Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng tại sở giao dịch i-nhct việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.02 KB, 75 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Với vị trí là một ngành kinh tế tổng hợp, là cầu nối trong hoạt động của
các doanh nghiệp, ngân hàng được xem là một tổ chức kinh doanh có vai trò vô
cùng quan trọng trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng với hàng nghìn chi
nhánh hoạt động trên toàn thế giới có tác động đến sự phát triển của tất cả các
lĩnh vực và của toàn bộ nền kinh tế. Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng
thương mại hiện nay là tạo ra và cung cấp các dịch vụ tài chính mà thị trường có
nhu cầu, trong đó tín dụng là một trong những dịch vụ ngân hàng quan trọng
nhất. Việc cấp tín dụng của ngân hàng thương mại cho toàn bộ nền kinh tế đã
đóng góp đáng kể vào công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở bất cứ quốc gia
nào. Khoản mục tín dụng đối với hầu hết các ngân hàng luôn chiếm khoảng 70%
giá trị tổng tài sản đồng thời là khoản mục tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu nhập
của ngân hàng. Chính vì thế NHTM chỉ có thể phát triển bền vững khi ngân
hàng đó đạt được hiệu quả trong hoạt động tín dụng , do vậy nâng cao hiệu quả
tín dụng là vấn đề phải được ngân hàng quan tâm hàng đầu trong hoạt động đầu
tư, cho vay bởi vì hoạt động tín dụng có hiệu quả thì ngân hàng mới giảm thiểu
rủi ro, tăng lợi nhuận đảm bảo hai mục tiêu quan trọng sinh lời và an toàn. Nâng
cao hiệu quả tín dụng là yêu cầu bức xúc, là chủ trương định hướng trong hoạt
động của các ngân hàng hiện nay.
Trong thời gian được tạo điều kiện thực tập tại Sở giao dịch I - NHCT Việt
Nam tại phòng khách hàng 1, bước đầu tiếp xúc với thực tế các nghiệp vụ tín
dụng, tôi đã chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả tín dụng tại Sở giao dịch I-
Ngân hàng Công thương Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Luận
văn này có phạm vi nghiên cứu trong giai đoạn 2002-2005, chỉ đưa ra một cách
khái quát những lý luận chung về hiệu quả tín dụng ngân hàng, thực trạng việc
nâng cao hiệu qủa tín dụng và đề ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả tại SGD
I –NHCT Việt Nam . Bố cục luận văn gồm ba chương:
Chương một: Hiệu quả tín dụng tại ngân hàng thương mại
Tạ Thanh Hiền - NH44B 1
Luận văn tốt nghiệp


Chương hai : Thực trạng hiệu quả tín dụng tại Sở giao dịch I – NHCT Việt
Nam .
Chương ba :Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín
dụng tại Sở giao dịch I-NHCT Việt Nam.
Mặc dù đã được tạo điều kiện giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn
GS.TS Cao Cự Bội và từ phía SGD I – NHCT Việt Nam trong quá trình thực
hiện luận văn, song do kiến thức thực tế còn hạn chế nên luận văn còn không
tránh khỏi có sai sót. Em mong nhận được sự góp ý từ các thầy cô và ban lãnh
đạo ngân hàng.
Xin chân thành cảm ơn!
Tạ Thanh Hiền - NH44B 2
Luận văn tốt nghiệp
Chương một : HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNGMẠI
1.1 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng
thương mại (NHTM), nhìn chung khoản mục này chiếm khoảng gần 70% tổng
tài sản- điều đó phản ánh đặc trưng hoạt động của ngân hàng. Với qui mô như
vậy, tín dụng đã ảnh hưởng trực tiếp tới hầu hết các chiến lược hoạt động của
ngân hàng như dự trữ, vay, đầu tư… đồng thời tín dụng cũng là nghiệp vụ mang
lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng.
Khái niệm:
Nghiên cứu bản chất tín dụng Mark cho rằng: tín dụng là sự chuyển nhượng
quyền sử dụng một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật ) trong một
thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và được hoàn trả khi đến
hạn với một lượng giá trị lớn hơm giá trị ban đầu. Khoản dôi ra này được gọi là
lợi tức tín dụng. Khác với các quan hệ kinh tế khác sự chuyển nhượng trong qua
hệ tín dụng chỉ là sự chuyển nhượng quyền sử dụng tư bản trong một thời nhất
định mà không hề có sự chuyển nhượng quyền sở hữu giữa người đi vay và

người cho vay.
Hoạt động tín dụng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của những qunan
hệ hàng hoá- tiền tệ. Vì vậy trong nền kinh tế thị trường khi quá trình sản xuất
và lưu thông ngày càng phát triển thì tín dụng thương mại không còn đáp ứng
được đòi hỏi về vốn ngày càng lớn, đa dạng và phức tạp của các chủ thể trong
nền kinh tế. Bởi vậy tín dụng ngân hàng đã ra đời, phát triển và ngày càng trở
thành nguồn cung cấp tín dụng chủ yếu cho nền kinh tế.
Tạ Thanh Hiền - NH44B 3
Luận văn tốt nghiệp
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các chủ thể
kinh tế khác trong nền kinh tế. “Tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa
ngân hàng (TCTD) với bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh
tế trong đó ngân hàng ( TCTD) chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời gian nhất định theo thoả thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện cả gốc và lãi cho ngân hàng ( TCTD) khi đến hạn thanh thanh toán”.
Theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng thì: “Hoạt động tín dụng là việc các
TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng” và “Cấp
tín dụng là việc TCTD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”
Một đặc trưng trong hoạt động của ngân hàng là ngân hàng kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ nên tài sản giao dịch trong tín dụng ngân hàng chủ yếu dưới hình
thức tiền tệ tuy nhiên trong một số hình thức tín dụng khác như cho thuê tài
chính thì tài sản trong giao dịch tín dụng có thể là tài sản cố định, hay có khi là
uy tín như trong các hình thức bảo lãnh…
1.1.2. Vai trò tín dụng:
 Tín dụng là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả cho nền kinh tế:
Vai trò quan trọng của tín dụng là đáp ứng vốn có hiệu quả và kịp thời để
duy trì quá trình tái sản xuất, đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực tế luôn có sự chênh lệch về

