Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

một số giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính tại bệnh viện bạch mai trong cơ chế tài chính mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.55 KB, 71 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian dài trước đây chúng ta quan niệm y tế, giáo dục … là các
lĩnh vực “ phi sản xuất vật chất”, có nghĩa đối lập với lĩnh vực sản xuất vật chất
như nông nghiệp, công nghiệp. Chính quan điểm sai lầm này đã kéo theo sự đầu
tư thấp vì xem như đầu tư vào các lĩnh vực này là tiêu tốn nguồn lực của Nhà
nước mà không sáng tạo ra giá trị và giá trị sử dụng. Các bệnh viện, cơ sở y tế
chỉ đơn thuần là cơ quan hành chính sự nghiệp thu đủ, chi đủ.
Chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đã có những thay đổi căn bản
trong nhận thức, quan điểm về ngành y tế. Ngành y tế được coi là một ngành
trong hệ thống kinh tế quốc dân và thuộc nhóm ngành dịch vụ phục vụ các nhu
cầu có tính chất phúc lợi xã hội. Nói cách khác, ngành y tế có đóng góp vào
GDP của đất nước. Đầu tư cho y tế không phải là tiêu phí mà là đầu tư cơ bản,
đầu tư cho phát triển. Theo quan điểm mới, bệnh viện là một đơn vị kinh tế dịch
vụ nhưng khác với các đơn vị kinh doanh dịch vụ bởi hoạt động cung cấp dịch
vụ của bệnh viện không đặt mục tiêu lợi nhuận làm mục tiêu quan trọng nhất.
Đơn vị kinh tế dịch vụ thông qua các hoạt động dịch vụ của mình để có thu nhập
và tích cực hoạt động không vì doanh lợi.
Xuất phát từ quan niệm mới trên, Đảng và Nhà nước ta đã có những thay
đổi căn bản trong cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu
trong chương trình nghị sự cải cách tài chính công. Đó là:
Thứ nhất, thay cho việc cấp kinh phí theo số lượng biên chế như hiện nay
bằng việc tính toán kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng
vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu cho đơn giản hơn, tăng
quyền chủ động cho đơn vị sử dụng ngân sách.
Thứ hai, xoá bỏ cơ chế cấp phát theo kiểu “ Xin- Cho”, thực hiện chế độ
tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp trên cơ sở xác định nhiệm vụ phải thực
hiện, mức hỗ trợ tài chính từ ngân sách và phần còn lại do đơn vị tự trang trải.
1
1
Thứ ba, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển trong


các lĩnh vực giáo dục, y tế . Khuyến khích liên doanh và đầu tư trực tiếp của
nước ngoài vào lĩnh vực này.
Thực tế trên đòi hỏi quản lý tài chính trong bệnh viện vừa phải đảm bảo
các mục tiêu tài chính vừa đảm bảo tính hiệu quả, công bằng trong chăm sóc sức
khoẻ. Quản lý tài chính bệnh viện trở thành chìa khoá quyết định sự thành công
hay thất bại trong việc quản lý bệnh viện; quyết định sự tụt hậu cũng như phát
triển của bệnh viện.
Đề tài “Một số giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính tại Bệnh viện
Bạch Mai trong cơ chế tài chính mới” được lựa chọn nghiên cứu nhằm tìm ra
hướng thực hiện hữu hiệu hoạt động tài chính bệnh viện tại Bệnh viện Bạch Mai
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn này.
2. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quản lý tài chính
bệnh viện và thực tiễn hoạt động tài chính tại Bệnh viện Bạch Mai nhằm:
* Đưa ra bức tranh toàn cảnh về tình hình khai thác và sử dụng các nguồn
tài chính tại Bệnh viện Bạch Mai.
* Chỉ ra ưu, nhược điểm, những khó khăn cũng như thuận lợi trong việc
quản lý tài chính tại Bệnh viện Bạch Mai.
* Đề xuất một số giải pháp theo hướng vừa đảm bảo mục tiêu tài chính
vừa đảm bảo mục tiêu kinh tế- xã hội của bệnh viện: tăng vốn chính đáng và chi
hữu hiệu nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Bệnh viện Bạch Mai
trong cơ chế tài chính mới.
2
2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Về nội dung: đề cập chủ yếu tới việc khai thác và sử dụng các nguồn tài
chính của bệnh viện công.
Về không gian: tình hình khai thác và sử dụng nguồn tài chính tại Bệnh
viện Bạch Mai.
Về thời gian: Từ năm 1998 đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu tài liệu, quan sát phân tích hoạt động quản lý tài
chính theo cách tiếp cận hệ thống, cách tiếp cận định tính và định lượng và cách
tiếp cận lịch sử, logic để thu thập thông tin. Đồng thời luận văn sử dụng kỹ thuật
thống kê, tổng hợp, phân tích, sơ đồ, biều đồ, đồ thị, bảng biểu để phân tích xử
lý số liệu.
Ngoài ra thông qua việc phân tích, xử lý thông tin, trên cơ sở tham khảo ý
kiến của các nhà khoa học kinh tế, các nhà quản lý tài chính trong ngành y tế và
kiến thức của bản thân để đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài
chính tại Bệnh viện Bạch Mai.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý tài chính bệnh viện
Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính tại Bệnh viện Bạch Mai
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại
Bệnh viện Bạch Mai.
3
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH BỆNH
VIỆN
1.1. QUẢN LÝ TÀI CHÍNH BỆNH VIỆN
Quản lý tài chính bệnh viện theo nghĩa rộng là sự tác động liên tục có
hướng đích, có tổ chức của các nhà quản lý bệnh viện lên đối tượng và quá trình
hoạt động tài chính của bệnh viện nhằm xác định nguồn thu và các khoản chi,
tiến hành thu chi theo đúng pháp luật, đúng các nguyên tắc của Nhà nước về tài
chính, đảm bảo kinh phí cho mọi hoạt động của bệnh viện.
Ở Việt Nam, quản lý tài chính bệnh viện là một nội dung của chính sách
kinh tế- tài chính y tế do Bộ Y tế chủ trương với trọng tâm là sử dụng các nguồn

lực đầu tư cho ngành y tế để cung cấp các dịch vụ y tế một cách hiệu quả và
công bằng. Tính hiệu quả chú trọng đến trình độ trang thiết bị kỹ thuật, phương
pháp phân phối nguồn lực, hiệu lực quản lý hành chính và chất lượng dịch vụ y
tế cung cấp cho nhân dân. Tính công bằng đòi hỏi cung cấp dịch vụ y tế bằng
nhau cho những người có mức độ bệnh tật như nhau, thoả mãn nhu cầu khám
chữa bệnh của mọi người khi ốm đau theo một mặt bằng chi phí nhất định không
mà không đòi hỏi khả năng chi trả của người bệnh là điều kiện tiên quyết.
Do vậy, quản lý tài chính trong bệnh viện ở Việt Nam được định nghĩa là
việc quản lý toàn bộ các nguồn vốn, tài sản, vật tư của bệnh viện để phục vụ
nhiệm vụ khám chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Quản lý tài chính trong bệnh viện của Việt Nam gồm
• Sử dụng, quản lý các nguồn kinh phí Ngân sách Nhà nước cấp và các
nguồn được coi là Ngân sách Nhà nước cấp như viện phí, bảo hiểm y tế, viện
trợ… theo đúng quy định của Nhà nước.
• Tăng nguồn thu hợp pháp, cân đối thu chi, sử dụng các khoản chi có
hiệu quả, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm.
• Thực hiện chính sách ưu đãi và đảm bảo công bằng về khám, chữa
bệnh cho các đối tượng ưu đãi xã hội và người nghèo.
4
4
• Từng bước tiến tới hạch toán chi phí và giá thành khám chữa bệnh.
Mục tiêu của quản lý tài chính trong bệnh viện
Hiệu quả thực hiện của tài chính kế toán là mục tiêu quan trọng của quản
lý tài chính bệnh viện. Các yếu tố của mục tiêu này bao gồm:
• Duy trì cán cân thu chi: đây là điều kiện tiên quyết và bắt buộc của
quản lý tài chính bệnh viện và cũng là tiêu chuẩn cho sự thành công trong cơ chế
quản lý mới – tiến tới hạch toán chi phí.
• Bệnh viện phải cải thiện chất lượng thông qua một số chỉ tiêu chuyên
môn như: tỉ lệ tử vong, …
• Nhân viên hài lòng với bệnh viện: đời sống cán bộ công nhân viên

