Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

tiếp tục nghiên cứu nguồn lực con người và phương hướng, giải pháp phát huy nguồn lực con người việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.14 KB, 33 trang )

§¹i häc Quèc Gia Hµ Néi
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lí luận chính trị
Khóa luận tốt nghiệp
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Lớp: Chuẩn hoá
Tên đề tài: Tiếp tục nghiên cứu nguồn lực con người và phương hướng, giải
pháp phát huy nguồn lực con người Việt Nam.

Họ và tên :
Đơn vị :

Hà Nội, tháng 3 năm 2008
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguồn lực con người không phải là một vấn đề mới. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu nguồn lực con người thì diễn ra thường xuyên trong tất cả các giai
đoạn lịch sử, ở tất cả các quốc gia nếu như trong giai đoạn đó, ở quốc gia đó
muốn có được sự phát triển đất nước, phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu
nguồn lực con người luôn là một vấn đề có tính thời sự. Con người là vừa chủ
thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử. Vì vậy, con người là nhân tố đưa
đến sự phát triển xã hội, sự phát triển đất nước, bên cạnh đó con người đó như
thế nào lại bị chi phối bởi chính hoàn cảnh lịch sử ấy.
Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX, nảy sinh hiện tượng là một số nước
Đông Á có tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ gây ra nhiều sự chú ý trong giới
nghiên cứu và họ cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao những nước như
Nhật Bản, Singgapo, Đài Loan, Hồng Kông, … v.v lại có sự phát triển đó. Kết
quả của những nghiên cứu cho thấy có nhiều nhân tố tạo nên như văn hóa truyền
thống, trình độ dân số, kỹ thuật, công nghệ, …v. v. song câu trả lời làm ngạc
nhiên giới nghiên cứu là sự nhảy vọt về kinh tế ở các nước đó không phải là kỹ
thuật, công nghệ mà là văn hóa truyền thống. Vì vậy, nghiên cứu nguồn lực con
người hiện đại cần phải thấy được sự liên hệ với yếu tố truyền thống, con người


truyền thống, gắn với điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Đối với nước ta, xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, nông
nghiệp là chính tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, lại chịu hậu quả nặng nề của
chiến tranh kéo dài. Việc khắc phục những tàn dư của xã hội cũ, của nền sản
xuất cũ như thói quen tác phong sản xuất nông nghiệp của người nông dân, tâm
lí sợ sệt trong đầu tư sản xuất - kinh doanh, cách thức làm việc tuỳ tiện không
khoa học, lối sống gia trưởng còn ăn sâu vào nếp nghĩ của con người Việt Nam
1
hiện nay đang là một sự cản trở lớn đối với sự phát huy nguồn nhân lực trong
phát triển xã hội,v.v.
Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và cùng với nó là phát
triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão và nền kinh tế thì
trường thế giới đã phát triển đến trình độ cao. Chúng ta đã tham gia và là thành
viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự tham gia đó đã mở ra cơ
hội cũng như thách thức lớn đối với chúng ta.
Xuất phát từ những điều kiện đó, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội hơn lúc nào hết việc nghiên cứu và phát huy nguồn lực con người là một
điều cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ một đề tài môn học chủ nghĩa xã hội khoa học, khóa
luận tập trung làm sáng tỏ quan niệm về con người, nguồn lực con người và vai
trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển xã hội, qua đó tạo cơ sở cho
việc nghiên cứu và làm sáng tỏ nguồn lực con người Việt Nam ở những khía
cạnh như: những yếu tố tác động đến nguồn lực con người Việt Nam, thực trạng
con người Việt Nam và phương hướng, giải pháp phát huy nguồn lực con người
Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chung là chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó sử dụng các phương
pháp tổng kết lí luận từ thực tiễn, kết hợp phương pháp lôgic và phương pháp
lịch sử; phương pháp phân tích - tổng hợp để tiếp cận đối tượng.
2
NỘI DUNG
Chương 1: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LENIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
1.1 Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và con người xã hội
chủ nghĩa.
Nguồn lực con người luôn có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Việt Nam là một nước có nền kinh tế kém phát triển, muốn
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phát huy có hiệu quả nguồn lực con
người của đất nước.
Kế thừa những giá trị tích cực trong quan niệm về con người trước đó,
các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác đã đưa ra quan niệm về con người, theo đó
Con người là một “thực thể tự nhiên”( 10 -232), “Nhưng con người không chỉ là
thực thể tự nhiên, nó còn là thực thể tự nhiên có tính chất người, nghĩa là thực
thể tồn tại cho bản thân mình và do đó là thực thể loài” (10 -234).
Như vậy, từ quan niệm của C.Mác và F. Ănghen ở trên ta thấy con người
là một thực thể thống nhất, thực thể “song trùng” giữa hai mặt tự nhiên và xã
hội, giữa hai mặt đó luôn gắn bó hữu cơ với nhau vào nhau tạo nên con nguời,
thiếu một trong hai mặt đó thì con người không còn là con người, hai yếu tố này
gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội
và cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên. Từ các luận điểm trên còn cho
thấy vai trò đặc biệt quan trọng của yếu tố, nhân tố xã hội trong sự hình thành
con người và theo các nhà kinh điển Mác – Lênin thì nhân tố xã hội giữ vai trò
quyết định đối với sự hình thành con người. Điều này còn được C.Mác,
F.Ănghen nhắc lại và làm rõ ở những luận điểm sau; Trong quan niệm về con
người, các nhà kinh điển còn tiếp tục làm sáng tỏ con người không chỉ là cá
nhân con người mà con người còn là cộng đồng người, dân tộc người, là nhà

