Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp tại sở giao dịch i - ngân hàng công thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.31 KB, 87 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơ chế thị trường, hoạt động Ngân hàng luôn tiềm ẩn nhữn rủi ro,
nhất là hoạt động tín dụng. Các con số thống kê và nhiều nghiên cứu cho thấy,
rủi ro tín dụng chiếm tới 70% trong tổng rủi ro hoạt động ngân hàng. Thực tế
hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua là
một minh chứng cho nhận định này: Hiệu quả hoạt động tín dụng chưa cao, chất
lượng tín dụng chưa tốt, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn còn cao so với khu vực và
chưa có khuynh hướng giảm vững chắc. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quản
trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam đang là vấn đề bức xúc trên cả phương diện lý
thuyết và thực tiễn. Các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách ngân hàng
đã đưa ra nhiều giải pháp để giải quyết vấn đề này. Một trong những giải pháp
đang được khuyến khích áp dụng đó là hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp
hạng khách hàng. Đây là một vấn đề khá mới đối với các NHTM Việt Nam nói
chung và Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam nói riêng.
Hệ thống chấm điểm tín dụng được áp dụng vào hệ thống NHCT từ năm
2004, nhưng qua thời gian thực tập, em nhận thấy hệ thống này vẫn còn nhiều
những hạn chế cần khắc phục. Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện
công tác chấm điểm tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp tại Sở giao
dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam”.
Cấu trúc bài viết gồm ba phần:
Chương I : Lý thuyết chung về phương pháp chấm điểm tín dụng
Chương II : Thực trạng công tác chấm điểm tín dụng khách hàng doanh
nghiệp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam.
Chương III : Hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng khách hàng doanh
nghiệp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn cùng toàn bộ cán bộ đang
công tác tại phòng Khách hàng 2 đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này!
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG
1.1. Tổng quan về xếp hạng tín nhiệm và áp dụng xếp hạng tín nhiệm tại
Việt Nam


1.1.1. Khái niệm xếp hạng tín nhiệm
Xếp hạng tín nhiệm (credit ratings) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Anh
(credit: sự tín nhiệm; ratings: sự xếp hạng) do John Moody đưa ra vào năm 1909
trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán đường sắt” khi tiến hành nghiên cứu, phân
tích và công bố bảng xếp hạng tín nhiệm lần đầu tiên cho 1500 loại trái phiếu
của 250 công ty theo một hệ thống ký hiệu gồm ba chữ cái ABC được xếp lần
lượt từ “Aaa” đến “C” (hiện nay những ký hiệu này đã trở thành chuẩn mực
quốc tế).
Tuy nhiên, xếp hạng tín nhiệm chỉ phát triển nhanh ở Mỹ sau cuộc khủng
hoảng kinh tế 1929 – 1933 khi hàng loạt các nhà phát hành trái phiếu bị phá sản,
vỡ nợ. Thời kỳ này, chính phủ Hoa Kỳ đã có nhiều quy định về việc cấm các
định chế đầu tư (các quỹ hưu trí, các quỹ bảo hiểm, ngân hàng dự trữ) bỏ vốn
đầu tư mua lại các loại trái phiếu có độ tin cậy thấp dưới mức an toàn trong bảng
xếp hạng tín nhiệm. Những quy định này đã làm cho uy tín của các công ty xếp
hạng tín nhiệm ngày một lên cao. Song, trong suốt hơn 50 năm, việc xếp hạng
tín nhiệm chỉ được phổ biến ở Mỹ, chỉ từ đầu những năm 1970 đến nay, dịch vụ
xếp hạng tín nhiệm mới được mở rộng và phát triển khá mạnh ở nhiều nước.
Ngày nay, khái niệm xếp hạng tín nhiệm chưa có được sự nhận thức
thống nhất. Theo Bohn, John A. viết trong cuốn “Phân tích rủi ro trên thị trường
đang chuyển đổi thì “Xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá về khả năng một nhà
phát hành có thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán
nợ trong suốt thời gian tồn tại của nó”.
Theo định nghĩa của công ty chứng khoán Merrill Lynch, xếp hạng tín
nhiệm là đánh giá hiện thời của công ty xếp hạng tín nhiệm về chất lượng tín
dụng của một nhà phát hành chứng khoán nợ, về một khoản nợ nhất định. Nói
cách khác đi, đó là đánh giá hiện thời về chất lượng tín dụng được xem xét trong
hoàn cảnh hướng về tương lai, phản ánh sự sẵn sàng và khả năng nhà phát hành
có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn. Trong kết quả xếp hạng tín nhiệm chứa
đựng cả ý kiến chủ quan của chuyên gia xếp hạng tín nhiệm.
Theo công ty Moody’s, xếp hạng tín nhiệm là ý kiến về khả năng và sự

sẵn sàng của một nhà phát hành trong việc thanh toán đúng hạn cho một khoản
nợ nhất định trong suốt thời hạn tồn tại của khoản nợ.
Như vậy, có thể khái quát, xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá hiện thời về
mức độ sẵn sàng và khả năng trả (gốc và lãi) đối với chứng khoán nợ của một
nhà phát hành trong một thời gian tồn tại của chứng khoán đó. Xếp hạng tín
nhiệm là kết quả của việc đánh giá tổng hợp tất cả các rủi ro về thanh toán gốc
và lãi của các khoản nợ hiện tại và tương lai của nhà phát hành. Kết quả xếp
hạng tín nhiệm chứa đựng ý kiến chủ quan của các chuyên gia xếp hạng tín
nhiệm. Về mặt nào đó, xếp hạng tín nhiệm có thể xem là một hình thức tư vấn
đầu tư chứng khoán, song đây không hoàn toàn là một lời khuyên nên mua hay
nên bán bất kỳ một loại chứng khoán nào. Hầu hết các công cụ nợ được xếp
hạng tín nhiệm là các loại trái phiếu công ty và trái phiếu chính phủ, các loại trái
phiếu, kỳ phiếu ngân hàng. Ở một số nước, xếp hạng tín nhiệm còn được áp
dụng cho cả đối tượng vay vốn ngân hàng.
1.1.2. Xếp hạng tín nhiệm – Một kỹ thuật phòng tránh rủi ro hữu ích đối
với hoạt động ngân hàng
Hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt
động kinh tế có nhiều rủi ro hơn hết. Có thể nói rủi ro được xem như một yếu tố
không thể tách rời với quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM)
trên thị trường. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp đôi, bởi vì ngân
hàng không những phải hứng chịu các rủi ro do những nguyên nhân chủ quan
của mình, mà còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Hơn nữa, rủi ro
trong hoạt động ngân hàng có thể gây ra tai họa to lớn cho nền kinh tế hơn bất
cứ rủi ro của các loại hình doanh nghiệp khác, vì tính chất lây lan của nó có thể
làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế.
Hoạt động NHTM bao gồm nhiều loại nghiệp vụ, nhưng tập trung lại, đây
là loại hình kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một trung gian tài chính dựa trên cơ
sở thu hút tiền của khách hàng (dưới hình thức nhận tiền gửi huy động bằng trái
phiếu, kỳ phiếu và đi vay …) với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để
cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán. Như vậy, NHTM tiến hành các

