Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

tình hình thanh toán theo phương thức tdct tại ngân hàng đông hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.73 KB, 90 trang )

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
I. HOẠT ĐỘNG TTQT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ VAI TRÒ
CỦA TTQT
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NHTM
NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,tín dụng
với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và
cung ứng các dịch vụ thanh toán. Mục tiêu hoạt động của NHTM khác hẳn mục
tiêu của NHTƯ là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ để tìm kiếm và tối đa hóa lợi
nhuận trong phạm vi khuôn khổ pháp luật, đây là mục tiêu cơ bản xuyên suốt
quá trình hoạt động của NHTM.
NHTM có hoạt động gần gũi nhất với mỗi người dân và với nền kinh tế.
Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của NHTM càng đi vào tận
cùng ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người, mọi công dân đều chịu
tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi tiền, người đi vay, hay đơn
giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vốn và sử dụng các dịch
vụ ngân hàng.
Ở nước ta, tổ chức tín dụng đầu tiên là Nhà tín dụng, được thành lập năm
1951. Đây là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Từ đó đến nay hệ
thống các NHTM đã không ngừng phát triển về loại hình và nghiệp vụ góp phần
vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Hiện nay Việt Nam có nhiều loại hình
NHTM với các hình thức sở hữu, tính chất pháp lý khác nhau (NHTM Quốc
doanh hay còn gọi là NHTM nhà nước; NHTM cổ phần; chi nhánh ngân hàng
nước ngoài; ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài) và tồn tại với
các tên gọi khá phong phú như: NHTM, NH Kỹ Thương Trong đó, hệ thống
NHTM Quốc doanh gồm: NH Công Thương Việt Nam, NH Ngoại thương Việt
Nam, NH Đầu tư và phát triển Việt Nam, NH Nông Nghiệp và phát triển Nông
thôn, NH Phát triển nhà Đồng Bằng sông Cửu Long và NH chính sách xã hội.
NHTM Quốc doanh được tổ chức theo một hệ thống thống nhất từ trung ương
đến địa phương. Dưới các NHTM QD là các sở giao dịch, dưới sở giao dịch là


các chi nhánh và tiếp theo là phòng giao dịch. Ngoài mạng lưới trong nước và
các ngân hàng này còn mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, thiết lập quan hệ
đại lý với nhiều ngân hàng trên khắp các châu lục .
Ngày nay hoạt động của NHTM rất đa dạng không chỉ là cho vay và làm
trung gian thanh toán nó còn mở rộng ra các lĩnh vực kinh doanh mới : Tư vấn
đầu tư chứng khoán, bảo lãnh và đại lý,quản lý danh mục đầu tư Đặc biệt
trong Thương mại Quốc tế NHTM còn có khả năng thanh toán, NHTM cung cấp
các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, tiết kiệm chi phí cho các chủ thể
tham gia thanh toán và nâng cao khả năng tín dụng. Việc mở tài khoản, cung cấp
và quản lý các phương tiện thanh toán làm cho NHTM trở thành một trung tâm
thanh toán cho nền kinh tế. Thay cho việc thanh toán trực tiếp các doanh nghiệp,
cá nhân, tổ chức có thể nhờ NHTM thực hiện những việc này trên cơ sở những
phương tiện thanh toán khác nhau, với kỹ thuật ngày càng tiên tiến và thủ tục
ngày một đơn giản. Những dịch vụ thanh toán của NHTM ngày càng được ưa
chuộng vì nó đem lại sự thuận tiện, mau chóng, an toàn tiết kiệm chi phí hơn
cho những chủ thể trong nền kinh tế.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG TTQT CỦA NHTM.
1.2.1. TTQT và sự hình thành phát triển của hoạt động TTQTtại NHTM.
TTQT là việc thanh toán giữa các nước với nhau về những khoản tiền nợ
lẫn nhau phát sinh từ các quan hệ giao dịch về kinh tế, chính trị, văn hóa Chủ
thể trong TTQT có thể là pháp nhân hoặc chính phủ của các nước.
TTQT là chức năng ngân hàng quốc tế của NHTM nó được hình thành trên
cơ sở phát triển ngoại thương của một nước và NHTM được nhà nước giao cho
độc quyền làm công tác thanh toán này. Do vậy, giao dịch thanh toán trong
ngoại thương đều phải thông qua ngân hàng. Đây là nghiệp vụ đòi hỏi trình độ
chuyên môn ứng dụng công nghệ ngân hàng tạo sự hòa nhập hệ thống ngân hàng
Việt Nam và hệ thống NHTM thế giới tạo sự an toàn và hiệu quả đối với NHTM
và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
TTQT đã hình thành từ rất lâu cùng với quá trình hình thành và phát triển
hoạt động xuất nhâp khẩu quốc tế. Hình thức thanh toán xuất nhập khẩu sơ đẳng

nhất là hàng đổi hàng. Sự xuất hiện của tiền tệ làm cho việc mua bán trao đổi
được diễn ra thuận tiện hơn. Nhưng các quốc gia khác nhau lại sử dụng các đồng
tiền khác nhau, chính vì vậy mà ngân hàng xuất hiện làm trung gian chuyển
hóa loại tiền này sang loại tiền khác, đại diện cho bên mua thanh toán cho bên
bán.
Khi kỹ thuật nghiệp vụ và mạng lưới hoạt động phát triển hơn, ngân hàng
có thể đại diên cho bên bán yêu cầu bên mua trả tiền trị giá món hàng đã mua.
Đến đây vai trò của ngân hàng còn giới hạn ở mức làm dịch vụ giúp hai đối tác
và không can thiệp vào quyết định mua bán thanh toán của họ, hai bên mua bán
vẫn phải hiểu rõ và tín nhiệm lẫn nhau.
Ngoại thương phát triển tạo ra khả năng để các đối tác dù chưa hiểu nhau
vẫn có thể mua bán với nhau để tạo thị trường và tăng lợi nhuận. Bằng các
nghiệp vụ của mình ngân hàng trở thành gạch nối giữa hai bên mua và bán cách
xa nhau về mặt địa lý, hàng rào ngôn ngữ, phong tục tập quán, chưa hiểu rõ
nhau có thể làm ăn song phẳng với nhau. Ngân hàng cung cấp thêm dịch vụ
mới : dịch vụ cho mượn uy tín, giúp các đối tác kinh doanh xuất nhập khẩu
thanh toán mau chóng, thuận lợi và an toàn.
1.2.2. Vai trò của thanh toán Quốc tế
Tất cả các quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động
khác trong nền kinh tế đều được kết thúc bằng khâu thanh toán. Thanh toán
quốc tế không chỉ đem lại lợi ích cho những bên tham gia mua bán hàng hóa
dịch vụ , nó còn đem lại lợi nhuận cho các ngân hàng cũng như đem lại lợi ích
cho toàn bộ nền kinh tế.
 vai trò của TTQT đối với doanh nghiệp XNK
Thông qua thương mại quốc tế và thanh toán quốc tế, nhu cầu của cả nhà
Xuất khẩu và Nhập khẩu đều có điều kiện được đáp ứng. Nhà xuất khẩu bán
được hàng, mở rộng được hoạt động kinh doanh, đưa sản phẩm của mình ra
phạm vị khu vực và thế giới, tăng doanh thu và lợi nhuận Nhà nhập khẩu thì lại
nhập được hàng hóa mà mình hay thị trường đang cần. Chính vì vậy, tổ chức tốt
khâu thanh tóan trong thương mại quốc tế không chỉ có tác dụng phục vụ, thúc