3
nước, là nhân loại chứ không phải con người chung chung trừu tượng. Vì vậy,
các nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác -Lênin ở Việt Nam đã khái quát quan niệm
về con người thành luận điểm “Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt
sinh học với mặt xã hội” (1- tr386). Đặc biệt con người trong quá trình tồn tại
không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến đổi thế giới tự nhiên mà con người
còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất người, làm cho con người khác với con
vật. "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Con người không thể tồn tại được một khi tách khỏi xã hội. Chỉ
trongxã hội con người mới có thể trao đổi lao động, thông qua đó mà thoả mãn
những nhu cầu trong cuộc sống, như ăn, ở, đi lại v.v Trong xã hội thông qua
quan hệ với người khác mà mỗi người nhận thức về mình một cách đầy đủ hơn,
trên cơ sở đó mà rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt.
Trong những “ Luận cương về PHOI Ơ BẮC”, C.Mác đã đi đến khái
quát về bản chất con người. Ông viết “Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”( 9 -tr11). Như vậy, qua sự khái
quát về bản chất con người của C.Mác thì bản chất con người là những quan hệ
xã hội. Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là bản chất con người chỉ toàn là
những quan hệ xã hội mà nó bao gồm cả những quan hệ với tự nhiên nữa, trong
đó mặt xã hội, những quan hệ xã hội là yếu tố quan trọng nhất. Điều đó càng
khẳng định con người là sản phẩm của lịch sử, bản chất con người do điều kiện
lịch sử, điều kiện kinh tế -xã hội tạo nên. Nhưng trước khi con người là sản
phẩm của lịch sử thì con người là chủ thể của lịch sử, sáng tạo ra lịch sử trước
đã. Với cách hiểu như vậy sẽ là cơ sở lí luận quan trọng trong việc nghiên cứu
về nguồn lực con người.
Khi bàn về việc xây dựng một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ
nghĩa, C.Mác, F.Ănghen còn đưa ra quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa.
Theo đó con người xã hội chủ nghĩa bao gồm cả những con người của
xã hội cũ để lại và cả những con người sinh ra trong xã hội mới. Con người sống
4

dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mang những nét đặc trưng của chủ nghĩa xã
hội, song vẫn còn chịu ảnh hưởng không ít những tư tưởng, tác phong, thói
quen của xã hội cũ. Cho nên, quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa là quá trình diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và
cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Con người xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là sản phẩm của quá trình đó.
Một mặt, trong lao động sản xuất, đấu tranh xã hội, con người tạo ra những điều
kiện cơ sở vật chất ngày một tốt hơn, phục vụ con người ngày một chu đáo hơn,
cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ hơn, môi trường xã hội ngày càng
trong sạch, ngày càng nhân văn hơn, do vậy, càng có những điều kiện để xây
dựng nên những phẩm chất của con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cũng
chính trong quá trình lao động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội mà con người cải
tạo chính bản thân mình, tự rèn luyện khắc phục những hạn chế, thiếu sót của
bản thân.
Trong từng thời kỳ lịch sử, trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất,
của trình độ phát triển xã hội, cần phải xác định mô hình con người cần xây
dựng. Toàn bộ mọi hoạt động của xã hội, hệ thống luật pháp, những chính
sách kinh tế - xã hội, mục tiêu của giáo dục - đào tạo phải hướng vào mục
tiêu. Dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu truyền thống dân tộc, căn
cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, những đặc trưng con người xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta phấn đấu xây dựng là:
• Con người XHCN là con người có ý thức, trình độ và năng lực làm chủ;
• Con người XHCN là con người lao động mới, có tinh thần trách nhiệm
cao đối với công việc;
• Con người XHCN là con người sống có văn hóa, tôn trọng các giá trị
nhân văn, có tinh thần cầu tiến;
5
• Con người XHCN là con người giàu lòng yêu nước, thương dân, có ý
thức bảo vệ tính bền vững của chế độ XHCN.
1.2. Quan niệm về nguồn lực con người và vai trò của nó đối với sự nghiệp

xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2.1. Quan niệm về nguồn lực con người
Trong các nguồn lực có thể khai thác thì nguồn lực con người là quyết
định nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi
nguồn lực con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt,
ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng, phong phú và có khả năng
nội sinh không không bao giờ cạn. Vậy nguồn lực con người được hiểu như thế
nào?
Trong thời đại hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn lực con
người. Tuy nhiên, có thể hiểu nguồn lực con người là những yếu tố ở trong con
người có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Như vậy, cách
hiểu này cho thấy khi nói đến nguồn lực con người là nói đến thể lực, trí lực của
con người, nói đến kỹ năng, tay nghề của con người, nói đến phẩm chất đạo đức
của con người. Từ cách hiểu như vậy mà hiện nay trong các giáo trình giảng dạy
môn học chủ nghĩa xã hội khoa học trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt
nam đều hiểu một cách khái quát “Nguồn lực con người là tổng thể những yếu
tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã
hội, v.v. tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng,
phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước và trong những
hoạt động xã hội” (2 -tr271-272).
Từ cách hiểu về nguồn lực con người như trên có thể thấy nguồn lực con
người là tổng thể những cái đã có, đang có, sẽ có tạo thành tiềm năng, sức mạnh
của con người nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội để phục vụ cho đời sống con
người với cách hiểu như vậy thì nguồn lực con người đã trở thành chủ thể của
6
mọi hoạt động tham gia vào cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Chủ thể ấy - nguồn
lực con người - thể hiện thông qua số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
Về số lượng nguồn nhân lực được xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ
tuổi, sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng miền
của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với