hoạt động nghiệp vụ của mình thông qua việc sử dụng không chỉ bằng vốn tự có,
mà chủ yếu bằng vốn huy động của khách hàng. Nếu NHTM không thu hồi
được số nợ mà họ đã cho vay, thì NHTM không chỉ bị mất vốn tự có của bản
thân, mà còn có nguy cơ không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách
hàng. Vì vậy, tính chất trung gian tài chính đặt ra yêu cầu đầu tiên đối với
NHTM là phải thường xuyên thu hồi được số vốn đã cho vay để duy trì khả
năng hoàn trả số tiền huy động của khách hàng và bảo toàn vốn tự có của bản
thân.
Một hệ thống ngân hàng tốt phụ thuộc một phần vào sự điều khiển của
NHTW, và rộng hơn, phụ thuộc vào sự tín nhiệm của khách hàng. Trách nhiệm
chính của các ngân hàng là phải cư xử như những công dân tốt trong kinh
doanh: dù khả năng sinh lời vẫn được coi là mối quan tâm chính, nhưng đôi khi
phải gác điều này lại để ưu tiên cho những nguyên tắc đạo đức có tính đến lợi
ích của những người khác. Mỗi khi Ngân hàng cho vay tiền, họ phải nhớ rằng
vốn của họ là tiền gửi của khách hàng, vì vậy điều quan trọng là họ phải cho vay
những noi mà rủi ro do không trả được nợ là thấp nhất.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ ngày càng phức tạp, rủi ro của nó ngày càng
một lớn, đòi hỏi phải có những biện pháp phòng ngừa, hạn chế các rủi ro đó để
đảm bảo an toàn cho hoạt động của NHTM. Trong xu hướng đó, “xếp hạng tín
nhiệm” (credit ratings) là một kỹ thuật ngày càng được chú ý rộng rãi trong hoạt
động tín dụng ngân hàng.
Ở Việt Nam, do thị trường trái phiếu chưa phát triển, có thể áp dụng việc
xếp hạng tín nhiệm cho các khách hàng khi vay vốn ngân hàng nhằm giúp ngân
hàng có thêm căn cứ để xác định đối tượng có thể cho vay được, không được
cho vay, lãi suất cho vay, vấn đề thế chấp, … Trên cơ sở phân tích, đánh giá với
xếp hạng tín nhiệm đối với khách hàng xin vay vốn ngân hàng, chúng ta có thể
hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Trước mắt, ở Việt Nam có thể áp dụng xếp hạng tín nhiệm dưới một hình
thức đơn giản: “chấm điểm tín dụng”.
1.2. Khái niệm hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng:

1.2.1. Chấm điểm tín dụng là gì?
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng áp dụng tại Sở
giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam là mô hình do Ngân hàng Công
thương Việt Nam tạo lập. Trụ sở chính Ngân hàng Công thương đã xây dựng hệ
thống chấm điểm và tiến hành triển khai ở các chi nhánh, trong đó có Sở giao
dịch I.
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng của NHCT Việt
Nam là một quy trình đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của
một khách hàng đối với NHCV như trả lãi và gốc nợ vay khi đến hạn nhằm xác
định rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của NHCV. Mức độ rủi ro tín dụng thay
đổi theo từng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng
thang điểm, dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính có sẵn của khách
hàng tại thời điểm chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng.
Để đáp ứng yêu cầu về quản trị rủi ro tín dụng của bản thân Ngân hàng
Công thương, đồng thời đảm bảo tuân thủ hướng dẫn của NHNN Việt Nam về
chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng và tiến tới phù hợp với phương
pháp xếp hạng tín dụng theo chuẩn mực quốc tế.
1.2.2. Mục đích của việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng
Mục đích của chấm điểm tín dụng là dựa trên cơ sở các số liệu kiểm tra,
phân tích dữ kiện từ các hồ sơ lưu trữ, báo cáo tài chính và các báo cáo kiểm
toán của doanh nghiệp để nhận xét đánh giá tình hình hoạt động, khả năng sinh
lời, khả năng thanh toán trong hiện tại và tương lai của doanh nghiệp nhằm xác
định khả năng thu hồi vốn của NHCV.
Việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng được thực hiện nhằm
hỗ trợ NHCV trong việc:
- Ra quyết định cấp tín dụng: xác định hạn mức tín dụng của một khách
hàng, số tiền cho vay /bảo lãnh, thời hạn, mức lãi suất /phí, biện pháp bảo đảm
cho khoản tín dụng.
- Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang còn
dư nợ; Hạng khách hàng cho phép NHCV lường trước những dấu hiệu xấu về

chất lượng khoản cho vay và có những biện pháp đối phó kịp thời.
Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, hệ thống chấm điểm
tín dụng và xếp hạng khách hàng còn nhằm mục đích:
- Phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới các khách hàng có ít
rủi ro hơn.
- Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự
phòng rủi ro tín dụng.
Tóm lại, mục đích của việc chấm điểm tín dụng là giúp lường trước được
các rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh để từ đó có thể tránh được các rủi ro
này.
1.2.3. Nguyên tắc của việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng
Trong quá trình chấm điểm tín dụng, cán bộ chấm điểm tín dụng sẽ thu
được điểm ban đầu và điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng.
- Điểm ban đầu là điểm của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng cán bộ
chấm điểm tín dụng xác định được sau khi phân tích tiêu chí đó.
- Điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng bằng điểm ban đầu nhân với
trọng số.
- Trọng số là mức độ quan trọng của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng
(chỉ số tài chính hoặc yếu tố phi tài chính) xét trên góc độ tác động rủi ro tín
dụng.
Trong quy trình chấm điểm tín dụng, cán bộ chấm điểm tín dụng sử dụng
các bảng tiêu chuẩn để đánh giá các tiêu chí chấm điểm tín dụng theo nguyên
tắc:
- Đối với mỗi tiêu chí trên bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí, chỉ số
thực tế gần với trị số nào nhất thì áp dụng cho loại xếp hạng đó, nếu nằm giữa
hai trị số thì ưu tiên nghiêng về phía loại tốt nhất.
- Trong trường hợp khách hàng có bảo lãnh toàn phần (lớn hơn hoặc
bằng 100% giá trị khoản tín dụng) của một tổ chức có năng lực tài chính mạnh
hơn, thì có thể sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng của bên bảo lãnh để xác định
hạng tín dụng của khách hàng (nếu bên bảo lãnh cũng được Ngân hàng cho vay

