cấp cũng chính
là người sử dụng sản phẩm. Nó không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội
nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, lưu thông, góp phần làm
tăng trưởng kinh tế.
Luật Các tổ chức tín dụng của Việt Nam cũng đã định nghĩa: “NHTM là
doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật để hoạt động kinh
doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng, với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền
gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
2
Hiện nay, ở Việt Nam, có ba loại hình NHTM khác nhau. Thứ nhất,
NHTM quốc doanh là NHTM được thành lập bằng 100% vốn Ngân sách Nhà
nước. Thứ hai là NHTM cổ phần – NHTM hình thành dưới hình thức công ty cổ
phần, trong đó, một cá nhân hoặc tổ chức không được sở hữu cổ phần của ngân
hàng vượt quá tỉ lệ quy định. Loại hình thứ ba là chi nhánh ngân hàng nước

ngoài. Đây là cơ sở của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, hoạt động theo
Pháp luật Việt Nam.
1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn mà ngân hàng tạo được thông qua hoạt động huy động vốn
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của ngân hàng. Trước đây, các Ngân
hàng thương mại chủ yếu là nhận tiền gửi của những người gửi tiết kiệm. Ngày
nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương
mại và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, cùng với sự phát triển không ngừng của
nền kinh tế, các Ngân hàng Thương mại đã đưa ra rất nhiều hình thức huy động
vốn khác nhau:
Một lượng vốn lớn được các Ngân hàng Thương mại huy động thông qua
tài khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, kỳ phiếu, chứng
chỉ tiền gửi….Bên cạnh đó, khi cần vốn đáp ứng nhu cầu thanh khoản hay đầu
tư, Ngân hàng thương mại còn có thể vay các ngân hàng khác, thự hiện chiết
khấu, tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước hoặc các tổ chức tài chính trong và
ngoài nước. Ngân hàng thương mại cũng tạo lập nguồn vốn thông qua phát hành
và bán cổ phiếu, tạo lập các quỹ dự trữ từ lợi nhuận.
Để có được lượng vốn thông qua hoạt động huy động vốn, các Ngân hàng
Thương mại phải bỏ ra những chi phí nhất định như: lãi tiền gửi, lãi tiền vay, chi
phí giao dịch, bảo hiểm tiền gửi…
1.2.2 Hoạt động cho vay và đầu tư
Đây là nghiệp vụ sử dụng vốn của Ngân hàng thu được từ các hoạt động
huy động để cho vay hoặc đầu tư chứng khoán. Đồng thời, nó cũng là hoạt động
đặc trưng, cơ bản mang tính truyền thống của Ngân hàng Thương mại.
3
Cho vay và đầu tư là các hoạt động đem lại phần lớn thu nhập cho Ngân
hàng, nhưng đây cũng chính là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất và đưa đến
nhiều tốn thất cho ngân hàng nếu như rủi ro xảy ra. Do đó, để hạn chế rủi ro và
tổn thất, các Ngân hàng thương mại khi cho vay đều phải tuân thủ theo những

nguyên tắc nhất định:
 Thứ nhất, người đi vay phải có kế hoạch và mục đích cụ thể cho
khoản vay của mình. Mục đích đó phải phù hợp với nguyên tắc cho
vay của ngân hàng. Đồng thời, các khoản vay phải được sử dụng
đúng với kế hoạch đã đặt ra.
 Thứ hai, để được vay vốn thì các khoản vay đều phải có sự đảm
bảo. Có thể là đảm bảo bằng tài sản hoặc không bằng tài sản tuỳ
theo độ tin cậy của khách hàng.
 Thứ ba, khách hàng vay vốn phải chứng minh được nguồn trả nợ
cho khoản vay của mình. Nguồn này thông thường là lấy từ lợi
nhuận mà khách hàng thu được nhờ sử dụng khoản vay đi đầu tư.
 Thứ tư, khách hàng phải cam kết hoàn trả đầy đủ và đúng hạn cả
gốc và lãi vay.
Ngân hàng có thể cho vay dưới nhiều hình thức, tuỳ theo các hình thức
khác nhau mà có cách phân loại khác nhau. Nếu phân loại theo thời gian cho vay
thì sẽ có cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Nếu phân theo đối tượng cho
vay thì gồm có cho vay quốc doanh và ngoài quốc doanh….
1.2.3 Hoạt động trung gian
Ngân hàng thương mại là hệ thống trung gian tài chính cơ bản trong nền
kinh tế, chủ yếu là hoạt động trong nghiệp vụ trung gian trong thanh toán. Ngân
hàng đóng vai trò là tổ chức đứng giữa bên phải thanh toán và bên hưởng thụ
giúp cho quá trình thanh toán được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả. Trong nền
kinh tế ngày càng phát triển, các mối quan hệ không chỉ diễn ra trong nước mà
còn trên phạm vi toàn thế giới. Nếu không có một hệ thống thanh toán nhanh
chóng thuận tiện thì việc thực hiện các giao dịch, quan hệ kinh tế sẽ gặp phải rất
nhiều khó khăn. Do vậy việc ngân hàng đứng ra đảm nhận chức năng này có
4
một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Việc ngân hàng cung
cấp dịch vụ thanh toán thông qua tài khoản không chỉ tạo cho ngân hàng những
nguồn vốn mới mà còn mang lại cho ngân hàng một nguồn thu nhập thông qua