được cải thiện, cải thiện phương tiện làm việc, xây dựng văn hóa Bệnh viện.
• Bệnh viện phát triển cơ sở vật chất, phát triển các chuyên khoa.
• Công bằng y tế: chất lượng phục vụ như nhau cho toàn bộ các đối
tượng
Như vậy, quản lý tài chính bệnh viện phải đáp ứng cùng lúc bốn đối tác:
Bệnh nhân, nhân viên trong bệnh viện, Ban Giám đốc bệnh viện và Nhà nước.
Đó là:
• Với bệnh nhân: chất lượng chăm sóc và công bằng y tế
• Với nhân viên: được hài lòng do đời sống được cải thiện.
• Yêu cầu của Ban giám đốc: hoàn thành trách nhiệm thực hiện cán
cân thu chi.
5
5
Y TẾ NHÀ NƯỚC
4. Phát triển BV
BAN GIÁM ĐỐC BỆNH VIỆN
1.Cán cân thu chi
BỆNH NHÂN
2. Chất lượng 5. Công bằng y tế
NHÂN VIÊN B. VIỆN
3. Được hài lòng
• Y tế Nhà nước : phát triển bệnh viện.
Nhìn chung trong điều kiện kinh tế nước ta như hiện nay, mục tiêu của
quản lý tài chính bệnh viện phải cùng lúc đạt được năm mục tiêu trên. Tuy nhiên
ở một số vùng sâu, vùng xa, gặp nhiều khó khăn thì phải sắp xếp thứ tự của ưu
tiên nào cần phấn đấu trước.
1.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH BỆNH VIỆN
Quy trình quản lý tài chính trong bệnh viện ở Việt Nam gồm 4 bước:
• Lập dự toán thu chi.
• Thực hiện dự toán.

• Quyết toán.
• Thanh tra, kiểm tra, đánh giá.
1.2.1. Lập dự toán thu chi
Lập dự toán thu chi các nguồn kinh phí của bệnh viện là thông qua các
nghiệp vụ tài chính để cụ thể hoá định hướng phát triển, kế hoạch hoạt động
ngắn hạn của bệnh viện, trên cơ sở tăng nguồn thu hợp pháp và vững chắc, đảm
bảo được hoạt động thường xuyên của bệnh viện, đồng thời từng bước củng cố
và nâng cấp cơ sở vật chất của bệnh viện, tập trung đầu tư đúng mục tiêu ưu tiên
nhằm đạt hiệu quả cao, hạn chế tối đa lãng phí và tiêu cực, từng bước tính công
bằng trong sử dụng các nguồn đầu tư cho bệnh viện.
Khi xây dựng dự toán thu chi của bệnh viện cần căn cứ vào:
- Phương hướng nhiệm vụ của đơn vị
- Chỉ tiêu, kế hoạch có thể thực hiện được
- Kinh nghiệm thực hiện các năm trước
- Khả năng ngân sách nhà nước cho phép
- Khả năng cấp vật tư của Nhà nước và của thị trường
- Khả năng tổ chức quản lý và kỹ thuật của đơn vị
Các nguồn tài chính của bệnh viện
Ngân sách nhà nước cấp ( Bao cấp công cộng)
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về ngân sách Nhà nước cấp cho bệnh
viện ở Việt Nam. Nhìn chung, các nguồn đầu tư kinh phí cho bệnh viện thông
6
6
qua kênh phân bổ của Chính phủ được coi là NSNN cấp cho bệnh viện. Theo
đó, ngân sách cho bệnh viện có thể bao gồm chi sự nghiệp và đầu tư xây dựng
cơ bản từ NSNN, chi từ bảo hiểm y tế, thu viện phí và viện trợ nước ngoài…
Tuy nhiên, nguồn NSNN cấp cho bệnh viện ở đây được định nghĩa là khoản chi
cho bệnh viện từ NSNN cấp cho sự nghiệp y tế, cân đối từ nguồn thuế trực thu
và thuế gián thu. Bao gồm các khoản chi đầu tư, chi vận hành hệ thống.
Đối với các nước đang phát triển, nguồn NSNN cấp là nguồn tài chính

quan trọng nhất cho hoạt động của bệnh viện. Ở Việt Nam, cho đến nay, hàng
năm các bệnh viện công nhận được một khoản kinh phí được cấp từ ngân sách
của Chính phủ căn cứ theo định mức tính cho một đầu giường bệnh/năm nhân
với số giường bệnh kế hoạch của bệnh viện. Số kinh phí này thường đáp ứng
được từ 30 đến 50% nhu cầu chi tiêu tối thiểu của bệnh viện.
Nguồn thu viện phí và bảo hiểm y tế
Theo quy định của Bộ Tài chính nước ta, nguồn thu viện phí và bảo hiểm
y tế là một phần ngân sách sự nghiệp y tế của Nhà nước giao cho bệnh viện quản
lý và sử dụng để đảm bảo chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Nguồn
thu viện phí và bảo hiểm y tế thường đảm bảo được từ 20-30% nhu cầu chi tiêu
tối thiểu của các bệnh viện công.
Tuy nhiên cho đến nay ở nước ta, các cơ sở khám, chữa bệnh trong hệ
thống y tế Nhà nước chỉ được phép thu một phần viện phí. Một phần viện phí là
một phần trong tổng chi phí cho việc khám chữa bệnh. Một phần viện phí chỉ
tính tiền thuốc, dịch truyền, máu, hoá chất, xét nghiệm, phim X quang, vật tư
tiêu hao thiết yếu và dịch vụ khám chữa bệnh; không tính khấu hao tài sản cố
định, chi phí hành chính, đào tạo, nghiên cứu khoa học, đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất và trang thiết bị lớn.
Hiện nay, giá viện phí do Chính quyền cấp tỉnh của từng địa phương quy
định dựa trên một khung giá tối đa- tối thiểu đã được Bộ Y tế và Bộ Tài chính
phê duyệt. Đối với người bệnh ngoại trú, biểu giá thu viện phí được tính theo lần
khám bệnh và các dịch vụ kỹ thuật mà người bệnh trực tiếp sử dụng. Đối với
người bệnh nội trú, biểu giá thu một phần viện phí được tính theo ngày giường
7
7
nội trú của từng chuyên khoa theo phân hạng bệnh viện và các khoản chi phí
thực tế sử dụng trực tiếp cho người bệnh. Đối với khám chữa bệnh theo yêu cầu
thì mức thu được tính trên cơ sở mức đầu tư của bệnh viện và cũng phải được
cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với người có thẻ Bảo hiểm y tế thì cơ quan
bảo hiểm thanh toán viện phí của bệnh nhân cho bệnh viện. Tuy nhiên ở Việt