đẩy mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, và là
điều kiện đảm bảo cho tình hình tài chính được đảm bảo ổn định và vững chắc.
Phần lớn các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đều không thể tự thực hiện
TTQT do có khó khăn về mặt địa lý, phong tục tập quán và rất nhiều khó khăn
khác nữa dẫn đến nhu cầu thanh toán hộ được thực hiện bởi các ngân hàng.
Ngân hàng với sức mạnh về năng lực, uy tín của mình có thể giúp các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong thanh toán trực tiếp
bằng tiền mặt. Ngoài ra, cũng nhờ thanh toán qua ngân hàng mà các nhà xuất
khẩu, nhà nhập khẩu có thể tận dụng được các hình thức tín dụng hoặc tài trợ
xuất nhập khẩu đi kèm hoạt động thanh toán để hỗ trợ về tài chính cho hoạt
động buôn bán, kinh doanh đó của mình.
 vai trò của TTQT đối với NHTM
- Khi thực hiện chức năng trung gian thanh toán ngân hàng sẽ có khả năng
tăng doanh thu và lợi nhuận thu từ phí các dịch vụ phát sinh nhu:
+ Những khoản thu được do kinh doanh ngoại vì buôn bán với nước ngoài
đòi hỏi phải có ngoại tệ và ngân hàng chính là người đảm nhân vai trò cung cấp
ngoại tệ cho các bên tham gia buôn bán.
+ Những khoản lợi nhuận thu từ phí dịch vụ thanh toán quốc tế, lãi thu
được từ tài trợ thương mại mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Cũng qua
đó tạo điều kiện cho các dịch vụ bảo lãnh thanh toán, tài trợ tín dụng xuất nhập
khẩu, kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng ngày càng phát triển.
+ TTQT làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Bởi lẽ muốn thanh toán
qua ngân hàng khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng(ký quỹ) tỉ lệ
với giá trị mà ngân hàng bảo lãnh sẽ thanh toán. Trên cơ sở đó giúp ngân hàng
huy động số dư tài khoản tiền gửi của ngân hàng để cho vay, góp phần nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
- Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro nhất(rủi ro tín
dụng, rủi ro lãi xuất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản )TTQT giúp ngân
hàng phân tán rủi ro thông qua việc kinh doanh trong nhiều lĩnh vực. Lợi nhuận
thu được từ hoạt động TTQT sẽ hỗ trợ khi thị trường biến động giúp ngân hàng

phát triển ổn dịnh bền vững. Hơn nữa thông qua TTQT , ngân hàng có thể giám
sát được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, có thông
tin chính xác về tình hình tài chính của các doanh nghiệp này.
- Hoạt đông TTQT giúp cho quy mô hoạt động của NH vượt ra khỏi phạm
vi quốc gia làm tăng cường quan hệ đối ngoại. NH thực hiện TTQT sẽ có được
quan hệ đại lý với ngân hàng và các đối tác nước ngoài. Mối quan hệ này dựa
trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng lâu, mối
quan hệ ngày càng mở rộng giúp khai thác được các nguồn tài trợ của ngân hàng
nước ngoài, nguồn vốn trên thị trương tài chính quốc tế.
1.3. CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ CHỦ YẾU ĐƯỢC ÁP
DỤNG TRONG TMQT
Phương thức TTQT là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong
giao dịch mua bán ngoại thương giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu.
Trong quan hệ ngoại thương, có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau
như: chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu, tín dụng chứng từ Mỗi phương thức đều có
ưu nhược điểm, thể hiện thành mâu thuẫn quyền lợi giữa người nhập khẩu và
người xuất khẩu.Vì vậy, việc chọn phương thức thanh toán thích hợp phải được
2 bên bàn bạc thống nhất, ghi vào hợp đồng mua bán ngoại thương.
1.3.1. Phương thức chuyển tiền.
a. Khái niệm:
Đây là phương thức thanh toán đơn giản nhất, trong đó một khách hàng
(người trả tiền, người mua, người nhập khẩu, người mắc nợ ) ủy nhiệm cho
ngân hàng phục vụ mình trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định
chuyển cho người khác ( người bán, người xuất khẩu, chủ nợ ) ở một địa điểm
nhất định và trong một thời gian nhất định.
Thanh toán chuyển tiền là thanh toán trực tiếp giữa người chuyển tiền và
người nhận. Ngân hàng khi thực hiện việc chuyển tiền và trả tiền, chỉ đóng vai
trò trung gian thanh toán theo ủy nhiệm để được hưởng hoa hồng, và không bị
ràng buộc gì cả đối với người mua lẫn người bán.
Việc chuyển tiền xem như hoàn tất khi thanh toán hết số tiền cho người thụ

hưởng; trước thời điểm này, số tiền trong tài khoản vẫn thuộc quyền sở hữu của
người chuyển tiền và người này có quyền hủy bỏ lệnh chuyển tiền, mà người thụ
hưởng không thể khiếu nại gì với ngân hàng. Như vậy, việc trả tiền phụ thuộc
vào thiện chí của người mua, quyền lợi của người xuất khẩu không đảm bảo.
Trong quan hệ mua bán, thanh toán quốc tế, phương thức chuyển tiền chỉ
được chọn làm phương tiện thanh toán đối với các nhà kinh doanh xuất nhập
khẩu, cung ứng dịch vụ có quan hệ thân thiết, tin cậy lẫn nhau, vì khâu thanh
toán này dễ nảy sinh việc chiếm dụng vốn của người bán, nếu bên mua cố tình
dây dưa, kéo dài việc ra lệnh thanh toán, trong khi phương thức chuyển tiền, đặc
biệt là chuyển tiền bằng điện, là phương thức thanh toán nhanh nhất hiện nay.
Có hai hình thức chuyển tiền: chuyển tiền bằng thư (mail transfer, M/T) và
chuyển tiền bằng điện báo (telegraphic transfer T/T ). Hình thức chuyển tiền
bằng điện có lợi cho người xuất khẩu vì nhận tiền nhanh, không có lợi cho
người nhập khẩu vì chi phí cao.
b. quá trình tiến hành nghiệp vụ
Trong phương thức thanh toán này, có các bên liên quan:
- Người phát hành lệnh chuyển tiền (người mua, người nhập khẩu )
- Ngân hàng nhận thực hiện việc chuyển tiền (ngân hàng nơi đơn vị chuyển
tiền mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ )
-Ngân hàng trả chuyển tiền (ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền)
- Người nhận chuyển tiền (người bán, tổ chức xuất khẩu )
Quy trình thanh toán theo phương thức chuyển tiền
Bước 1: Sau khi thỏa thuận đi đến ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương,
tổ chức xuất khẩu thực hiện việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho tổ chức nhập
khẩu, đồng thời chuyển giao toàn bộ chứng từ( vận đơn, hóa đơn, chứng từ về
hàng hóa ) cho tổ chức nhập khẩu.
Bước 2: Tổ chức nhập khẩu sau khi kiểm tra chứng từ, hóa đơn, viết lệnh
chuyển tiền gửi đến ngân hàng phục vụ mình, trong đó phải ghi rõ ràng và đầy
đủ những nội dung theo quy định.
Bước 3: Sau khi kiểm tra, nếu hợp lệ và đủ khả năng thanh toán, ngân hàng

