Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

giải pháp xử lý nợ quá hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần bắc á - chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.58 KB, 123 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề
Trong thời kỳ nền kinh tế tập trung bao cấp, hoạt động của hệ thống Ngân
hàng mà lúc đó là hệ thông ngân hàng một cấp (vừa đảm nhận chức năng quản
lý nhà nước, vừa thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ) được thực hiện theo kế
hoạch chỉ đạo của Nhà nước. Có nghĩa là, nguồn vốn đầu vào của Ngân hàng
nhà nước được nhà nước cấp và lượng vốn cung ứng ra thị trường cũng được
thực hiện theo kế hoạch phát triển đã đề ra. Như vậy, hoạt động ngân hàng của
chúng ta vẫn chưa mang đúng nghĩa của nó.
Trong cơ chế thị trường, hệ thống Ngân hàng được phân chia làm hai
cấp : Ngân hàng nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý vĩ mô và các ngân
hàng thương mại thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng. Nhờ sự phân biệt rõ ràng
như vậy mà hoạt động của hệ thống Ngân hàng dần hoàn thiện và phát triển.
Nhất là trong những năm gần đây, hoạt động của các ngân hàng thương mại phát
triển mạnh mẽ. Để thực hiện đường nối đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà
nước, các ngân hàng thương mại đã thực hiện chiến lược đổi mới mạnh mẽ các
hoạt động của mình như: tăng cường huy động vốn từ nhiều nguồn, chú ý phát
triển hoạt động makerting ngân hàng – chủ động tìm khách hàng thay vì chờ
khách hàng đến với mình như trước, nâng cao chất lượng công nghệ ngân hàng,
đổi mới cách thức tổ chức và điều hành…tất cả những điều đó đã góp phần
không nhỏ cho sư nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh độc lập trên
cơ sở hạch toán lỗ lãi “lời ăn- lỗ chịu”. Trong lĩnh vực kinh doanh Ngân hàng
bao gồm rất nhiều hoạt động: hoạt động tín dụng, thanh toán, chuyển hoá vốn và
các dịch vụ khác, trong đó hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại là
hoạt động tín dụng, đây là hoạt động quan trọng nhất và mang lại 80%-90% lợi
nhuận cho các ngân hàng thương mại. Chính vì tính quan trọng của nó mà các
khoản tín dụng do ngân hàng thương mại cấp ra phải đảm bảo được hiệu quả
kinh doanh (thu được gốc + lãi đúng hạn và lãi thu được phải bù đắp được chi
phí, tạo ra được lợi nhuận cho hoạt động tín dụng). Nhưng nền kinh tế thị trường
là kinh tế của sự cạnh tranh gay gắt và luôn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn.


Trong cuộc cạnh tranh đó sẽ có một người thắng và nhiều kẻ thất bại. Cũng là
một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, chỉ đặc biệt hơn là kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ, các ngân hàng thương mại không thể chối bỏ được quy luật cạnh
tranh này. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại luôn phải khắc
phục những rủi ro trong bất cứ hoạt động nào của mình: rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh toán, rủi ro chuyển hoá vốn, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái…Trong đó, rủi
ro tín dụng là loại rủi ro mà hậu quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động
khác, ảnh hưởng đến chính sự tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàng. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng: Nguyên nhân từ phía khách hàng, từ
phía ngân hàng, từ khả năng lắm bắt thông tin nhưng nguyên nhân chủ yếu là từ
phía khách hàng, có nghĩa là khách hàng không trả được nợ vay cho ngân hàng
vào thời điểm đáo hạn. Như vậy sẽ gây ra rủi ro đọng vốn hay rủi ro mất vốn
cho phía ngân hàng.
Từ những phân tích trên cho ta thấy rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
được xuất phát từ khoản nợ mà khách hàng không trả được cho ngân hàng khi
đến hạn, hay còn gọi đó là các khoản nợ quá hạn .
Chính vì vậy, Để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh tín dụng thì trước hết
ta phải có những biện pháp để phòng ngừa và hạn chế khả năng xuất hiện nợ quá
hạn, giảm thiểu những tổn thất mà nợ quá hạn gây ra.
Nhận thấy sự cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thực tập tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Bắc Á- chi nhánh Hà Nội, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài:
“Giải pháp xử lý nợ quá hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á - chi
nhánh Hà Nội.”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng và giải pháp phòng ngừa, xử lý nợ quá
hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á - chi nhánh Hà Nội. Trên cơ sở đó
để nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc trong vay vốn và hoàn thiện hơn các
biện pháp đảm bảo an toàn để phòng ngừa nợ quá hạn.
2
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu .

Luận văn chỉ nghiên cứu và hoàn thiện về giải pháp phòng ngừa, xử lý nợ
quá hạn tại ngân hàng thương mại đặc biệt là Ngân hàng thương mại cổ phần
Bắc Á - chi nhánh Hà Nội, nhưng kết quả thu được có thể vận dụng cho các
ngân hàng khác.
Lý luận về giải pháp phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn trong ngân hàng
thương mại. Giải pháp phòng ngừa và hạn chế nợ quá hạn tại ngân hàng thương
mại cổ phần Bắc á chi nhánh Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
• Phương pháp chung: là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tế.Từ lý luận để xem xét thực tế và
từ thực tế khái quát thành lý luận.
• Phương pháp cụ thể: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
phương pháp quy nạp, diễn giải, mô tả…
5. Kết cấu luận văn.
Nội dung chính của luận văn chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề về nợ quá hạn và xử lý nợ quá hạn của ngân
hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng nợ quá hạn và xử lý nợ quá hạn tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Bắc Á - chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị về xử lý nợ quá hạn tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Bắc Á- chi nhánh Hà nội.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ NỢ QUÁ HẠN VÀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Nợ quá hạn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Như đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các
ngân hàng thương mại và đem lại 80%-90% doanh thu cho các ngân hàng.
Trong điều kiện cạnh tranh như ngày nay, nhu cầu của khách hàng ngày càng
lớn và khó tính hơn, các ngân hàng thương mại luôn phải tìm ra các biện pháp

để hoàn thiện hơn các hoạt động của mình, không chỉ mở rộng thêm về số lượng
các loại hình hoạt động, tăng quy mô hoạt động của ngân hàng, mà còn phải
quan tâm đến chất lượng của các hoạt động đó, nhất là vấn đề nâng cao chất
lượng tín dụng, giảm tỉ lệ nợ quá hạn xuống thấp. Tuy nhiên, trong quan hệ tín
dụng việc phát sinh nợ quá hạn là điều không thể tránh khỏi.Nhưng vấn đề là ở
chỗ làm thế nào để cho tỉ lệ nợ quá hạn không vượt quá con số cho phép, nếu
không sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại.
Có thể nói nợ quá hạn luôn là vấn đề mà các ngân hàng thương mại phải quan
tâm thường xuyên .
Hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh
tế, bởi nó là trung gian tài chính cung cấp vốn cho nền kinh tế, điều này được
thể hiện như sau: Ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn
rỗi và tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế được tạo ra từ quá trình sản xuất, từ
nguồn tiết kiệm…Sau đó bằng nguồn vốn huy động được trong xã hội thông qua
nghiệp vụ tín dụng lại trở lại cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng một cách
kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất xã hội. Như vậy, nhờ có hoạt
động của hệ thống ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp
có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng xuất,
nâng cao hiệu quả kinh tế. Như vậy sẽ làm cho nền kinh tế phát triển bền vững
hơn.
4
Do vai trò rất quan trọng của hệ thống Ngân hàng thương mại, để đảm
bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của nó, nhà nước và ngân hàng nhà nước
đã ban hành nhiều văn bản quy định về hoạt động kinh doanh ngân hàng, tạo
hành lang pháp lý trong kinh doanh và tăng cường mức độ an toàn cho hoạt
động ngân hàng. Đó là một trong những điểm rất mạnh trong việc quản lý của
hệ thống ngân hàng hiện nay và tình hình đó sẽ còn được cải tiến sâu hơn nữa.
Vấn đề là ở chỗ phải tìm hiểu rõ xem nợ quá hạn phát sinh từ đâu, cái gì
gây nên nợ quá hạn. Và nếu nợ quá hạn xảy ra thì phải làm thế nào để khống
chế, xử lý nó.