Nam mới chỉ phổ biến loại hình bảo hiểm y tế bắt buộc áp dụng cho các đối
tượng công nhân viên chức làm công ăn lương trong các cơ quan Nhà nước và
các doanh nghiệp. Các loại hình bảo hiểm khác chưa được triển khai một cách
phổ biến.
Hiện nay, với chủ trương xã hội hoá các hoạt động chăm sóc sức khoẻ của
Đảng và Nhà nước, các loại hình bệnh viện và cơ sở y tế bán công ngoài công
lập ra đời với cơ chế tài chính chủ yếu dựa vào nguồn thu viện phí và bảo hiểm
y tế.
Nguồn viện trợ và các nguồn thu khác
Nguồn viện trợ và các nguồn thu khác cũng được Chính phủ Việt Nam
quy định là một phần ngân sách của Nhà nước giao cho bệnh viện quản lý và sử
dụng. Tuy nhiên bệnh viện thường phải chi tiêu theo định hướng những nội
dung đã định từ phía nhà tài trợ. Nguồn kinh phí này đáp ứng khoảng 20-30%
chi tối thiểu của bệnh viện.
Chi
Nhóm I: Chi cho con người
Bao gồm các khoản chi về lương, phụ cấp lương ( được tính theo chế độ
hiện hành, kể cả nâng bậc lương hàng năm trong từng đơn vị hành chính sự
nghiệp) và các khoản phải nộp theo lương : bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội. Đây
là khoản bù đắp hao phí sức lao động, đảm bảo duy trì quá trình tái sản xuất sức
lao động cho bác sỹ, y tá, cán bộ công nhân viên của bệnh viện. Theo quy định
trước đây, nhóm này tương đối ổn định, chiếm khoảng 20% tổng kinh phí và chỉ
thay đổi nếu biên chế được phép thay đổi.
Nhóm II: Chi quản lý hành chính
8
8
Bao gồm các khoản chi: tiền điện, tiền nước, văn phòng phẩm, thông tin
liên lạc, hội nghị, khánh tiết, xăng xe…. Nhóm này mang tính gián tiếp nhằm
duy trì sự hoạt động của bộ máy quản lý của bệnh viện. Do vậy, các khoản chi
này đòi hỏi phải chi đúng, chi đủ, kịp thời và cần sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả.

Tỷ lệ nhóm chi này nên nằm trong khoảng từ 10-15% tổng kinh phí.
Trước đây nhóm chi này bị khống chế bởi quy định của Nhà nước với
định mức chi nhìn chung rất hạn hẹp và bất hợp lý. Tuy nhiên, trong cơ chế mới
đơn vị chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định mức và chế độ chi tiêu nội bộ căn cứ
trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật và chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của
Nhà nước để đảm bảo hoạt động thường xuyên cho phù hợp với hoạt động đặc
thù của bệnh viện, đồng thời tăng cường công tác quản lý, sử dụng tiết kiệm, có
hiệu quả trong phạm vi nguồn tài chính của mình.
Cùng với việc chủ động đưa ra định mức chi, đơn vị cần xây dựng chính
sách tiết kiệm và quản lý chặt chẽ các khoản chi tiêu. Quản lý tốt nhóm này sẽ
tạo điều kiện tiết kiệm, tăng thêm kinh phí cho các nhóm khác.
Nhóm III: Chi nghiệp vụ chuyên môn
Bao gồm chi mua hàng hoá, vật tư dùng cho công tác điều trị và khám
bệnh; trang thiết bị kỹ thuật; sách, tài liệu chuyên môn y tế…. Nhóm này phụ
thuộc vào cơ sở vật chất và quy mô hoạt động của bệnh viện. Có thể nói đây là
nhóm quan trọng, chiếm 50% tổng số kinh phí và đòi hỏi nhiều công sức về
quản lý. Đây là nhóm thiết yếu nhất, thực hiện theo yêu cầu thực tế nên Nhà
nước ít khống chế việc sử dụng kinh phí nhóm này. Nhóm chi nghiệp vụ chuyên
môn có liên hệ chặt chẽ với chất lượng săn sóc bệnh nhân và mục tiêu phát triển
bệnh viện.
Vấn đề đặt ra trong việc quản lý nhóm chi này là do những quy định
không quá khắt khe đòi hỏi các nhà quản lý phải biết sử dụng đúng mức và thích
hợp, tránh làm mất cân đối thu chi đặc biệt là thuốc nhưng vẫn giữ dược chất
lượng điều trị và nhất là tiết kiệm được kinh phí, tránh lãng phí: chi thuốc không
quá 50% nhóm chi chuyên môn.
Nhóm IV: Chi mua sắm, sửa chữa tài sản cố định
9
9
Hàng năm do nhu cầu hoạt động, do sự xuống cấp tất yếu của tài sản cố
định dùng cho hoạt động chuyên môn cũng như quản lý nên thường phát sinh

nhu cầu kinh phí để mua sắm, trang bị thêm hoặc phục hồi giá trị sử dụng cho
những tài sản cố định đã xuống cấp. Có thể nói đây là nhóm chi mà các bệnh
viện đều quan tâm vì nhóm này có thể làm thay đổi bộ mặt của bệnh viện và
thay đổi công nghệ chăm sóc bệnh nhân theo hướng phát triển từng giai đoạn.
Tỷ lệ chi nhóm này nên ở mức trên 20% với bốn mục tiêu chính:
- Duy trì và phát triển cơ sơ vật chất
- Duy trì và phát triển tiện nghi làm việc
- Duy trì và phát triển trang thiết bị
- Duy trì và phát triển kiến thức, kỹ năng nhân viên
* Về sửa chữa
Nhìn chung các bệnh viện của Việt Nam đều xuống cấp và đòi hỏi phải
sửa chữa, nâng cấp, mở rộng đặc biệt là trong tình trạng quá tải bệnh nhân như
hiện nay. Nhưng đây là nhóm được quy định rất chặt chẽ trong từng phần vụ:
sửa chữa nhỏ và sửa chữa lớn. Vấn đề đặt ra là phải sửa chữa đúng mức, đầy đủ,
đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh; đòi hỏi phát huy năng lực quản lý trong nhóm chi
này nhằm bảo toàn trị giá vốn trong sửa chữa để có kết quả tốt trong việc sử
dụng hiệu quả nguồn vốn bỏ ra.
* Về việc mua sắm tài sản cố định
Bao gồm tiện nghi làm việc và trang thiết bị phục vụ chuyên môn. Do tác
động của cách mạng khoa học kỹ thuật, trang thiết bị cho khám chữa bệnh trong
bệnh viện càng hiện đại, sử dụng kỹ thuật ngày càng cao. Nhưng hầu hết các
trang thiết bị này được sản xuất ở nước ngoài, giá cả tương đối cao. Vấn đề đặt
ra là việc mua sắm phải tính đến giá cả/ hiệu quả. “ Liệu cơm gắp mắm” là
phương châm mua sắm trang thiết bị cho các bệnh viện. Việc mua sắm phải tuân
thủ theo các quy định của Nhà nước đồng thời bệnh viện phải có chiến lược
quản lý và sử dụng công nghệ để đạt hiệu quả.
1.2.2. Thực hiện dự toán
10
10
Thực hiện dự toán là khâu quan trọng trong quá trình quản lý tài chính