sẽ trích tài khoản của đơn vị để chuyển tiền, gủi giấy báo nợ, giấy báo đã thanh
toán cho đơn vị nhập khẩu.
Bước 4: Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh( bằng thư hay điện báo) cho ngân
hàng đại lý mình ở nước ngoài để chuyển trả cho người nhận tiền.
Bước 5: Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho người được hưởng( trực tiếp
hoặc gián tiếp qua ngân hàng khác) và gửi giấy báo Có cho đơn vị.
- Ưu điểm: Đây là phương thức thanh toán đơn giản, dễ thực hiện nhất
trong các phương thức TTQT. Hơn nữa, thủ tục phí thấp nên làm giảm thiểu chi
phí trong giao dịch, mà vẫn an toàn vì tiền được chuyển thông qua hệ thống tài
khoản liên ngân hàng.
- Nhược điểm: Phương thức này tạo ra quyền chủ động trong nghĩa vụ phải
trả tiền của người chuyển tiền nên việc trả tiền sẽ phụ thuộc vào thiện chí, sự
chủ động và khả năng của người chuyển tiền. Ngân hàng chỉ là trung gian thực
hiện theo ủy nhiệm để hưởng hoa hồng chứ không bị ràng buộc gì cả. Do vậy,
trong phương thức này rủi ro không nhận được tiền của người hưởng lợi là rất
cao
- Trường hợp áp dụng: phương thức này thường được áp dụng trong lĩnh
vực chuyển vốn hoặc cấp kinh phí ra nước ngoài, chuyển kiều hối, hay áp dụng
trong thanh toán phi mậu dịch hoặc thanh toán các chi phí có liên quan đến
XNK hàng hóa.Tuy nhiên, nếu được thực hiện để thanh toán tiền hàng thì chỉ sử
dụng trong trường hợp 2 bên mua bán tin cậy, tín nhiệm lẫn nhau.
1.3.2. Phương thức ghi sổ:
a. Khái niệm:
Phương thức ghi sổ là phương thức thanh toán mà qua đó tổ chức xuất khẩu
khi xuất khẩu hàng hóa, cung ứng dịch vụ, thì ghi nợ cho bên nhập khẩu (bên
cung ứng), vào một cuốn sổ riêng của mình, và việc thanh toán các khoản nợ
này được thực hiện trong tưng thời kỳ nhất định.
Khi thực hiện phương thức này, tổ chức xuất khẩu đã thực hiện một tín
dụng cho tổ chức nhập khẩu dưới dạng tín dụng thương mại.
Bước 1,2 : Người Nhập khẩu tiến hành cung cấp hàng hóa, dịch vụ và gửi

chứng từ hàng hóa cho người nhập khẩu, đồng thời báo Nợ trực tiếp cho người
nhập khẩu .
Bước 3: Người nhập khẩu dùng phương thức chuyển tiền để trả cho người
bán khi đến kỳ hạn thanh toán.
Quy trình tiến hành nghiệp vụ thanh toán theo phương thức ghi sổ
-Ưu nhược điểm: Đây là phương thức đơn giản và vì không có sự tham gia
của các ngân hàng với tư cách là người mở tài khoản hoặc thực chi thanh toán
trong từng chuyến hàng nên sẽ tiết kiêm được chi phí thanh toán. Tuy nhiên, giá
trong phương thức ghi sổ này cao hơn giá hàng bán trả tiền ngay do có trênh
lệch là tiền lãi phát sinh của số tiền ghi sổ trong khoảng thời gian bằng định kỳ
thanh toán theo mức lãi suất được người mua chấp nhận.
Ngoài ra, đây là phương thức rủi ro nhất. Phương thức này có nhược điểm
là không đảm bảo cho nhà xuất khẩu kịp thời thu tiền và cũng dễ gặp rủi ro
trong thanh toán nếu không có quan hệ tin cậy với nhà nhập khẩu. Phương thức
này chỉ có lợi cho người mua.
-Trường hợp áp dụng:Phương pháp này thường được áp dụng thanh toán
những khoản chi phí mậu dịch hoặc theo phương thức mua bán hàng đổi hàng
nhiều lần, thường xuyên( ghi sổ để khấu trừ ngay trên sổ ), giữa công ty mẹ và
chi nhánh, đại lý, công ty con ở các nước, thường diễn ra trong thời kỳ kế hoạch
hóa tập trung và trong trường hợp hai bên mua bán thực sự tin cậy nhau.
1.3.3. Phương thức nhờ thu.
a. Khái niệm:
Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán, mà qua đó tổ
chức xuất khẩu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ gởi hàng, giao chứng từ hàng
hóa ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền trên cơ sở hối phiếu do
mình lập ra ở người nhập khẩu thông qua ngân hàng phục vụ người nhập khẩu.
Người nhập khẩu khi nhận được giấy báo nhờ thu của ngân hàng, phải tiến hành
ngay việc chi trả tiền để nhận lại chứng từ hàng hóa và đi lãnh hàng.
Trong mối quan hệ này, ngân hàng ở cả hai bên nước nhà nhập khẩu lẫn
nhà xuất khẩu, chỉ tham gia với tư các là người trung gian đi thu tiền hộ, có nhận