thời gian cũng như về khối lượng giữa lượng tiền cần thiết để dự trữ vật tư hàng
hoá cho quá trình sản xuất kinh daonh tiếp theo với lượng tiền thu được từ việc
tiêu thụ hàng hoá của chu kỳ sản kinh doanh trước đó. Điều này dẫn tới việc
luân chuyển tiền tệ của doanh nghiệp lúc thừa lúc thiếu. Ngay cả việc thu chi
ngân sách nhà nước cũng thường xuyên có sự chênh lệch giữa thời gian thu chi.
Vì vậy khi nguồn vốn doanh nghiệp tạm thời dư thừa cùng với các nguồn tiết
Tạ Thanh Hiền - NH44B 4
Luận văn tốt nghiệp
kiệm nhàn rối từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách nhà nước….đã được NHTM
tận dụng huy động và sử dụng vốn huy động đó để đầu tư cho các doanh nhiệp
khác đang trong tình trạng thiếu vốn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá
thu nhập của dân chúng và cho yêu cầu chi tiêu của ngân sách Nhà nước trong
lúc chưa có nguồn thu kịp thời….Như vậy tín dụng ngân hàng đã góp phần điều
hoà vốn một cách có hiệu quả trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
 Tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Tín
dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn. Các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ rất
nhiều các chủ thể khác nhau với qui mô khác nhau sẽ được NHTM tập trung lại
qua việc huy động và trở thành lượng vốn lớn. Thông qua việc các ngân hàng
thương mại tập trung vốn và ưu tiên cho vay một lượng vốn rất lớn cho các
ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn góp phần nâng cao sức mạnh cạnh tranh
cho nền kinh tế, nâng cao giá trị sản phẩm, tăng GDP,sản xuất ra những hàng
hoá chiến lược tăng cường hội nhập quốc tế.
 Thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và lưu chuyển tiền tệ thông
qua việc tạo điều kiện cho việc thực hiện các cơ hội đầu tư kinh doanh. Đôi khi
doanh nghiệp có khả năng tiếp cận những cơ hội đầu tư kinh doanh tốt nhưng lại
thiếu vốn đầu tư mà buộc phải bỏ lỡ cơ hội kinh doanh đó. Hoặc trong trường
hợp doanh nghiệp có nhiều khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng nguồn
tài chính thu hẹp, quá trình mở rộng không thể thực hiện được. Tín dụng ngân
hàng lúc này có vai trò quan trọng trong việc tạo cơ hội để các doanh nghiệp có
thể tồn tại, phát triển thực hiện các cơ hội kinh doanh, nâng cao sức mạnh cạnh

tranh trên thị trường.
 Tín dụng là công cụ thúc đẩy chế độ hạch toàn kinh doanh, tăng cường
việc quản lý tài chính, tăng tích luỹ đối với doanh nghiệp. Các tổ chức kinh tế
khi vay vốn họ phải cân nhắc về hiệu quả vốn vay mang lại- họ chỉ vay vốn khi
biết rằng có lãi. Mặt khác khi ngân hàng cho vay, trước đó, họ phải thực hiện
công việc phân tích tín dụng: phân tích các khả năng tài chính, năng lực tài
Tạ Thanh Hiền - NH44B 5
Luận văn tốt nghiệp
chính…qua các báo cáo tài chính. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tăng
cường hạch toán kinh tế, quản lý tài chính và tích luỹ vốn để có thể hoàn trả vốn
cho ngân hàng.
 Tín dụng thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế.
Trông nền kinh tế luôn tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức : thứ nhất đó là
các cá nhân và tổ chức tạm thời có một lượng tiền nhàn rỗi do đó họ có nhu cầu
gửi tiền nhằm thực hiện các mục tiêu về an toàn và sinh lời đối với các khoản
tiết kiệm. Trong khi đó một số cá nhân và tổ chức khác lại có nhu cầu sử dụng
vốn. Điều tất yếu là tiền sẽ được chuyển từ nhóm một sang nhóm hai nếu như cả
hai cùng thấy có lợi. Khi hai đối tượng này tiếp xúc với nhau chắc sẽ tạo ra quan
hệ tín dụng trực tiếp. Tuy vậy, quan hệ tín dụng trực tiếp gặp nhiều giới hạn về
quy mô, thời gian, không gian…điều này đã tạo điều kiện làm nảy sinh các trung
gian tài chính. Các trung gian tài chính với khả năng chuyên môn hoá trong các
hoạt động của mình sẽ tập hợp những người có nhu cầu tiết kiệm và những
người có nhu cầu đầu tư, bằng việc đó giải quyết được những mâu thuẫn của tín
dụng trực tiếp. Như vậy bằng tín dụng ngân hàng, NHTM đã làm tăng thu nhập
cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm đồng thời làm giảm phí tổn tín
dụng cho người đàu tư ( làm tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó mà khuyến
khích đầu tư.
 Tín dụng ngân hàng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho NHTM.
Sự tồn tại và phát triển của ngân hàng chủ yếu dựa vào khả năng sinh lời
cuả ngân hàng. Mà trong đó tín dụng luôn là khoản mục lớn nhất chiếm khoảng

70% tài sản sinh lời của NHTM. Do vậy các hình thức tín dụng ngân hàng đang
ngày càng được đa dạng hoá, kết hợp với việc mở rộng mạng lưới, phát triển
công nghệ mới gia tăng các tiện ích… một mặt đảm bảo tính an toàn trong hoạt
động đồng thời tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Tạ Thanh Hiền - NH44B 6
Luận văn tốt nghiệp
 Tín dụng ngân hàng là công cụ của Nhà nước để điều tiết lượng tiền tệ
lưu thông trong nền kinh tế.
Một trong những chức năng quan trọng của NHTM là tạo phương tiện
thanh toán. Khi các ngân hàng cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo
ra phương tiện thanh toán- tạo ra M1 tức là đã tạo ra một khả năng cung ứng
tiền tệ. Và ngược lại khi các NHTM thu hẹp tín dụng lượng cung ứng tiền sẽ
giảm xuống. Do đó tín dụng ngân hàng được Nhà nước sử dụng như là một công
cụ để điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông thông qua việc thực hiện các chính
sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước. Đó là các chính sách về lãi suất, dự trữ bắt
buộc, công cụ thị trường mở, hạn mức tín dụng …
1.1.3.Đặc trưng của tín dụng ngân hàng:
-Thứ nhất trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng ngân
hàng phải chấp nhận nhiều rủi ro hơn khách hàng. Đó là các rủi ro tín dụng, rủi
ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tồn đọng vốn. Những rủi ro
này gây tổn thất cho ngân hàng. Nguyên nhân gây rủi cho ngân hàng có thể
thuộc về chính bản thân ngân hàng : do quản lý yếu kém, không có khả năng
đánh giá chất lượng các khoản vay, cố tình làm sai , do các thay đổi bất thường
trên thị trường vượt qua khả năng dự tính cuả ngân hàng như thay đổi về lãi
suất, tỷ giá, thay đổi trong các quyết định cuả Chính phủ. Một trong những
nguyên nhân quan trọng nữa là xuất phát từ phía khách hàng: khách hàng có thể
làm ăn kém hiệu quả thua lỗ, chây lười hay cố ý sử dụng sai mục đích đã cam
kết trong hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên rủi ro là điều không thể tránh khỏi trong
hoạt động của ngân hàng nhất là rủi ro tín dụng, ngân hàng chỉ có thể kiểm soát,
hạn chế nó ở mức thấp nhất bằng việc thực hiện thắt chặt quản lý tín dụng, xây