bệnh viện. Đây là quá trình sử dụng tổng hoà các biện pháp kinh tế tài chính và
hành chính nhằm biến các chỉ tiêu đã được ghi trong kế hoạch thành hiện thực.
Thực hiện dự toán đúng đắn là tiền đề quan trọng để thực hiện các chỉ tiêu phát
triển bệnh viện. Tổ chức thực hiện dự toán là nhiệm vụ của tất cả các phòng,
ban, các bộ phận trong đơn vị. Do đó đây là một nội dung được đặc biệt quan
trọng trong công tác quản lý tài chính của bệnh viện. Việc thực hiện dự toán
diễn ra trong một niên độ ngân sách ( ở nước ta là một năm từ ngày 01/01 đến
31/12 hàng năm).
Căn cứ thực hiện dự toán
• Dự toán thu chi ( kế hoạch) của bệnh viện đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt. Đây là căn cứ mang tính chất quyết định nhất trong chấp hành
dự toán của bệnh viện. Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, cùng với việc tăng
cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật, một hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý tài chính ngày càng được hoàn thiện.
Việc chấp hành dự toán thu chi ngày càng được luật hoá, tạo điều kiện cho đơn
vị chủ động thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
• Khả năng nguồn tài chính có thể đáp ứng nhu cầu hoạt động của
bệnh viện.
• Chính sách, chế độ chi tiêu và quản lý tài chính hiện hành của Nhà
nước.
Yêu cầu của công tác thực hiện dự toán
• Đảm bảo phân phối, cấp phát, sử dụng nguồn kinh phí một cách
hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả.
• Đảm bảo giải quyết linh hoạt về kinh phí. Do sự hạn hẹp của nguồn
kinh phí và những hạn chế về khả năng dự toán nên giữa thực tế diễn ra trong
quá trình chấp hành và dự toán có thể có những khoảng cách nhất định đòi hỏi
phải có sự linh hoạt trong quản lý. Nguyên tắc chung là chi theo dự toán nhưng
nếu không có dự toán mà cần chi thì có quyết định kịp thời, đồng thời có thứ tự
11
11

ưu tiên việc gì trước, việc gì sau. Khi thực hiện dự toán bệnh viện cần phải chú
ý:
+ Khâu vệ sinh phòng dịch
+ Thuốc men đảm bảo khám và chữa bệnh
+ Trang thiết bị
+ Tiền lương và phụ cấp cho cán bộ công nhân viên
+ Sửa chữa, nâng cấp bệnh viện
• Sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt dự toán và nhận được
thông báo cấp vốn hạn mức, đơn vị chủ động sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
• Tổ chức thực hiện thu nhận các nguồn tài chính theo kế hoạch và
theo quyền hạn.
• Tổ chức thực hiện các khoản chi theo chế độ, tiêu chuẩn và định
mức theo do Nhà nước quy định trên cơ sở đánh giá hiệu quả, chất lượng công
việc.
1.2.3. Quyết toán
Công tác quyết toán là khâu cuối cùng của quá trình sử dụng kinh phí.
Đây là quá trình phản ánh đầy đủ các khoản chi và báo cáo quyết toán ngân sách
theo đúng chế độ báo cáo về biểu mẫu, thời gian, nội dung và các khoản chi tiêu.
Trên cơ sở các số liệu báo cáo quyết toán có thể đánh giá hiệu quả phục vụ của
chính bệnh viện, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch đồng thời rút ra ưu,
khuyết điểm của từng bộ phận trong quá trình quản lý để làm cơ sở cho việc
quản lý ở chu kỳ tiếp theo đặc biệt là làm cơ sở cho việc lập kế hoạch của năm
sau.
Muốn công tác quyết toán được tốt cần phải:
• Tổ chức bộ máy kế toán theo quy định nhưng đảm bảo tinh giản,
gọn nhẹ, linh hoạt và hiệu quả.
• Mở sổ sách theo dõi đầy đủ và đúng quy định.
• Ghi chép cập nhật, phản ánh kịp thời và chính xác.
12

12
• Thường xuyên tổ chức đối chiếu, kiểm tra.
• Cuối kỳ báo cáo theo mẫu biểu thống nhất và xử lý những trường
hợp trái với chế độ để tránh tình trạng sai sót.
• Thực hiện báo cáo quý sau 15 ngày và báo cáo năm sau 45 ngày
theo quy định của Nhà nước.
1.2.4. Thanh tra, kiểm tra, đánh giá
Việc thực hiện kế hoạch không phải bao giờ cũng đúng như dự kiến. Do
vậy, đòi hỏi phải có sự thanh tra,kiểm tra thường xuyên để phát hiện sai sót, uốn
nắn và đưa công tác quản lý tài chính đi vào nền nếp. Việc kiểm tra giúp đơn vị
nắm được tình hình quản lý tài chính nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư.
Cùng với việc thanh tra, kiểm tra, công tác đánh giá rất được coi trọng
trong quá trình quản lý tài chính. Đánh giá để xem việc gì đạt hiệu quả, những
việc gì không đạt gây lãng phí để có biện pháp động viên kịp thời cũng như rút
kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên các tiêu chí đánh giá hiện nay chưa thống nhất
và còn nhiều tranh luận và càng khó khăn do tính đặc thù của mình, hoạt động
kinh tế của bệnh viện gắn bó hữu cơ với mục tiêu “ công bằng trong cung cấp
dịch vụ y tế cho nhân dân”. Hiện nay người ta thường dùng ba nội dung để đánh
giá hiệu quả hoạt động tài chính của bệnh viện. Đó là:
• Chất lượng chuyên môn: liên quan đến cơ cấu tổ chức, phương
pháp tiến hành hoạt độngvà tình trạng bệnh nhân khi xuất viện.
• Hạch toán chi phí bệnh viện: liên quan đến chi phí kế toán và chi
phí kinh tế.
• Mức độ tiếp cận các dịch vụ bệnh viện của nhân dân trên địa bàn.
1.3. NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
BỆNH VIỆN
1.3.1. Nhân tố bên ngoài
Công cuộc đổi mới đất nước đã tạo nên sự chuyển biến quan trọng trong
tất cả các các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Quá trình đổi mới này đã tạo thuận
lợi cho sự phát triển của hệ thống y tế nói chung và bệnh viện nói riêng.