1.1.1 .Khái niệm và phân loại nợ quá hạn.
1.1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc phát sinh nợ quá hạn .
a.Khái niệm.
Theo quyết định số 284.2000.QĐ-NHNN1 ngày 25.8.2000 về việc ban
hành quy chế cho vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng quy định
rõ: NQH trong kinh doanh của ngân hàng là hiện tượng của khách hàng không
có khả năng trả nợ đúng hạn mà đã cam kết trong khế ước vay trước đây. Nếu
không được điều chỉnh kỳ hạn nợ hay được ra hạn nợ thì số nợ đến hạn phải
chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn đối với số
tiền chậm trả.
Như vậy bản chất của NQH trong kinh doanh tín dụng là hiện tượng đến
thời hạn thanh toán khoản nợ người đi vay không có khả năng thực hiện ngay
nghĩa vụ của mình đối với người cho vay. Hay nói cách khác thì NQH là kết quả
của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo.
Ta có:
Tỉ lệ Nợ quá hạn (%) =
Tổng Nợ quá hạn
x 100
Tổng dư nợ
- Ý nghĩa: Tỉ lệ nợ quá hạn phản ánh: Cứ 100 đồng cho vay thì có bao nhiêu
đồng NQH.
Trong đó : +Tổng NQH bao gồm: NQH, nợ chờ xử lý, nợ khoanh.
+Tổng dư nợ cho vay, cho thuê phải xem xét đến các yếu tố:
5
• NQH <180 ngày, 180 ngày< NQH<360 ngày
• Các khỏan nợ chờ xử lý.
• Nợ cho vay được khoanh.
Theo quy định của NHNN thì tỉ lệ NQH so với tổng dư nợ cho vay, cho
thuê ở mức nhỏ hơn hoặc bằng 5% và NQH khó đòi chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng
NQH thì NHTM đó mới được đánh giá là có hoạt động tín dụng hiệu quả. Để

xem xét về thực trạng NQH, Người ta quan tâm nhiều đến rủi ro mang tính thời
hạn.
Ta có:
Tỷ lệ NQH theo
thời gian(%)
=
Số nợ gốc chưa trả của tất cả các
khoản vay quá hạn từ
1,31,61,91…360 ngày
x 100
Tổng dư nợ cho vay, cho thuê
Dựa vào cách tính cụ thể này, các NHTM biết một cách chính xác hơn về
tình hình NQH của ngân hàng mình trong từng thời điểm, so sánh với mức quy
định chung, để từ đó có các biện pháp điều chỉnh, và quản lý tín dụng tốt hơn.
b.Nguồn gốc phát sinh NQH.
Khi tiến hành cấp tín dụng, Các NHTM luôn luôn mong muốn thu lại
được cả gốc và lãi của khoản tín dụng đầy đủ và đúng thời hạn. Chính vì thế, khi
quyết định cấp một khoản tín dụng thì các NHTM phải tuân thủ một cách
nghiêm ngặt các bước trong quy trình tín dụng từ việc thu thập thông tin, thẩm
định khách hàng, giải ngân, giám sát quá trình sử dụng, thu lại gốc và lãi.
Đặc biệt là phải làm tốt bước giám sát quá trình sử dụng khoản vay của
khách hàng, nếu phát hiện thấy có biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích thì các
NHTM phải có biện pháp ngăn ngừa và xử lý kịp thời. Chính vì vậy, quản lý
6
chặt chẽ việc sử dụng vốn vay là một việc làm hết sức quan trọng trong công tác
phòng ngừa rủi ro tín dụng, hạn chế khả năng xảy ra NQH.
Trên thực tế có rất nhiều những dấu hiệu cho thấy khoản vay sẽ gặp khó
khăn. Nhưng chúng ta không thể dựa vào một số cách thức cụ thể nào để công
bố khoản vay đó là khoản vay khó hoàn trả hay không thể hoàn trả. Tuy nhiên,
trong hoạt động tín dụng của NHTM ,Ta có thể thấy một số dấu hiệu về sự khó

khăn tài chính của khách hàng.
Một là tính khả thi của dự án thấp: Khi xin vay thực hiện dự án phát triển
sản xuất kinh doanh, khách hàng sẽ phải cung cấp cho NHTM các thông tin
chứng minh tính khả thi của dự án. Nếu thấy tính khả thi của dự án thấp, KH
không có khả năng chi trả chi phí vốn vay < gốc+lãi vay> thì NHTM có thể từ
chối khoản vay đó đối với KH.
Hai là trì hoãn việc nộp báo cáo tài chính cho NH: Một trong những
nguyên nhân dẫn đến việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính là sự gian lận trong báo
cáo tài chính. Để có được nguồn vốn vay giải quyết tính cấp thiết của quá trình
sản xuất kinh doanh, hay sử dụng vào mụch đích nào đó thì các doanh nghiệp có
thể cung cấp các báo cáo tài chính không trung thực. Về phía các NHTM phải
chú ý, phải có khả năng đọc các báo cáo tài chính, phát hiện các gian lận. Nếu
không rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Ba là việc sử dụng vốn tín dụng sai mục đích. Trong quá trình giải trình
hồ sơ vay vốn, KH luôn phải nêu rõ mục đích sử dụng vốn vay của mình đối với
NHTM. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng vốn vay KH có thể sử dụng vốn sai
mục đích ban đầu, gây ra tình trạng không có khả năng trả nợ hay khất nợ đối
với NH.
Bốn là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có chiều hướng
phát triển không lành mạnh, có thể ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
đang gặp rủi ro: thị trường tiêu thụ sản phẩm đó đang bị thu hẹp, thị trường cung
cấp nguyên vật liệu bị rối loạn, hay KH vay vốn của NH gặp phải các thông tin
không lành mạnh về tình hình tài chính, tình trạng hoạt động… khiến cho cổ
phiếu của DN trên thị trường bị giảm giá mạnh, uy tín của DN trên thị trường
7
không được vững chắc, các đối tác tự ý huỷ bỏ hợp đồng kinh doanh, đẩy tình
hình tài chính của DN vào chỗ khó khăn.
Năm là thu nhập của người vay không ổn định, có nhiều thu nhập bất
thường với khối lượng lớn Như vậy NHTM khó có thể thu lại khoản vay do tình
hình tài chính của DN cũng bất ổn định, nhất là vào lúc khoản vay tới thời điểm