giữ các chứng từ có liên quan đến hàng hóa đã gửi đi, nhưng không bị ràng buộc
trách nhiệm, phải kiểm tra các chứng từ gửi nhờ thu, cũng như việc giấy nhờ thu
có được nhà nhập khẩu chấp nhận và thanh toán hay không. Phương thức thanh
toán này hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm lẫn nhau giữa nhà xuất khẩu và nhà
nhập khẩu, nó đảm bảo hơn hai hình thức thanh toán bằng séc và chuyển tiền ở
chỗ, nhà xuất khẩu yêu cầu ngân hàng bên mua không giao chứng từ đi lãnh
hàng cho nhà nhập khẩu, khi người này chưa thanh toán tiền. Tuy nhiên tốc độ
thanh toán vẫn chậm, rủi ro cho bên xuất khẩu lớn, trường hợp nhà nhập khẩu
không chịu thanh toán, từ chối nhận hàng vì lý do giá mua sản phẩm đang xuống
thấp mà người bán không chấp nhận giảm giá, và nhất là vì lô hàng nhập về
không còn phù hợp thị hiếu người tiêu dùng.
b. Quá trình tiến hành nghiệp vụ:
Trong phương thức thanh toán nhờ thu, có các bên liên quan như sau:
- Tổ chức xuất khẩu, người cung ứng dịch vụ, người ký phát hối
phiếu tức là người ra lệnh.
- Ngân hàng nhờ thu là ngân hàng nhận sự ủy thác thu tiền, ngân
hàng bên xuất khẩu.
- Ngân hàng nhận nhiệm vụ thu tiền: thông thường là ngân hàng
đại lý của ngân hàng bên xuất khẩu tại nước nhập khẩu.
- Tổ chức nhập khẩu là người quyết định thanh toán, là người mà
hối phiếu, chứng từ sẽ gửi đến cho họ.
Căn cứ vào nội dung chứng từ thanh toán gửi đến ngân hàng nhờ thu, người
ta chia phương thức thanh toán này thành hai loại:
Nhờ thu phiếu trơn( Clean collection):Người xuất khẩu giao hàng và bộ
chứng từ cho người nhập khẩu, sau đó lập hối phiếu ủy quyền cho ngân
hàng phục vụ mình nhờ thu tiền từ người nhập khẩu.
Nhờ thu kèm chứng từ( Documentary collection): Người xuất khẩu chỉ giao
hàng cho người nhập khẩu, sau đó lập hối phiếu cùng bộ chứng từ giao
hàng ủy quyền cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thu.
Ngoài ra, tùy theo thời hạn thanh toán còn có nhờ thu chứng từ đổi lấy sự

chấp nhận(D/A: Documents against Acceptance): Theo phương thức này, người
nhập khẩu khi nhận được hối phiếu có kỳ hạn do người xuất khẩu lập chỉ cần
chấp nhận thanh toán trên hối phiếu là có thể nhận được bộ chứng từ nhận hàng,
việc thanh toán xảy ra sau một kỳ hạn ghi trên hối phiếu. Nhờ thu chứng từ đổi
lấy sự thanh toán (D/P: Documents against Payment) thì khó khăn hơn: Người
nhập khẩu phải thanh toán tiền hàng tại ngân hàng nhờ thu, ngân hàng mới giao
chứng từ nhận hàng.
Quy trình
Bước 1: Người xuất khẩu sau khi ký hợp đồng, trong đó qui định phương
thức thanh toán là Nhờ thu, sẽ tiến hành giao hàng cùng bộ chứng từ giao hàng
cho người nhập khẩu.
Bước 2: Người xuất khẩu sau đó chuyển hối phiếu ( nếu là nhờ thu trơn)
hoặc bộ chứng từ kèm hối phiếu (nếu là nhờ thu kèm chứng từ) cho ngân hàng
phục vụ mình ủy thác để nhờ thu.
Bước 3: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển hối phiếu (hoặc hối
phiếu kèm chứng từ) cho ngân hàng phục vụ người nhập khẩu để nhờ thu.
Bước 4: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển hối phiếu (hoặc hối
phiếu kèm chứng từ) cho người nhập khẩu để đổi lấy tiền hoặc đổi lấy sự chấp
nhận của ngân hàng mình.
Bước 5: Người nhập khẩu chuyển trả tiền hoặc trả lại hối phiếu đã chấp
nhận cho ngân hàng của mình.
Bước 6: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển tiền hoặc hối phiếu
đã chấp nhận cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Bước 7: Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu báo Có hoặc trả lại hối phiếu
cho người xuất khẩu.
(Trong trường hợp nhờ thu đổi lấy sự chấp nhận, khi đến hạn thanh toán
người nhập khẩu tiến hành các bước (5)(6)(7) lần nữa để tiến hành thanh toán)
Quy trình thanh toán theo phương thức nhờ thu
Ưu nhược điểm :
- Nhờ thu phiếu trơn: Thích hợp khi hai bên mua bán tin cậy lẫn nhau hoặc

áp dụng trong thanh toán một số dịch vụ liên quan đến xuất khẩu hàng hóa
không cần chứng từ. Tuy vậy, nó có nhược điểm là chưa ràng buộc trách nhiệm
trả tiền của người nhập khẩu dẫn đến rủi ro không nhận được tiền hàng của
người xuất khẩu hoặc bị kéo dài thời hạn thanh toán,điều này không đảm bảo
quyền lợi cho người bán. nhưng đối với người mua phương thức này cũng mang
lại nhiều bất lợi khi áp dụng nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ hàng hóa,
người mua trả tiền ngay nhưng sau đó không biết việc giao hàng của người bán
có đúng hợp đồng không.
- Nhờ thu kèm chứng từ: phương thức này có ưu điểm là khắc phục được
một phần nhược điểm của nhờ thu phiếu trơn do nhờ ngân hàng thu hộ tiền và
khống chế bộ chứng từ hàng hóa. điều đó có nghĩa là quyền lợi của người xuất
khẩu được đảm bảo vì thông qua ngân hàng họ đã khống chế được quyền định
đoạt hàng hóa đối với người mua. Nhưng phương pháp này vẫn có nhược điểm
là chưa hạn chế được việc trả tiền cũng như thời hạn trả tiền của người mua, còn
người mua thì lại không kiểm tra được số lượng, chất lượng hàng hóa của người
bán để biết có phù hợp như trong hợp đồng hay không.
1.3.4. Phương thức tín dụng chứng từ.
Đây là phương thức thanh toán khá phổ biến trong thương mại quốc tế.
- Ưu nhược điểm:
Đối với người bán:
+ Đảm bảo việc thanh toán vì có ngân hàng mở đứng ra cam kết; việc thanh
toán không còn phải tùy thuộc vào thiện trí của người mua.
+ Được ngân hàng khống chế bộ chứng từ không sợ mất quyền sở hữu về
hàng hóa hay tốn chi phí vận chuyển hàng nếu làm đúng theo yêu cầu của thư
tín dụng.
+ Tuy nhiên người bán phải lựa chọn thư tín dụng nào đảm bảo quyền lợi
của mình nhiều nhất; đồng thời phải kiểm tra kỹ những điều khoản L/C có phù
hợp với hợp đồng đã thỏa thuận hay không và khả năng của mình có đáp ứng
được các yêu cầu đó của L/C hay không để đảm bảo lập đúng bộ chứng từ phù
hợp với L/C.

