Tải bản đầy đủ (.doc) (226 trang)

Dịch key texts in human geography

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 226 trang )

KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
BÀI DỊCH “KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY”
SỰ PHỔ BIẾN NHỮNG ĐỔI MỚI NHƯ MỘT QUÁ TRÌNH KHÔNG GIAN (1953):
TORSTEN HAGERTSTRAND của tác giả Bo Lenntrop
Sự phổ biến những đổi mới– nguồn gốc và sự phổ biến của tính mới lạ văn hóa- là một
phạm trù nghiên cứu liên quan đến tất cả các ngành khoa học về hoạt động của con người, và
một phần của địa lý kinh tế và văn hóa. (Hagerstrand, 1953:1)
Phần mở đầu
Rất khó để hiểu thấu được tầm quan trọng của Torsten Hagerstrand về đổi mới khuếch
tán – trong luận văn tiến sĩ năm 1953- mà không đánh giá ngữ cảnh lịch sử mà tác phẩm được
thai nghén và chuẩn bị và một thực tế là nó đã được dịch lần đầu tiên sang tiếng Anh bởi Allan
Pred trong khoảng 14 năm sau khi ra đời. Điều đáng chú ý nhất là việc đặt ra và thông qua
những lý thuyết về khuếch tán không gian, những nghiên cứu ban đầu của Hagerstrand cũng
chứa đựng ý tưởng chính cho sự phát triển những ý tưởng sau này của ông. Ví dụ như Địa lý
thời gian, cụm từ đã trở nên phổ biến vào những năm 1960s, nhưng nguồn gốc của khái niệm
này được tìm thấy trong bài viết của Hagerstrand trong những năm 1940s và 1950s.
Hagerstrand học tại trường Đại học Lund vào cuối những năm 1930s. Sở thích của ông
rất rõ ràng, không hẳn do tình cờ, thiên về sự di cư và ông đã bắt tay vào làm dự án với ý định
vẽ lại bằng biểu đồ sự phát triển nhân khẩu của một khu vực địa lý của Thụy Điển từ năm 1840
đến năm 1940. Xây dựng một bộ sưu tập dữ liệu ấn tượng, công việc vĩ đại này đã đem lại cho
Hagerstrand sự hiểu biết uyên thâm về sự phát triển nhân khẩu.
Cùng lúc đó ông cũng phát triển sâu hơn năng lực lý thuyết, đưa vào thực tiễn quan
điểm của riêng ông về địa lý thế giới. Đặc biệt hơn nữa, sự sưu tập có tính hệ thống và sự phân
tích các dữ liệu về các trình dân số qua hơn một thế kỷ đã góp phần vào sự ra đời phát triển của
một ý tưởng nền tảng có tên gọi: Tầm quan trọng của việc phân tích các trình không gian.
Trải qua thời gian, Hagerstrand đã lĩnh hội được những ý tưởng và khuynh hướng lý
thuyết quan trọng từ địa lý Thụy Điển. Những việc làm này không phải xuất phát từ quan điểm
về vùng rồi chiếm ưu thế chủ đạo trong việc dạy ở trường đại học, mà với Hagerstrand việc
tuyên bố “Các bài giảng về địa lý vùng đã trở nên nhàm chán một cách đáng ghét…….Địa lý
không còn được ví như là địa hạt của của ý tưởng hay như là một quan điểm trên thế giới mà
nó được ví như một mảng dữ liệu bách khoa bất tận” (Theo Hagerstrand, 1983: 244). Hơn nữa


- 1 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
chúng xuất hiện trong tâm trí ông một cách tình cờ. Người vợ sau này của ông, Britt, lúc đó
đang làm việc cho nhà dân tộc học Sigrid Svensson, người lúc này đang làm nghiên cứu và
đang cho xuất bản các cuốn sách về các trình khuếch tán, và một trong những bạn đồng nghiệp
cùng trường với ông đã thổi bùng niềm đam mê trong việc phân tích các con số và trong việc
phát triển máy vi tính và là khách đầu tiên được đến nước Mỹ.
Sau khi đã lĩnh hội được những kiến thức chủ đạo về dân số học và những ý kiến về các
kỳ khuếch tán cùng các mô hình mô phỏng, những căn cứ cho bản luận án tiến sĩ của ông bắt
đầu có ý nghĩa trong mối quan hệ với nhau. Dưới nhiều góc độ, bản luận án của ông đã đánh
dấu một bước đột phá quyết định tới truyền thống chủ đạo của các nghiên cứu về vùng. Mục
đích chính của Hagerstrand viết trong bản luận án của ông không phải là trình bày một bản chi
tiết về vùng của một khu vực nào đó mà là để điều tra và làm sáng tỏ một vấn đề. Theo tranh
luận của Hagerstrand thì tài liệu liên quan đến 1 vùng cụ thể là một việc rất cần thiết chứ
không phải là một sự phân biệt tế nhị có phương pháp cái mà tự nó đi ngược lại với địa lý khu
vực.
ĐỔI MỚI KHUẾCH TÁN: Phiên bản tiếng Thụy Điển
Với rất nhiều lý do mà bản luận án được viết bằng tiếng Thụy Điển không đáp ứng được
số đông độc giả quốc tế. Tuy nhiên, 14 năm trước khi nó được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng
Anh, nó có đủ thông tin để được đón nhận tức thì. Bài bình luận mang tính học thuật đầu tiên
về bản luận văn của Hagerstrand được xuất bản vào năm 1953 – Cùng năm đó Hagerstrand
được công nhận tiến sĩ. Nhà bình luận có tên là Edgar Kant, người đã từng là giáo sư ở Tartu ,
Estonia, nhưng trước đó ông đã làm việc nhiều năm tại khoa Địa Lý ở Lund. Kant đã được độc
giả thề giới đón nhận và ông cũng là người đầu tiên có quan điểm trái chiều với Hagerstrand.
Kant mở đầu bài phê bình của ông bằng cách thảo luận về những ưu điểm và nhược
điểm của sự nghiên cứu chuyên biệt. Ông cho rằng những nhược điểm liên quan đến sự chuyên
biệt “bắt đầu trở nên rõ ràng khi 1 kẽ hở lớn tăng lên để lại những vùng tối ở đường biên giới,
giống như monadnocks bị quên lãng hoàn toàn” (Kant, 1953:221). Việc trích dẫn những lời
bình có tính kết luận của Kant rất có ích để liên hệ một cách chính xác tại sao ông coi bản luận
án của Hagerstrand có tính tiên phong.

Ở một khía cạnh đáng chú ý, tác giả đã tận dụng được những phương pháp mới và đã
tạo lập được những mối liên hệ mới với những quy luật bên cạnh. Việc này đã thể hiện được
tính sáng tạo đối với những ai coi địa lý có mối quan hệ mật thiết với các phương pháp điều
tra truyền thống và các môn nghiên cứu, cũng giống như việc phân tích phong cảnh, một việc
- 2 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
chỉ đơn thuần là xác định mối quan hệ giữa con người và tự nhiên….Nó có thể tiết lộ về
chuyến thám hiểm dài nhất của tác giả lạc vào một ranh giới không quen biết- và vào lúc
tranh tối tranh sáng nhưng các chuyến đi cũng bỏ qua rất nhiều vùng chưa được khám phá.
Tuy vậy, những người cùng khuynh hướng với ông cỏ thể được hưởng lợi từ tác phẩm tiên
phong của ông và làm cho nó phong phú hơn. (Kant, 1953: 225).
Trong bản luận án của mình, Hagerstrand đã nghiên cứu kĩ về mức độ thay đổi của việc
tuyên truyền những tác phẩm văn hóa. Ông làm việc này bằng cách lựa chọn 6 chỉ số cụ thể; 3
chỉ số cho nông nghiệp (đề cập đến các trợ cấp trong việc cải tạo đồng cỏ, kiểm soát bệnh lao ở
bò và việc lập bản đồ đất) và 3 chỉ số nói chung (như chuyển tiền qua bưu điện, ô tô, điện
thoại). Việc lựa chọn các chỉ số được hướng dẫn theo yêu cầu tất cả các chỉ số này nên bản địa
hóa phù hợp với tọa độ và sự phát triển của chúng qua thời gian có thể phải theo dõi với độ
chính xác cao. Ngoài ra, những chỉ số này phải được phần lớn công chúng thừa nhận cũng là
một việc rất cần thiết.
Giai đoạn tiếp theo trong quá trình điều tra là tạo lập các căn cứ giảm cho những chỉ số
này. Việc này rất cần thiết vì có lẽ nó sẽ vô nghĩa khi làm việc với các con số nhận được tuyệt
đối. Hagerstrand đã cẩn thận phân tích sự phất triển dân số (hay còn gọi là nhân khẩu học) của
một vùng và vị trí, kích cỡ của từng ngôi nhà, chung cư tương ứng để đưa ra “các căn cứ giảm”
nhằm đối chiếu với số lượng người nhận nên được ghép cùng.
Phần quan trọng của luận án, chiếm gần 100 trang, thảo luận về quy trình khuếch tán
thực tế. Mục tiêu chính của Hagerstrand không phải là để xác định các chi tiết cụ thể của trình
khuếch tán này mà để khát quát những đặc tính có thể coi như nền tảng vận hành tiếp theo của
các vật mẫu. Tuy nhiên, việc quan sát những đặc tính này rất quan trọng do những biến thể này
được tạo ra trong quá trình khuếch tán. Một mức độ khác biệt giữa các chỉ số được dựa trên
mức độ can thiệp của nhà nước, chẳng hạn như thúc đẩy việc tuyên truyền kiểm soát bệnh lao