đáo hạn tỉ lệ xảy ra NQH là rất cao.
Sáu là số vòng quay vốn tín dụng trong thực tế thấp hơn trong hợp đồng
tín dụng đã kí kết dẫn đến ứ đọng vốn trong SXKD của người vay.
Ngoài ra còn một số dấu hiệu khác như: KH tự ý xin hoãn nợ, khất nợ,
hoàn trả nợ vay NH chậm hay quá kỳ hạn, không đầy đủ như đã cam kết, gia
tăng TSCĐ qua việc sáp nhập hay mua lại của các DN khác, các thảm hoạ thiên
nhiên xảy ra: bão lụt, hoả hoạn…
Đó là các dấu hiệu khó khăn về tài chính của KH cũng có nghĩa là khả
năng trả nợ vay của KH thấp. Trên cơ sở các dấu hiệu này, NH sẽ tìm ra các
biện pháp điều chỉnh và ngăn ngừa kịp thời, tránh dẫn đến những khoản NQH có
thể gây ra RRTD.
1.1.1.2.Phân loại NQH .
Có rất nhiều nguồn gốc làm phát sinh NQH. Vấn đề là ở chỗ, khi NQH
phát sinh thì làm thế nào để xử lý nó. Để tiện cho việc quản lý tín dụng và xây
dựng kế hoạch thu hồi vốn vay trong từng trường hợp cụ thể, giải quyết NQH thì
các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số tiêu thức phân chia thường được áp dụng
trong các NHTM.
• Căn cứ vào thời gian quá hạn của khoản vay:
+ NQH dưới 180 ngày
+ NQH từ 180 ngày đến 360 ngày
+ NQH trên 360 ngày.
• Căn cứ vào khả năng thu hồi:
+ NQH đòi đủ 1000%.
+ NQH khó đòi khả năng thu hồi không đủ và phải kéo dài. +
NQH không có khả năng thu hồi.
8
• Căn cứ vào thành phần kinh tế:
+ NQH của các DNNN.
+ NQH của các DNTN
+ NQH của các công ty cổ phần, công ty TNHH.

+ NQH của các hộ cá thể
+ NQH của các DN có vốn đầu tư nước ngoài
• Căn cứ theo loại tiền cho vay:
+ NQH theo VNĐ
+ NQH theo ngoại tệ
• Căn cứ theo nguyên nhân phát sinh:
+ NQH do lỗi người vay: yếu kém về trình độ quản lý, khả năng
cạnh tranh, do người vay cố tình không trả nợ…
+ NQH do lỗi người cho vay: thường bao giờ cũng gắn liền với lỗi
người vay trong việc đồng tình, thông đồng…với khách hàng.
• Căn cứ vào mức độ đảm bảo:
+ NQH được đảm bảo hoàn toàn
+ NQH được đảm bảo một phần
+ NQH không được đảm bảo.
Như vậy, một khoản vay không có khả năng trả nợ vào thời điểm đáo hạn
thì khách hàng có thể xin gia hạn nợ. Tuỳ điều kiện từng khách hàng mà NH có
chấp nhận hay không, nếu như hết thời hạn gia hạn nợ mà khách hàng vẫn
không có khả năng thanh toán thì NHTM sẽ chuyển toàn bộ khoản vay này sang
NQH và khách hàng lúc này sẽ phải chịu lãi suất NQH. Nhờ cách phân chia này
đã giúp cho các NHTM đưa ra các biện pháp xử lý thu hồi gốc và lãi của khoản
vay này và giảm tỉ lệ rủi ro xuống mức thấp nhất có thể.
1.1.2. Nguyên nhân phát sinh NQH.
1.1.2.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng:<người đi vay>.
Đây là nguyên nhân chủ yếu gây nên NQH đối với các NHTM. Từ khi
hoạt động của NHTM ra đời, phát triển và hoàn thiện hơn thì tới 80% nguyên
nhân gây RRTD là từ phía khách hàng. Các NHTM cho đến ngày nay cũng đưa
9
ra nhiều biện pháp và có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc hạn chế RRTD từ
nguyên nhân này, việc “khám sức khoẻ” của KH trước, trong và sau khi cho
vay, độ tin cậy trong quá trình quan hệ, mục đích sử dụng tiền vay, hiệu quả của

phương án SXKD là cơ sở vững chắc cho việc quyết định có cho vay hay
không. Tuy nhiên, NQH vẫn xảy ra và trở thành vấn đề bức xúc trong hệ thống
NHTM nước ta hiện nay, vậy nguyên nhân là do đâu.
a. Rủi ro trong công việc kinh doanh của người đi vay.
Trong điều kiện phát triển như ngày nay ,chúng ta chủ yếu xét đến các
DN. Khi các DN được phép vay một khoản vay để thực hiện một dự án kinh
doanh thì phần chi phí để trả cho NH được trích từ lãi mà dự án này thu được.
Như vậy, “sức khoẻ” của khoản tín dụng phụ thuộc vào tính khả thi của dự án.
Cũng có nghĩa là, Bất cứ một rủi ro nào trong quá trình SXKD của doanh nghiệp
(đang sử dụng vốn của NH) cũng đều ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ NH.
Tính rủi ro trong công việc kinh doanh của DN có thể do việc triển khai
dự án đầu tư SXKD không khoa học, chưa thực hiện kỹ càng, xác thực. Các số
liệu về mức tiêu thụ của sản phẩm trên thị trường, chất lượng NVL đầu vào, các
yếu tố cấu thành nên giá thành sản phẩm chưa đầy đủ. Ngoài ra, cũng có thể có
những nguyên nhân bất khả kháng, ngoài ý muốn của các điều kiện sản xuất,
gây nên tình trạng khó khăn trong làm ăn, mang lại rủi ro cho DN và làm ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ NH ở các mức độ khác nhau.
b. Các thiệt hại DN phải gánh chịu do sự biến động của thị trường cung
cấp.
Nếu giá cả của NVL trên thị trường tăng do khan hiếm hay do một lý do
nào khác mà DN không thể không tiến hành SX. Như vậy sẽ đẩy giá thành của
mỗi đơn vị sản phẩm tăng lên, trong khi đó giá bán sản phẩm trên thị trường lại
không thay đổi sẽ làm cho tổng doanh thu giảm xuống, lợi nhuận thu được từ dự
án cũng giảm so với kế hoạch.
Còn nếu như tăng giá bán sản phẩm để bù đắp phần chi phí tăng thêm thì
sẽ làm cho việc tiêu thụ gặp khó khăn, khả năng thu hồi vốn chậm, dễ dàng vi
phạm việc trả nợ NH về mặt thời hạn.
10
c. Doanh nghiệp phải chịu thiệt haị trên thị trường tiêu thụ.
Nếu kế hoạch sản phẩm của dự án SXKD không thực hiện kĩ càng, chính