sự biểu hiện về số lượng nguồn nhân lực như vậy cho thấy một quốc gia có quy
mô dân số đông, cơ cấu độ tuổi lao động trẻ sẽ là một biểu hiện tốt cho sự phát
triển nguồn nhân lực của quốc gia đó. Tuy nhiên, nguồn nhân lực không chỉ
biếu hiện qua số lượng mà còn biểu hiện thông qua chất lượng nguồn nhân lực.
Về chất lượng nguồn nhân lực thể hiện qua thể lực, trí lực, trình độ tay
nghề, năng lực quản lí, mức độ thành thạo trong công việc, phẩm chất đạo đức,
tình yêu quê hương đất nước, ý thức giai cấp, v.v. Qua sự biểu hiện trên cho
thấy thể lực, trí lực, trình độ tay nghề là những yếu tố vô cùng quan trọng nói
lên chất lượng của nguồn nhân lực. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng những
biểu hiện về thể lực và trí lực trong nguồn lực con người không phải là thứ tự
nhiên mà có, không phải do chúa ban cho mà do chính bản thân con người, nhà
nước, xã hội tạo ra. Nhận thức được điều đó cho chúng ta cơ sở phương pháp
luận trong việc tìm hiểu và phát huy vai trò nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
1.2.2. Vai trò của nguồn lực con người đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội
Như đã đề cập đến ở phần trên có nhiều nguồn lực phát triển kinh tế xã
hội, trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người có vai trò quan trọng nhất,
bởi các nguồn lực khác như nguồn lực tự nhiên (tài nguyên, khoáng sản, rừng,
biển ), nguồn lực vốn, khoa học công nghệ đều rất quan trọng thiếu nó thì
không thể phát triển được nhưng nó chỉ tồn tại ở trạng thái tiềm năng, chúng tồn
tại ở trạng thái bất động. Chúng chỉ trở nên sống động khi có sự tác động, có sự
khai thác của nguồn lực con người, chúng sẽ trở nên có giá tri hơn khi có sự
7
khai thác sử dụng, phát huy của nguồn nhân lực. Chẳng hạn cùng là biển, biển
đó chỉ có tác dụng cho việc đánh bắt thuỷ hải sản, nhưng nếu như có sự khai
thác, phát huy của nguồn lực con người một cách hiệu quả thì biển ấy không chỉ
là địa bàn đánh bắt thuỷ hải sản mà nó còn là nguồn tài nguyên quan trọng trong
phát triển du lịch, khai thác giao thông biển, cảng biển,.v. v…Qua đó, chúng ta
có thể khẳng định vai trò quan trọng của nguồn lực con người đối với sự phát
triển kinh tế xã hội.

Hiện nay, đất nước ta đang bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò
của con người ngày càng được thể hiện rõ rệt, bởi chủ nghĩa xã hội có thể xây
dựng thành công trên đất nước ta hay không phụ thuộc vào việc chúng ta có phát
huy tốt nguồn lực con người hay không. Vì vậy, mà sinh thời chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng khẳng định “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, truớc hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”.(8 -tr310).
Khi khẳng định vai trò của nội lực so với ngoại lực, Đại hội X của Đảng
ta đã khẳng định vai trò quyết định của nguồn lực con người đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội “ Nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Có
phát huy được nội lực mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Nội lực
được tăng cường mới đảm bảo được độc lập tự chủ về kinh tế và thực hiện hội
nhập kinh tế quốc tế thành công. Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn
lực con người, nguồn lực toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên
thiên nhiên và sử dụng tốt nhất các nguồn lực nhà nước” ( 7 - tr179).
Khi đề cập đến vai trò của con người đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta có thể khái quát vai trò của ngườn lực con người ở một số
nội dung sau:
* Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế.
Trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất
trong lực lượng sản xuất. V.I.Lênin đã chỉ ra: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Con người khi được làm
8
chủ tư liệu sản xuất, được đào tạo một cách chu đáo những kiến thức quản lý
kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng kinh tế. Ngày
nay, vai trò người quản lý trong sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên quan
trọng, do vậy các quốc gia thường rất quan tâm tới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ này. Trong quá trình xây dựng CNXH, người lao động đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ quá trình tổ chức quản lý sản xuất. Điều đó tạo
ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực con người, phát triển kinh tế
- xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nước ngày càng giàu đẹp.

* Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nhà nước
chuyên chính vô sản, Hồ Chí Minh nhiều lần lưu ý rằng, nước ta phải đi đến dân
chủ thực sự, “Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao
đời sống của nhân dân, thực hiện sự dân chủ thực sự”. Cán bộ nhà nước có hiểu
biết lý luận, hiểu biết thực tiễn, thấy được trách nhiệm của mình đối với nhân
dân, sẽ hết lòng phụng sự và tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Cán bộ nhà
nước tích cực tuyên truyền đường lối của Đảng, kết hợp với việc người dân chủ
động tích cực thực hiện đường lối đó sẽ làm tăng cường sức mạnh của nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Nói về vai trò quần chúng tham gia công việc của Nhà nước,
Hồ Chí Minh đã viết: “khi người dân … biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mỉnh dám nói, dám làm, thì việc khó khăn mấy họ cũng làm
được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”. Có thể khẳng định, nguồn lực con người
là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
* Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hóa.
Nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ trong đời sống văn hóa xã
hội. Quần chúng lao động là những người góp phần xây dựng nên những công
trình văn hóa, những người sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật. Một khi con
người có tri thức, có hiểu biết vầ các hình thức nghệ thuật, sẽ tham gia sáng tạo
9
ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao. Con người có văn hóa cũng là
những người có nghĩa vụ bảo tốn di sản văn hóa của đất nước, của nhân loại.
Trình độ tri thức của mỗi người về văn hóa là tiền đề cho họ tiếp nhận những giá
trị tốt đẹp của dân tộc khác, loại bỏ những yếu tố không phù hợp để làm giàu
cho nền văn hóa dân tộc mình, làm phong phú đời sống tinh thần cá nhân. Đảng
và nhà nước ta luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tri thức ,tạo điều kiện
tốt cho họ cống hiến hết khả năng trí tuệ cho đất nước, cho sự phát triển của xã
hội.
* Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội.

Những vấn đề xã hội bao gồm: Vấn đề lao động việc làm, thực hiện công
bằng xã hội, xóa đói – giảm nghèo… Muốn giải quyết tốt những vấn đề này, đòi
hỏi chúng ta phải phát huy tốt vai trò của nguồn lực con người. Muốn giải quyết
tốt vấn đề lao động việc làm, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn
lực con người từ nâng cao sức khỏe,trình độ học vấn, tay nghề, năng lực quản lý,
tới ý thức chính trị cho người lao động. Chính sách xóa đói giảm nghèo là một
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Chính sách này chỉ phát huy
hiệu quả khi chính những người nghèo thấy được trách nhiệm của mình để nỗ
lực phấn đấu vươn lên.
Như vậy con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất,
mà còn là chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần của xã hội. Sự phối hợp giữa
các thành viên trong cộng đồng sẽ tạo ra sức mạnh to lớn trong việc phát huy
nguồn lực con người để nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội. Hiệu quả việc phát
huy nguồn lực con người tùy thuộc vào chế độ xã hội, cơ chế và chính sách của
xã hội.
10
Chương 2. PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM
2.1. Những yếu tố tác động đến nguồn lực con người Việt nam
Từ thực tiễn xã hội Việt Nam hiện nay có thể thấy có nhiều yếu tố tác
động đến nguồn lực con người Việt Nam, biểu hiện như sau:
- Một là những yếu tố lịch sử truyền thống:
Từ lịch sử dân tộc cho thấy trải qua quá trình sống và đấu tranh chống kẻ
thù xâm lược đã dần hình thành nên từ rất sớm những truyền thống văn hoá của
dân tộc như tinh thần đoàn kết cộng đồng, đề cao vai trò của lao động cần cù
sáng tạo, truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, ý chí độc lập, tự chủ, tự
cường, truyền thống kế thừa văn hoá của dân tộc và nhân loại,v.v. Những nét
văn hoá đó luôn được lưu giữ từ đời này qua đời khác và không ngừng được bổ
sung, phát huy và phát triển trong từng con người lao động Việt Nam tạo nên
những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam. Với những phẩm chất đó,
nguồn nhân lực Việt Nam có thể phát huy tốt các giá trị đó trong quá trình xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị tốt đẹp được lưu giữ
trong từng con người Việt Nam đã trình bầy ở trên, nguồn lực con người Việt
Nam còn ẩn chứa những hạn chế bất lợi trong khai thác, phát huy nguồn lực con
người Việt Nam như những thói quen xấu, những hủ tục lạc hậu, tư duy làm ăn
của người sản xuất nhỏ, v.v Những yếu tố đó cũng gây cản trở trong việc phát
huy nguồn lực con người Việt Nam.
- Hai là các yếu tố hiện đại bao gồm tình hình trong nước và quốc tế:
+ Về tình hình trong nước:.
Về Kinh tế: Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương thực hiện
quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng phát triển khoa học công nghệ gắn với đô thị
hoá nông thôn tạo ra sự chuyển biến lao động từ những người nông dân thành
người công nhân tạo cơ sở cho công nghiệp phát triển; tạo ra những chủ thể kinh
11
tế độc lập tự chủ, thích nghi với cơ chế thị trường quen làm ăn theo pháp luật.
Với chủ trương đó của Đảng và nhà nước ta đã tạo ra sự chuyển biến lớn đến
nguồn nhân lực đòi hỏi nguồn nhân lực phải có thể lực tốt, có trình độ tay nghề
cao, có khả năng độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, phát huy tính năng
động sáng tạo, hơn nữa xây dựng được đạo đức văn hoá trong sản xuất - kinh
doanh.
Về chính trị: Với tình hình chính trị tương đối ổn định trong thời gian qua
nên đường lối chính sách của Đảng ngày càng tập trung chăm lo cho đời sống
nhân dân, đặc biệt là những vùng dân cư có hoàn cảnh khó khăn thể hiện ở chính
sách xoá đói giảm nghèo, chính sách đối với 1000 xã đặc biệt khó khăn; Xu
hướng dân chủ hoá ngày càng nhân rộng và thể hiện tính tích cực, v.v. Nhờ
đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta nên nguồn nhân lực nước ta ngày
càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt nguồn nhân lực ở những
vùng gặp khó khăn có điều kiện được học tập nâng cao trình độ, cũng như phát
triển thể lực.
Về xã hội: Trong những năm qua với tình hình chính trị ổn định tạo cơ sở