13
13
Về kinh tế
Hơn 10 năm tiến hành đổi mới kinh tế, nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng: đầu tư trong và ngoài nước được khuyến khích; Tăng trưởng
kinh tế hàng năm tương đối cao: từ 5-8%; Cấu trúc hạ tầng phát triển mạnh mẽ;
Lạm phát được kiềm chế. Vì vậy, đầu tư của Nhà nước cho các lĩnh vực kinh tế
xã hội cũng như y tế tăng nhiều. Chi NSNN cho y tế hàng năm chiếm khoảng
1% GDP. Đây là nguồn kinh phí chủ yếu cho hoạt động của bệnh viện.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống vật chất của đại đa
số nhân dân được cải thiện so với trước thời kỳ đổi mới. Nhu cầu khám chữa
bệnh, chăm sóc sức khoẻ tăng lên. Số lượt người đến các cơ sở y tế khám chữa
bệnh tăng vọt so với trước. Do đó, nguồn thu viện phí cũng tăng. Tuy nhiên
cùng với sự phát triển kinh tế là sự phân hoá giàu nghèo trong tầng lớp dân cư.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 1997, mức chi phí điều trị nội
trú bình quân mỗi người một năm là 693.000 đồng chiếm khoảng 25% so với
thu nhập- đây là mức chi phí quá cao. Một điều tra xã hội học của Bộ Y tế cũng
chỉ ra: chỉ khoảng 30% người dân đủ khả năng tự chi trả đầy đủ chi phí khám
chữa bệnh; hơn 30% thuộc diện không chịu nổi mức viện phí như hiện nay.
Mặt khác, mặc dù nền kinh tế tăng trưởng tương đối mạnh song do xuất
phát điểm thấp lại chưa thực sự vững chắc, các lĩnh vực xã hội còn phải chi quá
nhiều dẫn đến đầu tư cho ngành y tế còn chưa tương xứng mặc dù trong tổng
đầu tư cho y tế thì đầu tư phục vụ khám chữa bệnh cho các bệnh viện vẫn chiếm
tỷ trọng lớn. Khả năng thu phí để tái đầu tư mở rộng còn rất hạn chế. Việc xác
định các đối tượng nghèo không có khả năng chi trả chi phí khám chữa bệnh để
thực hiện các chế độ ưu đãi còn rất khó khăn.
Về chính trị
Việt Nam từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ,
ổn định chính trị. Chính sách ngoại giao “ mở cửa” giúp Việt Nam từng bước
hội nhập với khu vực và thế giới, thoát khỏi sự cô lập và bao vây kinh tế, quan

hệ quốc tế ngày càng được mở rộng. Những tiến bộ chính trị này tạo điều kiện
thuận lợi cho các bệnh viện hợp tác quốc tế, thu hút nguồn viện trợ nước ngoài
14
14
cũng như tiếp cận các tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Trong môi trường mở cửa,
việc hợp tác với các tổ chức y tế thế giới cũng như nhận các khoản viện trợ
không hoàn lại của bệnh viện gặp nhiều thuận lợi và không ngừng tăng.
Môi trường pháp lý
Nhà nước đã chú ý đến đầu tư phát triển văn hoá xã hội nhằm từng bước
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, cố gắng thực hiện công bằng xã
hội. Với chính sách “xã hội hoá, đa dạng hoá” đã tạo điều kiện tăng các nguồn
lực để phát triển các mặt xã hội và kết quả bước đầu đã có nét khởi sắc. Chính
sách này cho phép các bệnh viện đa dạng hoá việc khai thác các nguồn tài chính
phục vụ cho công tác khám chữa bệnh của mình: phát triển thành bệnh viện bán
công; xây dựng khoa khám và điều trị tự nguyện…
Cùng với các chính sách mới về kinh tế, xã hội, trong những năm qua Nhà
nước đã ban hành một hệ thống các chính sách để củng cố, phát triển hệ thống y
tế, nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế đồng thời đảm bảo công bằng và hiệu
quả trong công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân nói chung và các chính sách về
tài chính áp dụng cho quản lý trong bệnh viện nói riêng. Các chính sách này tạo
hành lang pháp lý cho bệnh viện tổ chức thực hiện tốt quản lý tài chính trong đó
phải kể đến chính sách viện phí và bảo hiểm y tế.
Trước thời kỳ đổi mới, các bệnh viện được Nhà nước bao cấp hoàn toàn,
nhân dân được khám chữa bệnh miễn phí. Bước sang thời kỳ đổi mới, nguồn
NSNN không thể đảm bảo cho công tác chăm sóc sức khoẻ nên vấn đề tài chính
cho các bệnh viện càng trở nên bức xúc. Để có thêm nguồn kinh phí cho hoạt
động khám chữa bệnh, từ năm 1989 Nhà nước đã ban hành chính sách thu một
phần viện phí. Chính sách này đã tăng nguồn ngân sách cho hoạt động của các
bệnh viện, góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Viện phí cũng là một
chính sách tăng cường sự tham gia đóng góp của cộng đồng nhất là các đối

tượng có khả năng chi trả từ đó có thêm nguồn ngân sách để tăng cường khám
chữa bệnh cho người nghèo.
Về bảo hiểm y tế, bảo hiểm y tế được triển khai ở Việt Nam từ năm 1993.
Trong những năm qua bảo hiểm y tế đã thu được nhiều kết quả khả quan. Song
15
15
89% tổng thu bảo hiểm y tế là từ bảo hiểm y tế bắt buộc; 2,4% từ thẻ khám chữa
bệnh cho người nghèo; 8,6% từ bảo hiểm y tế tự nguyện ( Nguồn: Bảo hiểm y tế
Việt Nam, 2001). Các loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện chưa đa dạng, phong
phú và chưa thu hút được các đối tượng tham gia.
Tóm lại, các nhân tố bên ngoài vừa có ảnh hưởng tích cực vừa có những
hạn chế đến việc quản lý tài chính bệnh viện.
1.3.2. Nhân tố bên trong
Nhân tố con người
Con người là nhân tố trung tâm trong hoạt động của một tổ chức. Đặc biệt
do đặc thù của bệnh viện là cung cấp các dịch vụ phục vụ cho chăm sóc sức
khoẻ con người thì yếu tố con người lại càng quan trọng. Nó đòi hỏi con người
phải vừa có Tâm vừa có Tài. Trong yếu tố con người ở đây cần nhấn mạnh đến
cán bộ quản lý. Người làm quản lý có ảnh hưởng trực tiếp đến tính kịp thời,
chính xác của các quyết định quản lý. Do vậy, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng hoạt động của bộ máy quản lý nói chung cũng như quản lý tài chính nói
riêng.
Một bệnh viện có cán bộ quản lý tài chính có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, có kinh nghiệm, hiểu biết sẽ đưa ra được những biện pháp quản lý phù hợp,
xử lý thông tin kịp thời và chính xác làm cho công tác kế toán tài chính ngày
càng có kết quả tốt. Và một đội ngũ cán bộ kế toán tài chính có trình độ nghiệp
vụ, có kinh nghiệm, năng động sáng tạo là điều kiện tiền đề để công tác quản lý
tài chính đi vào nền nếp, tuân thủ các chế độ quy định của Nhà nước về tài chính
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính bệnh viện.
Mô hình tổ chức và hiệu quả hoạt động của bệnh viện