xác thì sẽ làm nảy sinh hai vấn đề gây rủi ro trong SXKD của DN. Bởi nền kinh
tế thị trường là một nền kinh tế rất nhạy cảm.
+ Thứ nhất là: Nếu khối lượng sản phẩm sản xuất ra không phù hợp với
nhu cầu thị trường tiêu thụ sẽ gây nên tình trạng ứ đọng hàng và hậu quả là vốn
bị ứ đọng khả năng thu hồi chậm.
+ Thứ hai là: Nếu chất lượng sản phẩm kém, không đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao của khách hàng cũng gây nên tình trạng ứ đọng vốn do không bán
được hàng. Nếu doanh nghiệp phải bán với giá thấp hơn giá trị của hàng hoá,
phải bỏ thêm chi phí quảng cáo, chi phí sửa chữa… Như vậy sẽ làm tăng tính rủi
ro trong kinh doanh của doanh nghiệp và việc trả nợ cho NH đúng thời hạn khó
mà thực hiện được
d. Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích.
Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích sẽ không đảm bảo an toàn của vốn
vay trong quá trình sử dụng, sẽ gây lãng phí hay mất vốn. Như vậy NH cũng gặp
khó khăn trong việc thu nợ của mình.
e. Năng lực tài chính của DN, của chủ dự án không lành mạnh khả năng
thanh toán kém.
Có nghĩa là các nguồn thu của DN thì hạn chế trong khi các khoản nợ đến
hạn của DN ngày càng lớn như: nợ ngân sách, trả lương CNVC, nợ người bán,
nợ NH…Và cơ cấu vốn đầu tư không hợp lý: Giá trị TSCĐ tăng nhanh trong khi
quy mô của DN lại không có khả năng mở rộng.
g. Do ý muốn chủ quan của người đi vay không trả nợ cho NH hay là rủi
ro đạo đức của người đi vay.
Như đã biết, NQH xảy ra khi người đi vay không trả được nợ cho NH tại
thời điểm đáo hạn. Lý do có thể do tình trạng tài chính yếu kém, DN khất nợ
vay đối với NH hay doanh nghiệp cố ý không muốn trả nợ để dùng khoản tiền
đó đầu tư kiếm lời.
1.1.2.2.Nguyên nhân từ phía NH.
11
Tuy chiếm tỉ lệ không cao trong các nguyên nhân gây rủi ro tín dụng -

NQH, nhưng nó lại phản ánh trình độ, khả năng quản lý, năng lực kinh doanh
của NHTM.
Trước hết là ở tầm quản lý, Ban quản trị NH phải đưa ra được một chính
sách cho vay phù hợp với thực tế. Bởi chính sách cho vay là kim chỉ nam cho
hoạt động tín dụng của NH. Chính sách đưa ra đồng bộ, thống nhất, đầy đủ,
đúng đắn, sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng khi thực
hiện nhiệm vụ nâng cao hiệu quả KT-XH của hoạt động tín dụng, nếu không sẽ
dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo ra khe hở cho người sử
dụng vốn, như vậy sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng -
NQH.
Thứ hai là NH chưa thật chú trọng vào mục tiêu của các khoản vay, tính
toán thiếu chính xác hiệu quả đầu tư của dự án dẫn đến các quyết định sai lầm
trong cho vay.
Thứ ba là NH đã không chú trọng khâu giám sát khoản vay sau quyết định
cho vay hay quá tin vào khách hàng. Có thể dẫn đến tình trạng sử dụng vốn sai
mục đích, hay tình hình tài chính, khả năng thanh toán của KH có vấn đề. Như
vậy sẽ gây nên rủi ro cho khoản vay NH.
Thứ tư là do trình độ của cán bộ tín dụng còn yếu kém không có khả
năng đánh giá dự án vay vốn. Thêm vào đó NH lại không cung cấp đủ số liệu
thống kê, các chỉ tiêu để phân tích, so sánh, đánh giá vai trò vị trí của DN trong
ngành, khả năng phát triển trong tương lai… Từ đó dẫn đến việc đánh giá sai
hiệu quả của dự án cho vay.
Mặt khác cũng có thể do tư cách đạo đức của cán bộ tín dụng, thông đồng
với KH để trục lợi riêng gây nên rủi ro tín dụng cho NH và tình trạng NQH rất
dễ xảy ra.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như: -
NH quá tin tưởng vào giá trị của tài sản thế chấp cầm cố sau khi đã đánh giá và
coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho việc thu hồi gốc và lãi vay. Bỏ qua công tác
12
phòng ngừa RR, giám sát hoạt động của dự án, sử dụng vốn vay của KH. Không

đưa ra được các biện pháp để xử lý khi có dấu hiệu của một khoản nợ xấu.
- Cán bộ tín dụng không thể bao quát được hết các điểm yếu về mặt pháp
lý hay sai sót chủ quan, khách quan của khách hàng trong hồ sơ chứng từ xin
vay.
- Tình trạng thiếu thông tin tín dụng, chưa phân loại được DN, chưa có sự
phân tích, đánh giá DN một cách đúng đắn và khách quan.
- NH chưa đưa ra được một cơ cấu quản lý, theo dõi rủi ro, chưa đưa ra
được hạn mức tối đa cho từng khách hàng thuộc các ngành nghề, loại sản phẩm,
địa phương khác nhau, hay quá tập trung vào một đối tượng khách hàng, một
ngành nghề sẽ không phân tán được rủi ro.
+ Theo quy định của NHNNVN thì cho vay đối với một khách hàng
không quá 15%Vốn tự có. Nếu khách hàng muốn vay một khoản vay lớn hơn
mức quy định cho phép thì NHTM có thể thực hiện đồng tài trợ để phân tán rủi
ro, Tuy nhiên mức 15% là mặt bằng quy định chung, các NHTM cũng phải linh
hoạt, nhạy bén về vấn đề này để có thể thu hút được khách hàng lớn.
- Đưa ra định kỳ trả nợ chưa thích hợp với vòng luân chuyển vốn: Kỳ hạn
trả nợ được xác định dựa trên chu kỳ SX, kế hoạch bán hàng và doanh thu. Việc
các NHTM không tính toán được kỳ hạn trả nợ phù hợp sẽ gây ra tình trạng
chiếm dụng vốn của NH để sử dụng với mục đích khác hay KH không trả nợ
được đúng hạn bởi chu kỳ SXKD chưa kết thúc, chưa thu lại được vốn và lãi
Tư tưởng chạy theo thành tích, tăng dư nợ một cách không có căn cứ vượt
lên trên nhiều nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu cần thiết hợp lý của doanh
nghiệp và cá nhân, khả năng quản lý hiện có của doanh nghiệp.
1.1.2.3. Các nguyên nhân khác.
*. Nhân tố thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động NH rất nhạy cảm với mọi sự biến
động của nền kinh tế. Nền kinh tế đang ở trong tình trạng suy thoái, sản xuất
đình đốn, thu nhập của mọi thành viên trong nền kinh tế giảm, ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ NH, số lượng các khoản nợ quá hạn tăng lên. Mặt khác, NH
13