chấm điểm). Quy trình chấm điểm tín dụng của bên bảo lãnh cũng giống như
quy trình áp dụng cho khách hàng. Trường hợp bảo lãnh một phần thì chỉ tiến
hành chấm điểm tín dụng và xếp hạng cho chính khách hàng.
1.2.4. Phân nhóm khách hàng trong chấm điểm tín dụng
Do tính chất khác nhau giữa các khách hàng, để chấm điểm tín dụng và
xếp hạng khách hàng được chính xác, khoa học, NHCT Việt Nam phân chia
khách hàng vay có đủ điều kiện tiến hành chấm điểm tín dụng thành ba nhóm:
- Nhóm khách hàng là doanh nghiệp
- Nhóm khách hàng cá nhân (bao gồm cá nhân và hộ gia đình)
- Nhóm khách hàng là các tổ chức tín dụng
Những khách hàng không đủ điều kiện tiến hành chấm điểm tín dụng
(như các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, …) sẽ được xem xét theo hướng
dẫn cụ thể của NHCT Việt Nam từng thời kỳ.
1.2.5. Các mô hình chấm điểm tín dụng
Các mô hình chấm điểm tín dụng thường sử dụng các số liệu phản ánh
đặc điểm của người vay để tính toán xác suất của rủi ro tín dụng hoặc để phân
loại khách hàng căn cứ vào mức độ rủi ro được xác định. Bằng việc lựa chọn và
kết hợp các đặc điểm tài chính và kinh doanh của người vay, các tổ chức tín
dụng có thể:
+ Xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố đến rủi ro tín dụng.
+ So sánh mức độ quan trọng giữa các nhân tố.
+ Cải thiện việc định giá rủi ro tín dụng.
+ Có căn cứ chính xác hơn trong việc sàng lọc các đơn xin vay.
+ Tính toán chính xác hơn mức dự trữ cần thiết cho các rủi ro tín dụng dự
tính.
Để sử dụng các mô hình này, các tổ chức tín dụng phải xác định được các
chỉ tiêu phản ánh các đặc điểm tài chính và kinh doanh có liên quan đến rủi ro
tín dụng cho từng đối tượng vay cụ thể. Đối với cho vay tiêu dùng, các đặc điểm
của người vay trong mô hình chấm điểm tín dụng có thể bao gồm: thu nhập, tài
sản, lứa tuổi, nghề nghiệp và địa điểm. Đối với các khoản tín dụng cấp cho các

doanh nghiệp thì tỷ lệ giữa vốn nợ và vốn tự có thường là chỉ tiêu chủ yếu. Mô
hình chấm điểm tín dụng bao gồm 4 loại sau:
 Mô hình xác suất tuyến tính.
 Mô hình logit.
 Mô hình probit.
 Mô hình phân biệt tuyến tính.
Nội dung chủ yếu cũng như những điểm mạnh và điểm yếu của từng kỹ
thuật sẽ được trình bày sau đây:
1.2.5.1. Mô hình xác suất tuyến tính
Mô hình xác suất tuyến tính sử dụng số liệu quá khứ, chẳng hạn các số
liệu kế toán, làm dữ liệu đầu vào để giải thích quá khứ chi trả cho các khoản đã
vay. Mức độ quan trong tương đối của các yếu tố được sử dụng để giải thích quá
trình chi trả trong quá khứ sẽ được sử dụng để dự đoán xác suất chi trả cho các
khoản vay mới (
i
p
). Giả sử các khoản vay cũ được chia thành hai nhóm: nhóm
có rủi ro mất vốn (
i
Z
= 1) và nhóm không có rủi ro (
i
Z
= 0). Chúng ta thiết lập
mối quan hệ giữa các nhóm này với các nhân tố ảnh hưởng tương ứng (
ij
X
)
phản ánh đặc điểm của người vay thứ I (như cơ cấu vốn hay thu nhập) theo mô
hình đường thẳng tuyến tính với công thức sau:

1
n
i j ij
j
Z X
β
=
= +

sai số
Trong đó,
j
β
phản ánh mức độ quan trọng của chỉ tiêu thứ j (thí dụ cơ cấu
vốn) trong việc giải thích quá khứ chi trả của người vay. Lấy các giá trị của
j
β
nhân với các nhân tố
ij
X
của một người vay mới chúng ta sẽ dự tính được giá trị
của
i
Z
. Giá trị này phản ánh xác suất bình quân rủi ro mất vốn của người vay E(
i
Z
) = (1 –
i
p

);
i
p
là xác suất trả khoản nợ vay.
Kỹ thuật này thực được hiện một cách đơn giản khi các số liệu phản ánh
đặc điểm của người vay được cung cấp. Tuy nhiên điểm yếu của nó là ở chỗ xác
suất rủi ro mất vốn rất dễ nằm ngoài khoảng từ 0 đến 1. Các mô hình logit và
probit sau đây sẽ khắc phục được nhược điểm này bằng cách giới hạn phạm vi
dự tính xác suất rủi ro nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
1.2.5.2. Mô hình logit
Mô hình logit giới hạn xác suất lũy kế của rủi ro mất vốn đối với một
khoản tín dụng nằm trong khoảng từ 0 đến 1 và giả sử xác suất này được phân
bổ theo dạng hàm số:
( ) 1/(1 )
i
Z
i
F Z e

= +
Trong đó, e là cơ số tự nhiên,
( )
i
F Z
là xác suất lũy kế của mức rủi ro đối
với một khoản vay, và được tính toán theo mô hình đường thẳng tuyến tính
tương tự như mô hình trên. Như vậy, chúng ta có thể xác định giá trị dự tính của
i
Z
theo hàm số tuyến tính cho một người vay mới, sau đó thay thế giá trị

i
Z
vào
bên phải của hàm số logit để xác định giá trị của F(
i
Z
) – xác suất lũy kế của rủi
ro mất vốn được phân bổ theo một dạng hàm số logit cụ thể.
1.2.5.3. Mô hình Propit
Mô hình probit cũng hạn chế xác suất rủi ro tín dụng dự tính trong khoảng
từ 0 đến 1, nhưng nó khác với mô hình trên khi giả thiết rằng xác suất của rủi ro
có dạng phân bổ chuẩn (normal distribution) chứ không phân bổ theo hàm số
logit như đồ thị 4.3. Tuy nhiên, khi được nhân với một yếu tố cố định thì giá trị
logit có thể trở thành giá trị probit gần đúng
1.2.5.4. Mô hình phân biệt tuyến tính
Trong khi các mô hình xác suất tuyến tính, logit và probit đều dự tính
mức xác suất của rủi ro tín dụng đối với một khoản tín dụng được cấp, thì mô
hình này có tác dụng phân loại những người vay căn cứ vào mức độ rủi ro có
liên quan đến các chỉ tiêu (
j
X
) phản ánh các đặc điểm tài chính và kinh doanh
của họ.
Thí dụ sau đây xem xét mô hình phân biệt được xây dựng bởi E.I.Altman
giành cho công ty sản xuất của Mỹ. Chỉ số biến động Z đo lường toàn bộ mức
độ rủi ro của người vay. Chỉ số này phụ thuộc vào giá trị của các chỉ số tài chính
phản ánh tình trạng tài chính của người vay (
j
X
) và mức độ quan trọng của các