+ Có thể nhận được tài trợ xuất khẩu của ngân hàng.
Đối với người mua:
+ Có thể tận dụng được tín dụng của ngân hàng, đó là điều thiết yếu trong
kinh doanh quốc tế thì với khoảng cách vận chuyển xa thì sẽ dễ bị đọng vốn nếu
phải ký quỹ toàn bộ giá trị của L/C.
+ Được ngân hàng giúp kiểm tra toàn bộ chứng từ.
+ Đảm bảo được hàng hóa mà mình ký hợp đồng đúng chất lượng và số
lượng, thời hạn giao hàng
+ Tuy nhiên người mua phải cẩn trọng khi làm đơn xin mở L/Cphải đưa ra
những điều kiện vừa để cho người bán có thể thực hiện được vừa có thể đảm bảo
quyền lợi của mình. Ngoài ra không tránh được trường hợp người mua bị người
bán gian lận bộ chứng từ khống để thanh toán. tốn phí hơn các phương thức
thanh toán khác.
Đối với ngân hàng:
+ Mở rộng nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng tăng thu nhập, nâng cao
trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng.
+ Thông qua nghiệp vụ của ngân hàng sẽ góp phần giúp đỡ các khách hàng
xuất nhập khẩu của mình đồng thời thúc đẩy quá trình thanh toán quốc tế được
phát triển.
Tóm lại phương thức tín dụng chứng từ đảm bảo được quyền lợi của người
bán, người mua trong quá trình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và nâng
cao vai trò của ngân hàng trong hoạt động thanh toán khắc phục những mâu
thuẫn của các phương thức thanh toán khác, tuy vậy phương thức này còn nhiều
phức tạp đòi hỏi các bên tham gia phải có trình độ nghiệp vụ cao trong việc mở
L/C và lập bộ chứng từ hoàn hảo.
II. THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG
CHỨNG TỪ.
2.1.KHÁI NIỆM VÀ QUY TRÌNH NGHIỆP VỤ.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một thoả thuận mà trong đó
một ngân hàng (Ngân hàng phát hành thư tín dụng: Inssuing bank) đáp ứng

những yêu cầu của khách hàng (Người xin mở thư tín dụng: Applicant) cam kết
hay cho phép một ngân hàng khác (Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) cho trả
hoặc chấp thuận những yêu cầu của nhà xuất khẩu theo đúng những điều kiện và
chứng từ thanh toán phù hợp với thư tín dụng.
Như vậy, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ liên quan đến các bên:
- Người xin mở thư tín dụng, người nhập khẩu hay người mua trong thư tín
dụng: “The applicant for the credit”
- Người thụ hưởng thư tín dụng, người xuất khấu hay người bán
“benefitciary”
- Ngân hàng phát hành thư tín dụng: the Issuing bank; the Opening bank
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng: the Advising bank
Ngoài ra, trong quá trình thương lượng, thanh toán thư tín dụng còn xuất
hiện các bên:
- Ngân hàng thương lượng (Bộ chứng từ): the Negotiating bank
- Ngân hàng thanh toán: the Paying bank
- Ngân hàng xác nhận: the Confirming bank
- Ngân hàng hoàn tiền: the Remitting bank
Trong thực tế, ngân hàng Phát hành thường là ngân hàng Thanh toán hoặc
ngân hàng Hoàn tiền và ngân hàng Thông báo thường cũng đảm nhận luôn việc
Thương lượng và Xác nhận (nếu có yêu cầu của người thụ hưởng thông qua
ngân hàng phát hành)
Quy trình
Bước 1: Người nhập khẩu và người xuất khẩu ký kết hợp đồng ngoại
thương, trong đó quy định phương thức thanh toán là tín dụng chứng từ
Bước 2: Người nhập khẩu lập thủ tục đề nghị ngân hàng phục vụ mình phát
hành tín dụng theo thư yêu cầu của mình định trong hợp đồng ngoại thương
Bước 3: Ngân hàng sau khi xem xét đề nghị mở tín dụng thư, nếu chấp
thuận sẽ phát hành thư tín dụng cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Bước 4: Ngân hàng thông báo tín dụng thư cho người xuất khẩu
Bước 5: Người xuất khẩu sau khi xem xét những ràng buộc trong tín dụng

thư phù hợp với thoả thuận trong hợp đồng, sẽ tiến hành giao hàng. Nếu không
sẽ đề nghị ngân hàng phục vụ mình thực hiện việc tu chỉnh.
Bước 6: Người xuất khẩu tập hợp chứng từ theo yêu cầu trong thư tín dụng,
xuất trình chứng từ với ngân hàng phục vụ mình.
Bước 7: Ngân hàng sau khi kiểm tra chứng từ lần nữa, sẽ gửi bộ chứng từ
cho ngân hàng phục vụ người nhập khẩu, yêu cầu thanh toán theo chỉ định.
Bước 8: Sau khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu
tiến hành thanh toán (nếu bộ chứng từ hợp lệ) hoặc thông báo bất hợp lệ chứng
từ cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Bước 9: Ngân hàng giao bộ chứng từ nhận hàng cho người nhập khẩu đổi
lấy việc thanh toán hoặc cấp tín dụng.
Sơ đồ quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
2.2.THƯ TÍN DỤNG LÀ CÔNG CỤ QUAN TRỌNG CỦA PHƯƠNG
THỨC THANH TOÁN TDCT.
2.1.1. Khái niêm về thư tín dụng:
Thư tín dụng (Letter of Credit – L/C )là văn bản thể hiện sự cam kết của
ngân hàng mở thư tín dụng đối với nhà sản xuất để thực hiện nghĩa vụ thanh
toán theo điều khoản thanh toán của hợp đồng ngoại thương nếu họ xuất trình
được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của L/C.
L/C được soạn thảo trên cơ sở hợp đồng mua bán đã được ký kết giữa hai
đơn vị nhưng vì L/C do ngân hàng mở cam kết, do đó L/C hoàn toàn độc lập với
hợp đồng mua bán. Tính chất độc lập của L/C thể hiện ở chỗ ngân hàng mở L/C
không cần biết đến việc thực hiện hợp đồng mua bán như thề nào; chỉ cần biết
việc sản xuất có lập bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với những điều khoản quy
định trọng L/C là sẽ thanh toán, nó ràng buộc các bên hữu quan tham gia vào
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ như : nhà nhập khẩu(người làm đơn)
Ngân hàng mở L/C, nhà xuất khẩu (người hưởng lợi L/C ), ngân hàng thông
báo, ngân hàng thanh toán. Còn hợp hồng mua bán ngoại thương chỉ có giá trị
pháp lý ràng buộc quyền lợi và trách nhiệm giữa hai bên xuất khẩu và nhập
khẩu.