thu phí đối với các dịch vụ thanh toán.
2. HẠN CHẾ NỢ XẤU TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Khái niệm về nợ xấu
Cho đến nay vẫn chưa có được khái niệm đầy đủ, thống nhất về nợ xấu.
Và khi nói về nợ xấu, người ta mới chỉ mô tả, nêu lên được một vài đặc điểm
chung nhất của các khoản nợ này.
Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 3, Điều 2, Quyết định số 493/ 2005/
QĐ – NHNN ban hành ngày 22/4/2005 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà Nước
thì
“Nợ bao gồm
a. Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi, cho thuê tài chính;
b. Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
khác;
c. Các khoản bao thanh toán;
d. Các hình thức tín dụng khác.”
Trong đó:
- “Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và /hoặc
lãi đã quá hạn. (Khoản 5, Điều 2)
- “Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Tỷ lệ nợ xấu
trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng của tổ chức tín dụng.” (Khoản 6,
Điều 2) và nợ xấu vẫn được hiểu là các khoản nợ hầu như không có khả năng
được thanh toán và bắt buộc phải xử lý bằng bút toán xoá nợ.
Còn theo NHTW Liên minh Châu Âu quy định thì nợ xấu bao gồm các
khoản nợ không thể thu hồi được như:
 Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có
căn cứ đòi bồi thường từ người mắc nợ.
5
 Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn để lại tài sản để
thanh toán nợ.
 Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người

mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ.
 Những khoản nợ mà người mắc nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh
hoạc thanh lý tài sản hoặc kinh doanh thua lỗ và tài sản không còn
đủ để trả nợ.
2.2. Phân loại nợ xấu
Theo quy định tại Điều 6, Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ban hành
ngày 22/4/2005 thì nợ bao gồm năm nhóm, trong đó, những khoản nợ thuộc
nhóm 3, 4, 5 là nợ xấu.
Trước hết, nợ nhóm 3 hay còn gọi là nợ đưới tiêu chuẩn bao gồm:
“- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ qua hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại
Khoản 3 và Khoản 4 Điều này
1
”.
Tiếp theo, nợ nhóm 4 hay còn gọi là nợ nghi ngờ bao gồm:
“- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại;
1
Khoản 3: Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một (01) khoản nợ với tổ chức tín dụng mà
có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín dụng bắt buộc phải phân loại
các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
Khoản 4: Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ trong hạn theo thời h¹n đã cơ cấu lại) mà tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá là khả
năng trả nợ của khách hàng bị suy giảmthì tổ chức tínd ụng chủ động tự quyết định phân loại các
khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
(Điều 6, Quyết định 493/ 2005/ QĐ – NHNN)
6

- Các khoản nợ khách được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại
Khoản 3 và Khoản 4 Điều này”
Cuối cùng là nợ nhóm 5 - nợ có khả năng mất vốn bao gồm:
“- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ được khoanh chờ Chính phủ xử lý;
- Các khoản nợ đã cơ cầu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày
theo thời hạn đã được cơ cấu lại
- Các khoản nợ khách được phân vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3
và Khoản 4 Điều này.”
2.3. Các dấu hiệu nhận biết nợ xấu
2.3.1. Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng
Dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng bao gồm hai nhóm chính thể hiện
trong mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng và phương thức quản lý, tình
hình tài chính, hoạt động của khách hàng.
Trước hết là có những biểu hiện không bình thường trong mối quan hệ
giữa khách hàng với ngân hàng như:
 Khách hàng gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình kiểm tra
theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài
chính, hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng mà không có
sự giải thích rõ ràng, minh bạch thuyết phục.
 Doanh nghiệp cố trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu
hoặc không có các báo cáo về sự đoán hay lưu chuyển tiền tệ mà
không có sự giải thích minh bạch thuyết phục.
 Khách hàng có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi
phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng.
 Đề nghị gia hạn, điều chỉnh định kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý
do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc
gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ.
 Có sự sút giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân
hàng; xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không

7
giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh
toán tại ngân hàng.
 Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả
hoặc khách hàng không muốn trả hoặc do việc thu hồi công nợ
chậm hơn dự tính
 Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu vay các khoản vượt
quá nhu cầu dự kiến.
 Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so
với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác
thuê, bán, trao đổi hoặc đã biến mất hoặc không còn tồn tại.
 Khách hàng có biểu hiện trông chờ các nguồn thu nhập bất thường
khác, không phải từ hoạt động sản xuất, kinh doanh chính hoặc từ
hoạt động được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng các
nghĩa vụ thanh toán. Hoặc họ có tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu
động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt là từ đối thủ cạnh tranh của
ngân hàng hay sử dụng các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt
động đầu tư dài hạn.
 Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao với mọi điều
kiện.
Thứ hai là xuất hiện các dấu hiệu bất thường liên quan tới phương pháp
quản lý, tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của khách hàng. Những dấu
hiệu này tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng nhưng với tốc độ chậm
hơn. Chúng không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ, sâu sát của cán
bộ tín dụng, bao gồm:
 Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức
dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng.
 Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh toán hay mức
độ hoạt động của khách hàng.
 Xuất hiện ngày càng nhiều các chi phí bất hợp lý như sự gia tăng