bò. Hay việc mua xe cơ bản là một vấn đề mang tính quyết định của cá nhân cho dù pháp luật
của nhà nước cũng giữ một vai trò nhất định. Sự giới thiệu và tuyên truyền điện thoại trong
khu vực điều tra đã bị ảnh hưởng bởi thái độ và tốc độ mà mạng lưới điện ở đó phát triển. Hậu
quả là việc khuếch tán 6 chỉ số này thể hiện 6 hướng đi khác nhau và cho thấy chúng ít nhiều
chịu ảnh hưởng bởi các kế hoạch và chính sách ở mức độ quốc gia và khu vực. Phần rộng hơn
của bài thảo luận này có phần thú vị hơn cả, và nó không bị giới hạn trong bối cảnh lịch sử hay
khu vực.
- 3 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
Thông qua việc đưa ra các kiến thức thực tiễn chi tiết, Hagerstrand đã xây dựng một loạt
các mô hình mang tính thí nghiệm ngẫu nhiên để chỉ rõ sự đổi mới trong phạm vi dân số. Mô
hình đầu tiên rất đơn giản và được xây dựng hoàn toàn tình cờ và đã đem lại một bức tranh rất
gần gũi thói quen mà ở đó tin đồn được lan truyền trong phạm vi dân số đó. Do vậy,
Hagerstrand đã nhấn mạnh tới việc làm thế nào để sự khác biệt được chấp nhận và làm thế nào
để những thông tin lan truyền không đồng đều có thể được mô phỏng. Bàn về các chỉ số dành
cho nông nghiệp chẳng hạn, ông đã kiểm tra làm thế nào để kích cỡ trang trại có thể ảnh hưởng
tới xu hướng chấp nhận đổi mới. Trong các nghiên cứu của mình, Hagerstrand đã xác định
được tầm quan trọng của trạng thái ở gần và do vậy đã dẫn đến sự khuếch tán thông tin cá nhân
và câu hỏi làm thế nào để việc này có thể được mô phỏng. Ông kiểm tra các đặc tính thông tin
theo trình tự thời gian và làm thế nào để các dữ liệu điện thoại và di cư có thể được sử dụng để
miêu tả mức độ phạm vi các thông tin cá nhân. Trong việc nghiên cứu vấn đề riêng này ông
nhận thấy các dữ liệu di cư mang lại sự đến gần tốt nhất khi hệ thống điện thoại hoàn toàn
không trong thời gian nghiên cứu. Hơn nữa, có những ranh giới về vùng làm biến dạng khu
vực liên lạc.
Các mô hình kết quả hoạt động dựa trên một tọa độ dân số thực tế phối hợp. Sự khuếch
tán của đổi mới dân số được xác định bằng cách xây dựng một trường thông tin có ý nghĩa
(một khái niệm vẫn đang được phác họa trong rất nhiều cuốn sách giáo khoa đạt chuẩn nói về
địa lý nhân học), cái chỉ ra khả năng liên lạc với một cá nhân khác giảm đi khi khoảng cách
tăng lên. Cơ sở thực nghiệm cho MIFs bao gồm 5x5 tế bào (Mỗi một tế bào tương ứng với
1km2) căn cứ trên dữ liệu di cư. Ma trận cho thấy xác suất của một số liên lạc được thực hiện

từ các tế bào trung tâm của một hoặc nhiều các tế bào xung quanh. Xác suất được tích lũy (từ 1
đến 10,000) và mỗi tế bào là do một khoảng thời gian tỷ lệ thuận với xác suất. Ma trận được
tập trung vào một cá nhân có kiến thức của sự đổi mới về câu hỏi. Bằng cách vẽ một số ngẫu
nhiên một quyết định mà di động (khoảng) được đáp ứng. Ma trận được sử dụng theo cách
thức của một mạng lưới nổi - tức là nó di chuyển trên những cá nhân có kiến thức về sự đổi
mới và mỗi thế hệ người đang chuẩn bị để truyền bá kiến thức này. Theo cách này, sự đổi mới
liên tục khuếch tán qua điều chỉnh cho các thế hệ mới và đưa đến mô hình không gian của chất
nhận, được xác định ngẫu nhiên nhưng luôn luôn trong khoảng thời gian xác định. Ngay cả khi
các quy tắc của trò chơi và xác suất không thay đổi, kết quả của mô phỏng khác nhau thường
rất khác nhau là kết quả của các yếu tố ngẫu nhiên.
- 4 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
Trong các mô hình Hagerstrand thử nghiệm với các hình thức khác nhau của các rào
cản vật lý và xã hội. Xu hướng chấp nhận một sự đổi mới được mô hình hóa (ví dụ, một người
phải bị 'đánh' hai hoặc ba lần trước khi chấp nhận) và mức độ tương ứng với các mô hình thực
nghiệm xác định chắc chắn ngày càng trở nên gần gũi. Là kết quả của mức độ tương ứng giữa
các khóa học theo mô hình và theo thực tế, Hagerstrand đã có thể kết luận rằng các yếu tố
chính quyết định quá trình đổi mới khuếch tán đã được tìm ra. Cần lưu ý rằng tất cả các thí
nghiệm mô hình toàn diện được thực hiện bằng tay như máy tính đã không được phát triển.
Mỗi một ngàn trong số hàng ngàn con số ngẫu nhiên được tổng hợp từ các bảng trong một trật
tự nghiêm ngặt.
Bài bình luận quốc tế đầu tiên về bản luận án của Hagerstrand được viết bởi John
Leighly và được đăng tải trên tạp chí Địa lý năm 1954.
Leighly, sau này trở thành giáo sư tại Berkeley, đã được làm quen với địa lý Thụy Điển,
cái mà ông đã nghiên cứu trong nhiều năm (Leighly, 1952). Leighly nhấn mạnh sự ngưỡng mộ
của mình về phạm vi và độ chính xác của công việc thực nghiệm, nhất là liên quan đến việc đại
diện bản đồ: "bản đồ" tương đối "của ông sử dụng cải tiến (isarithms khoảng thời gian số được
đưa ra bởi cấp số nhân, nội suy isarithms bởi khoảng logarit) mà làm cho nó trở thành vật mẫu
(Leighly, 1954: 440). Tuy nhiên, cũng giống như nhiều nhà bình luận khác, Leighly xem giải
thích Hagerstrand của đổi mới khuếch tán và mô hình hoạt động sau đây là "đỉnh cao" của

công việc của mình. Leighly (1954: 441) kết luận bằng cách bình luận rằng bất cứ ai làm
nghiên cứu trong lĩnh vực này "không thể bỏ qua phương pháp và kết luận của Hagerstrand.
Mặc dù sự chú ý đến bản luận án tiến sĩ của Hagerstrand suy yếu trong thời gian sau
thẩm định này, ta không thể nói như vậy khi bàn luận đến những ý tưởng lý thuyết và cách tiếp
cận có phương pháp của ông. Các khía cạnh trong nghiên cứu chính của ông đã dần dần được
phổ biến thông qua các bài giảng, hội nghị và các ấn phẩm nhỏ. Một thời gian ngắn trước khi
hoàn thành luận án của mình, Hagerstrand đặt ra lĩnh vực nghiên cứu của mình trong một bài
báo có tựa đề "Các truyền sóng đổi mới '(Hagerstrand, 1952). Đến năm 1967 ông đã xuất bản
ba bài viết về di cư, hai bài viết về khuếch tán, và một bài viết về mô phỏng. Bài viết được rất
nhiều người đọc và thường được trích dẫn có tên gọi "Cách tiếp cận khuếch tán Monte Carlo"
(1965), tác phẩm bàn trực tiếp về các mô hình và được công bố trong bốn tạp chí và đã từng
được dịch sang tiếng Nhật.
- 5 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
ĐỔI MỚI KHUẾCH TÁN: PHIÊN BẢN TIẾNG ANH
Mặc dù nghiên cứu của Hagerstrand đã trở nên tương đối nổi tiếng trên trường quốc tế,
sự hiểu biết rộng hơn về nghiên cứu của ông vẫn còn rời rạc. Theo đó, cả Gilbert White ở
Chicago và Allan Pred tại Berkeley cho rằng luận án doctorial của ông nên được dịch sang
tiếng Anh. Pred đảm nhận nhiệm vụ này vì ông vừa thông thạo tiếng Thụy Điển lại vừa thành
thạo trong lĩnh vực nghiên cứu cụ thể, hai thuộc tính mà Hagerstrand lập luận là điều kiện tiên
quyết cho thành công của bản dịch tác phẩm của ông. Pred cũng đã viết ở phần tái bút trong đó
ông giới thiệu về Torsten Hagerstrand, cung cấp một nền tảng cho các nghiên cứu chi tiết, và
làm thế nào các lĩnh vực nghiên cứu đã phát triển.
Cuốn sách được đón nhận rất tốt. Tuy nhiên, thực tế là 14 năm đã trôi qua kể từ khi
công bố phiên bản bằng tiếng Thụy Điển lần đầu thì ít nhất một phần bằng chứng là nội dung
của một số bài bình luận có giá trị. Địa lý định lượng đã tiếp tục phát triển và đã nhanh chóng
thiết lập một bộ quan trọng của phương pháp mới và lý thuyết (xem Chương 2, 3 và 4). Một
dòng cụ thể của phát triển liên quan đến sự so sánh thống kê và mục tiêu của mô hình trong
thời gian và không gian, mà làm cho nó có thể để làm sáng tỏ chính xác hơn sự khác biệt và
tương đồng trong các mô hình. Trong đánh giá của mình, Gunnar Olsson đã chỉ ra rằng "việc

đánh giá các mô hình dựa trên trực giác và kiểm tra trực quan nhiều hơn so với kiểm tra thống
kê khách quan" (Olsson, 1969: 310). Không có bài bình luận nào xuất bản trong những năm
1950 nêu được vấn đề này.
Mô phỏng đã trở thành một modusoperandi phổ biến trong ngành học, và đi ngược lại
với nền tảng này. Trong bài bình luận của mình Olsson đã viết: "Tóm lại, hầu hết những người
bây giờ thử nghiệm với mô hình Monte Carlo dường như đã bị mất điểm. Vì vậy, có thể nói chỉ
có trong tác phẩm của Hagerstrand mới nói rõ mối quan hệ giữa lý thuyết và mô hình '(Olsson,
1969. 311). Quan sát này tiếp tục hỗ trợ khả năng Hagestrand thành công trong việc pha trộn
nguyên liệu thực nghiệm với nhu cầu cao của lý thuyết. Chính việc làm này đã làm cho tác
phẩm của ông có uy tín và có sức mạnh.
Richard L.Morrill, cũng là một cựu nghiên cứu sinh tại Lund người cũng đã có kinh
nghiệm về mô hình này, lập luận rằng mặc dù tác phẩm trước đó của Hagerstrand đã được phổ
biến tương đối rộng rãi, nhưng vẫn còn một lượng lớn độc giả hiểu rằng đây không phải là một
cách tiếp cận tò mò , nhưng thay vào đó tạo lập một khung lý thuyết được xây dựng trên một
nền tảng thực nghiệm nghiêm ngặt bất thường. Morrill (1969) đặc biệt nhấn mạnh mối liên hệ
giữa patterna không gian và hành vi cá nhân, và lập luận này đại diện cho một cái nhìn sâu sắc
- 6 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
có tính cách mạng và phá vỡ một cách mạnh mẽ truyền thống trong ngành học. Trong một tĩnh
mạch giai thoại, chúng tôi cũng có thể lưu ý rằng ông đã kết bài bình luận của mình về Địa lý
kinh tế theo cách phản đối của giá thái quá 'của cuốn sách (sau đó là $ 16).
L.J.Evenden (1969) đã đưa ra một đánh giá toàn diện và tích cực trong các tạp chí
Social Forces. Ông cho rằng : " Hagerstrand cho phép một cái nhìn thoáng qua của một trí
tưởng tượng phong phú , đồng thời , truyền thụ những bài học hữu ích mà sự kiên nhẫn là đức
nghiên cứu, là lý thuyết cơ bản bàn về điều gì đó , và rằng lý thuyết đáng tin cậy trong khoa
học xã hội vẫn gần một cái gì đó " ( Evenden , 1969:9 ) . Evenden lập luận rằng bằng chứng
cho thấy nghiên cứu của Hagerstrand đã để lại một di sản lâu dài được tìm thấy trong nhiều
lĩnh vực, trong đó có mô phỏng Monte Carlo được áp dụng sau này. Mô phỏng này được biết
đến và sử dụng rộng rãi tại thời điểm công bố phiên bản tiếng Anh, vì vậy không có nghi ngờ
về vấn đề nó được ghi nhận như tin tức vi phạm . Evenden nhấn mạnh nghiên cứu này tiêu