chỉ số này trong việc quyết định mức độ rủi ro của người vay. Các giá trị này,
đến lượt nó được xác định thông qua kinh nghiệm phân tích và so sánh giữa hai
nhóm người vay có rủi ro và không có rủi ro được rút ra từ một mô hình phân
biệt. Hàm số phân biệt của Altman có dạng sau:
1 2 3 4 5
1,2 1,4 3,3 0,6 1,0Z X X X X X= + + + +
Trong đó:
1
X
= Tỷ lệ giữa vốn lưu động và tổng tài sản có.
2
X
= Tỷ lệ giữa lợi nhuận tích lũy và tổng tài sản có.
3
X
= Tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế và lãi suất trên tổng tài sản có.
4
X
= Tỷ lệ giữa giá trị thị trường của cổ phiếu và giá kế toán của cá khoản
nợ dài hạn.
5
X
= Tỷ lệ giữa doanh thu và tổng tài sản có.
Giá trị của Z càng lớn thì mức độ rủi ro dự tính của người vay càng nhỏ.
Giá trị của Z càng nhỏ hoặc là âm có thể là căn cứ để xếp loại người vay vào
nhóm có rủi ro cao.
Giả sử các chỉ số tài chính của một khách hàng tiềm năng có các giá trị sau:
1
X
= 0,20;

2
X
= 0;
3
X
= - 0,20;
4
X
= 0,10;
5
X
= 2,0.
Chỉ số
2
X
= 0 và
3
X
< 0 cho thấy khách hàng đang bị lỗ trong giai đoạn
hiện tại; chỉ số
4
X
= 10% chứng tỏ tỷ lệ vốn nợ cao. Tuy nhiên, chỉ số phản ánh
mức độ thanh khoản (
1
X
) và tỷ lệ doanh thu (
5
X
) lại tương đối khả quan. Tổng

hợp lại, giá trị Z sẽ cho thấy một chỉ số chung phản ánh mức độ rủi ro tín dụng
dự tính của một khách hàng trên cơ sở kết hợp cả 5 chỉ số, có tính đến mức độ
quan trọng của từng chỉ số trong việc giải thích quá khứ trả nợ của khách hàng.
Giá trị chụ thể của Z là:
Z = 1,2(0,2) + 1,4(0) + 3,3(-0,2) + 0,6(0,1) + 1,0(2,0)
Z = 0,24 + 0 – 0,66 + 0,06 + 2,0
Z = 1,64
Theo mô hình của Altman, bất kỳ khách hàng nào có điểm số Z nhỏ hơn
1,81 sẽ bị xếp vào khu vực có rủi ro cao. Trong trường hợp cụ thể này các tổ
chức tín dụng không nên cấp tín dụng cho đến khi khách hàng cải thiện được chỉ
số thu nhập của họ.
Việc sử dụng kỹ thuật đo lường mức độ rủi ro tín dụng này tương đối đơn
giản, tuy nhiên nó chứa đựng một số nhược điểm:
- Thứ nhất, mô hình này chỉ cho phép phân loại hai nhóm người vay có
rủi ro và không có rủi ro. Trong thực tế, mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của
mỗi khách hàng khác nhau từ mức thấp như chậm trả lãi, không trả lãi được cho
đến mức hoàn toàn mất cả vốn và lãi của khoản vay. Điều này chỉ ra rằng việc
phân loại các khách hàng có rủi ro nên chi tiết hơn để kỹ thuật này trở nên chính
xác hơn.
- Thứ hai, không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số
phản ánh tầm quan trọng của các chỉ số trong công thức Altman là bất biến, dù
trong thời gian ngắn. Tương tự như vậy, các chỉ số được chọn trong công thức
cũng không phải và không thể là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện kinh doanh
cũng như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục. Các chỉ số tài
chính khác phản ánh đặc điểm cụ thể của người vay có thể trở nên hiệu quả
trong việc giải thích các hành vi trả nợ của khách hàng. Mặt khác, mô hình này
phân biệt cũng giả thiết rằng các chỉ số trong mô hình là hoàn toàn độc lập với
nhau.
- Thứ ba, mô hình phân biệt đã không tính đến một số nhân tố khó định
lượng nhưng có thể đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro

của các khoản vay. Chẳng hạn danh tiếng của khách hàng hoặc mối quan hệ lâu
dài giữa ngân hàng và khách hàng hay các yếu tố vĩ mô như sự biến động của
chu kỳ kinh tế, trong nhiều trường hợp, có ý nghĩa quyết định đến mức rủi ro tín
dụng. Mặt khác mô hình này cũng hiếm khi sử dụng các thông tin thị trường như
giá cả các tài sản tài chính; giá các khoản nợ hoặc giá cổ phiếu của công ty
khách hàng. Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng sau đây sẽ sử dụng các lý thuyết
tài chính và các dữ liệu thị trường tài chính để xác định xác suất mất vốn.
Tóm lại, các mô hình vừa nghiên cứu được sử dụng thích hợp nhất trong
trường hợp đánh giá tính an toàn của các khoản tín dụng (kể cả trường hợp mua
các chứng khoán nợ) cấp cho khách hàng lớn thuộc khu vực công ty.
1.2.6. Quy trình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp
Một quy trình Chấm điểm tín dụng tiêu biểu có thể được tóm tắt như sau:
1.2.6.1. Đánh giá chung về doanh nghiệp
Xác định loại doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư
nhân, Công ty TNHH, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh,

oNgành nghề kinh doanh của doanh nghiệp;
oTổng sản lượng doanh nghiệp: Vốn tự có, vốn vay;
oChất lượng và giá cả sản phẩm;
oĐịa thế kinh doanh;
oĐội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ lao động của doanh nghiệp;
oTài sản đảm bảo.
1.2.6.2. Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp
Việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp phải đạt được các
mục tiêu chủ yếu là có được đầy đủ các thông tin hữu ích về nguồn vốn chủ sở
hữu, các khoản nợ, kết quả của các quá trình, sự kiện và hoàn cảnh làm biến đổi
các nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp.
oDựa vào các số liệu phản ánh trên bảng cân đối kế toán, xác định và phân
tích kết cấu nguồn vốn qua việc so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn
vốn giữa /cuối kỳ với đầu kỳ để thấy được quy mô vốn mà doanh nghiệp