Ngày nay do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện nên nhu cầu
khám chữa bệnh ngày càng tăng. Người dân ngày càng có điều kiện quan tâm
đến sức khoẻ, bệnh tật của mình hơn. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu khám chữa
bệnh ngày càng cao và càng đa dạng của nhân dân cũng như để cạnh tranh với
các hình thức cung cấp dịch vụ y tế khác đòi hỏi các bệnh viện phải đầu tư các
phương tiện hiện đại, kỹ thuật mới, thuốc mới cũng như đầu tư nâng cao tay
16
16
nghề của đội ngũ cán bộ. Điều này đặt hoạt động quản lý tài chính bệnh viện
trước những thử thách mới. Do vậy, việc xác định mô hình tổ chức phù hợp,
nâng cao chất lượng hoạt động sẽ tạo cơ sở cho việc quản lý tài chính bệnh viện
được tốt.
Mối quan hệ giữa bệnh viện với khách hàng
Trước hết là mối quan hệ giữa bệnh viện với bệnh nhân. Trước đây, mối
quan hệ này là mối quan hệ của người phục vụ với người được phục vụ theo sự
phân công có tổ chức của bộ máy Nhà nước. Mối quan hệ giữa thày thuốc và
bệnh nhân không có quan hệ kinh tế, tiền bạc. Trong cơ chế, mối quan hệ giữa
bệnh viện và bệnh nhân là mối quan hệ giữa người cung cấp dịch vụ và người
trả giá cho các dịch vụ đó. Do vậy, quan hệ tốt với bệnh nhân sẽ tạo được uy tín
cho bệnh viện đồng thời cũng giúp cho việc đưa ra chính sách, chiến lược, kế
hoạch tác nghiệp và xu hướng phát triển hoạt động bệnh viện trong tương lai.
Cùng với việc xây dựng uy tín trong hoạt động khám chữa bệnh của mình,
bệnh viện có thể tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế thông qua các dự
án viện trợ không hoàn lại. Hoặc liên doanh, liên kết, mở rộng hợp tác đầu tư
trong và ngoài nước.
Ngoài ra các yếu tố khác như quy mô bệnh viện, vị trí địa lý, hệ thống
thông tin… cũng có ảnh hưởng đến công tác quản lý tài chính bệnh viện.
1.4. NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH BỆNH VIỆN
CỦA NƯỚC TA
Nhằm thực hiện cải cách tài chính công trong chương trình tổng thể cải

cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010, Chính phủ đã tiến hành triển
khai chế độ tự chủ tài đối với các đơn vị sự nghiệp có thu trong đó có hệ thống
bệnh viện công. Một hệ thống các văn bản quy định chế độ tài chính áp dụng
cho các đơn vị sự nghiệp có thu được ban hành đánh dấu một bước đổi mới
trong cơ chế quản lý tài chính mà gần đây nhất là Nghị định số 10/2002/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự
nghiệp có thu và Thông tư 25/2002/TT-BTC ngày 21/3/2002 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thi hành Nghị định 10. Cơ chế quản lý tài chính mới cho phép đơn vị
17
17
sự nghiệp có thu tự chủ về tài chính, lao động và tự chịu trách nhiệm trong hoạt
động của đơn vị. Cụ thể là:
Mở rộng quyền cho các đơn vị sự nghiệp có thu
Thứ nhất, theo cơ chế cũ các đơn vị sự nghiệp có thu chỉ được phép sử
dụng nguồn kinh phí Nhà nước hoặc được coi là kinh phí Nhà nước ( viện phí,
phí…). Trong cơ chế tài chính mới, các đơn vị sự nghiệp có thu ngoài nguồn
kinh phí Nhà nước cấp còn được phép vay tín dụng ngân hàng hoặc quỹ hỗ trợ
phát triển để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động, cung ứng dich vụ và tự
chịu trách nhiệm trả nợ vay theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, theo quy định hiện nay, các đơn vị hành chính sự nghiệp không
được phép mở tài khoản tại ngân hàng. Theo quy định mới, các đơn vị sự nghiệp
có thu được chủ động sử dụng số tiền gửi tại ngân hàng hoặc kho bạc để phản
ánh các khoản thu chi của hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ. Các khoản kinh
phí Ngân sách Nhà nước vẫn được phản ánh qua tài khoản tại kho bạc.
Thứ ba, các đơn vị sự nghiệp có thu quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước
theo quy định đối với đơn vị hành chính sự nghiệp. Với tài sản cố định dùng cho
hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ được phép trích khấu hao thu hồi vốn theo
chế độ áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra, số tiền trích khấu hao
tài sản cố định và số tiền thu do thanh lý tài sản thuộc nguồn Ngân sách Nhà
nước thay cho việc phải nộp Nhà nước như hiện nay đơn vị được phép sử dụng

tại đơn vị để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị cho đơn vị.
Thứ tư, một điểm mới nữa trong cơ chế quản lý mới là đơn vị còn được
chủ động trong việc sử dụng số biên chế được cấp có thẩm quyền giao; sắp xếp
và quản lý lao động phù hợp với chức năng nhiệm vụ của đơn vị. Đơn vị được
phép thực hiện chế độ hợp đồng lao động theo quy định của Bộ Luật lao động
phù hợp với khối lượng công việc và khả năng tài chính của mình. Đồng thời,
đơn vị hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ có trách nhiệm thực hiện các nghĩa
vụ đối với Ngân sách theo luật định.
Về các nguồn tài chính
Nguồn thu của đơn vị gồm:
18
18
* Nguồn Ngân sách Nhà nước cấp : giống như hiện nay, nguồn NSNN
bao gồm các khoản kinh phí thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học; kinh phí theo
đơn đặt hàng của Nhà nước; vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang
thiết bị; kinh phí cấp để thực hiện tinh giản biên chế. Có sự thay đổi trong
nguồn NSNN cấp là: Nhà nước chỉ cấp kinh phí hoạt động thường xuyên đối với
các đơn vị không tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, các đơn
vị tự bảo đảm chi phí sẽ không nhận khoản kinh phí này.
* Nguồn tự thu của đơn vị: gồm phần để lại từ số phí, lệ phí thuộc Ngân
sách Nhà nước do đơn vị thu theo quy định. Mức thu, tỷ lệ nguồn thu để lại đơn
vị sử dụng và nội dung chi theo quy định của Nhà nước. Riêng với các khoản
thu thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ: thủ trưởng đơn vị quyết định
mức thu theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích luỹ.
* Nguồn khác: viện trợ, vốn vay tín dụng trong và ngoài nước…
Về chi
Nội dung chi của đơn vị gồm: Chi thường xuyên (chi cho con người lao
động, chi quản lý hành chính, chi nghiệp vụ chuyên môn, chi mua sắm và sửa
chữa TSCĐ. Một khoản chi nữa được coi như chi thường xuyên là chi cho hoạt
động sản xuất và cung ứng dịch vụ); chi thực hiện đề tài nghiên cứu; Chi tinh