Bên nhập khẩu còn có thể sử dụng thư tín dụng để cụ thể hóa, chi tiết hóa
hoặc để bổ sung một các đầy đủ hơn vào điều khoản của hợp đồng mua bán và
cũng có thể dùng thư tín dụng để đính chính, sửa chữa những nội dung ký hớ
trong hợp đồng ngoại thương. Những nội dung liên quan tới hàng hóa,về vận
chuyển, phương tức giao hàng cũng được ghi cụ thể, đầy đủ vào nội dung L/C.
2.2.2. những nội dung cơ bản của một L/C
a. Số hiệu của thư tín dụng (L/C)
Mỗi L/C đều được đánh số nhằm tạo điều kiên thuận tiện trong việc trao
đổi thông tin giữa các bên có liên quan, trong quá trình thực hiện số hiệu này
phải thể hiện trên chứng từ trong bộ chứng từ thanh toán.
b. Địa điểm và ngày mở L/C:
- Địa điểm mở L/C là nơi ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người
hưởng lợi. Địa điểm này liên quan đến việc tham chiếu luật lệ áp dụng giải
quyết xung đột, bất đồng xảy ra.
- Ngày mở L/C là ngày bắt đầu phát sinh hiệu lực về sự cam kết của ngân
hàng mở L/C đối với người thụ hưởng, là ngày ngân hàng mở L/C chính thức
chấp nhận đơn xin mở L/C của người nhập khẩu, đây cũng là ngày bắt đầu tính
thời hạn hiệu lực của L/C và cũng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem
người nhập khẩu có thực hiện việc mở thư tín dụng có đúng thời han như trong
hợp đồng không.
c. Loại thư tín dụng:
Mỗi loại thư tín dụng đều có tính chất nội dung khác nhau, quyền lợi và
nghĩa vụ của những người liên quan tới thư tín dụng cũng khác nhau. Do đó, khi
mở L/C, người có nhu cầu phải xác định cụ thể loại L/C cần mở.
d. Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng
chứng từ.
Những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ nói chung
chia làm 2 loại: một là các thương nhân, hai là các ngân hàng.
Các thương nhân chỉ bao gồm những người nhập khẩu,là người yêu cầu mở
L/Cvà người xuất khẩu là ngươi hưởng lợi L/C.

Các ngân hàng tham gia gồm: ngân hàng mở L/C; ngân hàng thông báo
L/C; ngân hàng thanh toán ; ngân hàng xác nhận.
e . Số tiền của thư tín dụng
Số tiền của L/C vừa được ghi bằng số vùa đươc ghi bằng chữ và thống nhất
với nhau. Tên đơn vị tiền tệ cũng phải ghi rõ ràng cụ thể.
Không nên ghi rõ số tiền dưới dạng số tuyệt đối, vì như vậy có thể gây khó
khăn trong việc giao hàng và nhận tiền của bên bán. Vì vậy, ghi số tiền L/C ở
một giới hạn “khoảng chừng”.
Theo UCP 500 nếu L/C không ghi những thuật ngữ “khoảng chừng” thì
chênh lệch cho phép +- 5% nếu có ghi “khoảng chừng” thì chênh lệch cho phép
là +- 10%
f. Thời han hiệu lực của L/C :
Là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu,
nếu người này xuất trình được bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với quy
định trong thư tín dụng. Thời hạn hiệu lực của L/C được tính từ ngày mở(date of
issue) đến ngày hết hiệu lực (expiry day).
Cần phải xác định một thời hạn hiệu lực hợp lý, có nghĩa là nó vừa tránh
đọng vốn cho người nhập khẩu vừa không gây khó khăn cho việc xuất trình
chứng từ thanh toán của người xuất khẩu. Việc xác định cần thỏa mãn các
nguyên tắc sau đây:
- Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không được
trùng với ngay hết hạn hiệu lực của L/C.
- Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lý, không
được trùng với ngày giao hàng. thời hạn hợp lý nay được tính tối thiểu bằng
tổng số ngày cần phải có để thông báo mở L/C, số ngày lưu L/C ở ngân hàng
thông báo, số ngày chuẩn bị hàng để giao cho người nhập.
- Ngày hết hạn hiệu lực L/C phải sau ngày giao hàng một thời gian hợp lý.
Thời gian này tối thiểu phải bằng hoặc lớn hơn 21 ngày làm việc. Thời hạn này
bao gồm số ngày chuyển chứng từ nơi giao hàng đến cơ quan của người xuất
khẩu, số ngày lập bộ chứng từ thanh toán, số ngày vận chuyển chứng từ thanh

toán đến ngân hàng mở L/C(hay ngân hàng trả tiền), số ngày lưu giữ chứng từ
tại ngân hàng thông báo.
g. Thời hạn trả tiền của L/C (date of payment):
Liên quan đến việc trả tiền ngay hay trả tiền sau. Điều này hoàn toàn tùy
thuộc vào quy định của hợp đồng
Thời han trả tiền của L/C có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C (nếu
trả tiền ngay ) hoặc có thể nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C (nếu trả tiền có
kỳ hạn) trong trường hợp này phải lưu ý là hối phiếu có kỳ hạn phải được xuất
trình để ký chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C.
h. Thời han giao hàng (date of delivery):
Thời hạn giao hàng được ghi trong L/C và cũng do hợp đồng thương mại
quy định. Đây là thời hạn quy định bên bán phải chuyển giao hàng cho bên mua
kể từ khi thư tín dung có hiệu lưc của L/C. Nếu hai bên thỏa thuận kéo dài thời
gian giao hàng một số ngày, thì đương nhiên ngân hàng mở L/C cũng phải hiểu
rằng thời han hiệu lực của L/ C cũng được kéo dài thêm một số ngày tương ứng.
- Những nội dung liên quan tới hàng hóa tên hàng,số lượng, trọng lượng,
giá cả quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu cũng được ghi cụ thể trong nội
dung L/C.
- Những nội dung về vân chuyển, giao nhận hàng hóa như: điều kiên gửi
hàng (FOB, CIF ) nơi gủi hàng, giao hàng, cách vận chuyển phương tiện, cách
giao hàng cũng được ghi đày đủ vào nội dung của thư tín dụng.
i. Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C:Là nội dung cuối cùng của thư
tín dụng nó ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C, trong các mẫu thư tín
dụng là tương tự nhau, nó có điểm chung là.
+ Đây là sự cam kết thực sự.
+ Là sự cam kết có điều kiện .
+ là sự cam kết dự phòng (bảo lưu) tức là ngân hàng chỉ cam kết tôn trọng
các hối phiếu xuất trình đúng hạn và phù hợp với điều kiện của L/C, còn việc có
trả tiền hay không còn phụ thuộc vào việc xem xét bộ chứng từ thanh toán có
phù hợp với L/C và không mâu thuẫn với nhau.