sử dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn từ các nguồn khác
nhau của doanh nghiệp.
oPhân tích các mối quan hệ giữa các khoản mục của bảng cân đối kế toán
hoặc báo cáo kiểm toán để xác định được doanh nghiệp thuộc trường hợp
“Đi chiếm dụng vốn” (doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn nên sử dụng các
nguồn khác để bù đắp) hoặc “Bị chiếm dụng vốn” (doanh nghiệp bị các
doanh nghiệp hoặc đối tượng khác chiếm dụng vốn).
oXem xét tỷ trọng từng khoản vốn (tài sản) của doanh nghiệp để xác định
mức độ đảm bảo sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
oXác định tỷ suất đầu tư của doanh nghiệp phản ánh tình hình trang bị cơ
sở vật chất kỹ thuật, thể hiện năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu
dài của doanh nghiệp.
oPhân tích cơ cấu nguồn vốn, xác định tỷ suất tự tài trợ nhằm đánh giá
được khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp cũng như mức
độ tự chủ, chủ động trong kinh doanh. Tỷ suất tự tài trợ càng cao thể hiện
khả năng độc lập càng cao về mặt tài chính hay mức độ tài trợ của doanh
nghiệp càng tốt.
oĐánh giá khả năng và tính chắc chắn của các dòng tiền mặt vào ra.
oPhân tích tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.2.6.3. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của
doanh nghiệp
Tình hình công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh
chất lượng công tác tài chính. Khi nguồn bù đắp cho tài sản dự trữ thiếu, doanh
nghiệp đi chiếm dụng vốn, ngược lại khi nguồn bù đắp tài sản dự trữ dư thừa,
doanh nghiệp bị chiếm dụng. Khi phân tích cần phải chỉ ra được những khoản đi
chiếm dụng và bị chiếm dụng hợp lý. Nếu tình hình tài chính tốt, doanh nghiệp
sẽ ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào; ít đi chiếm dụng vốn.
Ngoài ra còn phải chú ý đến một số chỉ tiêu phản ánh tình hình thanh toán
như:
oKhả năng thanh toán hiện thời.

oKhả năng thanh toán nhanh.
oTỷ lệ về khả năng thanh toán so với tài sản lưu động.
oVòng quay các khoản phải thu.
oHệ số vòng quay hàng tồn kho.
oHiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
1.2.6.4. Thẩm định phương diện thị trường
 Thị trường và khách hàng tiêu thụ:
o Đối tượng tiêu thụ sản phẩm
o Các khách hàng chủ yếu
o Nhu cầu hiện tại và dự kiến trong tương lai
 Tình hình cạnh tranh trên thị trường:
o Mức sản xuất, uy tín sở trường hoạt động của các đối thủ cạnh tranh
o Tương lai phát triển của các đối thủ cạnh tranh
1.2.6.5. Đánh giá điều kiện kinh tế nói chung
o Những quy định chính sách của Nhà nước
o Chiến lược phát triển ngành kinh tế trong tương lai
o Vị thế ngành công nghiệp liên quan trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân.
Trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động và luôn thay đổi trên thế giới
hiện nay, mà trong đó có Việt Nam thì việc thẩm định, đánh giá chấm điểm tín
dụng và xếp hạng khách hàng giữ vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ các
nhà đầu tư, đảm bảo cho thị trường hoạt động an toàn và có hiệu quả, giảm bớt
rủi ro kinh doanh cho các ngân hàng khi thực hiện cho vay vốn.
1.3. Các câu hỏi cơ bản trong kỹ thuật chấm điểm tín dụng
Có một yếu tố biến thiên trong mọi đề nghị cho vay: Đó là khách hàng.
Một trong những nhiệm vụ của giám đốc chi nhánh ngân hàng là tìm cách hiểu
nhu cầu khách hàng của mình, nhưng ông ta lại chỉ gặp gỡ khách hàng nào
muốn vay tiền. Để hỗ trợ nhiệm vụ hiểu biết khách hàng, các chi nhánh đều lưu
giữ các phiếu và hồ sơ tham chiếu chứa đựng những chi tiết về khoản vay đã
qua, bảng tóm tắt các cuộc phỏng vấn đã thực hiện, người giám đốc phải tham
khảo các thông tin này trước khi phỏng vấn khách hàng, đồng thời cần phải xem

xét giá trị các tài khoản của đối tượng liên quan gửi tại chi nhánh. Với một
khách hàng cá nhân, cần đặc biệt xem xét liệu các khoản vay trong quá khứ có
hoàn trả đúng thoả thuận hay không. Với khách hàng doanh nghiệp, bên cạnh
việc quan tâm tới lịch sử các tài khoản, người giám đốc cần phải có đủ căn cứ để
tin rằng khách hàng là ngưòi có kinh nghiệm trong công việc, có trình độ quản
lý cần thiết để điều hành doanh nghiệp và tái đầu tư lợi nhuận vào doanh nghiệp.
Phải luôn tìm kiếm một mức độ nhất quán nơi khách hàng và thường xuyên cảnh
giác với những nghi vấn dù nhỏ nhất nơi khách hàng.
Trong danh mục các câu hỏi để chấm điểm tín dụng, tuy nội dung phỏng
vấn nhằm vào các đối tượng riêng biệt, có 4 câu hỏi cơ bản được lưu tâm nhiều
nhất. Đó là:
- Khách hàng muốn vay bao nhiêu?
Bao nhiêu? Ngân hàng cần quan tâm tới vốn tự có của khách hàng và xem
liệu ngân hàng đang được yêu cầu cho vay quá nhiều so với số vốn tự có đó hay
không. Thông thường, nếu khách hàng có sẵn một số tiền hợp lý để đầu tư dự án
thì anh ta sẽ sốt sắng quan tâm sao cho kết quả tốt nhất. Vì vậy, ngân hàng
không nên đầu tư vào một khách hàng kinh doanh hay dự án nhiều hơn mức đầu
tư của khách hàng. Tuy đây không phải là quy tắc cứng nhắc cụ thể, nhưng đó
được hầu hết các chi nhánh ngân hàng tán đồng. Ngân hàng phải xem xét đề
nghị, kiểm tra mọi số liệu cung cấp và cố gắng nhận định xem liệu khoản cho
vay của ngân hàng có thích hợp và đủ để thực hiện dự án hay không. Nếu khoản
cho vay chưa phù hợp thì sau này ngân hàng dễ bị rơi vào tình trạng khó khăn là
phải cho vay để bảo vệ khoản cho vay trước
- Vay để làm gì?
Để làm gì? Tất nhiên, người cho vay có quyền được biết mục đích của
việc xin vay. Mục tiêu của các khoản cho vay cá nhân thường dễ hiểu, nhưng
với các doanh nghiệp thì đề nghị xin vay có thể chỉ là một phần của kế hoạch
phức tạp mà ngân hàng cần tìm hiểu và đánh giá. Ngân hàng phải luôn ghi nhớ
về chất lượn tín dụng và mục đích của khoản vay phải nằm trong các điều kiện
chính sách của bản thân ngân hàng đề ra.