cho một xã hội lành mạnh, tệ nạn xã hội được đẩy lùi, giáo dục đào tạo cần được
chăm lo phát triển. Vì vậy, nguồn lực con nguời được chăm lo phát triển đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướnh xã hội chủ nghĩa.
+ Về tình hình quốc tế:
Tình hình quốc tế về cơ bản là ổn định, ít có khả năng xảy ra chiến tranh
thế giới, nhưng xung đột sắc tộc, chiến tranh cục bộ vẫn xảy ra ở một số nơi, nạn
khủng bố diễn ra thường xuyên ở nhiều nước, đặc biệt chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở
Đông Âu và Liên Xô, phong trào công sản quốc tế vẫn chưa vượt qua giai đoạn
thoái trào gây mất lòng tin của nhân dân với Đảng và chính quyền; Hội nhập
quốc tế và toàn cầu hoá là một xu hướng tất yếu và ngày càng ra tăng, trình độ
khoa học công nghệ của thế giới phát triển với tốc độ cao. Với tình hình quốc tế
12
có những diễn biến phức tạp như trên đã tác động lớn đến nguồn nhân lực Việt
Nam đòi hỏi nguồn nhân lực nước ta phải không ngừng nâng cao trình độ khoa
học công nghệ, trình độ tay nghề, nâng cao đạo đức văn hoá trong hợp tác kinh
doanh, cũng như nâng cao thể lực.
2.2. Thực trạng nguồn lực con người Việt Nam
Để nghiên cứu và phát huy nguồn lực con người Việt Nam không chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu lí luận mà cần phải nghiên cứu thực tiễn con người
Việt Nam. Vì vậy, tìm hiểu đánh giá thực trạng con người Việt Nam là một việc
cần thiết.
* Ở Việt Nam:
Phát triển con người cũng đã được biết tới từ lâu như là một khái niệm rất
cơ bản trong "Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản" (1848) nổi tiếng. Ở đây trình
bày thành tựu phát triển con người theo nội hàm và cách lượng hóa chung của
thế giới: Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và
mục đích của phát triển là tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con người
được hưởng cuộc sống dài lâu, khỏe mạnh và sáng tạo. Vào thập niên 80 của thế
kỷ 20, Chương trình phát triển LHQ (UNDP) đã đưa khái niệm này làm tiêu chí