giản biên chế; Chi đầu tư phát triển; Các khoản chi khác.
Những điểm mới trong quy định về khai thác và sử dụng các nguồn tài chính là:
Thứ nhất, về định mức chi quản lý hành chính. Theo quy định cũ định
mức chi cho quản lý hành chính (công tác phí, hội nghị phí, điện thoại…) và chi
nghiệp vụ thường xuyên phải tuân thủ nghiêm ngặt theo định mức do Nhà nước
quy định bất kể tính thực tế cũng như hiệu quả của công việc. Điều này đã
không khuyến khích người thực hiện đồng thời cũng gây lãng phí, kém hiệu quả.
Theo cơ chế mới, định mức chi này do chính thủ trưởng đơn vị quyết định căn
cứ vào nội dung và hiệu quả công việc. Định mức này có thể cao hơn nhưng
cũng có thể thấp hơn mức chi do Nhà nước quy định.
Thứ hai, đổi mới trong việc chi trả lương cho người lao động. Nhà nước
khuyến khích đơn vị tăng thu, tiết kiệm chi, thực hiện tinh giản biên chế tạo điều
19
19
kiện tăng thu nhập cho người lao động trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ được
giao và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với NSNN. Căn cứ vào kết quả hoạt động
tài chính của đơn vị mà thủ trưởng đơn vị xác định quỹ lương, tiền công của
hoạt động đơn vị. Trong phạm vi quỹ lương này, sau khi thống nhất với tổ chức
Công đoàn và công khai trong đơn vị, thủ trưởng đơn vị quyết định việc chi trả
lương theo chất lượng và hiệu quả công việc trên nguyên tắc người nào, bộ phận
nào có thành tích, có đóng góp làm tăng thu, tiết kiệm chi, có hiệu suất công tác
cao thì được hưởng cao hơn. Tiền lương cho mỗi cá nhân ngoài mức lương tối
thiểu, hệ số lương cấp bậc, hệ số phụ cấp như hiện nay còn được hưởng mức
điều chỉnh tăng thêm cho mỗi cá nhân từ 1- 3,5 lần mức lương tối thiểu.
Về trích lập quỹ
Hàng năm ngoài việc trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi như hiện
nay đơn vị phải trích lập thêm quỹ dự phòng ổn định thu nhập và quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp. Sau khi thống nhất với tổ chức Công đoàn, thủ trưởng đơn
vị quyết định việc trích lập các quỹ theo trình tự sau:
Quỹ dự phòng ổn định thu nhập : để đảm bảo thu nhập cho người lao

động trong trường hợp nguồn thu bị giảm sút.
Quỹ khen thưởng: dùng để khen thưởng định kỳ hay đột xuất cho tập thể,
cá nhân theo kết quả công tác và có thành tích đóng góp.
Quỹ phúc lợi: dùng cho các nội dung phúc lợi.
Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: dùng để đầu tư, phát triển nâng cao
hoạt động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy
móc thiết bị,…
1.5. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
BỆNH VIỆN
1.5.1. Hệ thống bệnh viện công lập thuộc các nước Đông Âu
Tại các nước Đông Âu (OECD), hệ thống bệnh viện công là nhà cung cấp
dịch vụ y tế chiếm ưu thế. Hệ thống bệnh viện công do Nhà nước đảm bảo phần
lớn nguồn tài chính từ thuế và bảo hiểm y tế thông qua cấp kinh phí ngân sách
và lương.
20
20
Các nguồn tài chính của bệnh viện công của OECD gồm:
* NSNN cấp: là nguồn tài chính chủ yếu cho hoạt động của bệnh viện.
Các tổ chức Nhà nước quyết định việc đầu tư trong bệnh viện. Về cơ bản, tất cả
các quyết định đầu tư nằm trong tay Chính phủ, hầu như không có tự đầu tư của
các bệnh viện.
* Nguồn từ BHXH bắt buộc: tất cả những người sử dụng lao động và
người lao động buộc phải đóng góp BHXH. Nhìn chung từ cuối những năm
1990, đây trở thành nguồn chính cho hoạt động của các bệnh viện công ở Đông
Âu. Tuy nhiên , ràng buộc ngân sách đối với các quỹ này rất mềm: Nhà nước bù
đắp cho thâm hụt ngân sách BHYT, do vậy càng khuyến khích việc chấp nhận
lãng phí.
* Thanh toán trực tiếp: tất cả các nước Đông Âu đều đưa ra hệ thống đồng
thanh toán. BHXH cấp tài chính phần lớn các chi phí nhưng được bổ sung bằng
các khoản thanh toán trực tiếp từ bệnh nhân. Có một điểm cần nhấn mạnh là

việc thực hiện đồng thanh toán ở Đông Âu rất rời rạc và chỉ áp dụng ở một bộ
phận nhỏ các dịch vụ. Bệnh nhân trả trực tiếp cho các dịch vụ CSSK nhưng
đồng thời cũng đưa tiền trả ơn ( bồi dưỡng) nửa hợp pháp hay bất hợp pháp cho
các bác sỹ. Và điều này xảy ra khá thường xuyên.
Về chi: các định mức chi tiêu của bệnh viện do Nhà nước hoặc BHXH
định ra. Các bệnh viện công ở các nước Đông Âu hoạt động trên nguyên tắc bù
đắp chi phí bằng thu nhập; họ không có quyền chi tiêu vượt quá ngân sách được
phân bổ. Song trên thực tế các bệnh viện thường chi vượt thu và phần thâm hụt
này thường được NSNN bù đắp. Điều đáng nói ở đây là các ràng buộc ngân sách
khá mềm- Nhà nước không đòi hỏi kỷ luật tài chính đối với khu vực bệnh viện
công. Điều này để ngỏ cho con đường lãng phí nguồn lực.
Đối với các bác sỹ làm việc trong bệnh viện công ở Đông Âu có tư cách
viên chức nhà nước, xếp hạng trong bộ máy thứ bậc quan liêu theo vị trí và thâm
niên công tác. Lương của họ phụ thuộc vào ngân sách phân bổ cho trả lương
nhân viên, phụ thuộc vào tình trạng tài khoá của Nhà nước và đặc biệt vào cấp
bậc gắn với từng cá nhân trong cơ cấu lương quan liêu. Hình thức trả lương này
21
21
gây sự phân biệt không ngừng so với thu nhập ở các lĩnh vức khác đồng thời
không xứng đáng với công sức mà các bác sỹ bỏ ra. Do đó , hiện tượng các bác
sỹ có “ thu nhập thứ hai” rất phổ biến: đó là các khoản tiền trả ơn, tiền biếu của
bệnh nhân. Trong một khảo sát ở Hungary năm 1998: hơn 3/4 dân chúng được
hỏi nói rằng có thông lệ biếu tiền bác sỹ khi đến KCB tại bệnh viện và khi hỏi
các bác sỹ kết quả cũng tương tự: khoảng 75-85% bác sỹ nhận tiền biếu từ bệnh
nhân.
1.5.2. Mô hình bệnh viện công của Trung Quốc
Hệ thống bệnh viện công ở Trung Quốc gồm ba tuyến dịch vụ chủ yếu:
- Trạm y tế thôn bản: làm nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ ngoại trú
để điều trị các bệnh thông thường, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em và các dịch
vụ tiêm chủng.