dựng chính sách và qui trình phân tích tín dụng , trích lập quĩ dự phòng, duy trì
sự phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, trao đổi lãi suất, sử dụng các hợp
đồng kỳ hạn, hoán đổi lãi suất, quyền chọn…
Tạ Thanh Hiền - NH44B 7
Luận văn tốt nghiệp
- Thứ hai trong quan hệ tín dụng ngân hàng: Lượng tiền mà NHTM sử
dụng để cấp tín dụng cho các chủ thể trong nền kinh tế hầu như không phải bằng
nguồn vốn tự có của bản thân ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm hai
loại chính : Vốn của chủ ( vốn tự có) và vốn nợ. Khác với nhiều loại hình doanh
nghiệp khác, vốn của chủ ngân hàng thường chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn
vốn, vốn nợ sẽ là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng. Ngân hàng cấp tín dụng
chủ yếu là từ nguồn vốn nợ. Nguồn vốn nợ này hình thành từ nghiệp vụ huy
động vốn của ngân hàng, là nguồn tiền gửi của các cá nhân, tổ chức trong nền
kinh tế, nguồn tiền vay, vốn tài trợ từ các tổ chức, Chính phủ nước ngoài…
1.1.4. Các hình thức tín dụng của ngân hàng :
Tập hợp các phương thức cấp tín dụng được sắp xếp theo từng nhóm dựa
trên một số tiêu thức nhất định được gọi là hình thức tín dụng. Có các hình thức
tín dụng cơ bản sau theo từng tiêu thức sau:
- Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia theo các loại:
Cho vay : Cho vay là phương thức mang lại nhiều lợi nhuận nhất so với
các nghiệp vụ khác, đồng thời cũng là hình thức phổ biến và truyền thống trong
nghiệp vụ tín dụng. Đôi khi nói đến tín dụng người ta hàm ý là nói đến cho vay.
Cho vay là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng sẽ giao một khoản tiền cho
khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong một
khoảng thời gian xác định.
Các phương thức cho vay đối với doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay:
1.Thấu chi: Đây là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách
hàng (người vay) được phép chi trội (vượt ) trên số dư tiền gửi thanh toán của
mình đến một giới hạn nhất định, trong một khoảng thời gian xác định . Giới
hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn,

linh hoạt, thủ tục đơn giản, có thể cấp cho cả các cá nhân và doanh nghiệp trong
các khoảng thời gian khác nhau. Thấu chi là hình thức cho vay dựa trên cơ sở
Tạ Thanh Hiền - NH44B 8
Luận văn tốt nghiệp
thu chi của khách hàng không có sự phù hợp về thời gian và qui mô do đó đã tạo
thuận lợi cho khách hàng trong việc thanh toán một cách chủ động, nhanh
chóng, kịp thời. Tuy nhiên hình thức này chỉ được áp dụng cho những khách
hàng có độ tin cậy, thu nhập đều đặn với chu kỳ ngắn.
2. Cho vay trực tiếp từng lần: Cho vay trực tiếp từng lần là một hình thức
cho vay chủ yếu và tương đối phổ biến của NHTM. Đối tượng áp dụng là
những khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có đủ điều kiện
để được cấp hạn mức thấu chi. Những khách hàng này chủ yếu sử dụng vốn chủ
sở hữu và tín dụng thương mại để kinh doanh, vốn vay của ngân hàng chỉ tham
gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh tức là chỉ đến
khi có nhu cầu nảy sinh mang tính thời vụ hoặc cần mở rộng sản xuất kinh
doanh họ mới đến ngân hàng vay vốn. Do vậy, mỗi lần vay vốn khách hàng và
ngân hàng phải thực hiện các thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín
dụng. Cho vay trực tiếp từng lần là nghiệp vụ cho vay tương đối đơn giản, tiền
vay dựa trên giá trị của tài sản đảm bảo.
3. Cho vay luân chuyền: Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa
trên sự luân chuyển của hàng hoá. Trong nhiểu trường hợp doanh nghiệp mua
hàng hoá có thể thiếu vốn, do vậy cần vay vốn từ ngân hàng và sẽ trả nợ khi
doanh nghiệp bán được hàng. Đầu kỳ luân chuyển hàng hoá doanh nghiệp làm
đơn xin vay luân chuyển, lúc này ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với
nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và
khả năng tiêu thụ Người vay cam kết rằng các khoản vay sẽ được trả cho người
bán và mọi khoản thu từ bán hàng đều dùng vào việc thanh toán tiền vay rồi mới
được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Do vậy ngân
hàng sẽ cho vay dựa trên các chứng từ hoá đơn nhập hàng mà khách hàng gửi
đến

Tạ Thanh Hiền - NH44B 9
Luận văn tốt nghiệp
Cho vay luân chuyển thường được áp dụng với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có chu kỳ tiêu thụ đều đặn,
ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên đối với ngân hàng.
4. Cho vay theo hạn mức tín dụng: Cho vay theo hạn mức tín dụng là
nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn
mức tín dụng được duy trì tromg một khoảng thời gian nhất định. Hạn mức tín
dụng là số dư tối đa tại thời điểm tính. Nếu hạn mức tín dụng được tính cho cả
kỳ thì doanh nghiệp có thể vay làm nhiều lần nhưng số dư nợ không được vượt
quá hạn mức tín dụng. Nếu hạn mức tín dụng tính cuối kỳ thì dư nợ trong kỳ có
thể lớn hơn hạn mức nhưng đến cuối kỳ thì khách hàng phải trả nợ để dư nợ
cuối kỳ không được vượt quá hạn mức. Hạn mức tín dụng sẽ được xác định tuỳ
theo từng đối tượng khách hàng. Mỗi lần khách hàng muốn vay vốn chỉ cần
trình bày phương án vay sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ hàng hoá dịch vụ và
nêu yêu cầu vay. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không cố định trước ngày trả
nợ, ngân hàng sẽ thu nợ khi khách hàng có thu nhập chính điều này đã tạo ra
tính chủ động cho khách hàng trong việc quản lý ngân quỹ nhưng cũng gây khó
khăn cho ngân hàng khi kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay do các lần vay
không có sự tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể. Cho vay theo hạn mức tín dụng
được sử dụng cho các khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia
thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
5. Cho vay gián tiếp: Cho vay gián tiếp là hình thức cho vay thông qua các
trung gian. Cho vay gián tiếp được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay
nhỏ, người vay phân tán…do đó cho vay qua trung gian sẽ có thể tiết kiệm được
chi phí cho vay. Cho vay gián tiếp có hai loại:
- Ngân hàng cho vay gián tiếp thông qua các tổ, đội, hội nhóm như Hội
nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội người mù…các tổ chức này sẽ
đứng ra đảm bảo vay vốn cho các thành viên với mục đích phát triển kinh tế,
xoá đói giảm nghèo, làm giàu. Đối tượng của hình thức cho vay này không chỉ