- Vay bao lâu?
Bao lâu? Về ý nghĩa kinh doanh, khi nguồn vốn mà ngân hàng vay của
khách hàng (tiền ký thác, tiền vay, …) phải được hoàn trả đúng hạn thì khoản
cho vay của khách hàng cũng phải được hoàn trả trong thời hạn tương tự. Về
mặt kỹ thuật, mọi khoản cho vay của ngân hàng đều phải được hoàn trả tốt đẹp
khi ngân hàng có yêu cầu. Đây là nguyên tắc kinh doanh tiền tệ của một kinh
doanh tài chánh.
- Trả nợ như thế nào?
Việc hoàn trả mọi khoản vay thường lấy từ thu nhập tương lai của khách
hàng. Để đánh giá đề nghị vay của khách hàng, ngân hàng phải đòi hỏi chi tiết
về thu nhập và chi tiêu thông thường của khách hàng, kể cả các khoản trả dần
hay mua chịu hiện có. Những thông tin này là cần thiết, vị khách hàng thường
xin vay mà không tính toán là mình có trả nợ hay không. Đối với các doanh
nghiệp, tiền trả nợ chỉ có thể lấy từ lợi nhuận trong tương lai. Vì vậy, Ngân hàng
cần được bảo đảm rằng tiền cho vay của ngân hàng sẽ làm tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp, sau khi đã giành ra tiền trả lãi và phí cho khoản vay. Do đó, ngân
hàng phải hỏi khách hàng về kế hoạch tiền mặt và dự kiến tài khoản lỗ lãi và bản
tổng kết tài sản cho năm tới. Ngân hàng sẽ phân tích để biết được khách hàng đó
sẽ dự tính nghiêm túc hay chỉ lập kế hoạch để làm vừa lòng mình.
Trong các câu hỏi trên, chưa câu nào đề cập đến sự bảo đảm cho một
khoản vay. Tuy rằng, mọi đề nghị vay vốn đều phải “tự mình đứng vững”, tức là
phải đủ tốt để không cần đảm bảo nào, nhưng ngân hàng thường yêu cầu khách
hàng cung cấp đảm bảo thích hợp trong trường hợp khoản vay gặp trục trặc. Có
nhiều loại bảo đảm cho một khoản vay ngân hàng, tuy nhiên, có 3 yêu cầu đối
với bất kỳ loại bảo đảm nào để được ngân hàng chấp nhận: a) Dễ được định giá;
b) Dễ cho ngân hàng quyền được sở hữu hợp pháp; c) Dễ tiêu thụ hay thuận lơi.
Cần lưu ý, bảo đảm là một vấn đề phụ. Khi cho vay có tài sản bảo đảm, không
bao giờ nên coi đó là nguồn trả nợ mà chỉ là cái gì đó để dựa vào khi nguồn trả
nợ dự kiến không thành.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng

doanh nghiệp
1.4.1. Yêu cầu về nguồn thông tin
Việc duy trì thông tin tín dụng (TTTD) trong hệ thống NHCV là vô cùng
quan trọng do TTTD tạo lập cơ sở dữ liệu tập trung về khách hàng để phục vụ
cho quá trình cấp tín dụng, phân tích và quản lý tín dụng, quản trị rủi ro tín
dụng. Hệ thống TTTD giúp tìm kiếm và phát hiện sớm các khoản tín dụng có
vấn đề và đánh giá đúng mức độ rủi ro của các khoản nợ, đồng thời tiên liệu
trước khả năng một khoản tín dụng có thể chuyển sang nợ xấu.
Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: Lịch sử hình thành và
phát triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành là cơ sở hết
sức quan trọng giúp cho công tác chấm điểm tín dụng. Nếu hệ thống này không
đầy đủ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng đánh giá, xếp loại khách hàng.
Để áp dụng phương pháp chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp,
Ngân hàng phải có một hệ thống thông tin tín dụng hiệu quả để tự thu thập
thông tin một cách chính xác và đầy đủ về khách hàng. Đây là một nhân tố rất
quan trọng, quyết định đến tính chính xác của kết quả chấm điểm tín dụng. Chất
lượng nguồn thông tin được thể hiện qua bốn yếu tố:
- Đầy đủ và kịp thời:
Theo định kỳ hoặc khi có phát sinh, mọi TTTD về khách hàng phải được
thu thập, ghi chép và xử lý kịp thời để phản ánh chính xác mức độ rủi ro và năng
lực của khách hàng trong việc thực hiện các nghĩa vụ với NHCV, đồng thời giúp
NHCV có quyết định điều chỉnh đúng đắn đối với hoạt động tín dụng cung cấp
cho khách hàng. Thông tin về mọi khách hàng có quan hệ tiền gửi và vay tiền
với NHCV hoặc những khách hàng chưa từng có quan hệ với NHCV nhưng là
những doanh nghiệp lớn, có uy tín trên thị trường đều phải được ghi chép, lưu
trữ.
- Trung thực, khách quan:
TTTD phải được thu thập từ các nguồn cung cấp có cơ sở pháp lý hoặc cơ
sở thực tiễn để đảm bảo tính trung thực và khách quan. Mọi thông tin có được từ
các nguồn không hợp lệ chỉ sử dụng cho mục đích tham khảo.

- Nhất quán:
TTTD phải được tập hợp, cập nhật, theo dõi liên tục theo thời gian, ít nhất
cho tới khi khách hàng chấm dứt quan hệ với NHCV.
- Bảo mật:
TTTD phải được lưu trữ, quản lý theo chế độ bảo mật như tài sản riêng có
của NHCV; sử dụng an toàn, bí mật, không gây ảnh hưởng đến nguồn cung cấp
thông tin và không cung cấp cho bên thứ 3.
1.4.2. Đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn
Chấm điểm tín dụng là một mô hình mới được áp dụng tại Việt Nam, các
tiêu chí và quy trình đánh giá được đưa ra phụ thuộc rất lớn vào các chuyên gia
có kinh nghiệm, khả năng phân tích và hiểu biết sâu sắc trong lĩnh vực tín dụng.
Ngân hàng muốn hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng ngoài các cán bộ cao
cấp trong nội bộ còn nên lắng nghe ý kiến tư vấn của các chuyên gia có kinh
nghiệm trong việc phát triển mô hình.
1.4.3. Trình độ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng
Hệ thống công nghệ của ngân hàng phải đủ hiện đại có thể kết hợp phần
mềm chấm điểm tín dụng và tạo thành một quy trình cho vay và kiểm soát tín
dụng thống nhất Áp dụng công nghệ thông tin vào hệ thống chấm điểm tín dụng
và xếp hạng khách hàng làm tăng chất lượng lưu trữ, cập nhật và đảm bảo tính
bảo mật của thông tin. Công nghệ ngân hàng còn giúp cho hệ thống chấm điểm
tín dụng thực hiện nhanh và chính xác hơn. Đây là vấn đề không thể thiếu khi
Ngân hàng muốn xây dựng được một hệ thống chấm điểm hoàn chỉnh, chuẩn
xác và hướng tới tiêu chuẩn quốc tế.
1.4.4. Năng lực và trình độ của cán bộ tín dụng
Cán bộ chấm điểm tín dụng là người trực tiếp tiến hành thực hiện các
bước trong quy trình chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp.Kết quả đó
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng. Cán
bộ tín dụng phải là người hiểu biết sâu rộng quy trình chấm điểm tín dụng, phải
thực sự có năng lực để có thể đánh giá được một cách khách quan nhất về khách
hàng.