đột biến trong chi phí quảng cáo, tập trung quá nhiều chi phí để gây
8
ấn tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông
đắt tiền….
 Thay đối thường xuyên tổ chức của ban điều hành. Xuất hiện mâu
thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý.
 Khách hàng sẵn sàng từ bỏ những hợp đồng giá trị nhỏ và vừa
nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các
hợp đồng lớn với các bạn hàng có tên tuổi dù lợi nhuận thu về có
khả năng đạt thấp hơn.
 Do áp lực nội bộ, doanh nghiệp phải tung ra thị trường các sản
phẩm, dịch vụ quá sớm khi các sản phẩm chưa đạt được các điều
kiện cần thiết hoặc đặt ra những hạn mức thời gian, doanh số không
hợp lý.
 Thiên tai, địch hoạ xảy, dịch bệnh bất ngờ xảy ra và có ảnh hưởng
đến lĩnh vực kinh doanh của khách hàng.
2.3.2. Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía ngân hàng
Rủi ro có thể phát sinh từ phía khách hàng nhưng cũng có thể là bắt nguồn
từ phía ngân hàng. Nếu là rủi ro do ngân hàng gây ra thì ta có thể nhận thấy
thông qua một số các dấu hiệu như sau:
 Có sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của
khách hàng.
 Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính
đảm bảo của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền lớn hoặc
các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp.
 Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt qua khả năng và năng
lực kiểm soát của ngân hàng
 Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra chẳng hạn
như sáp nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con
hạch toán độc lập

 Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập
mờ, không rõ ràng, không rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay;
9
cán bộ tín dụng cố ý thoả hiệp các nguyên táce tín dụng với khách
hàng mặc dù biết có rủi ro tiềm ẩn.
 Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không
thuộc phân đoạn ưu tiên.
 Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất hoặc phí
dịch vụ hay giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để
họ không quan hệ với tổ chức tín dụng khác
2.4. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Trước hết, các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ, sự thay
đổi thị hiếu người tiêu dùng…gây ra những biến động xấu ngoài dự kiến trong
mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng của mình. Điều này có thể
làm cho khách hàng mất khả năng trả nợ.
Nguyên nhân khách quan thứ hai là sự thay đổi trong cơ chế, chính sách
như: Chính trị, sự điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc
thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sáp nhập hay tách ra của các Bộ,
Ngành trong nền kinh tế. Những sự thay đổi và điều chỉnh này tuy cần thiết
trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhưng đôi khi, cũng có tác động
tiêu cực, ảnh hưởng đến ngân hàng và khách hàng dẫn tới làm giảm khả năng trả
nợ của khách hàng.
Nhân tố tiếp theo tác động vào quan hệ tín dụng này là thông tin không
đầy đủ. Do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng rất dễ gặp các rủi ro
như khách hàng cố tình vi phạm, che giấu thông tin hoặc làm sai lệch thông tin
về mình (lập báo cáo tài chính thiếu trung thực, sử dụng vốn vay sai mục
đích ). Khách hàng thì do không có đầy đủ thông tin về thị trường sẽ dẫn tới
những quyết định kinh doanh sai lầm. Do đó, việc sản xuất kinh doanh không
đáp ứng nhu cầu và dẫn tới làm ăn thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng.

Bên cạnh đó, môi trường pháp lý cũng tác động tới quan hệ vay mượn
giữa ngân hàng và khách hàng. Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh sẽ
không đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế. Đây là
10
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của cá nhân,
doanh nghiệp và tạo ra các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng.
Còn một nhân tố khách quan nữa là nhân tố quốc tế. Trong xu thế toàn
cầu hoá hiện nay, tín dụng trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với tín dụng quốc
tế, dễ bị ảnh hưởng bởi tình hình quốc tế như tình hình kinh tế, chính trị, chính
sách tài chính của các quốc gia khác trên thế giới. Bất cứ một sự biến động nào
trong nền kinh tế quốc tế cũng đều có tác động tới đất nước cho dù ít hay nhiều.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến ở đây là chính sách cho vay của ngân
hàng. Đối với mỗi ngân hàng, chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động
tín dụng. Nó phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. Khi chính sách cho
vay thống nhất, đầy đủ và đúng đắn, cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng xác định đúng
phương hướng khi thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả của hoạt
động tín dụng. Còn ngược lại, một chính sách tín dụng thiếu độ chính xác,
không đầy đủ và không nhất quán sẽ tạo ra kẽ hở cho người sử dụng vốn và dẫn
tới rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân thứ hai nằm ở năng lực và đạo đức của người cán bộ tín
dụng. Nếu cán bộ tín dụng không tính toán chính xác hiệu quả đầu tư của dự án
xin vay thì họ sẽ dễ dàng có những những quyết định sai lầm trong cho vay.
Hoặc người cán bộ tín dụng khi chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về
lĩnh vực kinh doanh mà mình đang cho vay sẽ không thể đánh giá hết khả năng
sinh lời cũng như những rủi ro của khách hàng. Đôi khi, những cán bộ tín dụng
vì một lý do nào đó vẫn cố ý cho vay mặc dù biết dự án không có hiệu quả sẽ
dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Trong những trường hợp như vậy thì khả năng mất
vốn của Ngân hàng là rất cao.
Thứ ba, ngân hàng chưa đánh giá đúng mức về khoản vay, về người đi