Tạ Thanh Hiền - NH44B 10
Luận văn tốt nghiệp
là những người buôn bán nhỏ, hộ gia đình…mà còn có thể là các doanh nghiệp
lớn với trung gian là các tổng công ty.
- Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu
vào của chu kỳ sản xuất. Người bán lẽ sẽ tập trung các hoá đơn chứng từ đề nghị
ngân hàng thanh toán, sau đó ngân hàng sẽ thu nợ của khách hàng.
6. Cho vay trả góp: Cho vay trả góp là hình thức tín dụng trong đó khách
hàng được phép hoàn trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả
thuận.
Hình thức cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay có
giá trị lớn trung và hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng hoá lâu bền như
mua ô tô, mua nhà… ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán về số hàng hoá mà
khách hàng đã mua trả góp. Tuy nhiên đây là hình thức cho vay có độ rủi ro cao
do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp, nếu thu nhập của
người đi vay bất ổn do ốm đau, mất việc…sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu nợ
của ngân hàng. Do đó cho vay trả góp thường có lãi suất cao nhất trong khung
lãi suất cho vay của ngân hàng.
Chiết khấu thương phiếu:
Thương phiếu được hình thành trong quá trình mua bán chịu giữa người
mua chịu và người bán chịu. Người bán hay người thụ hưởng có thể giữ thương
phiếu cho đến hạn sẽ được người mua hay người phải trả thanh toán; hoặc trong
nhiều trường hợp người bán ( người thụ hưởng) có thể xin chiết khấu thương
phiếu trước hạn tại ngân hàng. Chiết khấu thương phiếu là hình thức tín dụng
trong đó ngân hàng sẽ ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị
thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu
chưa đến hạn. Đến hạn ngân hàng có quyền đòi tiền từ người mua (người phải
trả), nếu người phải trả không trả ngân hàng có quyền truy đòi đối với các bên
có ký tên trên thương phiếu.
Tạ Thanh Hiền - NH44B 11

Luận văn tốt nghiệp
Bảo lãnh: Bảo lãnh của ngân hàng là việc ngân hàng sẽ cam kết dưới hình
thức thư bảo lãnh về việc thực hiện thay cho khách hàng của mình các nghĩa vụ
tài chính khi khách hàng không thực hiện các nghĩa vụ như cam kết với đối tác.
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải
xuất tiền ngay khi bảo lãnh. Do đó bảo lãnh được ghi vaò tài sản ngoại bảng, đó
là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách hàng của mình. Phần bảo lãnh
ngân hàng phải thực hiện thay cho khách hàng của mình các nghĩa vụ tài chính
lúc đó sẽ được ghi vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn.
Bảo lãnh thường có ba bên: Bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh, bên hưởng
bảo lãnh. Trong đó ngân hàng là bên bảo lãnh, khách hàng của ngân hàng là bên
được bảo lãnh, người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba. Bảo lãnh có các loại sau:
- Bảo lãnh bảo đảm dự thầu.
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
- Bảo lãnh hoàn trả vốn vay( bảo lãnh vay vốn).
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán.
Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi
ro giữa các bên liên quan. Trước hết do mối liên hệ giữa khách hàng và ngân
hàng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết đã ký đồng thời góp phần
giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. Bảo lãnh cũng
góp phần tạo điều kiện ở rộng các dịch vụ như kinh doanh ngoại tệ, tư vấn,
thanh toán.
Cho thuê ( thuê- mua tài sản ): Cho thuê bắt nguồn từ việc một số doanh
nghiệp sản xuất hoặc cung cấp các thiết bị, nhà cửa có giá trị lớn, thời gian sử
Tạ Thanh Hiền - NH44B 12
Luận văn tốt nghiệp
dụng lâu dài có nhu cầu tiêu thụ để tăng doanh thu và giảm sự hao mòn của tài
sản, trong khi đó lại có những người mua không đủ tiền mua hoặc chỉ có nhu
cầu sử dụng tài sản trong thời gian ngắn hơn thời gian khấu hao của tài sản do

đó đã nảy sinh nhu cầu cho thuê và đi thuê. Cho thuê là việc các ngân hàng
thương mại bỏ tiền mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách
hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Và sau một thời gian nhất định
khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Do vậy tài sản cho thuê thuộc
sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng sẽ thu hồi để bán hay cho người khác thuê.
Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài
chính. Việc cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong thì gian ngắn còn
cho thuê tài chính đáp ứng cho các nhu cầu sử dụng lâu dài và người đi thuê có
quyền mua lại tài sản khhi hết hợp đồng thuê. Trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng thương mại thì hoạt động cho thuê chủ yếu là cho thuê tài chính.
Trong hoạt động cho thuê của ngân hàng thì tài sản cho thuê thường là tài
sản cố định, những tài sản này ngân hàng không cam kết cung cấp các dịch vụ
bảo dưỡng tài sản cũng như không chịu trách nhiệm về những thiệt hại đối với
tài sản cho thuê. Khi người đi thuê không thực hiện đúng hợp đồng ngân hàng sẽ
có quyền thu hồi lại tài sản. Lãi suất cho thuê thường cao do phải bao gồm các
chi phí liên quan đến tìm kiếm người cung cấp, mua trang thiết bị, chi phí dàn
xếp, và do rủi ro mà ngân hàng gặp phải vì đây là những tài sản mang tính đặc
chủng, khó bán, chi phí thu hồi cao. Để quản lý hoạt động cho thuê ngân hàng
thương mại có thể lập các phòng cho thuê hoặc có rất nhiều ngân hàng đã
chuyên môn hoá nghiệp vụ cho thuê bằng việc lập ra các công ty cho thuê.
- Phân loại theo sự bảo đảm tín dụng:
 Tín dụng không có sự đảm bảo (tín chấp). Về nguyên tắc mọi khoản tín
dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên ngân hàng chỉ ghi vào trong
hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi thu nợ khi khách
Tạ Thanh Hiền - NH44B 13
Luận văn tốt nghiệp
hàng không hoàn trả nợ. Tín dụng không có đảm bảo là loại tín dụng không cần
tài sản đảm bảo mà việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng.
Vì vậy hình thức này được cấp cho các khách hàng có uy tín, khách hàng làm
ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính lành mạnh, vững chắc, các món vay