1.4.5. Những thay đổi trong cơ cấu, thủ tục, chính sách
Trước khi áp dụng mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng,
Ngân hàng phải xây dựng quy trình chấm điểm tín dụng bao gồm: các bước thực
hiện chấm điểm, các chỉ tiêu, hệ thống tiêu chuẩn phục vụ cho quá trình chấm
điểm, xếp hạng doanh nghiệp, … Hệ thống chấm điểm tín dụng càng chi tiết,
khoa học thì việc đánh giá các doanh nghiệp càng chính xác. Ngoài ra, khi mô
hình chấm điểm tín dụng được triển khai, Ngân hàng sẽ ban hành các chính
sách, thủ tục, quy chế cho vay mới để hợp thức hóa vai trò của công tác chấm
điểm tín dụng trong quy trình cho vay, đồng thời thành lập một ban kiểm tra độc
lập nhằm theo dõi, giám sát những sai sót khi mô hình được đưa vào áp dụng.
Chấm điểm tín dụng là một mô hình hiện đại và rất hiệu quả trong lĩnh
vực quản lý rủi ro, tuy nhiên, để áp dụng tốt hệ thống này, Ngân hàng sẽ phải
đầu tư rất nhiều thời gian, tiền và công sức để đạt được kết quả tốt nhất.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG KHÁCH HÀNG
DOANH NGHIỆP TẠI SỞ GIAO DỊCH I – NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu về Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam có trụ sở chính tại số
10, đường Lê Lai, Hà Nội, có tên giao dịch quốc tế là Industrial and Comercial
Bank of Viet Nam – Transaction Office No.1, được thành lập theo quyết định số
83/NHCT-QĐ CTHĐQT vào ngày 30/3/1995.
Ngày 30/12/1998, Chủ tịch HĐQT NHCTVN ký quyết định số 134/QĐ-
HĐQT-NHCT1 sắp xếp tổ chức hoạt động Sở giao dịch I - Ngân hàng công
thương Việt Nam theo điều lệ tổ chức và hoạt động của NHCTVN.
Ngày 20/10/2003, Chủ tịch Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam ban hành
quyết định số 153/QĐ-HĐQT về mô hình tổ chức mới của Sở giao dịch I theo
Dự án hiện đại hóa Ngân hàng và công nghệ thanh toán do Ngân hàng Thế giới
(WB) tài trợ.

Theo điều lệ của NHCT Việt Nam, Sở giao dịch I là đại diện ủy quyền
của NHCT Việt Nam, có quyền tự chủ trong kinh doanh, chịu sự ràng buộc về
nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHCT Việt Nam. Sở giao dịch I có con dấu và mở
tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác.
2.1.2. Tình hình hoạt động của Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt
Nam trong thời gian qua
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, NHCT Việt Nam và Sở
giao dịch I nói riêng đã có những bước phát triển khả quan, đạt và vượt chỉ tiêu
kế hoạch về tín dụng, huy động vốn, lợi nhuận, trích lập dự phòng rủi ro. Trong
nhiều năm qua, sở giao dịch I luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống
NHCT Việt Nam Điều này được thể hiện trong một số chỉ tiêu cơ bản:
- Là đơn vị đứng đầu về tỷ lệ huy động vống trong toàn hệ thống Công
thương, lợi nhuận trung bình trong 3 năm gần đây đạt trên 300 tỷ đồng.
- Dư nợ và đầu tư luôn dẫn đầu trong cả hệ thống.
- Sở giao dịch I luôn là nơi được chọn thực hiện thí điểm các sản phẩm
dịch vụ mới của NHCT Việt Nam. Đây là đầu mối cho các chi nhánh NHCT
trên địa bàn để triển khai các chương trình do NHCT Việt Nam phát động.
Sau đây, chúng ta cùng điểm qua bảng tổng kết kết quả hoạt động của Sở
giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam trong 3 năm gần đây (2005 –
2007).
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu 2005
200
6 2007
Lợi nhuận hạch toán nội bộ 347,5 343 331,5
Tổng dư nợ cho vay 2.788 2.777 3.100
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của SGD I - NHCT VN)
Nhìn vào bảng tổng kết hoạt động của Sở giao dịch I trong ba năm dễ thấy
tuy Tổng dư nợ cho vay tăng nhưng lợi nhuận lại giảm từ 347,5 tỷ đồng năm
2005 xuống còn 343 tỷ đồng năm 2006 và 331,5 tỷ đồng năm 2007. Điều này

được lý giải do đặc trưng của Sở giao dịch I: Lợi nhuận chủ yếu thu từ lãi điều
hoà vốn.
Như chúng ta đã biết, nguồn vốn huy động của Sở giao dịch I - Ngân hàng
công thương Việt Nam rất cao, đây là đơn vị có nguồn vốn huy động lớn nhất
trong toàn hệ thống NHCT Việt Nam, ngoài việc đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho
hoạt động của chính chi nhánh còn có khả năng điều chuyển vốn đáng kể về Hội
sở chính NHCT Việt Nam để điều hòa lại cho các chi nhánh thiếu vốn. Thông
qua điều hoà vốn, Sở giao dịch I sẽ hưởng lãi từ hoạt động đó, gọi là lãi điều hoà
vốn và đây là nguồn thu nhập chính cho Sở.
Hiện nay, nguồn vốn huy động càng ngày càng khó khăn do rất nhiều
nguyên nhân như: do thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, các doanh nghiệp
giảm tiền gửi của mình để chuyển sang sử dụng cho đầu tư, kinh doanh; Thị
trường chứng khoán đang sụt giảm, giá cổ phiếu trên thị trường OTC xuống
thấp, hàng loạt nhà đầu tư thua lỗ, tiền gửi của các nhà đầu tư tại Ngân hàng
cũng giảm theo và làm giảm số dư tiền gửi của công ty chứng khoán tại các
ngân hàng thương mại; … Ngoài ra, tại Sở giao dịch I, nhiều khách hàng chuyển
từ tiền gửi không kỳ hạn sang tiền gửi có kỳ hạn. Tất cả các nguyên nhân đó làm
chênh lệch lãi điều hoà vốn ngày càng giảm đi, làm giảm lợi nhuận của Ngân
hàng.
Tuy lợi nhuận Ngân hàng giảm trong ba năm qua (từ 2005 đến 2007)
nhưng lợi nhuận cuối năm luôn vượt kế hoạch đề ra. Trong 3 năm qua, hoạt
động của Sở giao dịch I đạt kết quả tốt. Trong đó, tổng nguốn vốn huy động
cuối năm 2007 nguồn vốn huy động đạt 16.718 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 11%
trên tồng nguồn vốn của toàn hệ thống NHCT; Dư nợ cho vay và đầu tư đến
31/12/2007 đạt 4.360 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2005 và đạt tốc độ tăng
bình quân hàng năm trên 10% ; đồng thời các hoạt động dịch vụ khác cũng được
Sở đẩy mạnh phát triển toàn diện với nhiều sản phẩm như: Cho thuê két sắt, kiều
hối, Eden, dịch vụ du học trọn gói, dịch vụ điện tử qua mạng, dịch vụ thẻ, giải
ngân các dự án ODA, …Doanh số hoạt động thanh toán năm 2007 đạt 716.000
tỷ đồng, bình quân hàng năm tăng 19%, doanh số thanh toán XNK 2007 đạt 297