vay hoặc do chủ quan tin tưởng khách hàng quen biết mà coi nhẹ khâu kiểm tra
về tình hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, nguồn trả nợ.
Thứ tư là do ngân hàng thiếu một cơ chế theo dõi, quản lý rủi ro, thiếu
hạn mức tín dụng tối đa cho từng lkhách hàng thuộc từng ngành nghề, lĩnh vực,
11
sản phẩm, địa phương khách nhau để phân tán rủi ro, chưa có các tiêu thức đo
lường rủi ro, độ rủi ro cho phép chấp nhận đối với mỗi đối tượng khách hàng.
Nguyên nhân thứ năm là thuộc về phía khách hàng. Trước hết, khả năng
quản lý của khách hàng yếu kém sẽ dẫn tới sử dụng khoản vay không có hiệu
quả, dễ thua lỗ. Tiếp theo, doanh nghiệp không chịu thu thập, tìm hiểu thông tin
về thị trường, sản phẩm, đối tượng khách hàng sẽ dẫn tới những quyết định sai
lầm trong kinh doanh. Do đó, doanh nghiệp dễ dàng lâm vào tình trạng vỡ nợ
hoặc phá sản. Một phần nữa cũng quan trọng không kém là đạo đức của khách
hàng. Không ít những chủ doanh nghiệp hoặc cá nhân vay vốn của ngân hàng
chẳng những yếu kém về năng lực kinh doanh mà còn thiếu cả tư cách đạo đức.
Phần lớn trong số họ đều mong muốn thành đạt trong kinh doanh để có điều
kiện trả nợ cho ngân hàng, tuy nhiên, cũng không hiếm những người chỉ mong
muốn lừa đảo, chiếm đoạt lấy tiền từ ngân hàng vào những mục đích xấu xa
khác như cờ bạc, hụi đề. Thông thường, những khách hàng này đều xuất trình
những dự án rất sáng sủa, những lời hứa hẹn hoa mỹ. Các nhà ngân hàng một
phần thì thiếu kinh nghiệm, phần nữa có thể do tham một chút lợi nhỏ nên đã
đầu tư vào những dự án này và đương nhiên là sẽ gặp rủi ro.
2.5. Ảnh hưởng của nợ xấu tới Ngân hàng thương mại và nền kinh tế
Nhìn chung, đối với mỗi ngân hàng thì nợ xấu có tác động trực tiếp tới
hoạt động của chính bản thân nó và từ đó tác gây ảnh hưởng tới toàn bộ hệ
thống ngân hàng. Những ảnh hưởng này sẽ dẫn tới làm nguy hại cho nền kinh tế.
Trước hết, những khoản nợ này làm chậm quá trình tuần hoàn và chu
chuyển vốn của các tổ chức tín dụng, giảm vòng quay của vốn, từ đó làm giảm
hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Thứ hai, chi phí phát sinh nợ xấu là rất lớn (bao gồm chi trả lãi tiền gửi,

chi phí quản lý nợ xấu và các chi phí khách liên quan). Chi phí tăng cao ngoài
dự kiến và những chi phí này làm giảm đáng kể, thậm chí gây lỗ cho các ngân
hàng khi hạch toán kết quả kinh doanh. Ngân hàng mất vốn phải khoanh nợ,
giãn nợ, thậm chí là xoá nợ, ngoài một phần mà ngân sách cấp bù thì phần chủ
12
yếu là do các ngân hàng phải trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro. Điều này sẽ làm
giảm thu nhập của ngân hàng.
Ngoài ra, khi tỉ lệ nợ quá hạn quá cao, vượt qua giới hạn an toàn theo
thông lệ quốc tế, không thực hiện đúng cam kết mở L/C, uy tín của hệ thống
NHTM trong nước và quốc tế sẽ giảm sút, ảnh hưởng đến tình hình hoạt động
của ngân hàng.
Đồng thời, nợ xấu còn hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng,
khả năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Mặt khác, nợ xấu tác động trực
tiếp đến khả năng tài chính của tổ chức tín dụng khi phân tích, đánh giá tình
hình tài chính hoạt động của ngân hàng, là yếu tố bất lợi cho khả năng cạnh
tranh và quá trình hội nhập, phát triển của ngân hàng.
2.6. Các biện pháp nhằm hạn chế nợ xấu
2.6.1 Các biện pháp phòng ngừa
Trước hết, các ngân hàng thương mại phải thực hiện thẩm định các điều
kiện vay vốn. Đây là một khâu quan trọng, không thể thiếu được trang quy trình
cho vay và quản lý khoản vay. Nó giúp cho ngân hàng thương mại phát hiện ra
những rủi ro tiềm ẩn của khoản vay để đưa ra các quyết định cho vay hợp lý,
hạn chế được nợ xấu cho ngân hàng. Quy trình thẩm định điều kiện vay vốn của
một khoản vay thì bao gồm các bước như sau:
 Kiểm tra hồ sơ vay vốn (bao gồm hồ sơ khách hàng, hồ sơ khoản
vay và hồ sơ bảo đảm tiền vay) và mục đích vay vốn.
 Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án
sản xuất kinh doanh, dự án vay vốn
 Kiểm tra, xác minh lại các thông tin
 Thực hiện phân tích ngành

 Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn bao gồm: tư cách năng
lực pháp lý, năng lực quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, mô hình
tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp, tình hình hoạt động và khả
năng tài chính…
13
 Dự kiến lợi ích ngân hàng sẽ nhận được nếu khoản vay được phê
duyệt.
 Phân tích, thẩm định phương án kinh doanh, dự án đầu tư để đưa ra
kết luận về tính khả thi, hiệu quả, khả năng trả nợ và những rủi ro có
thể xảy ra.
 Thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay.
Biện pháp thứ hai là thực hiện chấm điểm tín dụng khách hàng. Chấm
điểm tín dụng khách hàng là việc đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài
chính của một khách hàng đối với ngân hàng như trả lãi và gốc nợ vay khi đến
hạn nhằm xác định rủi ro hoạt động cấp tín dụng. Mức độ rủi ro tín dụng thay
đổi theo từng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng
thang điểm dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính sẵn có của khách
hàng tại thời điểm thực hiện chấm điểm tín dụng. Việc chấm điểm tín dụng
nhằm giúp cho Ngân hàng thương mại trong việc đưa ra các quyết định cấp tín
dụng : xác định hạn mức tín dụng đối với khách hàng, số tiền cho vay, thời hạn,
mức lãi suất, mức phí, biện pháp bảo đảm tiền vay. Ngoài ra, nó còn giúp ngân
hàng giám sát, đánh giá khách hàng khi khoản tín dụng còn dư nợ để phát hiện
kịp thời những dấu hiệu bất thường của khách hàng, khoản vay, từ đó có những
biện pháp đối phó, hạn chế rủi ro có thể xảy ra.
Biện pháp thứ ba là thực hiện giám sát quản lý chặt chẽ khoản . Việc kiểm
tra, giám sát khoản vay được thực hiện sau khi cho vay nhằm bảo đảm người
vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay, đôn đốc hoàn trả nợ gốc và
lãi vay đúng hạn, đồng thời, có các biện pháp thích hợp nếu người vay không
thực hiện đầy đủ, đúng hạn các cam kết.
Thứ tư là thực hiện bảo đảm tiền vay. Biện pháp này nhằm tạo cơ sở kinh

tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Nó giúp nâng cao
trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay, phòng ngừa rủi ro khi phương
án trả nợ dự kiến của bên vay không thực hiện được hoặc xảy ra các rủi ro
không lường trước được và phòng ngừa sự gian lận của khách hàng đi vay. Bảo
đảm tiền vay phải được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
14
Trường hợp khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết, ngân hàng có quyền xử lý tài sản
bảo đảm để thu hồi nợ.
Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo
lành vẫn chưa thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, khách hàng
vay hoặc bên bảo lãnh phải có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả
nợ.
Phần chênh lệch thừa sau khi xử lý vẫn phải được giữ để bảo đảm cho
nghĩa vụ tín dụng khác còn đang tồn tại tại ngân hàng (nếu có thoả thuận).
2.6.2. Biện pháp khắc phục
Khi phát hiện ra khoản vay có vấn đề hoặc tài sản bảo của khách hàng có
dấu hiệu sút giá so với ban đầu hoặc giá trị tài sản bảo đảm thấp so với giá trị
khoản vay, cán bộ tín dụng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm
nợ vay. Việc bổ sung này sẽ giúp làm tăng giá trị tài sản bảo đảm của khoản vay.
Nếu trong trường hợp xảy ra rủi ro mất vốn thì tổn thất của ngân hàng sẽ giảm
đi. Đồng thời, thêm một phần tài sản bị đem đi làm vật bảo đảm cho ngân hàng
thì doanh nghiệp sẽ có thêm động lực để sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm
giữ lại những tài sản đó.
Bên cạnh đó, nếu cán bộ tín dụng thấy có dấu hiệu khách hàng làm ăn
không có hiệu quả thì cũng phải chú ý. Đây là một trong những nguy cơ làm
tăng nợ xấu cho ngân hàng. Khi thấy những dấu hiện trên thì cán bộ tín dụng
phải kịp thời đưa ra những biện pháp phòng ngừa, giúp tư vấn cho khách hàng
trong việc quản lý, điều hành, định hướng sản xuất kinh doanh. Việc này sẽ giúp
cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, hạn chế tổn thất và nguy cơ phá sản.

Do đó, khả năng trả nợ cho ngân hàng của doanh nghiệp sẽ được đảm bảo.
Nguy cơ nợ xấu được ngăn chặn.
Biện pháp tiếp theo dụng là cho vay thêm. Biện pháp này được áp dụng
khi khách hàng đang gặp khó khăn về vốn, có thể ảnh hưởng tới việc thu nợ và
phương án sản xuất kinh doanh của káhch hàng có thể phát triển tốt nếu có đủ
vốn thì cán bộ tín dụng sẽ xem xét để cho vay thêm. Biện pháp này cũng giúp
15
ngăn chặn những thua lỗ cho khách hàng vay vốn, do đó, đảm bảo khả năng thu
hồi được nợ cho ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn thực hiện gia hạn nợ cho khách
hàng, Việc này cũng chỉ được thực hiện nếu như cán bộ tín dụng thấy nó có hiệu
quả khi mà khách hàng chưa có đủ khả năng trả nợ nhưng nếu cứ duy trì khoản
cho vay đó thêm một thời gian thì chắc chắn sẽ sinh lãi và trả được nợ cho ngân
hàng.
16
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ TẠI CHI NHÁNH NHCT KHU VỰC II
HAI BÀ TRƯNG
1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM VÀ
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC II HAI BÀ
TRƯNG
1.1 Ngân hàng Công Thương Việt Nam (Incombank)
Incombank là một trong bốn Ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất tại
Việt Nam, được thành lập từ năm 1988 sau khi tách ra từ Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.
Hiện nay, Incombank có tổng tài sản chiếm hơn 25% thị phần trong toàn
bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Nguồn vốn của Ngân hàng luôn tăng trưởng
qua các năm và đặc biệt tăng mạnh kể từ năm 1996, đạt bình quân hơn
20%/năm. Có năm, nguồn vốn của Incombank tăng tới 35% so với năm trước.