tương đối nhỏ so với nguồn vốn của người vay hoặc các khoản vay theo chỉ
định của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần có tài sản đảm bảo.
 Tín dụng có tài sản đảm bảo: Đối với loại tín dụng này khi khách hàng
vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Tín
dụng có đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng của mình phải ký hợp đồng
đảm bảo, ngân hàng sẽ kiểm tra, đánh giá tài sản đảm bảo về các nội dung như
quyền sở hữu, giá trị thị trường, khả năng bán tài sản, khả năng tài chính của
bên bảo lãnh… để có thể giám sát và bảo quản tài sản đảm bảo, thanh lý tài sản
khi khách hàng không trả nợ
- Phân loại theo độ rủi ro:
Tín dụng phân theo độ rủi ro bao gồm các khoản tín dụng có độ an toàn
cao, khá, trung bình và thấp. Để phân loại ngân hàng phải nghiên cứu để xây
dựng các tiêu thức phân chia theo từng thang bậc xếp loại tín dụng có dấu hiệu
rủi ro từ thấp đến cao.
 Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
 Tín dụng vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu xấu đó là khách hàng
chậm tiêu thụ hàng hoá, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính, gặp thiên tai, rủi ro…
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: đây là các khoản nợ đã quá hạn
nhưng khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn.
 Nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ quá hạn đã lâu, khả năng trả nợ
kém, các khoản thế chấp có giá trị nhỏ, mất giá
- Phân theo mục đích:
Tạ Thanh Hiền - NH44B 14
Luận văn tốt nghiệp
Cho vay tài trợ các dự án: Đó là các khoản vay phục vụ cho việc xây dựng
cơ sở hạ tầng, mua sắm các tài sản cố định…nhằm thực hiện các dự án. Để được
vay vốn người vay phải xây dựng các phương án của dự án một cách đầy đủ các
thông tin chi tiết về nội dung, mục đích , kế hoạch, quá trình thực hiện đầu tư…
ngân hàng sẽ dựa vào việc đánh giá, phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của
dự án để đánh giá hiệu quả như NPV, IRR, PI…dự án để xem xét có quyết định

cho vay hay không.
Thông thường các khoản vay tài trợ cho các dự án là các khoản tín dụng
trung và dài hạn
 Cho vay tiêu dùng: Là một hình thức tín dụng sử dụng cho các cá nhân
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng ngày càng gia tăng mạnh mẽ
trong điều kiện kinh tế đang có nhều bước phát triển, đời sống nhân dân ngày
càng cao gắn liền với nhu cầu về hàng hoá tiêu dùng lâu bền có giá trị lớn như
nhà cửa, đất đai, xe, phương tiện vận tải…vì thế cho vay tiêu dùng đang trở
thành một trong những xu hướng phát triển và trở thành một thị trường đầy tiềm
năng trong hoạt động của ngân hàng. Việc cho vay tiêu dùng đã góp phần giúp
đời sống nhân dân được nâng cao, tăng khả năng được đào tạo, giúp họ có nhiều
cơ hội tìm kiếm công việc tốt hơn.
Nền kinh tế phát triển càng đòi hỏi khả năng đáp ứng của tín dụng đối với
toàn bộ nền kinh tế, là nhu cầu của từng khách hàng từ cá nhân, doanh nghiệp,
các công ty tài chính còn là nhu cầu của quốc gia….Vì vậy các NHTM đã và
đang không ngừng mở rộng, đa dạng hoá các hình thức tín dụng, hoàn thiện
từng hình thức nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng đồng thời tăng lợi
nhuận cũng như tính an toàn của mình.
-Phân loại theo thời hạn tín dụng bao gồm các loại:
 Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn từ 12
tháng trử xuống nhằm tài trợ :
Tạ Thanh Hiền - NH44B 15
Luận văn tốt nghiệp
+ Tài trợ cho Nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước bằng
việc ngân hàng sẽ mua trái phiếu do kho bạc phát hành.
+ Ngân hàng cho vay đối với các tổ chức tín dụng tài chính , các công ty tài
chính, quĩ tín dụng … nhằm đáp ứng thanh khoản.
+ Ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp nhằm tài trợ cho các nhu cầu
vốn phát triển thêm cho sản xuất kinh doanh, cho vay xuất nhập khẩu, thanh
toán cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Tín dụng trung hạn: Tín dụng trung hạn là loại hình tín dụng có thời hạn
từ 1 năm đến 5 năm. Đối với loại hình tín dụng này khách hàng là các doanh
nghiệp có nhu cầu tín dụng trung hạn để phục vụ việc mua sắm trang thiết bị tài
sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, công nghiệp, mở rộng sản xuất kinh
doanh, đầu tư cho các dự án, công trình có qui mô vừa và nhỏ. Ngân hàng còn
cấp tín dụng trung hạn đối với người tiêu dùng nhằm thoả mãn các yêu cầu mua
sắm một số hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, ô tô, các phương tiện khác…
 Tín dụng dài hạn: đây là loại hình tín dụng có thời hạn trên 5 năm tài trợ
cho các mục đích sau:
Nhà nước vay dài hạn để đầu tư nhất là đối với các nước đang phát triển
như Việt Nam khi mà khả năng tích luỹ của các doanh nghiệp còn chưa cao thì
các doanh nghiệp có qui mô lớn còn hạn chế và chủ yếu là các doanh nghiệp
Nhà nước thì vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế là rất quan trọng. Nhà
nước thường vay dài hạn để đáp ứng việc phát triển các ngành nghề chiến lược,
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như sân bay, cầu đường, hải cảng… các dự án
phát triển.
Doanh nghiệp sử dụng tín dụng dài hạn để m ua sắm các thiết bị máy móc
có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài, đầu tư cho các chương trình dự án mang
tính chiến lược.
Tạ Thanh Hiền - NH44B 16
Luận văn tốt nghiệp
Việc phân chia tín dụng theo thời hạn có ý nghĩa quan trọng và cần thiết đối
với ngân hàng bởi vì nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài
sản từ đó ngân hàng sẽ cân đối cơ cấu nguồn một cách hợp lý.
1.2 Hiệu quả tín dụng
1.2.1 Khái niệm hiệu quả tín dụng
Cũng như các doanh nghiệp khác trong quá trình thực hiện kinh doanh,
ngân hàng luôn chú trọng tới việc nâng cao hiệu quả hoạt động nói chung trong
đó có nâng cao hiệu quả tín dụng. Hiệu quả tín dụng phản ánh hiệu quả của hoạt
động tín dụng, bao gồm hai yếu tố khả năng sinh lời và mức độ an toàn của ngân