biểu cho sự kết hợp của phân tích thực tế những nghiên cứu về địa lý truyền thống và đương
đại, và ông tin rằng luận án tiến sĩ của Hagerstrand sẽ được coi là một tác phẩm kinh điển trong
sự phát triển của lý thuyết địa lý.
Nhà kinh tế học Harvey Leibenstein , thuộc trường Đại học Harvard , đã có lời bình về
cuốn sách trên Tạp chí Văn học kinh tế. Ông cho rằng cuốn sách này là mối quan tâm của các
nhà kinh tế, những người luôn quan tâm đến quá trình khuếch tán và lý thuyết vị trí , cũng như
quá trình điều biến của đổi mới khuếch tán . Leibenstein tiếp tục cho rằng mặc dù có các thông
tin kinh nghiệm, nhưng rất khó để đánh giá giá trị của các dự đoán của các mô hình. Ông cũng
nhận thấy cách tiếp cận hoàn toàn cơ khí -sự phê phán là một trong số ít nhất các phần có thể
thoả thuận - nếu không xem xét thực tế là luận án dịch được 14 tuổi . Một điểm nữa được thực
hiện bởi Leibebnstein là nó là một sai lầm để dịch các luận án trong toàn bộ của nó .Ông coi
Tài khoản cụ thể của các vật liệu thực nghiệm là , hoàn toàn nhàm chán và có lẽ sẽ hành động
để " đẩy lùi hầu hết độc giả ( Leibenstein , 1969:11 ) . Ngoài ra không có phê bình nào được
tới từ bất kỳ các nhà địa lý đã xem xét cuốn sách , thay vào đó họ đã xem chi tiết này như một
tiền thưởng thêm - kích thích đối với nhiều người , những người mà trước đó hoàn toàn xa lạ
với độc giả.
Thời gian trôi qua
Trong khi nghiên cứu của Hagerstrand về khuếch tán phần lớn nổi tiếng trước khi công
bố phiên bản tiếng Anh, nó đã mở ra khả năng cho một sự hiểu biết sâu sắc hơn về nghiên cứu
của ông. Lúc đầu, nó đã được nhiều người đọc và hành động để truyền cảm hứng cho nhiều
- 7 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
nhà nghiên cứu, nhưng với một ấn tượng rằng nó nhanh chóng trở thành một tác phẩm đã
được trích dẫn nhiều đến nỗi nó trở thành yếu tố chính trong nghiên cứu của ông đã được trở
nên phổ biến thông qua bài viết của mình. Một nguyên nhân khác khiến Hagerstrand đã không
tiếp tục phát triển nghiên cứu sự khuếch tán của mình đó là ông từ bỏ nghiên cứu về các trình
khuếch tán ở giai đoạn tương đối sớm trong sự nghiệp của mình. Tuy nhiên, tác phẩm của ông
chiếm hai phần ba số tài liệu tham khảo trong tạp chí khoa học liên quan đến lĩnh vực nghiên
cứu. Riềng phiên bản tiếng Anh bản luận án tiến sĩ của ông được trích dẫn nhiều nhất với gần
400 trích dẫn.

Vẫn còn nhiều kiến thức cần được đúc kết từ việc đọc luận án tiến sĩ của Hagerstrand,
đặc biệt là cách ông xây dựng mô hình của mình. Đó là mô hình của ông kết hợp với việc sử
dụng mô phỏng Monte Carlo hồi đó đã có ảnh hưởng nhiều nhất và được thể hiện trong các
trích dẫn, tài liệu tham khảo và vai trò như các mô hình cho nhiều phiên bản tiếp theo. Trong
rất nhiều bài báo, người ta có thể tìm thấy các cuộc thảo luận liên quan đến các lĩnh vực tóm
tắt thông tin cá nhân và ảnh hưởng của sự gần gũi trong sự khuếch tán của các ý tưởng. Tuy
nhiên, việc đọc bản luận án tiến sĩ của Hagerstrand còn cung cấp nhiều hơn nữa-ông lý luận về
các khóa học tuyên truyền- về quy hoạch và chính trị liên quan đến quá trình khuếch tán, vv.
Người đọc cũng sẽ cảm nhận được sự tương tác giữa các hậu quả thực nghiệm và lý thuyết.
Nếu không có sự nhận thức về bản luận án tiến sĩ này, ta có thể dễ dàng bỏ qua tầm quan trọng
của dữ liệu thực nghiệm để xây dựng ý tưởng tiên tiến và những nghiên cứu tiên phong. Tầm
quan trọng của việc biên soạn một cơ sở kiến thức từ công việc thực nghiệm cơ bản, với tư duy
phương pháp luận và lý thuyết được kết nối mật thiết, có lẽ là bài học quan trọng nhất được rút
ra từ nghiên cứu của Hagerstrand về khuếch tán. Quả thật, đối với độc giả hiện đại, quen thuộc
với các bài báo ngắn mạch và các văn bản học sinh thân thiện, thì bản luận án của Hagerstrand
là tương đối toàn diện. Tuy nhiên, nó cũng đáng được đón nhận như một công trình khoa học
cổ điển và cũng là một tour de force về bản đồ và sơ đồ trình bày.
Trong luận án của mình, Hagerstrand đã miêu tả các mô hình được vận hành bằng tay,
song ông cũng dự kiến chúng được vận hành bằng công nghệ máy tính trong tương lai. Ông
cho rằng công nghệ máy tính sẽ giữ vai trò quan trọng, nhất là đối với các nhà địa lý, và trong
một bài báo (viết bằng tiếng Thụy Điển) được công bố vào giữa những năm 1950, ông đã chỉ
ra các lĩnh vực áp dụng cho thông tin phối hợp và làm thế nào để có thể phân tích được chúng.
Chúng đã tạo tiền đề cho sự ra đời của các lĩnh vực ứng dụng ban đầu của Hagerstrand như
- 8 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
việc đăng ký bất động sản phối hợp và sự phát triển của bản đồ máy tính, một tiền thân của
GIS.
Được đón nhận sau rất nhiều năm, bài viết của Hagerstrand từ những năm 1940 và 50
vẫn giữ được sức sống và sự phù hợp của nó. Cuốn sách của ông đã được trình bày trong tác
phẩm Sự tiến bộ của Địa Lý nhân loại như một trong những tác phẩm kinh điển của ngành học

(1992), với những lời bình luận của Andrew Cliff và Allan Pred cùng với phúc đáp của chính
tác giả Hagerstrand. Tác phẩm của ông trong lĩnh vực nghiên cứu khuếch tán cũng đã được
trích dẫn trong từ điển Địa Lý nhân loại với dung lượng khá dài.
Trong bức chân dung của ông Hagerstrand, Flowerdew (2004) phác thảo một bức tranh
rộng hơn về nghiên cứu của mình về chuyên để khuếch tán. Tuy nhiên, ông gọi lĩnh vực
nghiên cứu này là một trong những đóng góp quan trọng của Hagerstrand với lập luận rằng nó
đề cập nhiều đến cách tư duy mới và có ảnh hưởng rất lớn đến cộng đồng nghiên cứu. Với tinh
thần đó, nhưng thể hiện sắc thái ý nghĩa khác nhau, rất nhiều nhà nghiên cứu đã công nhận
Hagerstrand là một trong những người sáng lập địa lý nhân loại hiện đại (Trích trong tác phẩm
Sự tiến bộ của Địa Lý nhân loại, 2005). Đối với độc giả quan tâm, một thư mục mới đã được
công bố. (theo Lenntrop, 2004).
KẾT LUẬN
Ở giai đoạn đầu nghiên cứu Hagerstrand đã nhấn mạnh khái niệm trạng thái gần - trong
cả hai mạng địa lý và xã hội - là một yếu tố rất quan trọng trong việc tiếp cận và lan rộng các ý
tưởng (một khái niệm rất ít được nhấn mạnh trong địa lý đương đại). Thông qua địa chỉ liên lạc
của mình, một phần nảy sinh một cách tình cờ - ông đã đạt được, như chúng ta đã thấy qua các
ví dụ ở trên, những nền tảng mới cho nghiên cứu của mình. Tuy nhiên việc hấp thụ xung lực
mới và ý tưởng từ bên ngoài là chưa đủ để có thể lựa chọn và sau đó hợp nhất những ý tưởng
mới và cũ vào sự kết hợp và các cấu trúc mới. Hagerstrand có cả khả năng và cách nhìn nhận
chính xác những phẩm chất này. Điều đó không có nghĩa là một sự hiểu biết thống kê mà là
một sự hiểu biết linh hoạt, cái mà sau nhiều năm phát triển cũng đã đạt được kiến thức nền
tảng của nó.
Một nghiên cứu khác của Hagerstrand cũng tập trung vào các quá trình này. Trong bản
luận án tiến sĩ của mình, ông từ chối so sánh các điều kiện tại những thời điểm khác nhau về
mặt thời gian và thay vào đó ông cố gắng trực tiếp làm sáng tỏ quá trình hình thành mô hình
- 9 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
không gian khác biệt. Ông hiểu rằng thực tế là quá trình tương tác trong đó các sự kiện và hành
động của thời điểm và những sự kiện và hành động điều kiện tiếp theo không phải là các biến
đổi liên quan đến nhau (theo Hagerstrand, 1992). Lý luận này đã gây ảnh hưởng đến toàn bộ