k. Nhưng điều khoản đặc biệt khác: ngoài những nội dung kể trên, khi cần
thiết, ngân hàng mở L/Cvà người nhập khẩu có thêm những nội dung khác, ví dụ
như có thể hoàn trả tiền bằng điện
l. Chữ ký chữ ký của ngân hàng mở thư tín dụng: L/C thực chất là một khế
ước dân sự , do vậy , người ký nó cũng phải là người có đầy đủ năng lực hành
vị, năng lực pháp lý để tham gia thực hiện quan hệ dân luật.
m. Các chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình :
Đây cũng là nội dung rất quan trọng của L/C. Bộ chứng từ này là căn cứ để
ngân hàng kiểm tra mức độ hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của người xuất khẩu
để tiến hành việc trả tiền cho người xuất khẩu, ngân hàng mở thư tín dụng
thường yêu cầu người xuất khẩu phải thỏa mãn những yếu tố sau:
- Các loại chứng từ phải xuất trình: Trong thanh toán quốc tế, ngân hàng
thực hiện thanh toán trên cơ sở chứng từ, chứ không dựa vào hàng hóa. Các
chứng từ thương mại quốc tế rất quan trọng bởi chúng kiểm soát sự vân động
của hàng hóa. Nhà xuất khẩu có nhận được tiền và nhanh hay chậm phụ thuộc
vào chứng từ. Vì vậy yêu cầu cần lập chứng từ phải nghiêm ngặt, hoàn hảo, phù
hợp với những điều khoản, điều kiện đã quy định.
Bộ chứng từ dùng trong thanh toán quốc tế bao gồm: các chứng từ tài chính
và các chứng từ thương mai quốc tế.
+ Chứng từ tài chính gồm có : hối phiếu, sec, thư tín dụng hoặc các phương
tiện thanh toán quốc tế khác.
+ Chứng từ thương mại còn được gọi là chứng từ hàng hóa, là những chứng
từ mô tả về tình trạng hàng hóa và bao bì hàng hóa. Trong một số trường hợp,
chúng là chứng từ đại diện hợp pháp cho hàng hóa. Điều quan trọng là chứng từ
hợp lệ phải được lập đúng chỗ, đúng lúc; và để đẩy nhanh việc giao hàng và
thanh toán, chúng phải được đầy đủ một cách hợp lệ. Chỉ một điểm nhỏ không
rõ ràng trong chứng từ chắc chắn sẽ dẫn đến sự khó khăn trong việc thanh toán.
Chứng từ thương mại bao gồm các loại chứng từ sau:
1.Hóa đơn thương mại(commercial invoice) được xem như là trung
tâm của toàn bộ chứng từ, liệt kê rõ danh mục hàng hóa xuất giao cho người

nhập khẩu vì trong trường hợp không dùng hối phiếu thì hóa đơn là căn cứ để
thanh toán tiền hàng.
Hóa đơn thương mại là chứng từ do người bán lập tạo cho người mua để
chứng minh thực sự việc cung cấp hàng hóa hay dịch vụ sau khi hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng. Chi tiết của hóa đơn phải đúng như trong hợp đồng bán
hàng; nếu một thư tín dụng được mở, hóa đơn phải tuân theo chính xác các điều
khoản của nó.Thông thường người ta có vài bản sao hóa đơn để phục vụ cho
người mua hải quan và các cơ quan phụ trách nhập khẩu ở nước ngoài. Một số
nước còn yêu cầu “hóa đơn chứng thực” hay “giấy chứng nhận xuất xứ hàng
hóa” để khẳng định hàng hóa xuất đi từ một nước cụ thể.
2.Chứng từ vân tải( Bill of transport) là chứng từ vân tải cung cấp cho
người gởi hàng đồng thời xác định quan hệ pháp lý giữa đôi bên trong suốt quá
trình vận chuyển hàng hóa.
Vận đơn được coi là “sạch” khi chúng không có bất cứ điều khoản nào nó
về tinh trạng hư hỏng của hàng hóa; ngược lại vân đơn bị coi là “phốt” hay
“bẩn”.
Tùy theo từng loại phương tiện vận tải mà có nhiều loại vận đơn: như vận
đơn đường biển, vận đơn hàng không.
Trong trường hợp hàng hóa được vận chuyển bằng tầu biển, vận đơn đường
biển là một chứng từ quan trọng nhất. Tùy thuộc vào các điều khoản của hợp
đồng, nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu ở nước ngoài chỉ có thể thu xếp với
một công ty vân tải để chuyên chở hàng hóa. Vận đơn sau đó sẽ do công ty vận
tải cấp như một biên lai hàng hóa và là bằng chứng của hợp đồng chuyên chở.
Điều này đặc biệt quan trọng vì nó cũng là chứng từ đại diện cho hàng hóa,
nghĩa là người cầm vận đơn hợp pháp cũng là chủ sở hữu hợp pháp của hàng
hóa, miễn là chịu thanh toán mọi khoản cước phí vận chuyển phải trả. Như vậy,
vận đơn là chứng từ sở hữu hàng hóa, là cơ sở nhận hàng tại cảng , nó có giá trị
lưu thông chuyển nhượng từ tay người này sang người khác, nên vận đơn có thể
cầm cố mua bán Có thể nói B/L là linh hồn của bộ chứng từ không thể thiếu
được trong buôn bán và thanh toán quốc tế.

Vận đơn hàng không có vai trò như vận đơn đường biển khi hàng hóa được
chuyển bằng đường hàng không. Nhưng không giống như hầu hết các vân đơn
đuương biển, nó không phải là chứng từ đại diện hàng hóa, mà chỉ là bằng
chứng đã nhận hàng hóa để chuyển đi. Chi tiết trên phiếu hàng không cũng
tương tự như trên vận đơn đường biển.
3.Các chứng từ bảo hiểm: là chứng từ do công ty bảo hiểm cấp cho
người mua bảo hiểm hàng hóa trong quá trình chuyên chở hàng hóa. Hàng hóa
xuất khẩu luôn được bảo hiểm đầy đủ từ thời điểm rời máy bay tới khi người
mua nhận hàng. Người mua phải trả bảo hiểm phí và công ty bảo hiểm chịu
trách nhiệm bồi thường những tổn thất rủi ro xẩy ra theo những điều khoản đã
được ký kết.
Về hình thức, chứng từ bảo hiểm có hai loại được sử dụng phổ biến
- Bảo hiểm đơn (insurance policy)
- Giấy chứng nhận bảo hiểm(insurance certificate)
Ngân hàng không chấp nhận xuất trình phiếu bảo hiểm (cover note), vì đó
không phải hợp đồng hoặc chứng nhận bảo hiểm (insurance certificate) do công
ty bảo hiểm hoặc đại lý ủy thác của công ty lập, mà chỉ đơn thuần là một tờ công
bố bảo hiểm mà thôi.
Ngoài ra con một số giấy chứng nhân như :
- Giấy chứng nhận phẩp chất hàng hóa (certificate of quality)
- Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (certificate of origin)
- Giấy chứng nhận số lượng / trong lượng(certificate of quantity /
weigh)
- Giấy chứng nhận vệ sinh (sanitary certificate), kiểm nghiệm thực vật
(phytosanitary certificate), kiểm dịch động vật ( veterinary certificate), phiếu
đóng gói (packing list)
Các điều khoản hợp đồng ghi rõ ai sẽ có trách nhiệm đối với việc thu xếp
và thanh toán bảo hiểm trong quá trình vận chuyển, lộ trình được bảo hiểm,
v.v Các rủi ro bảo hiểm phải giống như những rủi ro được bên mua yêu cầu.
2.2.3. Phân loại L/C:

Mỗi loại L/C đều có tính chất,nội dung khác nhau, quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên hữu quan cũng rất khác nhau. Do đó, cần phải xác định loại L/C cần
mở.
* Các loại L/C cơ bản:
- Thư tín dụng có thể hủy ngang(Revocable L/C)
Là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở và người mua có quyền tự ý đề nghị
ngân hàng mở L/C sử đổi bổ sung hoặc hủy bỏ L/C mà không cần sự chấp thuận
của người bán. Tuy nhiên khi hàng hóa đã giao, ngân hàng mới thông báo lệnh
hủy bỏ thì lệnh này không có giá trị; Nghĩa là khi đó các ngân hàng vẫn phải
thực hiện nghĩa vụ thanh toán như đã cam kết, coi như không có việc hủy bỏ
này.
Loại L/C này không tạo ra sự cam kết mang tính chất pháp lý về việc thanh
toán của ngân hàng, vì vậy quyền lợi của người xuất khẩu không được đảm bảo.
Do đó loại L/C nảyất ít được sử dụng , hiện nay hầu như chỉ tồn tại trên lý
thuyết.
- Thư tín dụng không hủy ngang(Inrrevocable L/C)
Đây là loại thư tín dụng mà sau khi đã được mở ra, thì mọi việc liên quan
đến sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ nó, ngân hàng mở L/C chỉ có thể được tiến
hành trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên liên quan. Như vậy, nếu không có sự
nhất trí của bên bán, của ngân hàng xác nhận thì ngân hàng mở không được
phép thực hiện theo yêu cầu của bên mua, do đó quyền lợi của bên bán được bảo
đảm.
Theo quy định trong bản UCP 500 thì: Nếu không có ghi chú đặc biệt khác
thì loại thư tín dụng sẽ được hiểu là thư tín dụng không hủy ngang.
- Thư tín dụng không hủy ngang có xác nhận(confirmed inrrevocable L/C)
Đây là loại L/C không hủy ngang, được một ngân hàng có uy tín đứng ra
đảm bảo thanh toán tiền cho người hưởng lợi khi ngân hàng mở gặp các rủi ro
nên không có khả năng thanh toán. Nguyên nhân phát sinh loại L/C này là vì
người hưởng lợi không tin tưởng vào khả năng thanh toán của ngân hàng mở
L/C. Ngân hàng xác nhận có thể do người hưởng lợi chỉ định, hay ngân hàng mở

lựa chọn nhưng phải được sự đồng ý của người hưởng lợi.
- Thư tín dụng không hủy ngang miễn truy đòi(Inrrevocable without
Recourse L/C)
Đây là loại L/C không hủy ngang trong đó quy đinh rằng sau khi đã thanh
toán cho người hưởng, ngân hàng mở L/C mất quyền truy đòi lại số tiền trong
bất kỳ trường hợp nào. Khi phát hành hối phiếu theo L/C này người hưởng phải
ghi trên hối phiếu không được truy đòi người phát(without recourse to drawers).
Loại L/C này được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế đặc biệt là
các hợp đồng mua chịu hàng hóa.
* Các loại L/C đặc biệt:
- L/C tuần hoàn (Revoling L/C)
Là loại L/C mà sau khi đã sử dụng hết giá trị của nó hoặc đã hết thời hạn
hiệu lực của nó thì nó (tự động) có giá trị lại như cũ và tiếp tục tuần hoàn trong
một thời gian nhất định cho đến khi hoàn tất giá trị hợp đồng.
* Một thư tín dụng tuần hoàn có hai loại:
+ Thư tín dụng tuần hoàn tích luỹ: Cho phép chuyển số dư sang giai đoạn
tiếp theo và cứ như vậy cộng dồn cho đến L/C cuối cùng
+ Thư tín dụng tuần hoàn không tích luỹ: không cho phép chuyển số dư của
giai đoạn trước sang giai đoạn kế tiếp
*Thư tín dụng tuần hoàn theo 3 cách:
Tuần hoàn tự động: L/C sau tự động có giá trị không cần có sự thông báo
của ngân hàng phát hành L/C.
Tuần hoàn không tự động: Là chỉ khi nào ngân hàng phát hành L/C thông
báo cho người bán thì L/C sau mới có giá trị hiệu lực.
Tuần hoàn hạn chế: Nếu sau một vài ngày kể từ ngày L/C hết hạn hiệu lực
hoặc đã sử dụng hết mà không có ý kiến gì của ngân hàng phát hành thì L/C kế
tiếp tự động có giá trị hiệu lực.
L/C tuần hoàn được áp dụng trong trường hợp 2 bên mua bán những mặt
hàng có giá trị lớn, có quan hệ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ thường xuyên,
giao nhiều lần trong năm với số lượng đều đặn.

L/C loại này có tính chất ưu đãi đối với nhà nhập khẩu vì nó cho phép nhà
nhập khẩu không bị đọng vốn, không tính phí mở nhiều lần L/C
- L/C có thể chuyển nhượng (Transferable L/C)
Thường là loại L/C không huỷ ngang cho phép chuyển từ người hưởng lợi
ban đầu sang một hay nhiều bên khác (người hưởng lợi thứ 2) theo yêu cầu của
người hưởng lợi thứ nhất.
Một L/C chuyển nhượng chỉ có thể chuyển nhượng một lần, những phần
tiền chuyển nhượng (mà tổng cộng không được quá số tiền của thư tín dụng).
Thủ tục phí và lệ phí chuyển nhượng sẽ do người hưởng lợi thứ nhất chịu.
Đây là loại L/C sử dụng khi người hưởng thứ nhất không tự cung cấp được
hàng hoá mà chỉ là một người môi giới và người này muốn chuyển nhượng từng
phần hay toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ của mình cho người cung cấp hàng hoá
(người hưởng lợi thứ 2). Sự chuyển nhượng phải được thực hiện theo các điều
khoản của L/C gốc. Một số điều kiện của L/C gốc như: Cảng xếp, cảng dỡ hàng
kho chuyển nhượng không được phép thay đổi, những yếu tố sau được thay đổi:
Tên và địa chỉ của người hưởng ban đầu có thể thay thế cho tên và địa chỉ
của người mở L/C. Nhưng nếu L/C gốc đòi hỏi phải ghi tên người xin mở L/C
trên chứng từ nào đó, ngoài hoá đơn thì yêu cầu đó phải được thực hiện.
Đơn giá và tổng kim ngạch của L/C chuyển nhượng có thể được giảm
xuống, khoản chênh lệch đó là thu nhập của người hưởng lợi ban đầu.
Giai đoạn để giao hàng, thời hạn hiệu lực của L/C có thể đựoc rút ngắn.
Thư tín dụng muốn chuyển nhượng thì phải ghi rõ: “To be transferable ”
(có thể chuyển nhượng) khi người nhập khẩu mở L/C có thể chuyển nhượng
chứng tỏ họ đồng ý cho người xuất khẩu chỉ định người khác làm thay việc giao
hàng và xuất trình chứng từ.
Việc chuyển nhượng L/C không có nghĩa là hợp đồng mua bán cũng được
chuyển nhượng. Người hưởng lợi ban đầu vẫn là người chịu trách nhiệm chính

×