hàng do hoạt động tín dụng mang lại. Khả năng sinh lời là những thu nhập từ
hoạt động tín dụng mang lại và những thu nhập này phải lớn hơn so với chi phí
bỏ ra, mặt khác có hiệu quả tín dụng còn phải đảm bảo mục tiêu an toàn. Hiệu
quả tín dụng đứng trên góc độ hiệu quả kinh tế đó là các khoản lợi nhuận mang
lại từ hoạt động tín dụng bởi vì khi ngân hàng có được lợi nhuận từ việc cấp tín
dụng có nghĩa việc cấp tín dụng có hiệu quả, cũng có nghĩa khách hàng của
ngân hàng hoạt động có hiệu quả trong kinh doanh, thu được lợi nhuận trả được
nợ cho ngân hàng. Đối với xã hội hiệu quả của hoạt động tín dụng sẽ góp phần
thực hiện các chính sách hay mục tiêu phát triển kinh tế của nhà nước, tạo ra
môi trường thuận lợ cho mọi thành viên phát triển.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng
Để xem xét hiệu quả hoạt động tín dụng NHTM đã đưa ra các chỉ tiêu để
đánh giá, do phần lớn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động cho
vay vì vậy xét đến hiệu qủa tín dụng - hiệu quả cho vay là xét đến các hiệu quả
về qui mô, chất lượng và lợi nhuận mà hoạt động đó mang lại cho ngân hàng.
1.2.1.1 Chỉ tiêu dư nợ tín dụng
+ Chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng =
Tạ Thanh Hiền - NH44B 17
Luận văn tốt nghiệp
Chỉ tiêu trưởng dư nợ tín dụng dùng để phản ánh tốc độ tăng trưởng dư nợ
tín dụng đối qua các năm. Chỉ tiêu này được xem xét về việc mở rộng hoạt động
tín dụng của ngân hàng, tín dụng của ngân hàng có sự tăng lên hay giảm đi là
bao nhiêu sau từng năm. Nếu ngân hàng có sự tăng trưởng với tốc độ tăng cao
có nghĩa quy mô tín dụng được mở rộng.
+ Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ tín dụng có tài sản đảm bảo (TSĐB)
Ch ỉ tiêu tỷ lệ dư nợ tín dụng có TS ĐB =
Hiệu quả tín dụng phải bao gồm cả yếu tố an toàn, dư nợ tín dụng có tài
sản đảm bảo góp phần tạo nên tính an toàn cho khoản tín dụng đó. Hầu hết mọi
khoản vay của ngân hàng đều phải có tài sản đảm bảo bởi vì tài sản đảm bảo hạn

chế việc mất vốn của ngân hàng. Trong trường hợp khách hàng của ngân hàng
không hoàn trả được nợ lúc đó ngân hàng sẽ bán các tài sản đảm bảo để bù đắp
tổn thất đó. Vì vậy để tăng hiệu quả tín dụng ngân hàng cần chú ý tới các tài sản
đảm bảo và cố gắng cho vay đối với những khoản có tài sản đảm bảođồng thời
hạn chế việc cho vay đối với các khoản cho vay không có tài sản đảm bảo
1.2.2.2 Các chỉ tiêu về nợ quá hạn:
Các NHTM đều có nợ quá hạn, đó là điều không thể tránh khỏi trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn
bộ nợ gốc và / hoặc lãi quá hạn (Điều 2 khoản 5 quyết định số 493/2005/QĐ-
NHNN) tức là các khoản nợ mà khách hàng không hoàn trả được cho ngân hàng
khi đến hạn ghi trên hợp đồng tín dụng, khoản nợ này có thể là một phần hoặc
toàn bộ gốc, lãi hay cả gốc và lãi.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ =
Tỷ lệ nợ quá hạn là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá độ an toàn tín dụng
cũng như đánh giá hiệu quả tín dụng của NHTM. Một khi NHTM có quá nhiều
khoản nợ quá hạn, ngân hàng đó có nguy cơ không được hoàn trả các khoản đã
Tạ Thanh Hiền - NH44B 18
Luận văn tốt nghiệp
cho vay, gây mất vốn, ảnh hưởng tới cả việc thanh toán các khoản vốn đã huy
động và gây mất niềm tin trong dân chúng làm ảnh hưởng tới nhiều hoạt động
của ngân hàng dẫn đến hiệu quả kinh doanh , hiệu quả tín dụng thấp, năng lực
cạnh tranh giảm sút. Do vậy tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ càng thấp càng tốt,
ngân hàng luôn cố gắng giảm tỷ lệ này tới mức thấp nhất có thể.
+ Tỷ lệ nợ khó đòi: Là các khoản nợ quá hạn đã qúa một kỳ gia hạn nợ. Tỷ
lệ nợ khó đòi cho biết khả năng thu nợ trong tổng nợ quá hạn là được bao nhiêu
% nó cho phép NHTM có thể đánh giá chi tiết hơn về độ an toàn tín dụng.
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động đôi lúc không
thể tránh khỏi những rủi ro trong kinh doanh gây nên tình trạng không trả được
nợ hoặc không trả được nợ đúng hạn, đôi khi lại do nguyên nhân chủ quan từ
chính bản thân doanh nghiệp. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay khối doanh

nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng tương đối lơn, các doanh nghiệp này hoạt
động dựa vào sự giúp đỡ của Nhà nước với qui mô cồng kềnh, hoạt động kém
hiệu quả thường được vay vốn theo sự chỉ định của Nhà nước vì vậy khả năng
trả nợ ngân hàng thường kém. Bên cạnh đó có rất nhiều các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tuy rất năng động trong nền kinh tế
mới, làm ăn hiệu quả ngày càng cao nhưng do kinh nghiệm còn hạn chế, gặp
một số cản trở từ cơ chế chính sách, nhất là trong tình trạng cạnh tranh gay gắt
dẫn đến những rủi ro không thể tránh được và việc không thể trả nợ cho ngân
hàng là điều có thể xảy ra. Để tránh điều này, các NHTM đã và đang chủ động
trong việc thực hiện một qui trình phân tích tín dụng một cách nghiêm túc, cẩn
thận đồng thời yêu cầu mọi khoản tín dụng đều cần tới tài sản đảm bảo. Tạo điều
kiện khuyến khích vay vốn cho các khách hàng mới, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
1.2.2.3 Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng
+ Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng =
Tạ Thanh Hiền - NH44B 19
Luận văn tốt nghiệp
Chỉ tiêu thứ ba sử dụng để đánh giá hiệu quả tín dụng là tỷ lệ thu nhập từ
hoạt động tín dụng. Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng cho biết tỷ lệ % thu
nhập có được từ tín dụng trên tổng thu nhập từ tất cả các hoạt động của ngân
hàng,cũng cho biết mức đóng góp vào thu nhập của ngân hàng từ tín dụng .
Tín dụng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng do vậy tỷ
lệ thu nhập của NHTM phải cao. Tuy nhiên đây chỉ là con số tương đối. Khi xét
đến tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại trên tổng thu nhập cần phải có
sự so sánh, tính toán về các chi phí đã bỏ ra để có được thu nhập này so với các
hoạt động khác. Nếu như tỷ lệ thu nhập cao mà chi phí bỏ ra lớn đều đó không
có nghĩa hoạt động tín dụng có hiệu quả. Do vậy các NHTM phải tìm cách nâng
cao thu nhập đồng thời phải giảm bớt các chi phí liên quan.
Điều cần chú ý khi tính toán chỉ tiêu này là để sử dụng chỉ tiêu Tỷ lệ thu
nhập từ hoạt động tín dụng các ngân hàng phải thống nhất đó là thu nhập trước