công trình về địa lý thời đại và các khái niệm có liên quan.
Mặc dù Hagerstrand đã đầu tư rất nhiều thời gian và tiền của trong việc thu thập và giải
thích các tài liệu thực nghiệm, ông luôn luôn giữ lại các khái niệm tổng quát và mục đích đưa
ra các yếu tố cơ bản chứ không phải làm mất đi các chi tiết bề mặt. Đây là một dấu hiệu cho
toàn bộ nghiên cứu ông và có thể dễ dàng tìm thấy chúng trong tác phẩm này. Với sự trợ giúp
của một vài ví dụ cụ thể, ông đã có thể thể hiện được mối quan hệ hoặc đường dẫn của sự phát
triển cơ bản.
- 10 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
ĐỊA LÍ LÝ THUYẾT (1962): WILLIAM BUNGE
Michael F.Goodchild
Tất cả các nhà địa lý đều có cùng một vấn đề để đưa ra những phán đoán về thế giới. (Bunge,
1966:xviii)
GIỚI THIỆU
Địa lí lý thuyết xuất hiện đầu tiên vào năm 1962 và được xuất bản lần 2 vào năm 1966
(cái được trích dẫn trong tập sách này). Với Cox (2001:71) nó có lẽ là văn bản chuyên đề của
cuộc cách mạng không gian định lượng. Chắc chắn về việc đặt ra các giả thuyết triết học của
phong trào đó đã không được chấp nhận. Nhưng Cox đi xa hơn:
Đây cũng là cuộc cách mạng không gian định lượng cái mà tạo ra động lực cho độ
chính xác của các khái niệm trong lĩnh vực này. Đó là triển vọng của đo lường, của sự
vận hành trong một số phần của yêu cầu thực tiễn, cái mà giúp chúng tôi khám phá ra
giá trị của một thông số kĩ thuật cẩn thận của những quan điểm và việc thẩm định tính
thống nhất của nó. Vì vậy nếu chúng tôi muốn thấy nơi mà chúng tôi vừa đến là những
món nợ về hiểu biết, là những cái nơi để bắt đầu tốt hơn một chút so với Địa lý lý thuyết
(Cox, 2001:71)
Lý do cuốn sách được đưa ra để giới thiệu đó là địa lý là một khoa học; rằng mọi khoa
học được xác định bởi những giới hạn của nó về tri thức mà đối với địa lý là Trái Đất như là
một ngôi nhà của nhân loại; Rằng mọi khoa học có cả một mặt thực tế hoặc thực nghiệm và
một mặt lý thuyết; và có nhiều cuốn sách về địa lí thực tế, không liên quan đến lý thuyết
(Bunge, 1966:x). Hơn nữa với tác giả là một nhà địa lý học lý thuyết (Bunge, 1966: x) - Lý

thuyết là những gì mà ông ấy làm. Lý thuyết phải đáp ứng một số tiêu chuẩn bao gồm rõ ràng,
đơn giản, tổng quát và chính xác (Bunge, 1966:2), và chỉ thông qua lý thuyết chúng ta có thể
khám phá ra các mô hình, những quy luật hình thái học này … để mà hành tinh chúng ta, Trái
Đất, ý thức bằng lòng với tính đối xứng và ra lệnh vẻ đẹp. (Bunge, 1966: xvi)
CUỐN SÁCH VÀ NỘI DUNG CỦA NÓ.
Những ý tưởng thiên chúa Giáo thời Trung Cổ đã bị bỏ rơi trong thời kì phục hưng và
được thay thế với quan điểm cho rằng bề mặt Trái Đất là vô cùng phức tạp. Vì vậy, mặc dù các
khoa học đã có bước tiến lớn trong việc giải thích các khía cạnh khác nhau của vũ trụ. Đồng
- 11 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
thời nó phủ nhận giáo lý tôn giáo, nó đã dẫn đến một cái nhìn khó hiểu về hành vi của con
người và môi trường xung quanh ngay trước mắt của chúng tôi. Theo cách nhìn của Bunge, nó
chỉ là thông qua lý thuyết địa lý mà chúng ta có thể trở về những quan niệm về thế giới của
chúng ta với một tinh thần thỏa mãn và sự yên tâm giản dị.
Đối với Bunge đã có quy luật đơn giản phát hiện bề mặt Trái Đất và đặc biệt là các mô
hình của các hiện tượng đã tìm thấy ở đây. Chúng sẽ được tìm thấy cả con người và các hiện
tượng vật chất, và bởi vì nghiên cứu của một số người có thể thông báo cho người khác, nó tạo
ra ý nghĩa cho các bộ phận của địa lý đến cả hai nhà địa lý tự nhiên và địa lý nhân văn. Chìa
khóa để hiểu biết các mô hình là hình dạng cái mà cho phép mô tả các mô hình và thông qua
định lý của nó cho phép các nhà nghiên cứu đưa ra nguyên nhân về mô hình và sau đó đến lý
thuyết.
Cuốn sách mở đầu bằng một chương về phương pháp luận địa lý, cái mà làm cho vị trí
của tác giả trở nên rõ ràng hơn. Hai ví dụ thường được sử dụng để tập trung sự chú ý vào
những gì sẽ là chủ đề hình học định kỳ của cuốn sách. Địa lý học khu vực bị thống trị lâu dài
bởi công việc mô tả cái mà nhấn mạnh những tính chất độc đáo của các địa điểm, có thể được
đặt vững chắc trong một mô hình khoa học nếu tập trung vào sự sáng tạo ra các phương pháp
khách quan và có thể nhân rộng để xác định khu vực và tập trung vào các bằng chứng thống kê
thay vì cảm giác chủ quan. Như một ví dụ thứ hai quá trình chuyển dòng của sông ở hạ lưu
sông Missisipi đào xới những dạng hình học tương đồng nổi bật đến lịch sử phát triển của
những con đường cao tốc Bắc – Nam ở vùng Seattle và tương tự sự giải thích có thể được tìm

thấy nếu quá trình địa mạo của việc xây dựng con đê tự nhiên được so sánh với các quá trình
xã hội phát triển dọc theo những tuyến đường chính.
Chương thứ hai, với tiêu đề là “Siêu phép chiếu bản đồ” đã làm nên biểu tượng khác về
địa lý truyền thống, bản đồ, và đi đến bước tiến dài để tranh luận về cơ sở toán học cần thiết,
và mức độ đến những khái niệm phép chiếu bản đồ cốt lõi như phép chiếu, sự chồng xếp và
tổng quát hóa có thể được thể hiện trong những khuôn khổ chính xác của hình học và lý thuyết
tập hợp. Một chương về hình thức thảo luận những thước đo đánh giá tiềm năng của một vài
cái bất động sản khó nắm bắt này, trong khi những chương tiếp theo bao gồm mẫu vật, địa mạo
và trắc địa. Một chương đầy đủ về lý thuyết địa điểm trung tâm phản ánh đầu thập niên 60 tập
trung vào một yếu tố quyết định của khuynh hướng lý thuyết của địa lý (xem Kelly, chương
23, cuốn sách này). Cuốn sách gợi ý nhiều về sự phát triển mạnh mẽ của Địa lí định lượng và
- 12 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
khoa học thông tin địa lý trong những thập kỷ tới, mặc dù tất nhiên là không thể tìm thấy dự
đoán của ngày hôm nay trong sự tính toán và mạng máy tính.
Nhưng có thêm rất nhiều cuốn sách được gợi ý bởi bản tóm tắt nhanh chóng này, như
người ta có thể suy ra từ những lời bình luận từ trích dẫn của Cox ở trên. Cuốn sách phải được
hiểu trong bối cảnh của cuộc tranh luận đã nổ ra trong địa lý tại thời điểm đó, và trong bối cảnh
của phong trào tri thức rộng lớn hơn mà nó bằng nhiều cách để mở đầu. Nó cũng phải được
hiểu trong mong muốn lâu dài của các nhà địa lý để xếp vào nhóm các môn học được tôn trọng
của viện Hàn lâm.
NHỮNG CUỘC TRANH LUẬN TRONG ĐỊA LÝ
Với Bunge, cuộc tranh luận trí tuệ quan trọng nhất về mặt địa lý cuối những năm 50 đầu
những năm 60 là những quan điểm khái quát hóa và trừu tượng hóa trong khoa học. Mặc dù vị
trí thực tế của chúng có nhiều trạng thái hơn, các nhà địa lý thường xác định quan điểm với tên
tuổi của Schaefer (1953) và Hartshorne (1959) một cách tôn trọng. Bunge đã bị ảnh hưởng
mạnh bởi Schaefer, được rút ra trong công việc của ông ta từ William Garrison khi là một sinh
viên tại trường đại học Oasinhtơn, và không phải là sự ngẫu nhiên mà cái trích dẫn đầu tiên
trong cuốn sách là từ bài báo của ông ta.
Vị trí của khái quát hóa nắm giữ những kết quả trong khoa học chỉ có giá trị khi chúng

chung chung áp dụng như nhau ở tất cả các địa điểm trong không gian và thời gian. Ví dụ,
bảng tuần hoàn của Mendeleev sẽ ít ý nghĩa hơn nếu các nguyên tố được đối xử khác trong
suốt những năm nhuận, và những định luật chuyển động của Newton sẽ ít ý nghĩa hơn nếu
chúng chỉ được áp dụng ở bang Minnesota. Nói cách khác khoa học thực nghiệm thu được do
trừu tượng hóa và khái quát hóa từ bối cảnh không gian thời gian trong đó tất cả các quan sát
được thực hiện và các kết quả khoa học được áp dụng bằng cách tái hiện lại chúng vào bối
cảnh.
Với Bunge, khoa học vốn đã là khái quát hóa, và địa lý là một khoa học. Thành công
của nó sẽ được đo một cách nghiêm túc bằng số lượng của những nguyên tắc chung cái mà đã
được khám phá ra, trong miền xác định của kiến thức. Đây sẽ là nguyên tắc điều chỉnh các mô
hình nổi lên trên bề mặt trái đất là kết quả của những quá trình tự nhiên và xã hội, từ mô hình
dạng nhánh của dòng sông đến những không gian định cư thường xuyên. Mục đích của địa lý
là khám phá ra những nguyên tắc này, những chương của cuốn sách của Bunge đã đặt nền
móng bằng cách phác thảo một phương pháp luận và cung cấp những thí dụ.
- 13 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
Những nhà địa lý rõ ràng sẽ nhận thấy vị thế khó khăn của khái quát hóa, Kể từ khi sự
miêu tả sự biến đổi của hành tinh này là một phần của những hiểu biết truyền thống của môn
học này và sẽ bị mất đi nhiều hơn. Sự mô tả chỉ hợp lý nếu nó dẫn đến những nguyên tắc
chung. Trong khi các nhà vật lý cho rằng sự mô tả giới hạn là không quan trọng, các nhà địa lý
phải đối xử với nó tôn trọng hơn. Quan điểm trừu tượng hóa cho rằng sự mô tả có giá trị vốn
có, đặc biết nếu nó được thực hiện theo những nguyên tắc khoa học – ví dụ, sử dụng những
thuật ngữ chung phù hợp, và những phương pháp được mô tả đầy đủ chi tiết để có thể nhân
rộng bởi những người khác. Nhưng Bunge và những người khác đã không chấp thuận cái quan
điểm này, tranh cãi rằng địa lý trừu tượng hóa sẽ luôn luôn là một khoa học ở rìa.
Với Bunge sau đó điều quan trọng là địa lý thiết lập các thông tin của nó như là một
khoa học. Các ấn bản đầu tiên xuất hiện vào năm 1962, là sự bắt đầu của những gì sau này
được biết đến như là cuộc cách mạng định lượng trong địa lý (Berry, 1993). Bunge là một
trong những người của nhóm sinh viên đã tốt nghiệp được truyền cảm hứng bởi William
Garrison, Edward Ullman, and Donald Hudson từ đại học Oashington vào cuối những năm 50