- Bệnh viện xã/ phường/ thị trấn: cung cấp các dịch vụ ngoại trú điều
trị các bệnh thông thường và tiểu phẫu đơn giản.
- Bệnh viện huyện: cung cấp các dịch vụ nội trú và ngoại trú, kể cả
các phẫu thuật phức tạp.
Với chính sách tài chính cho y tế của Nhà nước: giảm chi NSNN cho các
cơ sở y tế; đẩy mạnh phương thanh toán theo dịch vụ (đặc biệt là phí sử dụng
dịch vụ) và đưa vào áp dụng cơ chế đồng thanh toán cho những người có bảo
hiểm nhà nước hoặc bảo hiểm lao động. Hệ thống bệnh viện công của Trung
Quốc hiện nay phụ thuộc quá nhiều vào nguồn thu nhập từ phí sử dụng dịch vụ.
Các khoản thưởng cho cán bộ bệnh viện cũng là cách khuyến khích tăng nguồn
thu từ cung cấp dịch vụ càng nhiều càng tốt. Và Trung Quốc là quốc gia có mức
viện phí khá cao.
Trong khi mức viện phí cao, BHYT giảm: tỷ lệ người dân tham gia
BHYT từ 71% năm 1981 xuống còn 21% tổng dân số vào năm 1993. Số BHYT
này lại tập trung vào vùng thành thị mà chủ yếu cho nhóm dân cư khá giả. Thực
tế này đã gây ra tình trạng mất công bằng trong chăm sóc sức khoẻ: gánh nặng
viện phí chuyển từ nhóm có thu nhập cao sang nhóm có thu nhập thấp, từ người
khoẻ mạnh sang người ốm yếu, từ độ tuổi lao động sang người già và trẻ em.
22
22
Mức viện phí cao đồng thời cũng là rào cản đối với người dân tiếp cận các dịch
vụ y tế. Một cuộc điều tra tiến hành năm 1992-1993 tại Trung Quốc cho thấy:
60% bệnh nhân được bác sỹ ký giấy chuyển viện không nhập viện do giá viện
phí cao; 40% số người ốm nặng đều nói rằng họ đã không tìm kiếm các dịch vụ
y tế vì chi phí quá cao.
1.5.3. Hệ thống bệnh viện của Mỹ
Mỹ là quốc gia điển hình đại diện cho các nước có hệ thống bệnh viện tư,
tự hạch toán. Tuy nhiên nếu nói ở Mỹ hầu như chỉ có các tổ chức tư nhân hoạt
động vì mục đích lợi nhuận cung ứng các dịch vụ y tế là sai lầm mặc dù đây là
hình thức chiếm tỷ trọng đáng kể song không phải là áp đảo. Tại Mỹ còn có

nhiều bệnh viện thuộc nhà thờ, thuộc các Quỹ, thuộc trường học… Song điều
đáng chú ý ở Mỹ là các hình thức sở hữu không cứng nhắc: có thể dễ dàng
chuyển từ bệnh viện công thành bệnh viện tư hoặc ngược lại.
Hệ thống bệnh viện tại Mỹ hoàn toàn dựa vào khoản thanh toán từ các
quỹ BHYT, BHXH và thu viện phí trực tiếp hoặc thu phí đồng chi trả BHYT.
Nhà nước chỉ cung cấp tài chính cho bệnh viện qua: chương trình bảo hiểm sức
khoẻ cho người cao tuổi (Medicare), và cho người nghèo (Medicaid). Ngoài ra
Nhà nước trực tiếp tài trợ cho nghiên cứu y khoa và đào tạo bác sỹ.
Với cách tổ chức trên đã khuyến khích tính hiệu quả trong y tế. Không thể
phủ nhận một điều rằng Mỹ là quốc gia đi dầu trên thế giới trong lĩnh vực áp
dụng các tiến bộ y khoa vào thực tiễn. Theo lời ông Donna Shalala, người giữ
chức Bộ trưởng Bộ Sức khoẻ và Con người lâu nhất trong lịch sử Mỹ: “ Hệ
thống của chúng ta là hệ thống chăm sóc sức khoẻ tốt nhất thế giới. Tuy vậy, hệ
thống của chúng ta có thể là tệ hại, đặc biệt là với những người không được điều
trị đủ sớm”.
Đó là một phần đáng kể dân chúng Mỹ, khoảng 15% hay trên 40 triệu
người không có BHYT. Hơn thế nữa là vấn đề ít được nhiều người biết đến
nhưng rất nghiêm trọng, đó là vấn đề “ Bảo hiểm thấp”. Các khoản chi tiêu trong
khám chữa bệnh tại Mỹ là khá cao và tăng nhanh liên tục. Một số nhân tố tạo ra
sự tăng nhanh là:
23
23
Thứ nhất, chính công dân tự quyết định chi cho bảo vệ sức khoẻ là bao
nhiêu từ tổng chi tiêu trong gia đình nên khoản chi này được hưởng ưu tiên cao
hơn so với khi nhà chính trị quyết định phân chia các khoản chi tiêu ngân sách.
Thứ hai, Hoa Kỳ là nước dẫn đầu về phát triển công nghệ y học vì vậy
việc áp dụng công nghệ tiên phong là đắt nhất.
Thứ ba, mức thu nhập của bác sỹ cao. Thu nhập của bác sỹ Hoa Kỳ gấp
khoảng năm lần so với thu nhập trung bình quốc gia.
Thứ tư, chi phí khám chữa bệnh cao bởi một số dịch vụ mang tính hoang

phí không cần thiết, thậm chí có hại. Giá viện phí đắt lên hơn so với mức hợp lý.
Cả bác sỹ lẫn bệnh nhân đều đẩy chi phí đắt đỏ sang cho hãng bảo hiểm, còn
hãng bảo hiểm đẩy tổng số bảo hiểm sang cho người trả tiền (người sử dụng lao
động và người được bảo hiểm) thông qua phí bảo hiểm cao hơn.
Thứ năm, thường xuyên xảy ra các vụ kiện tụng về sơ xuất y tế trong đó
các toà án thường tuyên những khoản bồi thường cao, gây áp lực thêm lên chi
phí để bù đắp các chi phí liên quan. Và chính các vụ kiện tụng thúc đẩy nhà
cung cấp dịch vụ đặt thêm nhiều xét nghiệm và tư vấn thừa vô dụng để tự bảo vệ
chính mình chống lại những cáo buộc khả dĩ và sai sót.
24
24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI BỆNH
VIỆN BẠCH MAI
2.1. KHÁI QUÁT VỀ BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Xây dựng từ năm 1911, mang tên nhà thương Cống Vọng – nguyên là
một cơ sở chữa bệnh truyền nhiễm nhỏ bé ở vùng ngoại ô thành phố Hà Nội.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, gắn liền với sự phát
triển của đất nước và thủ đô Hà Nội, từ một cơ sở truyền nhiễm nhỏ bé đã phát
triển thành Bệnh viện Bạch Mai to đẹp như ngày nay.
Bệnh viện Bạch Mai là một trong những bệnh viện đa khoa hoàn chỉnh
lớn nhất nước trực thuộc Bộ Y tế quản lý. Bệnh viện có 1.400 giường bệnh với
6 viện nghiên cứu, 20 khoa lâm sàng, 8 khoa cận lâm sàng, 8 phòng chức năng
và một trường trung học y tế. ( Xem Bảng 2.1)
Sau hơn 90 năm xây dựng và phát triển, Bệnh viện Bạch Mai đã phát triển
vượt bậc, từng bước trở thành một trung tâm y tế chuyên sâu có hạ tầng cơ sở
ngày một khang trang, thiết bị y tế hiện đại đồng bộ, có đội ngũ giáo sư, tiến sỹ,
thạc sỹ, bác sỹ, kỹ sư, y tá, hộ lý và các nhân viên giàu kinh nghiệm. Bệnh viện
đã thực hiện xuất sắc chức năng nhiệm vụ Bộ Y tế giao cho: Khám chữa bệnh
cho bệnh nhân tuyến cuối cùng, đào tạo cán bộ , nghiên cứu khoa học, chỉ đạo
tuyến, phòng bệnh, hợp tác quốc tế và quản lý kinh tế y tế phát triển ngang tầm

với các nước trong khu vực, đáp ứng nhu cầu bảo vệ sức khỏe nhân dân. Hàng
năm, Bệnh viện Bạch Mai khám cho gần 250.000 lượt bệnh nhân ngoại trú, điều
trị cho gần 30.000 bệnh nhân nội trú. Bệnh viện còn là cơ sở thực hành chính
của trường Đại học Y Hà nội.
25
25

×