thuế hay cùng là thu nhập sau thuế.
+ Chỉ tiêu mức sinh lời vốn tín dụng :
Mức sinh lời vốn tín dụng =
Mức sinh lời vốn tín dụng là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp hiệu quả tín dụng
và cho biết khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng. Mức sinh lời vốn tín dụng
cho biết cứ một đồng dư nợ tín dụng bình quân sẽ tạo ra mấy đồng thu nhập từ
hoạt động tín dụng. Khi mức sinh lời vốn tín dụng càng cao có nghĩa là khả
năng sinh lời từ tín dụng càng lớn- hiệu quả tín dụng càng cao. Mục tiêu cuối
cùng của bất cứ môt doanh nghiệp nào cũng là tăng lợi nhuận, tăng giá trị tài sản
chủ sở hữu, NHTM cũng vậy. Ngân hàng luôn tìm cách tăng mức sinh lời vốn
tín dụng nhằm tăng hiệu quả cũng như thu nhập của mình. Nhưng tỷ lệ sinh lời
cao không có nghĩa là ngân hàng đang an toàn trong hoạt động. Do vậy ngân
hàng cần phải có sự xem xét kết hợp với các chỉ tiêu khác nhất là các chỉ tiêu an
toàn vốn.
Tạ Thanh Hiền - NH44B 20
Luận văn tốt nghiệp
1.2.2.4 Chỉ tiêu về tỷ lệ mất vốn:
Một trong những chỉ tiêu cũng được sử dụng trong việc đánh giá hiệu quả
tín dụng là tỷ lệ mất vốn. Tỷ lệ mất vốn là tỷ số giữa số vốn bị mất do xoá nợ
cho kỳ báo cáo trên dư nợ bình quân cùng kỳ. Tỷ lệ mất vốn cho biết về những
khoản vay bị mất và khoản vay bị mất thực sự của NHTM. Để giải quyết nợ
quá hạn NHTM có thể áp dụng chính sách xoá nợ. Nếu như một khoản nợ quá
hạn không còn được tiếp tục theo dõi mà được xoá nợ thì điều này có nghĩa là
khoản nợ đó không có khả năng thu hồi được nữa, ngân hàng sẽ bị mất một
khoản vốn. Vì thế ngân hàng không thường xuyên sử dụng biện pháp này và chỉ
xoá nợ khi không còn cách nào khác. Việc xoá nợ của NHTM làm cho các
khoản nợ quá hạn giảm xuống, tức tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống. Khi tỷ lệ nợ
quá hạn giảm có nghĩa là hiệu quả tín dụng cao nhưng thực tế không phải vậy
mà do là NHTM đó đã bị mất đi một số vốn. Do đó để đánh giá một chính xác
hiệu quả tín dụng tỷ lệ mất vốn cần phải được xem xét đồng thời với các chỉ tiêu

trên.
1.2.3 Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả tín dụng
 Đối với ngân hàng
- Nâng cao hiệu quả tín dụng góp phần tạo ra vị thế cạnh tranh cho ngân
hàng. Hầu hết với các NHTM tín dụng là hoạt động chủ yếu đồng thời cũng là
hoạt động mang lại thu nhập nhiều nhất. Một ngân hàng có hiệu quả tín dụng
đồng nghĩa với việc ngân hàng có khả năng hoạt động tốt trong tín dụng cũng
có nghĩa có vị thế cạnh tranh cao, thị trường lớn, khả năng đáp ứng vốn cho nền
kinh tế có hiệu quả cao.
- Đảm bảo mục tiêu an toàn và lợi nhuận: Hai mục tiêu lớm nhất trong hoạt
động của ngân hàng là an toàn và lợi nhuận. Nâng cao hiệu qủa tín dụng sẽ giúp
ngân hàng thực hiện được hai mục tiêu đó. Thu nhập chủ yếu của các ngân hàng
hiện nay là từ tín dụng, do vậy để có được mức thu nhập cao buộc các khoản tín
Tạ Thanh Hiền - NH44B 21
Luận văn tốt nghiệp
dụng phải thực sự có hiệu quả, các khoản tín dụng sau khi cấp cho khách hàng
sử dụng phải được quay trở lại ngân hàng với lượng lớn hơn ban đầu. Mặt khác,
tín dụng cũng là hoạt động mang rủi ro lớn nhất, tuy nhiên ngân hàng phải chấp
nhận rủi ro tín dụng, đó là điều không thể tránh khỏi ngân hàng chỉ có thể hạn
chế ở mức độ nào đó. Khi hoạt động tín dụng được nâng cao hiệu quả sẽ góp
phần giảm bớt tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi, hạn chế tổn thất mà ngân hàng phải
gánh chịu. Như vậy hiệu quả tín dụng được nâng cao không những tạo ra lợi
nhuận cho ngân hàng mà nó còn góp phần hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn trong
hoạt động của ngân hàng.
- Quản lý tốt hơn quá trình cấp tín dụng cho khách hàng: Để nâng cao hiệu
quả tín dụng ngân hàng phải thường xuyên giám sát, kiểm tra trước, trong và sau
khi cấp tín dụng. Việc quản lý thường xuyên này giúp ngân hàng có được những
khách hàng tốt, và có những xử lý kịp thời khi khoản tín dụng đã cấp gặp trở
ngại, tạo khả năng thu hồi vốn và lãi cao.
 Đối với doanh nghiệp.

- Nâng cao hiệu quả tín dụng giúp doanh nghiệp thực hiện quá trình đầu tư
một cách nghiêm túc. Doanh nghiệp có thể tiếp cận với ngân hàng để vay vốn.
Khi ngân hàng đã cấp tín dụng cho khách hàng của mình nếu ngân hàng không
thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát khoản tín dụng này thì khách hàng có thể
sử dụng vốn vay sai mục đích , đầu tư vào một danh mục đầu tư có tính rủi ro
cao với kỳ vọng đem lại thu nhập lớn. Việc này sẽ gây lên việc vốn ngân hàng
cho vay có thể gặp rủi ro, khả năng hoàn trả khó khăn, gây ra nợ quá hạn, nợ
khó đòi. Muốn nâng cao hiệu quả tín dụng các ngân hàng phải thực hiện một
qúa trình giám sát, kiểm soát vốn vay nghiêm túc, thường xuyên không để xảy
ra hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích đã được ký kết. Điều này khiến cho
doanh nghiệp phải thực hiện đầu tư, sản xuất một cách nghiêm túc.
Tạ Thanh Hiền - NH44B 22
Luận văn tốt nghiệp
- Lành mạnh hoá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để nâng cao
hiệu quả tín dụng trước khi quyết định cấp một khoản tín dụng, ngân hàng phải
thực hiện việc phân tích tín dụng một cách chặt chẽ. Chỉ khi khách hàng đáp ứng
được các yêu cầu mang tính khắt khe của ngân hàng thì ngân hàng mới cấp tín
dụng cho khách hàng. Mặt khác trong qúa trình khách hàng sử dụng vốn vay,
ngân hàng vẫn thường xuyên giám sát, theo dõi các kết quả kinh doanh, định kỳ
xem xét đánh giá các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp điều này góp phần thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động một cách lành
mạnh, trung thực.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: ngân
hàng có hiệu quả tín dụng cao đồng nghĩa với việc vốn vay mà ngân hàng cho
vay được trả đầy đủ và đúng hạn, điều này bắt buộc khách hàng của ngân hàng
cũng phải có hiệu quả trong hoạt động đầu tư, sản xuất tạo ra thu nhập để trả nợ
đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng. Như vậy khi ngân hàng nâng cao hiệu quả
trong cấp tín dụng đồng thời nó cũng thúc đẩy hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp có hiệu quả.
 Đối với xã hội