của thế kỉ 20. Nhóm này bao gồm có Duane Marble, Brian Berry, Michael Dacey, Richard
Morrill, John Nystuen, Arthur Getis, và Waldo Tobler. Là các tiến sĩ mới đạt được vị thế trong
các trường đại học danh tiếng ở Mỹ, phương pháp của họ nhanh chóng nắm bắt được khả năng
sáng tạo của những người khác, bao gồm Leslie King, Leslie Curry, Maurice Yeates, Peter
Haggett và Richard Chorley ở Vương quốc Anh, trong số những người khác.
Các ấn bản quan trọng đã xuất hiện thêm bao gồm Haggett’s Locational Analysis in Human
Geography (1966) (xem Charlton, chương 3, cuốn sách này), Chorley’s và Haggett’s Models
in Geography (1967), và King’s Statistical, Analysis in Geography (1969). Những tạp chí
mới được thành lập các chức vụ được tạo ra ở hầu hết các phòng ban và đến cuối thập kỉ này
nó thực sự có thể nói rằng địa lý đã được thay đổi.
Nhưng nó sẽ được đơn giản quá để dự đoán rằng sự thay đổi này chỉ đơn thuần là sự cân
bằng giữa quan điểm khái quát hóa và trừu tượng hóa của khoa học. Như Cox lập luận trong
đoạn trích dẫn ở trên, Bunge cũng góp phần vào sự biến đổi của thực tiễn địa lý bao gồm tất cả
các mặt của các việc làm táo bạo của khoa học. Nó đã đến tại một thời điểm quan trọng, khi
mà máy tính đang trở nên có giá trị như một thứ công cụ phân tích và mô hình hóa. Sách của
ông ta đã làm cho một trường hợp say mê toán học – ngôn ngữ chung của khoa học – những
định nghĩa rõ ràng của nó và khả năng lập luận chính xác của nó và đặc biệt, các ứng dụng cụ
- 14 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
thể của hình học đến những phân tích hình dạng địa lý. Nó tranh luận về giá trị của định lượng
và khả năng lập luận chính xác của kết luận thống kê; thêm vào đó, như chúng ta thấy, nó thật
khó để nói thêm về mối quan hệ giữa bản đồ, công cụ tìm kiếm truyền thống của những nhà
địa lý, và toán học, công cụ phổ biến của khoa học.
Đọc lại cuốn sách một lần nữa sau 40 năm, một là ấn tượng với cảm giác phấn khích
của phép lượng hóa ban đầu và bằng một phong cách cường điệu cái mà rõ ràng, cạnh tranh
với những môn khoa học và hiếm khi gặp phải trong địa lý ngày nay. Trong phần giới thiệu
của phiên bản thứ hai, được công bố năm 1966, Bunge viết:
Sự khám phá số lượng lớn của các dạng của địa điểm rơi vào năm 1962 là hữu ích.
Ngày nay chúng ta biết tại sao các đơn vị chính trị có hình dạng chung của chúng, tại sao
những con sông có dạng nhánh, và tại sao các phần đất phù sa và các vành đai dân đô thị

là những không gian lân cận gần gũi. Hơn nữa, vấn đề về xây dựng bề mặt cùng kích
thước được biết đến nhiều hơn. (Bunge, 1962: xiv)
Tuy nhiên tác giả không thể tiếp tục phủ nhận rằng:
Để thấy vùng xây dựng, một trong những lĩnh vực cuối cùng của những nhà địa lý
vô hoặc phản thuộc tính toán học, sụp đổ trước sự phát triển mạnh mẽ của máy tính là
một chút đáng sợ thậm chí là cho một trường hợp khó lượng hóa. (Bunge, 1962: xiv)
Cách mạng là con đường tốt nhất để đi đến thành công.
CUỘC PHẢN CÁCH MẠNG
Trong trường hợp như Địa lý lý thuyết thực sự có thể trở thành “bắn nghe vòng quanh
thế giới” và trong khi nó cung cấp một cái đề cương chung về cách làm cho những âm thoa,
súng, và máy chém trở nên cần thiết trước những nhà cách mạng có thể chiếm ưu thế, nhiều
trong số nội dung của nó không được dựng lên tốt để phân tích chi tiết. Trong sự tranh luận
mạnh mẽ của nó về toán học, có rất ít toán học thực tế quý báu trong cuốn sách này, và nó đã
rơi vào tình trạng như những tác giả khác như Alan Wilson (1970) để cung cấp đưa ra những
giả thuyết khắt khe. Thật dễ dàng để nhìn thấy sự tương đồng giữa hành vi của cái nam châm
nổi trong một cái tách nước và hành vi của những nhà cung cấp định vị bản thân họ trên một
cái đồng bằng không có điểm nổi bật. (Bunge, 1962: 283). Nhưng nó còn có nhiều phân tích
cẩn thận hơn thì hiển nhiên rằng những quy luật của lực từ tính không có sự tương đồng rõ
ràng trong những quy luật về hành vi kinh doanh. Bunge đã là (vẫn đang là) sự đam mê nhìn
xa trông rộng, nhưng nó đã cho những người khác một kiến thức sâu rộng hơn về toán học và
- 15 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
cam kết chặt chẽ, kiên nhẫn để bắt đầu xây dựng các tài liệu phản biện chuyên gia về địa lý
định lượng. Hơn nữa, nó không lâu trước khi cuộc phản cách mạng bắt đầu.
Một trong những loạt đạt đầu tiên được bắn bởi Sack (1972) (xem thêm Sack, 1973;
Bunge, 1979). Chắc chắn người ta có thể tìm thấy mô hình phù hợp trên bề mặt của Trái đất -
một dạng hình học của các uốn khúc sông, luật Horton của số dòng (Horton, 1945), khoảng
cách thường xuyên của các khu định cư ở miền nam nước Đức, nhưng mô hình hình học trong
và của chính nó có thể không được coi là lời giải thích, và không thể từ đó cung cấp các cảm
giác hài lòng đến từ hiểu biết về một mô hình được tạo ra. Đặc tính không gian như vĩ độ,

khoảng cách, hoặc phương hướng không bao giờ có thể nói bất cứ điều gì có thể coi như lời
giải thích. Sack thấy Bunge là người tiêu biểu đầu tiên của một sự nhầm lẫn giữa hình học mô
phỏng và giải thích, và lao vào quan điểm của mình rằng đó là một không gian lý thú và những
thuộc tính không gian đã xác định rõ ngành học.
Vấn đề này vẫn là một trong những phần quan trọng ngày hôm nay. Không gian truyền
thống vẫn là một phần quan trọng của ngành học, mặc dù chỉ là một trong nhiều phần của một
lĩnh vực đa nguyên (Pattison, 1964). Đồng thời, vài người đưa ra yêu sách ngày hôm nay, như
Bunge dường như được hoàn thành trong năm 1962, mà một số cách thức của địa lý có hoặc
nên có sự độc quyền trên tất cả những điều thuộc về không gian. Sack chỉ ra rằng bản thân
khoảng cách không giải thích được hành vi của con người, nhưng các chi phí hoặc những trở
ngại khác gây ra chia tách không gian, chẳng hạn như chi phí vận chuyển hoặc thời gian thực
hiện để đi du lịch. Nhưng nếu chúng được làm dường như là quá tỉ mỉ - để tất cả ý nghĩa và
mục đích đó là khoảng cách giải thích tại sao những người có nhiều bạn bè ở gần hơn xa, ngay
cả trong thời đại Internet, và tại sao sữa tươi nhiều khả năng đến từ những con bò gần đó.
Hơn nữa, ví dụ nam châm nổi chỉ vào một vấn đề cơ bản, thực tế là nhiều quá trình khác
nhau có thể dẫn đến các hình thức hình học tương tự. Do đó nó có thể trở nên khó khăn để đưa
ra báo cáo chung về quá trình từ mô hình được tìm thấy trên bề mặt Trái đất, đặc biệt nếu
người ta không thể quan sát những mô hình thay đổi qua thời gian. Các cụm không gian của
những trường hợp của một căn bệnh cung cấp một ví dụ thuyết phục. Trong câu chuyện được
kể lại, bản đồ về dịch tả bùng phát ở London được thực hiện bởi Tiến sĩ John Snow vào năm
1854 cho thấy một phân nhóm rõ ràng xung quanh các máy bơm cái mà ông ta đã nghi ngờ
nguồn cung cấp nước mang theo dịch tả, và do đó gây ra các dịch (xem Ví dụ, Longley et al. ,
2005). Nhưng một nhóm trong không gian có thể luôn luôn phát sinh thông qua hai quá trình
- 16 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
khác nhau. Trong một quá trình bậc nhất khả năng của một trường hợp là một chức năng của vị
trí, và các trường hợp có nhiều khả năng hơn một số địa điểm khác, trong trường hợp này gần
máy bơm. Trong một quá trình bậc hai trường hợp ảnh hưởng lẫn nhau, và sự hiện diện của
một trường hợp làm cho người khác nhiều khả năng trong vùng lân cận ; một ví dụ về dịch tễ
học sẽ bị lây lan, trong đó một căn bệnh được truyền trực tiếp từ người này đến người khác.