Tại Việt Nam, cho vay và đầu tư của Incombank chiếm 21% thị phần.
Ngân hàng Công Thương Việt Nam có mạng lưới kinh doanh trải rộng
trên toàn quốc với 2 Sở Giao dịch, 130 chi nhánh và hơn 700 điểm giao dịch.
1.2. Chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực II Hai Bà Trưng
1.2.1 Lịch sử hình thành và quá trình hoạt động
Ngân hàng Công Thương khu vực II Hai Bà Trưng là một trong những chi
nhánh của Ngân hàng Công Thương Việt Nam đặt tại quận Hai Bà Trưng – Hà
Nội. Chi nhánh này được xây dựng từ năm 1955 với tên gọi là “Chi điếm Ngân
hàng Hai Bà Trưng”.
Đến tháng 11 năm 1985, sau khi thực hiện Nghị định số 53 HĐBT ngày
26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về việc tổ chức bộ máy NHNN Việt Nam
chuyển sang cơ chế ngân hàng 2 cấp, Chi điếm này được tách thành hai bộ phận
riêng biệt: “Ngân hàng Công Thương khu vực I quận Hai Bà Trưng” - có nhiệm
vụ đáp ứng nhu cầu tín dụng của các đơn vị kinh tế tập thể, tư nhân, hộ gia đình
17
và “Ngân hàng Công Thương khu vực II quận Hai Bà Trưng” - làm nhiệm vụ
đảm bảo tiền tệ thanh toán cho các đơn vị kinh tế quốc doanh.
Kể từ ngày 1/9/2003, theo quyết định của Tổng giám đốc NHCT Việt
Nam, hai chi nhánh trên được sát nhập với nhau, hình thành chi nhánh Ngân
hàng Công Thương khu vực II Hai Bà Trưng.
Do quận Hai Bà Trưng là một địa bàn đông dân cư với nhiều thành phần
kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn như Công ty Dệt 8/3, Nhà máy khoá
Minh Khai, Nhà máy bia Halida… nên chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu
vực II Hai Bà Trưng đã có một lượng khách hành thường xuyên rất lớn, tạo môi
trường lý tưởng cho Chi nhánh hoạt động.
Tuy nhiên, cũng do là một khu vực rộng lớn, đông dân cư, nhiều thành
phần kinh tế nên quận Hai Bà Trưng cũng là địa bàn phúc tạp, có nhiều khó
khăn, hạn chế nên Chi nhánh Hai Bà Trưng dù đã mở rộng và đa dạng hoá hoạt
động nhưng vẫn tập trung chủ yếu vào nghiệp vụ truyền thống là huy động tiền
gửi và cho vay trực tiếp.

1.2.2 Mô hình tổ chức tại Chi nhánh NHCT HBT
Chi nhánh ngân hàng Công Thương Ba Trưng có 11 phòng ban với 13 quỹ
tiết kiệm trên toàn địa bàn quận, được tổ chức theo mô hình dưới đây:
18
1.2.3 Tình hình hình hoạt động của NHCT Hai Bà Trưng
Trong thời gian qua, đặc biệt từ những năm 2000 trở lại đây, trước sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế cũng như của hệ thống ngân hàng và nhờ sự nỗ lực
của lãnh đạo, cán bộ chi nhánh, thu nhập và lợi nhuận tại chi nhánh ngày càng
tăng lên. Mặc dù, năm 2005, lợi nhuận ngân hàng thu được là âm nhưng nguyên
nhân không phải là do chi nhánh hoạt động kém hiệu quả mà do sự thay đổi
trong cơ chể, chính sách. Nếu cố gắng thực hiện theo quy chế, chính sách mới
thì Chi nhánh sẽ thu được lợi nhuận trở lại và làm ăn có hiệu quả hơn.
19
Ban Giám đốc
Các hoạt động
kinh doanh
Phòng Khách
hàng số 1
Phòng Khách
hàng số 2
Hoạt động giao
dịch trong và
giao dịch ngoài
quầy
Phòng Kế toán
giao dịch
Phòng Giao dịch
chợ Hôm
Phòng Giao dịch
Trương Định

Phòng Tài trợ
thương mại
Phòng Khách
hàng cá nhân
Quản lý nội bộ
Phòng Kiểm
tra nội bộ
Phòng Tiền tệ
kho quỹ
Phòng Tổ chức
hành chính
Phòng Thông tin
điện toán
Phòng Kế toán
tài chính
Phòng Tiếp thị
tổng hợp
Dưới đây là tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT
HBT trong 5 năm vừa qua:
Bảng 1: Kết quả hoạt động kinh doanh
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2001 2002 2003 2004 2005
Tổng thu nhập
137.200 145.800 159.900 163.700 184.400
Tổng chi phí
125.100 131.700 143.200 145.780 279.900
Lợi nhuận
12.100 14.100 16.700 17.900 - 95.550
(Nguồn BCKQKD năm 2001- 2005 của NHCT HBT)

2. THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH TRONG NĂM 2005
2.1. Vài nét về doanh nghiệp vừa và nhỏ - Khách hàng của chi nhánh
Ngân hàng Công Thương Hai Bà Trưng
Doanh nghiệp vừa và nhỏ - khách hàng của chi nhánh Ngân hàng Công
Thương khu vực II Hai Bà Trưng chủ yếu nằm trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
Đây là địa bàn rộng lớn, với nhiều thành phần kinh tế phức tạp. Nơi đây tập
trung nhiều doanh nghiệp lớn. Hầu hết đây là các doanh nghiệp quốc doanh đã
có từ lâu đời. Còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì hầu hết là doanh nghiệp tư
nhân, mới thành lập trong thời gian gần đây.
Theo báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh thì tính đến cuối năm 2005,
Chi nhánh có quan hệ tín dụng với tổng số 92 doanh nghiệp, trong đó có 64
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Và hầu hết những doanh nghiệp này là công ty tư
nhân, trách nhiệm hữu hạn, các công ty con hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực
công nghiệp, thương mại với quy mô sản xuất nhỏ lẻ như: công ty kỹ thuật
thương mại quốc tế Song Toàn (chuyên mua bán thiết bị điện tử, linh kiện máy
tính), công ty TNHH Vân Đồn (chuyên doanh các thiết bị vận tải tàu thuỷ), công
ty TNHH Đông Sơn, Công ty TNHH Cát Tường, công ty thương mại Bach
Đằng… Trong 64 doanh nghiệp vừa và nhỏ thì có tới 30 doanh nghiệp là có vốn
chủ sở hữu dưới 5 tỷ. Chính vì vậy, những doanh nghiệp này gặp rất nhiều khó
khăn trong việc huy động vốn từ bên ngoài. Thứ nhất là họ khó có thể huy động
được vốn từ thị trường tài chính bởi do những quy định ràng buộc của luật pháp
20
và tâm lý e ngại của nhà đầu tư. Còn tín dụng ngân hàng là một nguồn vốn vô
cùng quan trọng nhưng DNV&N lại gặp nhiều vấn đề trong thủ tục vay vốn, tài
sản đảm bảo…Từ những hạn chế trên đặt cho DNV&N luôn trong tình trạng
thiếu vốn, quá trình sản xuất không thông suốt, khả năng mở rộng quy mô sản
xuất bị hạn chế, không có khả năng tích luỹ vốn. Từ đây, nguồn lợi nhuận để
thanh toán cho ngân hàng cũng sẽ rất hạn chế, dễ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Đồng thời, với số vốn nhỏ bé như vây, mà lại hoạt động chủ yếu trong các

lĩnh vực công nghiệp và thương mại nên các doanh nghiệp này sẽ rất khó khăn
trong việc đầu tư trang thiết bị cũng như tìm kiếm nguồn hàng. Đối với các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp thì máy móc nhập về lạc
hậu, không có đủ khả năng để nhập máy mới, hiện đại. Do đó, hiệu quả sản xuất
không cao, số lượng sản phẩm làm ra ít, lợi nhuận thu được thấp, gây khó khăn
cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh. Đồng thời, nếu có bất kỳ sự thay đổi nào
trên thị trường hay trong chính sách của Nhà nước mà bất lợi cho lĩnh vực kinh
doanh của mình, các doanh nghiệp này sẽ rất dễ lâm vào tình trạng nguy cấp,
không kịp chuyển hướng kinh doanh và dễ phá sản. Các công ty hoạt động trong
lĩnh vực thương mại cũng dễ lâm vào hoàn cảnh tương tự. Với số vốn nhỏ bé,
các công ty này phải bỏ ra để mua hàng hoá, bỏ ra chi phí vận chuyển, bán hàng,
nếu có bất kỳ rủi ro nào xảy ra thì việc mất hàng, không thu hồi được vốn là
không thể tránh khỏi. Khi những công ty này mà bị thua lỗ, phá sản, ngân hàng
sẽ rất khó đế có thể đòi nợ.
Cũng chính vì quy mô nhỏ bé nên các doanh nghiệp này chỉ có thể đáp
ứng được một phần thị trường rất nhỏ bé. Hầu hết khách hàng – doanh nghiệp
vừa và nhỏ của chi nhánh đều tập trung ở quận Hai Bà Trưng. Sản phẩm mà họ
sản xuất ra hay đem tiêu thụ thì hầu như chỉ có thể cung cấp cho các xí nghiệp,
nhà máy lớn hay cho dân cư, các nhà máy nhỏ lẻ ở trong địa bàn quận và một
vài vùng ngoại thành lân cận như Thanh Trì, Đông Anh, Sóc Sơn hay các tỉnh
khác quanh Hà Nội như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc…
Bên cạnh đó, nhiều công ty thành lập nên chủ yếu là do người chủ có tiền
và muốn kinh doanh chứ chưa hẳn đã có kiến thức quản lý, đã được qua trường
21
lớp đào tạo cơ bản. Có thể họ có kinh nghiệm từng trải và vốn kinh nghiệm đó
đủ để họ có thể làm ăn có lãi nhưng vẫn không thể tránh khỏi những rủi ro bất
trắc. Đây cũng là điểm đáng lưu ý đối với ngân hàng khi nghiên cứu về doanh
nghiệp, khi thẩm định dự án.
Thông tin là cái vô cùng quan trọng đối với tất cả các nhà kinh doanh.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đất nước hiện nay thì tình trạng chung của mọi