cũng gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình do hoạt động kinh
doanh của các DN kém hiệu quả. Còn nếu nền kinh tế quá nóng, hiện tượng lạm
phát xảy ra, giá cả đồng tiền giảm sút và chỉ số giá cả tăng nhanh, gây khó khăn
cho hoạt động SXKD, tác động xấu đến việc thu hồi công nợ của NH.
Ngoài ra, các lĩnh vực SXKD còn gặp rủi ro bất khả kháng về thiên nhiên,
thiên tai và dịch hoạ.
*. Nhân tố chính sách.
Sự điều chỉnh về chính sách, chế độ, pháp luật, những thay đổi về địa giới
hành chính các địa phương, xát nhập, hay tách ra của các bộ ngành trong nền
kinh tế đều gây rủi ro trong kinh doanh tín dụng của NHTM nếu như không nắm
bắt kịp thời các thông tin.
*. Nhân tố quốc gia.
Nếu NH đầu tư sang một nước khác hay đầu tư cho doanh nghiệp nước
ngoài tại VN, hoặc cho vay, bảo lãnh đối với DNVN trong quan hệ với nước
ngoài để tiếp nhận máy móc thiét bị công nghệ hay đầu tư cho các DN có quan
hệ SXKD hàng hoá với thị trường ngoài nước… thì NH phải quan tâm đến rủi
ro của quốc gia đối với từng nước khác nhau. Nếu như ở các nước đó có sự suy
thoái về kinh tế, có biến động về chính trị, có NH bị phá sản, có sự biến động
mạnh về giá cả, lãi suất, về thuế xuất nhập khẩu… gây khó khăn cho khách hàng
của NH. Như vậy NH sẽ gặp khó khăn trong vấn đề thu nợ, và bị ảnh hưởng
gián tiếp của các biến động đó.
*. Nhân tố môi trường.
Môi trường kinh doanh bên ngoài có tác động rất lớn đến các khoản vay
dưới các góc độ khác nhau. Ta có thể xem xét một số yếu tố môi trường có thể
gây ra rủi ro tín dụng và NQH như:
Vấn đề môi trường sống trong điều kiện phát triển chóng mặt của nền
kinh tế hiện nay. Tổ chức môi trường thế giới đã đề nghị các tổ chức kinh tế
phải chú ý đến vấn đề môi trường trong các dự án SXKD của mình. Như vậy các
NHTM khi cho vay phải quan tâm đến chi phí về môi trường trong các dự án
14

xem nó đã được tính tới chưa và ảnh hưởng ra sao đến thu nhập dự kiến, khả
năng trả nợ vay NH.
Thêm vào đó là sự tác động hai chiều giữa tài sản thế chấp, cầm cố và môi
trường sống. Môi trường sống có thể làm giảm giá trị tài sản thế chấp, cầm cố
nếu không được bảo quản cẩn thận và làm tăng chi phí cho việc bảo vệ môi
trường (nếu có).
Một yếu tố môi trường nữa được nói đến ở đây là môi trường pháp lý cho
hoạt động kinh doanh của DN có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng phát sinh
NQH. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và các văn bản dưới luật chưa
đầy đủ, đồng bộ, hợp lý sẽ không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho
các hoạt động kinh tế. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong SXKD
của các DN, gây nên các khoản nợ quá hạn cho NH.
*. Các nhân tố khác.
Ngoài các nhân tố trên, các NHTM phải chú ý đề cập đến các nhân tố
khác như: Sự cung cấp thông tin về KH của các cơ quan có liên quan. Hay luật
sư giúp việc cho NH hiểu rõ vấn đề nhưng lại lầm tưởng NH đã chấp nhận mức
độ rủi ro đó trong việc ký kết các hợp đồng tín dụng. Hay việc thiếu các chính
sách, chế độ luật pháp cần thiết khác của NN để tạo môi trường thuận lợi cho
việc kinh doanh của DN trong nền kinh tế thị trường.
Như vậy việc tìm hiểu các nguyên nhân phát sinh NQH sẽ giúp cho các
NHTM đưa ra các biện pháp xử lý, hạn chế rủi ro tín dụng một cách hợp lý và
chính xác nhất. Từ đó đưa ra các bài học kinh nghiệm trong hoạt động tín dụng,
nâng cao hiệu quả KT-XH của hoạt động này.
1.1.3. Ảnh hưởng của NQH.
NQH có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng của một NH và là một
trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của NH. Tuy nhiên, ảnh
hưởng của nó không chỉ trong phạm vi hệ thống NH mà còn ảnh hưởng đến toàn
bộ nền kinh tế, bởi NHTM là trung gian tài chính cung ứng vốn cho nền kinh tế,
luân chuyển tiền tệ cho nền kinh tế, tạo sự phát triển ổn định cho nền kinh tế.
15

Chính vì vậy mà mọi thành phần kinh tế rất quan tâm đến hoạt động kinh doanh
của NH, đặc biệt là ảnh hưởng của NQH.
1.1.3.1. Đối với NH.
NQH sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, do NQH phát sinh khi KH
không trả được nợ vay NH tại thời điểm đáo hạn. Như vậy, cũng có nghĩa là một
phần vốn của NH bị lãng phí do bị tồn đọng trong các khoản nợ . Việc tồn đọng
này làm cho NH mất đi các cơ hội kinh doanh kiếm lời khác. Hơn nữa, NQH
còn làm giảm vòng quay vốn của NH.
Ta có :
Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ
Số dư nợ bình quân
Doanh số thu nợ có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với số dư nợ bình quân. Nếu
doanh số thu nợ càng cao thì sẽ làm cho số dư nợ bình quân giảm. Hay nói cách
khác NQH phát sinh làm cho doanh số cho vay giảm, từ đó làm giảm hiệu quả
sử dụng vốn.
Hoạt động tín dụng tạo ra cho NH tới 80%-90% thu nhập. Mà nguồn vốn
của NH chủ yếu được huy động từ bên ngoài với chi phí huy động lớn, để bù
đắp cho khoản chi phí chủ yếu này thì NH phải lấy từ thu nhập của các khoản
cho vay. Do vậy, nếu khoản cho vay không thu hồi được dẫn đến một bộ phận
tài sản của NH bị đóng băng trong khi các khoản chi phí huy động vẫn phải chi
trả, vậy NQH đã làm giảm lợi nhuận của NH. Bên cạnh đó nếu tài sản của NH bị
đóng băng sẽ làm giảm dư nợ tín dụng, giảm khả năng thanh toán.
Nếu khoản vay của KH bị xếp vào NQH thì NH sẽ áp dụng mức lãi suất
NQH cao hơn mức lãi xuất thường (150% lãi suất thường ). Vậy tại sao các
NHTM luôn phải hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng này trong khi có thể
kiếm được một khoản thu nhập tốt từ lãi xuất phạt NQH. Bởi thực tế thì đây chỉ
là khoản thu nhập ảo, NH khó có thể thu hồi được. Mặt khác, NH lại còn phải bỏ
ra một khoản chi phí quản lý giám sát, thanh lý khoản nợ này trong tương lai,
đây là một điều mà không NHTM nào muốn bởi nó còn làm ảnh hưởng đến uy