Theo giả thuyết của một quá trình lây nhiễm, ở thời điểm đó cách thức lây dịch tả được thường
cho là đã được truyền đi, người mang căn bệnh này đầu tiên là người sống gần các máy bơm có
thể gây ra được cho là lý do tương tự giống mô hình không gian. Chỉ bằng cách quan sát sự
phát triển của mô hình thông qua thời gian người ta có thể có được bằng chứng để giải quyết
giữa hai giả thuyết.
TÁC ĐỘNG LÂU DÀI CỦA CUỐN SÁCH
Đó là các vấn đề và các vấn đề như thế này đã dẫn những nhà địa lý vào những năm 70
của thế kỉ 20 đến câu hỏi về giá trị của sự tín nhiệm lớn của Bunge về cách tiếp cận không
gian, và để tìm một nơi khác cho các nguồn cung cấp tốt hơn của sự giải thích. Nhiều người
khác vẫn cam kết chắc chắn, tuy nhiên, và tiếp tục hoàn thiện các phương pháp và mô hình
Bunge đã đi tiên phong. Máy tính đã cung cấp một động lực bổ sung, như nó có thể mang lại
nhiều hơn nữa các công cụ mạnh mẽ để mang về dữ liệu địa lý. Vào những thập niên 80 của
thế kỷ 20, hệ thống thông tin địa lý (GIS) đã trở thành một trọng tâm cho công việc này, và
nhiều ý tưởng của Bunge đã được triển khai và áp dụng thành công. Những ý tưởng khá đơn
giản của lý thuyết địa điểm trung tâm đã phát triển thành địa điểm phân bố, cuộc tranh luận của
ông về đường truyền tối ưu và trắc địa hướng vào vị trí hành lang, và ý tưởng ban đầu của ông
về không gian tương đồng đã xuất hiện thước đo của tương quan không gian và các lĩnh vực
thống kê không gian và địa thống kê.
Ngày nay, ý tưởng của Bunge về một vị trí địa lý trong hình học là còn tồn tại và tốt,
nhưng không hẳn là vì lý do ông đề xuất. Như nhiều người đã tranh luận (xem, ví dụ, Laudan,
1996), khoa học không chỉ là sự giải thích về những chủ đề thuộc về cảm xúc mà còn là về dự
báo, thiết kế, và các hoạt động hữu ích khác của con người. Goodchild và Janelle (2004) đã ghi
vào danh sách sáu cuộc tranh luận cho một cách tiếp cận không gian trong các ngành khoa học
xã hội (và lưu ý rằng tất cả sáu áp dụng cho cả không gian và thời gian):
- 17 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
• Tích hợp. Một cách tiếp cận không gian cho phép thông tin được đặt trong bối cảnh, và cho
phép các thông tin từ các nguồn khác nhau trở nên có mối tương quan với nhau. Những cái này
thường được trình bày như các chức năng hấp dẫn nhất của GIS.
• Phân tích cắt ngang. Như Bunge lập luận, mô hình không gian thường có thể cung cấp cái

nhìn sâu sắc vào quá trình, đặc biệt là nếu mô hình được quan sát qua thời gian.
• Lý thuyết không gian. Một lý thuyết không gian có thể được định nghĩa là một môn bao
gồm các thuộc tính không gian như vị trí, khoảng cách, hoặc phương hướng trong cấu trúc của
nó. Lý thuyết vị trí trung tâm, các lý thuyết về sự khuếch tán không gian, và các lý thuyết về
sinh thái không gian tất cả đều có thuộc tính này.
• Phân tích bề mặt cơ sở. Đây là những phương pháp phân tích được phát triển gần đây mà
nhận ra sự thay đổi cơ bản của bề mặt trái đất, và khai thác các kết quả của bản đồ tốt hơn
những thông tin thống kê tóm tắt đơn độc. Phép hồi quy trọng lượng về mặt địa lý đưa ra bởi
•Dự đoán, thiết kế và xây dựng chính sách. Như đã đề cập trước đó, các ứng dụng kết quả
chung đòi hỏi rằng nó được đặt trở lại vào một bối cảnh không gian - thời gian. Để dự đoán tác
động của sự thay đổi của giá dầu đối với kinh tế của California, ví dụ, nó là cần thiết để có kết
quả chung về cách nền kinh tế đối phó với giá dầu và để áp dụng chúng trong bối cảnh không
gian thời gian cụ thể của California.
• Thông tin lưu trữ và phục hồi. Không gian và thời gian cung cấp một cách thức tối ưu nhất
của việc thiết lập kiến thức, và lấy thông tin từ các kho lưu trữ về dữ liệu kỹ thuật số của ngày
nay (xem, ví dụ, Thư viện Alexandria kỹ thuật số, www.alexandria.ucsb.edu, và tổng quan về
cổng thông tin địa lý bởi Maguire và Longley , 2005).
Và những gì của chính bản thân tác giả? William Bunge là một người rất hùng vĩ, hai
mét chiều cao và được dựng lên một cách hoành tráng, và với một nguồn năng lượng rất lớn.
Giống như nhiều người khác, ông đã tham gia mạnh mẽ vào cuộc khủng hoảng chính trị của
những năm 60, và thất vọng bởi sự chậm chễ tốc độ phản chiếu của cuộc sống học tập và
những gì ông coi là thiếu ảnh hưởng và hành động trực tiếp của nó. Ông cảm thấy một sự thôi
thúc mạnh mẽ để chứng minh tầm quan trọng thực tiễn của ý tưởng ông tán thành trong Địa lý
lý thuyết . Là một giảng viên tại Đại học bang Wayne, ông đã trải qua nhiều năm thực hiện các
ý tưởng của mình trong các khu nhà ổ chuột của Detroit (Bunge, 1971), trong khi tiếp tục tham
gia vào các cuộc họp liên trường đại học Cộng đồng những nhà địa lý thống kê ở Michigan, cái
nơi được tổ chức gần các điểm du lịch tổng hợp tối thiểu của trường Đại học Michigan, Đại
- 18 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
học bang Michigan và Đại học bang Wayne (trong một trường trung học ở Brighton, MI). Sự

thám hiểm Detroit đã trở thành một bài tập chuyên đề trong làm việc với các cộng đồng khó
khăn, áp dụng nhiều ý tưởng của lượng hóa ban đầu hướng tới việc cải thiện điều kiện của con
người. Bản đồ chi tiết của sự mất đi của con người đã được tạo ra dựa trên cơ sở sự quan sát,
và nhóm làm việc tích cực hướng tới việc thông qua các sơ đồ khu trường học tốt hơn mà thực
hiện nhiều ý tưởng của lý thuyết vị trí.
Bunge lấy một lập trường mạnh mẽ chống lại cuộc chiến tranh Việt Nam, và ngày càng
trở nên thất vọng với cả xã hội Mỹ và các viện nghiên cứu ở Mỹ. Những quan điểm của ông ấy
dẫn đến sự gia tăng xích mích cả ở trong và ngoài khuôn viên trường, và trong đầu những năm
70 ông rời Mỹ đến Canada, nơi ông đã thiết lập quan điểm trong một thời gian ngắn tại Đại
học Western Ontario và Đại học York . Hội thảo tốt nghiệp ông tại Đại học Western Ontario đã
được đón nhận bởi nhiều sinh viên, nhưng sự bày tỏ công khai một cách ghê tởm của ông với
quan điểm chính trị của một số đồng nghiệp, đã làm cho ông ấy không thể gia hạn hợp đồng.
Ông đã lái xe taxi trong một khoảng thời gian ở Toronto, và cuối cùng định cư tại thị trấn nhỏ
Quebec. Năm 1988 bản đồ chiến tranh hạt nhân của Bunge xuất hiện (Bunge, 1988), một ứng
dụng mạnh mẽ của kỹ thuật không gian để vẽ lên sự chú ý đến những hậu quả khôn lường về
việc sử dụng các thiết bị nhiệt hạch. Những suy nghĩ của ông về chính trị hóa và cách mạng là
những bằng chứng rõ ràng trong sự hồi tưởng của ông vào năm 1979 trong Địa lý lý thuyết đã
được xuất bản trong Biên niên sử của Hiệp hội địa lý Mỹ để đánh dấu kỷ niệm lần thứ 75 của
AAG (Bunge , 1979). Đó là niềm đam mê nó mạnh mẽ hơn bao giờ hết, như là cam kết của
ông với phương pháp khoa học, quan sát thực nghiệm, và lý thuyết âm thanh, nhưng nó là
hướng vào các mục tiêu khác nhau.
KẾT LUẬN
Như Macmillan lập luận trong một bài bình luận (Macmillan , 2001), mặc dù tất cả
những lời phê bình của định lượng và chủ nghĩa thực nghiệm vừa xuất hiện trong ba thập kỷ
qua, Địa lý lý thuyết của Bunge vẫn là "một vùng đất - đánh dấu quan trọng trong lịch sử tư
tưởng địa lý ' (1966 : 74). Nó xuất hiện 'trên đỉnh giữa thế giới cũ và mới' (ibid.: 74), giữa thế
giới nguyên thủy, công cụ không chính xác và thế giới hiện đại của dữ liệu phong phú và kỹ
thuật mạnh mẽ của phân tích , trực quan, và mô phỏng. Đọc cuốn sách người ta có một cảm
giác về sự nỗ lực phải được để chuẩn bị các bản đồ, bảng biểu, và thống kê tóm tắt bằng cách
sử dụng bút mực, quy tắc trượt, máy tính tay, và bảng viết tắt của năm 1962, và một cách nhiều

- 19 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
hơn nữa có thể đạt được ngày hôm nay. Tuy nhiên, hầu như tất cả các lĩnh vực chính của quan
điểm không gian ngày nay đang có, trong một cuốn sách chủ yếu được viết khi Bunge là một
sinh viên vừa tốt nghiệp đại học. Có thể có một vài cái giai đoạn trong lịch sử của bất kỳ ngành
học nào khi một nhóm người tạo ra sự xáo động về trí thức vẫn tồn tại trong địa lý tại Đại học
Washington vào cuối năm 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ 20. Địa lý lý thuyết đạt được
trong một cách mà vẫn có ý nghĩa đến ngày hôm nay .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Berry, B.J.L.(1993) ‘Geography’s quantitative revolution: initial conditions, 1954–1960. A
personal memoir’, Urban Geography 14 (5): 434–441.
Bunge, W. (1962) Theoretical Geography (1st edn). Lund Studies in Geography Series
C: General and Mathematical Geography. Lund, Sweden: Gleerup.
Bunge, W. (1966) Theoretical Geography (1st edn). Lund Studies in Geography Series
C: General and Mathematical Geography. Lund, Sweden: Gleerup.
Bunge, W. (1966) Theoretical Geography (second edition) Lund Studies in Geography
Series C: General and Mathematical Geography, No. 1. Lund, Sweden: Gleerup.
Bunge, W. (1971) Fitzgerald; Geography of a Revolution. Cambridge, MA: Schenkman.
Bunge, W. (1973) ‘Commentary: spatial prediction’, Annals of the Association of
American Geographers 63 (4): 566–568.
Bunge, W. (1979) ‘Perspective on Theoretical Geography ’, Annals of the Association of
American Geographers 69: 169–174.
Bunge, W. (1988) The Nuclear War Atlas. New York: Blackwell.
Chorly, R.J. and Haggen, P. (eds). (1967) Models in Geography. London: Methuen.
Cox, K.R. (2001) ‘Classics in human geography revisited: Bunge, W., Theoretical
Geography. Commentary 1’, Progress in Human Geography 25 (1): 71–73.
Fotheringham, A.S., Brunsdon, C. and Charlton, M. (2004) Geographically Weighted
Regression. Hoboken, NJ: Wiley.
Goodchild, M.F. and Janelle, D.G. (2004) ‘Thinking spatially in the social sciences’, In
M.F. Goodchild and D.G. Janelle, editors, Spatially Integrated Social Science. New York:

Oxford University Press, pp. 3–22.
Haggett, P. (1966) Locational Analysis in Human Geography. London: St Martin’s Press.
Harley, J.B. and Woodward, D. (1987) The History of Cartography. Volume 1:
- 20 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
Cartography in Prehistoric, Ancient, and Medieval Europe and the Mediterranean.
Chicago: University of Chicago Press.
Hartshorne, R. (1959) Perspective on the Nature of Geography. Chicago: Rand McNally.
Horton, R.E. (1945) ‘Erosional development of streams and their drainage basins:
hydrophysical approach to quantitative morphology’, Geological Society of America
Bulletin 56: 275–370.
King, L.J. (1969) Statistical Analysis in Geography. Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall.
Laudan, L. (1996) Beyond Positivism and Relativism: Theory, Method, and Evidence.
Boulder, CO: Westview Press.
Longley, P.A., Goodchild, M.F., Maguire, D.J. and Rhind, D.W. (2005) Geographic
Information Systems and Science. New York: Wiley.
Macmillan, W. (2001) ‘Commentary 2: geography as geometry’, Progress in Human
Geography 25 (1): 73–75.
Maguire, D.J. and Longley, P.A. (2005) ‘The emergence of geoportals and their role in
spatial data infrastructures’, Computers, Environment and Urban Systems 29: 3–14.
Pattison, W.D. (1964) ‘The four traditions of geography’, Journal of Geography 63 (5):
211–216.
Sack, R.D. (1972) ‘Geography, geometry and prediction’, Annals of the Association of
American Geographers 62: 61–78.
Sack, R.D. (1973) ‘Comment in reply’, Annals of the Association of American
Geographers 63 (4): 568–569.
Schaefer, F. (1953) ‘Exceptionalism in geography: a methodological examination’, Annals of
the Association of American Geographers 43: 226–249.
Wilson, A.G. (1970) Entropy in Urban and Regional Modelling. London: Pion.
- 21 -

KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
3. SỰ PHÂN TÍCH VỊ TRÍ ĐỊA LÍ TRONG ĐỊA LÍ NHÂN (1965): PETER HAGGETT
Martin Charlton
Phân tích vị trí địa lý liên quan đến nhu cầu tìm kiếm mô hình, trật tự địa lý với các hệ
thống định vị con ng nghiên cứu các mô hình họ tạo ra để mô tả chúng và các hình thức lý giải
để tìm ra ý nghĩa của kết quả tìm kiếm .
Lời giới thiệu
Vào năm 1945, đa số các trường đại học ở nước Anh sở hữu một cơ quan địa lý. Tuy
nhiên, trong khi nhiều quy định dạy tại trường đại học có chặt chẽ và mối quan hệ giữa các
người trí thức nghiêm khắc, đặc biệt là các ngành khoa học. Wooldridge Sydney và phía Đông
Gordon, những giáo sư Địa lý tại King’s College và Trường cao đẳng Birkbeck London, đã thử
gợi ý một số phương hướng mới kỷ luật trong “The Spirit and Purpose of Geography”
(Wooldridge và East, 1951).Nhiều nghiên cứu, tuy nhiên các khu vực trong tự nhiên, và địa lý
của con người liên quan tới nó với việc xác định các khu vực, phân loại và mô tả. Tài liệu có
tiêu đề như. Sự phát triển của nghề làm vườn trong phía Đông Yorkshire, những vùng thành thị
ở Albans St hay dân cư Ai Cập. Vấn đề là quy tắc hơn. Nó đã được cho rằng là Thế giới thứ
Hai. Bằng cách so sánh với toán học, nghiên cứu hoạt động, định hướng chủ yếu là mô tả vị trí
địa lý của con người thì khoa học gặp khó khăn trong cách tiếp cận các vấn đề hiểu biết, và
đặc biệt
Chiến tranh đã chiến thắng nhờ khoa học, những bước tiến về khoa học kĩ thuật mà đã
được xậy dựng giữa năm 1939 và 1946 thì không phải được thể hiện hết qua sự tiến bộ trong
địa lí. Khi so sánh với toán học ,các nhà địa lí phần lớn định hướng nêu rõ khó khăn khoa học
trong cách tiếp cận nó để hiểu những vấn đề đó và những vấn đề về một thế giới sau sự vận
động của tự nhiên. Tuy nhiên sự quan tâm của một nhà khoa học là những quy luật Địa Lí . Rất
nhanh năm 1934, một nhóm nhỏ những nhà xã hội học họp tại khách sạn Adelphi,
Philadelphia, bàn luận những vấn đề cần tìm hiểu trong việc sử dụng dữ liệu cho những khu
vực điều tra. Gehlke và Biehl (1934) và Neprash (1934) đã bỏ xa của những nhà địa lý. Là
những gì diễn ra 30 năm trước khi những nhà địa lý bắt đầu nghiên cứu các vấn đề trên có
hiệu quả. Vì vậy, Trevor Barnes (2003) dự đoán rằng có thể năm 1955 đánh dấu ngày tháng
khi một sự việc nào đó được biết đến như khoa học vũ trụ của Mỹ với hoạt động tại những

trường đại học Washington. Iowa, Và sau đó Chicago, Michigan, và Ohio. Barnes ( 2003 )
cũng dự đoán rằng đó là các hoạt động quay lại nguồn gốc trước đây. Đáng chú ý tác phẩm của
von Thünen, Alfred Vê - be, và August Lösch. Cả ba đang tìm kiếm chủ nghĩa duy tâm. Văn
bản của Lösch’s , vai trò của Kinh tế học ra đời vào 1954 Barnes(2003) bình luận về tác
phẩm của Lösch’s chủ yếu tập trung nhất về sự vật dưới góc nhìn địa lý cũng như sự phân tích
tìm kiếm quan niệm về kinh tế các khu vực . Vào năm 1960 một nhóm những sinh viên tốt
nghiệp trong những trường đại học Mỹ, bao gồm Brian Berry, William Bunge, Michael Dacey,
Arthur Getis, Duane Marble, Richard Morrill, John Nystuen và Waldo Tobler. Được trang bị
kỹ thuật và máy tính, họ sẵn sàng tìm ra những thay đổi địa lý con người. Họ có Khoa học là
lợi thế.
Ở bờ bên kia Đại Tây Dương là Törsten Hägerstrand, giáo sư Địa lý tại Đại học của
Lund. Ông ấy cũng quan tâm đến sử dụng thế mạnh của toán học để xây dựng các sáng kiến.
Các sáng kiến được phát minh vào năm 1953, nhưng đã không được công bố bằng Tiếng Anh
cho đến năm 1967. Thành quả Hägerstrand được các nhà khoa học xã hội biết đến là nhờ mô
- 22 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
phỏng của Monte Carlo ( Evenden, 1969 . Vào 1957 Peter Haggett được chọn là Người tiêu
biểu trong Địa lý tại Trường đại học Cambridge Nhận thức được diễn biến diễn ra ở cả hai
nước USA và Thụy Điển ông ấy bắt đầu tập hợp một số ghi chép bài giảng lúc chưa tốt nghiệp
địa lý tại Cambridge. Như bình thường diễn ra, với những bộ sưu tập được coi là cơ sở vật chất
có thể có ích được trở thành sách. Haggett đồng tác giả trên nhiều sách và trang tài liệu,
Richard Chorley, với những ý tưởng. Haggett ghi lại những vất vả trong lời mở đầu của anh ấy
' bản thảo được viết khó khăn từ từ '.
Nơi khác có sự chuyển động tự nhiên nhỏ về phía một địa lý theo lý thuyết: nội dung trao đổi
của những Viện nhà địa lý Anh (IBG) ít thay đổi trong thập niên sau khi Thụy Điển công bố
khám phá thể tích của Hägerstrand.
Vào năm 1965, phân tích của Haggett trong địa lí loài người được công bố. Sự hoàn
thiện trí tuệ, nó khác với bất cứ văn bản ngôn ngữ Anh khác trên địa lý. Cuối năm đó nhiều
thành viên IBG hẳn đã làm kinh ngạc trên phần mở đầu vấn đề của Tháng 12 của Viện Địa lí
học Anh để tìm bản báo cáo của Stan Gregory trên hội nghị chuyên đề được tổ chức tại Đại

học Bristol về cách nhìn lại trong địa lý ( Gregory, 1965 ), với thêm hơn 20 trang từ Chorley và
Haggett trên bản đồ bề mặt chuyển động trong nghiên cứu địa lý ( Chorley và Haggett, 1965 ).
Sách và văn bản được xuất bản
Văn bản được công bố chỉ hơn 300 trang, chia thành hai phần chính. Phần một, mô hình
của Cấu trúc địa lí, bao gồm năm chương mỗi mục riêng : Sự Chuyển động, các mạng, những
giao điểm, những sự phân cấp, và những bề mặt. Phần Hai, những phương pháp trong sự phân
tích lãnh thổ có bốn chương: Thu thập, mô tả, khoanh vùng và thực tế. Không có ngữ cảnh
được ấn định bởi phần đầu, phần thứ hai có sụ liên kết lý thuyết
Phần một, Haggett tập hợp phần lớn lý thuyết trong địa lý đã xuất hiện trong văn
chương từ giữa thế kỷ thứ 19 trở đi. Ông ấy xem lại tóm tăt nghiên cứu của nhà địa lý thật
nhanh theo trật tự và cố gắng tìm hiểu về thế giới. Ông ấy coi tầm quan trọng của địa lý “ một
lĩnh vực ở trường học và những người quản trị trường đại học'.( 1965 : 9 ). Sự xuất hiện khoa
học trong các khu vực tạo ra mối liên kết giữa kinh tế học và địa lý mà còn tác động đến các
liên ngành để vấn đề lãnh thổ ' vô cùng hiệu quả '. Một trong những hoạt động mà nổi lên là sự
xây dựng mô hình - ' để mã hoá những gì đã tồn tại trước đây và kích thích sự tìm tòi cái mới '.
Mô hình mà Haggett quan sát ở phần một là đa số phần tiêu chuẩn phần đó là họ mô
tả một số nhà nước lý tưởng của tổ chức lãnh thổ, mặc dù họ nói chung dựa trên nhận xét của
hoạt động con người theo không gian. Có bốn nhà lý luận chính : Johann von Thünen, Walter
Christaller, Alfred Vê - be, và August Lösch- tất cả đại diện cho nguồn gốc địa lí Đức . Sau đó,
ông dựa trên công trình gần đây của Hoa Kỳ: Michael Dacey, William Garrison, William
Bunge, Walter Isard và Brian Berry được nhắc tới trong nhiều trích dẫn .Có người ít thừa nhận
từ Châu Âu và elswehere, mặc dù công việc của Törsten Hägerstrand được xử lý trong chi tiết
nào đó. Mô hình Central Place của Christaller xuất hiện trong sự chuyển động ( Chương 2 ),
nơi giao nhau ( 4 ) và hệ thống cấp bậc ( 5 ). Công việc của vê - be cũng là được trích dẫn hầu
như dành riêng trong Hệ thống cấp bậc ( 5 ). Đóng góp của Losch thể hiện trong tất cả các
chương của phần một. . Trong số các nhà bình luận thế kỷ 20, phong trào (2) có tài liệu bổ
sung từ Hägerstrand , Isard và Bunge , Mạng (3) trích dẫn Garrison và Bunge . Các nút (4 ) các
tính năng làm việc của Berry và các tầng nấc (5) thu hút rất nhiều vào công việc của Isard.
Công việc von Thünen được bao phủ rộng rãi trong bề mặt (6) với tài liệu bổ sung từ Sauer ,
Berry và Bunge . Những gì Haggett thành đạt trong Phần thứ nhất là để chứng minh mối quan