- Nâng cao hiệu quả tín dụng góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển: Khi hoạt
động tín dụng có hiệu quả có nghĩa vốn vay mà ngân hàng cung cấp được khách
hàng sử dụng có hiệu quả, tăng giá trị của cải, giá trị tích luỹ, nền kinh tế thực
sự tăng trưởng. Các cá nhân tổ chức vay vốn ngân hàng cũng phải tự mình hoàn
thiện quá trình tham gia hoạt động của mình trên thị trường nhằm sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận, trả nợ đầy đủ cho ngân hàng.
- Góp phần tạo môi trường hoạt động an toàn, phát triển kinh tế một cách
lành mạnh. Hoạt động tín dụng ngân hàng có hiệu quả làm giảm bớt những thiệt
hại xảy ra cho ngân hàng cũng như cho nền kinh tế. Tạo môi trường an toàn ổn
định cho các thành viên phát triển.
Tạ Thanh Hiền - NH44B 23
Luận văn tốt nghiệp
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng :
1.2.2.1 Các nhân tố chủ quan:
-Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
 Cán bộ nhân viên ngân hàng .
Một trong những đặc tính của sản phẩm ngân hàng là hình thức dịch vụ
mang hình thái phi vật chất mà cả quá trình sản xuất lẫn tiêu thụ sản phẩm phải
được tiến hành một cách đồng thời với sự tham gia của 3 yếu tố: Khách hàng-
Nhân viên ngân hàng – cơ sở vật chất trang thiết bị. Do đó nhân viên ngân hàng
có tác động trực tiếp đến hiệu quả của ngân hàng cũng như hoạt động tín dụng
của NHTM. Khi mà ngân hàng có một đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ,
năng lực, phẩm chất tốt thực hiện nhuần nhuyễn chính xác các công việc nghiệp
vụ của mình thì ngân hàng sẽ có kết quả cao trong hoạt động và ngược lại. Hoạt
động tín dụng là một rong những hoạt động cơ bản của ngân hàng, kết quả của
hoạt động tín dụng có ảnh hưởng rất lớn tới toàn bộ mọi hoạt động khác của
ngân hàng do vậy trình độ của cán bộ nhân viên tín dụng có vai trò quan trọng
nhất định trong cơ cấu tổ chức cán bộ của NHTM. Nhân viên tín dụng ngân
hàng là đôi ngũ trực tiếp xử lý các nghiệp vụ tín dụng như cho vay, bảo lãnh,
chiết khấu… cho các khách hàng, xử lý các qui trình tín dụng từ việc xem xét hồ

sơ cho vay, phân tích tín dụng, giải ngân, thu nợ, xử lý các rủi ro liên quan. Đội
ngũ nhân viên có trình độ cao thì các hợp đồng tín dụng sẽ được xử lý tốt, ngân
hàng có được một khoản cho vay thành công tránh được rủi ro và mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng. Trong đó có thể nói nhân viên giao dịch với khách hàng là
hình ảnh của NHTM, bởi sản phẩm của ngân hàng mang hình thái phi vật chất
khách hàng chỉ có thể đánh giá chất lượng của sản phẩm sau khi đã sử dụng nó
do thế trước hết để xem xét có nên sử dụng sản phẩm dịch vụ nào đó của ngân
hàng không thông thường khách hàng sẽ lựa chọn theo cảm tính như thương
hiệu, mức độ phổ biến, sự thuận tiện…đặc biệt là thông qua thái độ tiếp xúc của
Tạ Thanh Hiền - NH44B 24
Luận văn tốt nghiệp
nhân viên ngân hàng- nhân viên giao dịch. Nâng cao trình độ nghiệp vụ năng lực
cho cán bộ công nhân viên đang trở thành một nhu cầu chính đáng và cần thiết
đối với toàn bộ hệ thống NHTM, là một trong những`chính sách phát triển
nguồn nhân lực của ngân hàng Nhà nước.
 Chiến lược kinh doanh : Là chiến lược quan trọng hàng đầu đối với
NHTM. Mỗi NHTM có một chiến lược kinh doanh khác nhau trong hoạt động
của mình bảo đảm cho ngân hàng hoạt động có hiệu quả nâng cao vị thế của
mình trong hệ thống tài chính. Chiến lược kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp tới
hoạt động tín dụng. Khi ngân hàng có một chiến lược tín dụng phù hợp dựa trên
cơ sở một chiến lược kinh doanh tốt, đúng đắn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
tín dụng. Nếu ngân hàng có một chiến lược kinh doanh tốt,có tính thực tiễn cao
mà trong đó lại có chiến lược tín dụng không phù hợp thậm chí mâu thuẫn về
mục tiêu đạt được ngân hàng sẽ gặp bế tắc trong việc lựa chọn mục tiêu cần
hướng tới. Mặt khác trường hợp ngân hàng có một chiến lược tín dụng tốt nhưng
chiến ược kinh doanh không đúng đắn thì hiệu qủa tín dụng cũng bị hạn chế.
Do vậy, người lãnh đạo của ngân hàng phải đề ra được một chiến lược kinh
doanh dài hạn một cách phù hợp, linh hoạt dựa trên quan hệ tổng thể với các
chiến lược kế hoạch khác.
 Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của

một ngân hàng trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên
ngân hàng. Nội dung cơ bản của chính sách tín dụng là các vấn đề liên quan tới
việc cấp tín dụng như các chính sách về khách hàng, chính sách qui mô và giới
hạn tín dụng, lãi suất tín dụng và phí suất, thời hạn, các tài sản đảm bảo và các
tài sản có vấn đề…Một chính sách tín dụng hợp lý sẽ thu hút được nhiều khách
hàng, thu được nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên mỗi NHTM có một chính sách tín
dụng riêng phù hợp với cơ cấu, mục tiêu, của mình trong từng giai đoạn. Thực
chất chính sách tín dụng là chính sách khách hàng của NHTM. Chính sách tạo ra
Tạ Thanh Hiền - NH44B 25

×