doanh nghiệp là thiếu thông tin. Doanh nghiệp vừa và nhỏ - khách hàng của Chi
nhánh cũng không tránh khỏi việc này. Điều này cản trở doanh nghiệp trong việc
tìm hiểu nhu cầu thị trường, có thể đưa ra những quyết định sai khi kinh doanh.
Bên cạnh đó, họ còn rất dễ bị lừa đảo, chiếm đoạt vốn. Đông thời, với tình trạng
thiếu thông tin hiện nay lại cộng thêm sự quản lý lỏng lẻo của Nhà nước, không
ít doanh nghiệp trong số này có ý định không trung thực trong kinh doanh,
chiếm đoạt vốn vay ngân hàng.
Những đặc điểm trên đây chỉ là một vài nét khái quát về các doanh nghiệp
vừa và nhỏ là đối tượng của chi nhánh ngân hàng Công Thương Hai Bà Trưng.
Đây chưa phải là tất cả các đặc điểm của những doanh nghiệp này nhưng nó là
những điểm chính, có ảnh hưởng lớn tới hoạt động cho vay, tới nợ xấu của chi
nhánh.
2.2. Thực trạng nợ xấu của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh
trong giai đoạn 2002 – 2005
2.2.1. Thực trạng nợ xấu
22
Bảng 2: Tình hình dư nợ cho vay
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005
Tổng dư nợ,
903.976 920.128 943.788 740.111
Trong đó:
Nợ cần chú ý
12.927 11.226 11.137 18.768
Tỷ lệ nợ cần chú ý (%)
1,43 1,22 1,18 2,54
Nợ xấu
25.311 24.475 24.349 48.847
Tỷ lệ nợ xấu trong tổng
dư nợ (%)

2,79 2,66 2,58 6,60
Dư nợ đối với DNV&N
393.125 367.535 396.484 330.084
Trong đó
Tỉ trọng trong tổng dư
nợ của ngân hàng (%)
43,49 39,94 42,01 45,59
Nợ cần chú ý
5.601 5.061 4.625 12.359
Tỷ trọng trong tổng dư
nợ của ngân hàng (%)
0,62 0, 55 0, 49 1, 67
Nợ xấu
9.763 9.017 8.966 13.618
Tỷ lệ trong tổng dư nợ
của ngân hàng (%)
1, 08 0, 98 0,95 1, 84
Tỷ trọng trong tổng nợ
xấu (%)
38.57 36.84 36.82 27,88
(Nguồn: Báo cáo KQKD năm 2002 – 2005 của chi nhánh NHCT HBT)
23
A - Trước năm 2005
A-1 Cách thức phân loại nợ xấu
Năm 2005, NHCTVN thực hiện phân loại nợ theo cách mới, do đó, trước
năm 2005, các loại nợ có sự khác biệt so với hiện nay. Nợ vẫn chia làm 5 nhóm
và nợ xấu vẫn thuộc nợ nhóm 3, 4 và 5 tuy nhiên, chi tiết của từng nhóm thì
không giống với hiện nay. Sau đây là tiêu chuẩn của các khoản nợ nhóm 3, 4, 5 -
nợ xấu
Hạng Tiêu chí

Hạng 3
(Nợ dưới
tiêu
chuẩn)
- Tình hình hoạt động kinh doanh thua lỗ
- Tình hình công nợ tại tất cả các tổ chức tín
dụng: có bất kỳ khoản nợ nào quá hạn đến 6 tháng; và/hoặc có
lãi cho vay chưa thu; và/ hoặc có bất kỳ khoản nợ nào được gia
hạn không đúng với quy định tại quyết định số 1627/2001/QĐ –
NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNNVN
Hạng 4
(nợ khó
đòi)
- Tình hình hoạt động, kinh doanh của khách
hàng xấu đi nghiêm trọng: vốn chủ sở hữu âm, và/hoặc bị khởi
kiện hoặc khởi tố; và/hoặc người vay bỏ trốn, chết, mất tích; và/
hoặc bị thu hồi giấy phép kinh doanh, giấy phép hành nghề;
và/hoặc khách hàng bị thiệt hại do nhiều nguyên nhân khác
nhau.
- Tình hình công nợ tại các tổ chức tín dụng:
có bất kỳ khoản nợ nào đã quá hạn trên 6 tháng; và/hoặc nợ
khoanh, nợ chờ xử lý, nợ tồn đong, nợ khó đòi, nợ cho vay
thanh toán công nợ.
Hạng 5
(nợ có
khả năng
mất vốn)
- Có đầy đủ các thông tin của nợ hạng 4 và có
thêm các thông tin khác như không được Chính phủ bảo lãnh,
không có TSBĐ hoặc TSBĐ không đúng với các quy định tại

các văn bản pháp quy về bảo đảm tiền vay.
(Nguồn: Sổ tay tín dụng – NHCTVN năm 2004)
Khi một khoản nợ chỉ cần có một trong các tiêu chí nêu trên thì nó sẽ
được xếp vào hạng nợ tương ứng.
A-2 Thực trạng nợ xấu
24
Qua bảng số liệu 2, ta thấy, tổng dư nợ tín dụng tại Chi nhánh tăng từ
903.967 tỷ đồng năm 2002 lên tới 943.788 tỷ đồng vào năm 2004. Nhưng ngược
lại nợ xấu lại giảm dần cả về số tương đối và tuyệt đối. Năm 2002, nợ xấu là
25311 triệu đồng, chiếm 2,79% tổng dư nợ nhưng đến 2003 thì chỉ còn 44.457
triệu đồng, chiếm 2,66% và đến năm 2004 thì con số nợ xấu là 24.349, chiếm
2,58%.
Tình hình dư nợ cho vay trong toàn bộ Chi nhánh có dấu hiệu khả quan
nhưng tình hình dư nợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn đáng chú ý.
Tổng dư nợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ không tăng nhiều. Từ năm 2002 đến
2004 chỉ tăng có hơn 3 tỷ. Năm 2003, tổng dư nợ của khối này còn giảm so với
2002. Tuy vậy, tỷ trọng dư nợ của khối doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chiếm 1 tỷ
lệ cao trong toàn bộ dư nợ của Chi nhánh (trên dưới 40%). Đồng thời, trong giai
đoạn 2002 – 2004, nợ xấu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng giảm dần cả
về số tương đối và tuyệt đối.
25

×