tín của NH. Trong hợp đồng cho vay giữa NH và KH có một điều khoản là: Nếu
16
như khách hàng không trả được khoản nợ vay và có những hành vi vi phạm đến
các điều khoản trong hợp đồng thì NH có thể đưa ra các cơ quan pháp luật để xử
lý. Việc có xử lý được hay không cũng làm ảnh hưởng đến uy tín của NH mà
trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường ngày nay, uy tín của NH
cũng là một sản phẩm kinh doanh rất có giá trị .
Một điều nguy hiểm hơn nữa nếu NQH không được hạn chế thì một nguy
cơ phá sản của NH là rất cao. NQH là nguyên nhân chủ yếu gây ra RRTD, mà
NH sống được là nhờ có hoạt động tín dụng lành mạnh. Chính vì thế mà NQH là
vấn đề bức xúc cần giải quyết của các NHTM.
1.1.3.2. Đối với khách hàng.
Đối với khoản NQH, KH sẽ phải chịu lãi xuất nợ quá hạn theo quy định
bằng 150% mức lãi xuất cho vay cùng loại. Nếu tình hình tài chính của KH đang
gặp khó khăn lại gánh thêm phần chi phí tăng lên từ khoản lãi xuất phạt này thì
càng làm tăng gánh nặng trả nợ NH.
Thêm vào đó, hoạt động kinh doanh của DN càng phát triển thì nhu cầu
sử dụng dịch vụ thanh toán qua NH càng lớn. Vì một nguyên nhân nào đó mà
khoản vay của DN bị liệt vào NQH, mặt khác số dư tiền gửi của DN tại NH
không còn khả năng trả nợ thì việc hưởng dịch vụ thanh toán qua NH sẽ bị
ngưng lại. Quá trình thanh toán bị ngưng lại cũng đồng nghĩa với việc luân
chuyển vốn của DN bị ảnh hưởng theo chiều hướng xấu, mất đi nhiều cơ hội
kinh doanh với các khoản lợi đáng nhẽ ra sẽ thu được.
Tình trạng không có khả năng trả nợ mà càng kéo dài thì uy tín của KH
đối với các đối tác làm ăn càng giảm xuống. Thứ nhất là đối với các NHTM Họ
sẽ không muốn quan hệ với các KH có tình hình hoạt động kém hiệu quả, gây ra
RRTD-NQH cho họ. Thứ hai là, các bạn hàng sẽ rút lại các hợp đồng làm ăn nếu
có những thông tin không tốt về tình hình tài chính của DN.
1.1.3.3. Đối với nền kinh tế.
Hoạt động của hệ thống NHTM rất nhạy cảm và chứa đựng nhiều rủi ro,

chỉ cần một sự tổn thương nhỏ cũng gây lên sự xáo trộn lớn đối với nền kinh tế.
17
Thứ nhất là sức ép về lạm phát: NQH ở mức độ cao sẽ gây ra tình trạng
khan hiếm giả tạo về vốn cho nền kinh tế. Một khối lượng lớn vốn bị tồn đọng
trong các khoản NQH sẽ làm giảm lượng tiền trong lưu thông tạo ra sức ép cho
việc tăng cung tiền mà hậu quả là lạm phát .
Thứ hai là gây nên tình trạng đình trệ trong SX, bởi NQH làm cho vốn bị
ùn tắc, không đến được nơi cần vốn để phát triển hoạt động kinh doanh, gây ra
đình đốn trong SX, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nền kinh tế.
Nguy hiểm hơn nữa là, nếu hệ thống NH gặp phải tình trạng khủng hoảng
sẽ kéo theo sự khủng hoảng của nền kinh tế. Bởi NHTM là kênh chủ yếu thực
hiện huy động vốn và cho vay phát triển kinh tế. Hoạt động NH mang tính xã
hội rất cao, đó là ảnh hưởng mang tính dây truyền. Nếu tỉ lệ NQH quá cao mà
không có biện pháp xử lý kịp thời sẽ gây thua lỗ cho NH do chi phí tăng cao mà
thu nhập lại không hề tăng lên. Để đảm bảo hoạt động kinh doanh thì các hoạt
động như: huy động vốn, cho vay, đầu tư bị thu hẹp ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển của nền kinh tế, đồng thời là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng
hoảng kinh tế.
1.1.4. Biện pháp ngăn ngừa và hạn chế NQH.
NQH luôn luôn tồn tại cùng với khoản vay kể từ khi tền vay phát ra cho
đến khi thu hồi cả gốc và lãi. Như vậy, để đảm bảo an toàn cho mỗi khoản vay,
đảm bảo thanh toán cả gốc và lãi đúng thời hạn và đầy đủ thì các NHTM phải có
một số các biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế RR về NQH cho chính bản thân
NH, cho KH và cho các đối tượng có liên quan khác.
1.1.4.1. Đối với khách hàng.
Đây là nguyên nhân lớn nhất gây ra NQH, cho nên khi đề cập đến các
biện pháp hạn chế và ngăn ngừa NQH thì đây là mối quan tâm đầu tiên và rất
quan trọng đối với các NHTM.
Khi phân tích từ phía KH nên tập trung phân tích ở các khía cạnh sau:
 . Tư cách pháp nhân của đơn vị vay vốn:

18
Theo quy định của luật pháp thì chỉ có đơn vị pháp nhân mới có quyền ký
kết các hợp đồng kinh tế. Trong khi hợp đồng tín dụng cũng là một hợp đồng
kinh tế, cho nên NH chỉ ký kết với các đơn vị có đây đủ tư cách pháp nhân.
Ở đây tư cách pháp nhân được hiểu là: Một tổ chức được nhà nước thành lập
hay cho phép thành lập một cách hợp pháp, phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phải
có tài sản độc lập với tài sản của tổ chức và cá nhân khác, tự nhân danh mình
tham gia các quan hệ quản lý và tự chịu trách nhiệm về tất cả hoạt động của
mình trong phạm vi phần tài sản mà mình quản lý.
Như vậy, Một đơn vị có đầy đủ tư cách pháp nhân phải có đầy đủ và hợp lệ
các giấy tờ:
*. Quyết định thành lập DN:
Quyết định thành lập DN cho phép NH khẳng định được tư cách của đơn
vị và hoạt động của DN phù hợp với luật định. Đây là cơ sở đầu tiên để NH lựa
chọn KH đầu tư vốn. DN hoạt động theo đúng luật định thì vốn của NH bỏ vào
sẽ an toàn hơn.
*. Quyết định tổ chức:
Quyết định tổ chức sẽ cho NH biết về người lãnh đạo của DN. Đối với
một DN thì vai trò của người lãnh đạo rất quan trọng. NHTM phải quan tâm tới
trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, khả năng kinh doanh, khả năng trả nợ
vay đầy đủ, đúng hạn của người lãnh đạo này.
*. Giấy phép kinh doanh :
Giấy phép kinh doanh cho biết DN đang hoạt động ở đúng lĩnh vực được
phép kinh doanh hay không. NH chỉ cho vay những đối tượng phục vụ cho quá
trình SXKD của DN theo đúng luật định. Nếu KH vay vốn đầu tư cho những
mặt hàng không thuộc phạm vi chức năng của mình thì NH không cho vay bởi
mức độ RR cao.
 . Phân tích tình hình SXKD:
Để phân tích tình hình SXKD thì NH dựa vào hai chỉ tiêu sau:
- Thứ nhất là dựa vào doanh thu của DN:

19
Đây là cơ sở kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng tiêu thụ sản phẩm của
DN. Nếu doanh thu càng lớn thì DN càng có thể tăng thu nhập, có điều kiện mở
rộng SXKD, và tăng khả năng trả nợ vay cho NH. Nhưng doanh thu của DN
tăng nhanh trong kỳ có thể là do những thu nhập bất thường trong kinh doanh.
Khi quyết định cho vay NH phải hết sức chú ý .
- Thứ hai là dựa vào kết quả SXKD của DN:
Kết quả SXKD của DN được tính bằng chênh lệch giữa giá thành và giá
bán sản phẩm. Kết quả kinh doanh càng tăng chứng tỏ DN làm ăn có hiệu qủa,
khả năng sử dụng vốn tốt, khoản tín dụng của NH có điều kiện hoàn trả đúng
hạn.
 .Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Trên cơ sở báo cáo tài chính của DN tại thời điểm gần nhất, NHTM sẽ
đánh giá dược DN thừa vốn hay thiếu vốn, việc sử dụng tài chính của DN có tốt
hay không, từ đó sẽ đánh giá được mức độ RR của khoản vay sau này.
Khi phân tích tình hình tài chính của đơn vị, NHTM cần sử dụng các chỉ
tiêu như:
- Tỉ số chênh lệch giữa vốn tự có. vốn sử dụng, hạn chế không cho những
DN có vốn tự có thấp vay để hạn chế thấp nhất RR cho khoản vay.
- Chênh lệch giữa các khoản phải trả. phải thu: Chênh lệch này cho biết tỉ
lệ vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng là bao nhiêu. Khi xem xét chỉ tiêu
này NH sẽ thấy được ảnh hưởng của nó đến khả năng hoàn trả khoản vay đúng
hạn của KH.
- Khả năng thanh toán : một DN có khả năng thanh toán tốt là có khả năng
tự cân đối các khoản nợ khi đến hạn. Nếu DN mất khả năng thanh toán thì
khoản tín dụng của NH sẽ gặp RR cao.
 . Phân tích dự án vay vốn của KH.
a. Phân tích tính pháp lý của dự án.
Để thực thi một dự án thì trước hết dự án đó phải có tính pháp lý. Tính
pháp lý của dự án phải thoả mãn các điều kiện sau:

20
- Mục đích đầu tư của dự án phải phù hợp với mục đích hoạt động của
DN mà cấp có thẩm quyền đã phê duyệt.
- Dự án phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
b. Phân tích tính khả thi của dự án:
Để dự án SXKD được thực thi thì phải có đầy đủ NVL, nhân lực, có thị
trường tiêu thụ.
*. Về nguồn NVL phục vụ cho SX:
NH phải xem xét nguồn NVL này được cung cấp từ nguồn nào, có dễ
kiếm tìm, hay được thay thế hay không, có ổn định không. Quan trọng hơn nữa
là chất lượng của NVL có được đảm bảo, giá cả có hợp lý hay không. Bởi tất cả
các yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả SXKD của DN và tất nhiên sẽ
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay cho NH.
*. Thị trường tiêu thụ sản phẩm:
Sản phẩm sản xuất ra có tiêu thụ được trên thị trường hay không, DN đã
phải tính đến khi quyết định thực hiện dự án. Trong kế hoạch của dự án, DN
phải tính một cách cụ thể về khối lượng, mẫu mã, chủng loại, giá cả của sản
phẩm sao cho khi đưa ra thị trường được chấp nhận ngay và sản phẩm không chỉ
đáp ứng nhu cầu hiện tại mà còn phải đáp ứng cả nhu cầu trong tương lai. Việc
nghiên cứu sản phẩm có ý nghĩa đánh giá khả năng thực thi của dự án và khả
năng hoàn trả nợ vay NH của DN. Sản phẩm là mấu chốt quan trọng để DN có
nguồn thu bù đắp cho tất cả các chi phí đã sử dụng. Cho nên khi nghiên cứu tính
khả thi của dự án, các NHTM phải đặc biệt chú ý đến sản phẩm và chu kỳ sống
của nó
• Phân tích hiệu quả kinh tế do dự án đem lại:
Ta có chỉ tiêu sau:
Hiệu quả kinh tế =
Lợi nhuận thu được của dự án
Tổng số vốn đầu tư bỏ vào dự án
21

Chỉ tiêu này cho biết : Cứ mỗi đồng vốn bỏ ra thì DN thu lại được bao
nhiêu phần lợi nhuận. Dựa vào chỉ tiêu này, NH sẽ biết được hiệu quả sử dụng
vốn của DN có tốt hay không.
Mỗi dự án SXKD đều có sự tham gia của NH dưới hình thức cho vay vốn,
khi đó DN sẽ phải chịu một mức lãi suất theo quy định cho khoản vay đó. Hiệu
quả kinh tế do dự án đem lại phải đảm bảo lớn hơn mức lãi suất mà NH cho vay,
như vậy mới đảm bảo cho DN khả năng trả vốn và lãi cho NH một cách đầy đủ.
Đây là chỉ tiêu quan trọng để NH có quyết định cho vay hay không.
• Phân tích giá thành của sản phẩm:
Giá thành sản phẩm càng thấp thì khả năng thu lợi càng cao. Đây là chỉ
tiêu chất lượng tổng hợp biểu hiện mọi kết quả hoạt động kinh doanh của DN.
Bởi giá thành sản phẩm phản ánh toàn bộ chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm, giá thành thấp chứng tỏ dự án đã tận dụng một cách có
hiệu quả mọi tiềm năng của DN.
Nhưng khi đánh giá về giá thành của sản phẩm, các NHTM phải xem xét
các chi phí cấu thành nên giá thành và tổng giá thành có hợp lý hay không,
chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm trên thị trường có cao không.
• Phân tích khả năng đáp ứng về vốn cho dự án:
Để thực hiện một dự án SXKD, điều đầu tiên và rất quan trọng là phải có
vốn. Khi xem xét về nguồn vốn cung cấp cho dự án, phải xem xét xem nguồn
vốn được cung cấp từ nguồn nào, có đảm bảo an toàn và ổn định hay không.
Thông qua phân loại nguồn vốn, NH sẽ có con số chính xác về VTC của DN
tham gia vào dự án. NH chỉ cho vay các dự án mà VTC của DN tham gia vào dự
án lớn . Như vậy sẽ thúc đẩy được DN sử dụng đến mức lớn nhất các tiềm lực
của mình. Mặt khác, căn cứ vào VTC của DN mà NH tính ra mức dư nợ tối đa
có thể cấp cho DN, tránh trường hợp cấp thừa, lãng phí, giảm hiệu quả sử dụng
vốn.
Tóm lại, nhờ vào việc phân tích đánh giá KH và dự án mà KH xin vay
vốn đã giúp cho NH lắm bắt được tình hình “sức khoẻ” hiện tại và trong tương
22