triệu USD, bình quân hàng năm tăng 26%.
2.2. Quy trình công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh
nghiệp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam
2.2.1. Thu thập thông tin
Người thực hiện: Cán bộ chấm điểm tín dụng
Sau khi nhận được hồ sơ thông tin khách hàng, tiến hành điều tra, thu
thập, xác minh và sàng lọc để tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án
sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư từ các nguồn:
- Hồ sơ do khách hàng cung cấp: Giấy tờ pháp lý, các báo cáo tài chính và
các tài liệu khác.
- Đi phỏng vấn trực tiếp khách hàng
- Đi thăm thực địa khách hàng
- Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác
- Báo cáo nghiên cứu thị trường của các tổ chức chuyên nghiệp
- Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN Việt Nam.
- Các nguồn khác.
Hiện nay, Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam đang lấy
thông tin từ các nguồn: Hồ sơ do khách hàng cung cấp; Đi phỏng vấn trực tiếp
khách hàng; Đi thăm thực địa khách hàng và thông tin từ trung tâm tín dụng của
NHNN Việt Nam.
Cách thức thu thập thông tin, danh mục câu hỏi điều tra được hướng dẫn
chi tiết tại phụ lục QT.35.02/PL01 (Phụ lục được trình bày ở cuối chuyên đề).
Trường hợp khách hàng có bảo lãnh toàn phần (lớn hơn hoặc bằng 100%
giá trị khoản tín dụng) của một tổ chức có năng lực tài chính mạnh hơn, thì có
thể sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng của bên bảo lãnh để xác định hạng tín
dụng của khách hàng (nếu bên bảo lãnh cũng được Ngân hàng cho vay chấm
điểm), đưa vào kết quả chấm điểm xếp hạng (bước 6).
2.2.2. Xác định ngành nghề lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Người thực hiện: Cán bộ chấm điểm tín dụng
Căn cứ vào ngành nghề /lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính đăng ký trên

giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp, xác định ngành nghề
/lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm:
- Nông, lâm và ngư nghiệp
- Thương mại và dịch vụ
- Xây dựng
- Công nghiệp
Trường hợp doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề thì căn cứ vào ngành
nghề /lĩnh vực nào đem lại tỷ trọng doanh thu lớn nhất cho doanh nghiệp.
CBCĐTD tiến hành phân loại doanh nghiệp theo hướng dẫn trong bảng
sau:
Nông, lâm,
ngư nghiệp
- Chăn nuôi
Trồng trọt: cây lương thực, hoa màu, cây ăn quả, cây công
nghiệp, …
- Trồng rừng
- Khai thác lâm sản
- Đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản
- Làm muối
Thương mại,
dịch vụ
- Cảng sông, biển
- Khách sạn, nhà hàng, giải trí, du lịch
- Siêu thị, đại lý phân phối, kinh doanh bán buôn, bán lẻ các
loại nông sản, lâm sản, thủy hải sản, thực phẩm, rượu bia, nước
giải khát, thuốc lá, dược phẩm, thiết bị y tế, mỹ phẩm, văn hóa
phẩm, vật liệu xây dựng, hàng điện tử, máy móc, phương tiện
giao thông vận tải, hóa chất (bao gồm cả phân bón, thuốc trừ
sâu), hàng tiêu dùng, hàng mỹ thuật, mỹ nghệ, điện, khí đốt.
- In ấn, xuất bản sách, báo chí

- Sửa chữa nhà cửa, các loại máy móc, phương tiện giao thông
- Chăm sóc sức khỏe, làm đẹp
- Tư vấn, môi giới
- Thiết kế thời trang, gia công may mặc
- Bưu chính viễn thông
- Vận tải đường bộ, đường sông, đường biển, đường sắt, hàng
không
- Vệ sinh môi trường, văn phòng, …
Xây dựng - Hạ tầng giao thông, khu công nghiệp
- Hạ tầng đô thị và nhà ở
- Xây lắp (xây dựng cơ bản)
Công nghiệp - Chế biến các loại nông sản, lâm sản, thủy hải sản, thực phẩm,
rượu bia, nước giải khát
- Sản xuất thuốc lá, dược phẩm, thiết bị y tế, mỹ phẩm, văn hóa
phẩm, vật liệu xây dựng, hóa chất (bao gồm cả phân bón, thuốc
trừ sâu), hàng tiêu dùng, hàng mỹ thuật, mỹ nghệ, nguyên vật
liệu cho các ngành khác.
- Sản xuất, lắp ráp hàng điện tử, máy móc, phương tiện giao
thông vận tải
- Sản xuất điện, khí đốt
- Khai thác khoáng sản
- Khai thác than, vật liệu xây dựng (cát, đá, …), dầu khí.
2.2.3. Chấm điểm và xác định quy mô của doanh nghiệp
Người thực hiện: Cán bộ chấm điểm tín dụng
Các tiêu chí sử dụng để chấm điểm và xác định quy mô doanh nghiệp
gồm: nguồn vốn kinh doanh, lao động, doanh thu thuần và giá trị nộp Ngân sách
Nhà nước.
Trong đó:
- Lao động: Là số lao động thực tế sử dụng (được nêu tại thuyết minh báo
cáo tài chính) tính bình quân trong 3 năm gần nhất.

- Giá trị nộp NSNN: Lấy theo số thực nộp vào NSNN phát sinh trong kỳ
(không kể số thiếu của kỳ trước nộp kỳ này) bao gồm các loại thuế và các khoản
nộp khác theo quy định của Nhà nước trong năm báo cáo (không tính các khoản
thuế xuất nhập khẩu, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn,
các khoản tiền phạt, phụ thu).
Tiến hành chấm điểm quy mô doanh nghiệp theo hướng dẫn trong bảng
sau: tại phụ lục QT.35.02/PL03.

×