hệ giữa các thành phần riêng lẻ của phân tích về vị trí .
- 23 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
Trong sự vận động (2), chúng tôi chuyển từ di chuyển dọc theo đường dẫn, và ý tưởng
liên quan về một con đường leastcost, thông qua các mô hình của các quá trình tương tác với
các mô hình trọng lực, tìm tòi liên tục trên một lĩnh vực (trong đó mong muốn bản đồ đại số
Tomlin), sự vận động trong khu, và cuối cùng đến khía cạnh thời gian của sự vận động, trong
đó mô hình phổ biến của Hägerstrand được giải thích. Chương 3, Mạng, xem xét các
tuyến đường và định tuyến. Một số thông tin- con đường chi phí thấp nhất giữa hai hoặc nhiều
khu định cư - đã phân bố hợp lí. Có tài liệu tham khảo lý thuyết đồ thị trong toán học nhưng
kết nối ngắn nhất – cách dịch thuật toán của Dijkstra là mâu thuẫn tạm thời, và thảo luận về
các khái niệm như mật độ đường và thay đổi mạng
Các chương 4 (và) 5, những nơi gặp gỡ và những sự phân cấp giải quyết những vấn đề
và những quan hệ lẫn nhau của họ.Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu đến mô hình kiểu mẫu giải
quyết, examing sai lệch với tính tương đối vì sự kết tụ, sự thay đổi trong vị trí tài nguyên, và
thay đổi thái dương. Haggett kiểm tra quan hệ giữa cấp thành phố và thứ tự của nó trong danh
sách tỉnh thành trong vùng - xếp hạng / quan hệ kích cỡ và các mô hình khác nhau. Đây là
được mở rộng vào thảo luận về quan hệ giữa kích cỡ và cách khu vực định cư và những gì mô
hình thích hợp có thể là, và về việc hierachies, của họ chức năng và potentional sai lệch từ mô
hình vì sự kết tụ hoặc tài nguyên bản địa hoá.
Chương cuối cùng xem xét địa hình. Những mô hình có thể của những quá trình liên
tục, như mật độ dân cư, hay những lúc rời rạc, mà được minh họa bằng việc xem xét những
khu vực sử dụng đất. Thünian mô hình của nhỏ nhất – việc này được giao cho nơi rộng -
Haggett cũng kết hợp mô hình của Weberian để xác định vị trí một điểm trong không gian với
vấn đề của von Thünen của xác định vị trí lĩnh vực trong không gian '. Chương và các bộ phận
đầu tiên kết thúc với đề nghị mô hình đâu phải lúc nào cũng thích hợp, Haggett biện luận rằng
sự xây dựng mô hình nên đi theo chớ không phải là nguyên tắc tối ưu hóa. Như Haggett lưu
lại, ' phần lớn mô hình hiện có của chúng tôi đã ở cùng chúng tôi rất lâu ' ( 1965 : 182 ).
Ngược lại, phần hai được dự báo cho biết dành riêng hơn nữa bằng nghiên cứu địa lý về
thời gian và tìm cách đặt một số khu – dựa trên phương pháp địa lý - ' các thông tin địa lý có

thể tập hợp, đo lường, phân loại, và mô tả. để mà khái niệm hiện có của chúng tôi có thể là
trách nhiệm khi kiểm tra ' ( 1965 : 185 ). Haggett bắt đầu với tích lũy của bằng chứng và thu
được hướng về thử nghiệm về giả thuyết trong bốn chương này.
Chương này không phải là kỹ thuật sách dạy của mượn từ môn học khác, nhưng độc giả đã giả
định để có một số kiến thức thống kê cơ bản. Những gì trở thành rõ qua đọc chương này là sải
chân xuất hiện từ đầu những năm 1960 trong khoa học xử lý dữ liệu địa lý. Vào năm 1965 kỹ
thuật và phương pháp trong địa lý định lượng củ họ còn nhỏ hoặc vẫn chưa được phát triển.
Haggett vậy nên bắt đầu với phần thảo luận về vấn đề của tập hợp dữ liệu. Phần nhiều trong số
trọng tâm vẫn còn phù hợp hôm nay - chúng tôi tìm dữ liệu ở đâu? những loại dữ liệu chúng
tôi có thể tìm? Và những gì có thể là đặc điểm của nó? Haggett di chuyển chậm từ trừu tượng
( dân số là gì? ) hướng về hoạt động ( làm sao chúng tôi nhận ra mẫu và lĩnh vực mà nó liên
quan?). Ông ấy sử dụng nhiều dẫn chứng khác nhau, thảo luận với nhiều thiết kế mẫu minh
họa khác. Ông ấy cũng coi phần tử địa lý - lưu ý là dữ liệu chúng tôi thu thập thường là khác
thường hoặc inconvenienent hoặc incompatiable không gian đơn vị - và cung cấp ví dụ về
những gì bây giờ gọi là thuộc vùng thu thập hoặc phép nội suy. Lời khuyên hữu ích cho ở
nhiều khoá học phân tích định lượng, đầu tiên là nhà phân tích nên tìm hiểu dữ liệu từ lâu trước
khi thực hiện mô phỏng. Hành trình của Haggett tiếp diễn với Mô tả. Phương pháp của ông ấy
- 24 -
KEY TEXTS IN HUMAN GEOGRAPHY
nhiệm vụ là ' mô tả thật nhanh và phân tích chính xác bằng cách tập hợp dữ liệu ' ( 1965 :
211 ).
Công cụ cơ bản là vẽ bản đồ và thống kê.Bức xạ tới trái đất là điểm xuất phát mô tả vị trí tuyệt
đối ' '. Theo nhiều cách thảo luận có vẻ hơi đơn giản nhưng Haggett đang viết trước kỹ thuật
phát triển hoặc địa thống kê và đại diện cho vài biến số. Haggett coi vài kỹ thuật cơ bản trước
khi kiểm tra phân tích thành phần chính, mặc dù hơi thật nhanh. Một lần nữa, chúng ta phải
nhớ tiến hành phân tích là công việc tính toán. Quay ngược lại nhà hình học khi Haggett sau đó
mô tả chỉ số thống kê cho nhiều hình thức, điểm, và mạng. Mặc dù thống trị của vùng này
trong viết địa lý, phần lớn Chương 9 trên Vùng - toà nhà sẽ xa lạ đến sinh viên của hôm nay.
Câu hỏi cơ bản là những tạo vùng tập hợp lại chúng. Chẳng hạn như, những đặc điểm gì vùng
có? Xem xét câu hỏi này dẫn đến hình thành lý thuyết, thêm vào ranh giới và tập hợp các

phương pháp định lượng dựa trên hình học. Vấn đề quan trọng trong địa lý vùng là vấn đề đơn
vị thuộc vùng có thể thay đổi xảy ra khi dữ liệu được kết hợp tại không gian khác, tạo ra sự
phân bố rất khác, phụ thuộc vào những vùng được định nghĩa và vẽ bản đồ như thế nào.
Haggett gọi đây là vấn đề lớn và coi nó là mục tiêu, lưu ý là nhà địa lý đã không tập
trung nhiều cho phân tích của nó. Ông ấy đề nghị phương pháp để bàn bạc dựa trên phân tích
khác biệt, bản đồ, và kĩ thuật làm mẫu bề mặt trào lưu. Sinh viên ngày nay sẽ nhận ra phần
lớn chung kết chương - Thử nghiệm. Trong thử nghiệm tầm nhìn của Haggett ' cung cấp thích
hợp kiểm tra vượt quá giới hạn về lý thuyết của phần một ' và giới thiệu enragingly đơn giản
hóa' ' sách chỉ dẫn một số phương pháp thống kê thích hợp. Phần đầu tiên đối phó mô hình và
nguồn gốc của giả thuyết về địa lý con người và thứ hai là chuyến một vài phương pháp thống
kê sau đó được dùng trong địa lý. Phần cuối cùng trên thử nghiệm qua vật tương tự có liên
quan đến phương pháp mô phỏng, và Haggett thu hút độc giả với đề nghị ẩn có thể có đến gần
hiển nhiên đến địa lý. Ông ấy kết luận quan sát : ' về lâu về dài chất lượng của địa lý trong thế
kỷ này sẽ được đánh giá bằng kỹ thuật hiện đại của nó hoặc chi tiết cụ thể của nó, hơn sức
mạnh về khả năng lập luận hợp lý '. Ấn bản thứ hai của Locational
Phân tích xuất hiện vào năm 1977 – nó đã được duyệt lại và gần như gấp đôi độ dài ban đầu.
Andrew Cliff and Allan Frey là đồng tác giả cho thể tích này. Nó cũng đã được công bố khi hai
sách bản mềm riêng biệt, lấy tên ' của Mô hình vị trí và ' của Phương pháp vị trí lần lượt
( Haggett et al. , 1977 ).
Làm thế nào cuốn sách đã được đón nhận?
Một trong những người đầu tiên bình luận công khai về Phân tích là Emrys Jones, một
nhà địa lý học tại trường vào Đại học Queen, Belfast, trong Địa lý Journalin 1966. Jones bắt
đầu bằng cách khuyến cáo độc giả của một vài khía cạnh tệ hại nhất về xã hội học 1950 của :
giả - toán học, thuật ngữ vay mượn, và xác định số lượng. Lưu ý rằng gần đây diễn biến địa lý
có vẻ thiếu một cấu trúc mạch lạc,ông ấy ca ngợi Haggett đã làm cơ sở cho kỹ thuật mới và
mục đích của nghiên cứu địa lý. Jones tóm tắt thành tựu của sách : ' phần tử khác hẳn nhau.
Trước đây, các mảnh nhỏ, tạo thành vị trí, và chúng tôi bây giờ đặt mục tiêu hình thành một
cấu trúc hoàn toàn dự được làm cho đương đầu với cơ cấu hoàn toàn dựa trên tiền đề hợp lý để
giúp chúng tôi có thể mô tả vị trí phần tử một cách hợp lí. Đây là động lực được làm ' ( Jones,
1966 ). Peter Gould lấy tầm nhìn tương tự trong bài phê bình cho các độc giả của Tạp chí Địa

Lí ( Gould, 1967 ). Sự nhiệt tình của mình có thế cảm nhận : ' ở đây, cuối cùng, là một công
việc thực sự thú vị về địa lý của con người, cáu trúc hợp lí, đầy ắp những ý tưởng ; vào lúc
cuối xem xét anh ấy bình luận : ' nói chung sách này không chỉ cung cấp một cấu trúc và tổng
kết với công việc của mười năm qua nhưng nó cho thấy những nỗ lực không ngừng với những
- 25 -

×