lai của DN, khả năng đầu tư, hiệu quả đầu tư có thể đạt được của dự án để từ đó
đưa ra quyết định cho vay đúng đắn nhất, hạn chế được NQH phát sinh.
1.1.4.2. Đối với Ngân hàng.
 . Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng.
Để hạn chế NQH, Công việc của các NHTM không chỉ là phân tích đánh
giá yếu tố KH mà phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động
tín dụng.
• Kiểm tra việc chấp hành kế hoạch dư nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn xem có
phù hợp với cơ cấu nguồn vốn, có những biện pháp để khỏi tăng nguồn vốn
nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng SXKD của các tổ chức kinh tế trên địa bàn.
• Kiểm tra hồ sơ cho vay, đánh giá chính xác về tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ
vay. Đặc biệt là tính pháp lý và tính thực tiễn của những tài liệu trong hồ sơ vay
vốn như: Đơn xin vay, phương án SXKD, tình hình tài chính của đơn vị vay, hồ
sơ đảm bảo nợ vay, giấy phép kinh doanh, giá trị của tài sản đảm bảo, hợp đồng
mua bán vật tư…
• Kiểm tra về một số chỉ tiêu như:
- Thời hạn cho vay, thời hạn gia nợ, mức tín dụng được cấp.
• Khi kiểm tra thời hạn cho vay phải xác định cơ sở của thời hạn cho vay có phù
hợp với sự luân chuyển vốn của đối tượng vay.
• Gia hạn nợ phải đảm bảo tuân thủ quy trình ra hạn nợ, đặc biệt là hướng khắc
phục giải quyết khoản nợ sau khi gia hạn của KH.
• Về mức tín dụng được cấp phải làm rõ cơ sở xác định mức tín dụng thông qua
việc xem xét nhu cầu vay, khả năng đáp ứng của NH, giá trị tài sản làm đảm
bảo…
• Kiểm tra về việc bảo quản TS thế chấp cầm cố:
Phải xem xét mối tương quan về giá trị tài sản thế chấp với số vốn được
vay. Theo quy định của NHNN, Số vôn được vay của KH chỉđược phép <=70%
giá trị của tài sản thế chấp, đó là cơ sở đầu tiên để NH đưa ra hạn mức cho vay
đối với KH. Trong thời gian cho vay, NH có thể cho KH sử dụng tài sản thế
23

chấp nhưng phải có biên bản cụ thể quy định về việc bảo vệ mặt giá trị của tài
sản được thế chấp. Trong quá trình sử dụng, NH phải luôn theo rõi việc bảo
quản tài sản thế chấp của khách hàng. Khi quyết toán hợp đồng tín dụng, phải có
biên bản thanh lý tài sản thế chấp một cách rõ ràng.
• Kiểm soát về an toàn vốn vay:
Bao gồm các điều kiện về đảm bảo an toàn tiền vay, thực hiện quy chế an
toàn vốn, các biện pháp bảo đảm tín dụng và hạn chế RR.
Phân loại các khoản nợ theo từng nhóm được quy định trong quyết định
299-QĐ.NH5 ngày 133.11.1996 của thống đốc NH:
+ Các khoản vay có khả năng hoàn trả nợ theo đúng quy định trong hợp
đồng.
+ Các khoản vay không trả được một phần hay toàn bộ gốc, lãi trong vòng
180 ngày kể từ ngày đến hạn trả.
+ Các khoản vay không trả được một phần, hay toàn bộ gốc và lãi trong
vòng từ 181 ngày đến 360 ngày kể từ ngày đến hạn trả.
+ Các khoản vay không trả được một phần hay toàn bộ gốc và lãi trong
khoảng thời gian >360 ngày.
Việc kiểm soát được thực hiện trên mọi lĩnh vực hoạt động của tín dụng.
Song các NH cần tập trung vào một số các vấn đề hay có sai sót trong quá trình
thực hiện.
 . Nâng cao chất lượng công tác thông tin TD .
Một trong các bước không thể thiếu của quy trình tín dụng là bước thu
thập thông tin. Thông tin về KH và môi trường kinh doanh tác động lên cả NH
và KH vay vốn. Nhưng chủ yếu là thông tin về kH – nguyên nhân chủ yếu gây
ra tình trạng NQH cho NH.
Thông tin từ KH được thu thập bao gồm: giấy phép đăng ký kinh doanh,
giấy phép thành lập, báo cáo tài chính, hợp đồng cung cấp NVL, giá trị tài sản
thế chấp so với thị trường, kết quả SXKD…
Trên thực tế không phải bất cứ DN nào cũng sử dụng có hiệu quả vốn
vay. Thậm chí, NHTM còn rơi vào tình trạng mất vốn hay thâm hụt vốn do sự

24
giả danh hay mạo nhận DN gây ra RR, tổn thất cho NH. Chính vì vậy mà vấn đề
nâng cao chất lượng tín dụng là việc làm hết sức cần thiết. Nhận thấy sự cấp
thiết của vấn đề, NHNN đã xây dựng hệ thống thông tin phòng ngừa RR của
ngành NH gọi tắt là CIC (Credit Imformation Center). Hệ thống CIC đã phần
nào làm giảm bớt tình trạng thiếu thông tin tín dụng phục vụ công tác cho vay
của các NHTM và các TCTD. Tuy vậy, do mới đi vào hoạt động nên hệ thống
CIC vẫn còn nhiều bất cập như: thông tin thu thập được chủ yếu do các DN và
các NHTM cung cấp nên chưa đảm bảo tính trung thực. Và công nghệ sử dụng
chưa đồng bộ và hiện đại, gây ra tình trạng chậm chạp trong việc thu thập và xử
lý thông tin. Chính vì vậy, thông tin mà CIC cung cấp vẫn chưa đáp ứng nhu cầu
cho các NHTM và TCTD trong việc thẩm định KH, đưa ra một quyết định cho
vay an toàn nhất, khiến cho tỉ lệ NQH và nợ khó đòi của cácNHTM VN vẫn cao
hơn so với mức cho phép.
 . Phân tích khả năng mở rộng hay thu hẹp TD trong từng thời kỳ.
Nên mở rộng hay thu hẹp TD trong từng thời kỳ khác nhau, các NHTM
phải phân tích đánh giá trước hết ở tầm vĩ mô. Đó là, việc nắm bắt kịp thời
thông tin về các chính sách của NN đối với nền kinh tế nói chung và đối với hệ
thống NHTM nói riêng. Như vậy sẽ làm giảm được các RR xảy ra do sự thay
đổi của chính sách.Trong điều kiện các văn bản pháp luật chưa hoàn thiện như
nước ta hiện nay, hệ thống NHTM phải chú ý đến các chính sách tín dụng của
mình sao cho phù hợp với tình hình hiện tại và có thể phát triển trong tương lai
Tiếp đó là phải nghiên cứu nhu cầu thị trường, để từ đó có cái nhìn tổng
quát về nhu cầu của thị tường đối với sản phẩm của từng ngành SXKD trong
thời điểm hiện tại và tương lai. Từ đó đưa ra các quyết định nên thu hệp hay mở
rộng hoạt động tín dụng đối với các ngành cụ thể, tránh RR biến động đối với
môi trường kinh doanh.
 .Thực hiện tốt việc đôn đốc thu nợ và lãi phù hợp với từng khoản vay
- Đối với những khoản vay có khả năng thu hồi thì chỉ cần đôn đốc việc
trả nợ khi thời điểm đáo hạn sắp đến.

25

×