phát triển của từng nước hay vùng lãnh thổ, và quan trọng hơn là đã xác định cụ
thể hệ tiêu chí và đưa ra cách tính toán chính xác từng tiêu chí, để đánh giá và
xếp hạng trình độ phát triển của các nước trong LHQ theo hệ tiêu chí phát triển
con người (tiếng Anh viết tắt là HDI) gồm một tiêu chí về thu nhập quốc dân
đầu người (GDP/đầu người) và 2 tiêu chí về năng lực con người (giáo dục và
sức khỏe), nhấn mạnh ý tưởng coi con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố
quyết định, là mục tiêu của sự phát triển, phê phán những quan điểm phiến diện,
như chú trọng phát triển, nhưng vô tình hoặc cố ý "bỏ quên" con người, nhìn con
người chỉ như là công cụ, phương tiện của sự phát triển. Từ năm 1990 đến nay,
UNDP hằng năm công bố báo cáo phát triển con người. Báo cáo của Việt Nam
13
được xuất bản năm 2001, với chủ đề Ðổi mới vì sự nghiệp phát triển con người
đã được đánh giá cao, được UNDP bình chọn tặng thưởng vào vào năm 2006.
Tiêu chí đánh giá của nước ta: Từ đó HDI đã trở thành công cụ xác định chiến
lược phát triển của các quốc gia, thước đo đánh giá trình độ phát triển hằng năm
trên thế giới - đây thật sự là một thành quả cực kỳ to lớn của chủ nghĩa nhân văn
trong thời đại mới. Ðại hội IX (2001) Ðảng ta đã đưa HDI thành chỉ tiêu quốc
gia. Các chỉ số HDI cơ bản được mang giá trị từ 0 đến 1; chỉ số giáo dục được
coi là có giá trị bằng 1, khi 100% số người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết;
bằng 0, khi 0% số người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết. Chỉ số tuổi thọ
được coi là có giá trị bằng 1, khi tuổi thọ bình quân là 85 tuổi; bằng 0, khi tuổi
thọ bình quân chỉ đạt 25 tuổi. Chỉ số kinh tế được coi là có giá trị bằng 1, khi
GDP bình quân đầu người đạt 40.000 USD (tính theo PPP - giá trị sức mua của
đồng tiền); bằng 0, khi GDP bình quân đầu người chỉ đạt 100 USD (tính theo
PPP).
Theo kết quả thống kê năm 2005 dân số nước ta hiện nay khoảng trên 80
triệu người trong đó: Thành thị chiếm 30% và nông thôn chiếm 70%; Lao động
nông nghiệp chiếm trên 60%; Cơ cấu giới, nam chiếm 49,6% và nữ chiếm
50,4%; Tỷ lệ người biết chữ chiếm 92%; Tuổi thọ trung bình đạt 71,5 tuổi.
- Thu nhập bình quân đầu người đạt dưới 2 $/ ngày, đứng thứ 132/174

nước
- Chỉ số HDI đứng thứ 108
- Chỉ tiêu bình đẳng giới đứng thứ 89/143 nước
- Tỷ lệ người lao động trên 15 tuổi chiếm 71,9% trong đó độ tuổi từ 15-35
chiếm 50,7%, từ 35-54 chiếm 42,2%, từ 55 tuổi trở lên chiếm 7%. Qua đó cho
thấy lực lượng lao động nước ta trẻ, tỷ lệ người lao động trên tổng dân số chiếm
tỷ lệ cao
Qua thực trạng dân số nước ta như trên có thể đi đến một số đánh giá
như sau:
14
Thứ nhất: Số lượng dân số đông, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao.
Điều đó cho thấy nguồn nhân lực nước ta hết sức rồi rào, đặc biệt số người trong
độ tuổi lao động lớn, sẽ là điều kiện thuận lợi trong khai thác, sử dụng nguồn
nhân lực.
Thứ hai: Tỷ lệ người lao động biết chữ cao, lại cần cù, thông minh, sáng
tạo, có truyền thống yêu nước, đoàn kết trong lao động. Với những giá trị ấy sẽ
là điều kiện tốt để chúng ta có thể khai thác, sử dụng, phát huy nguồn nhân lực
đồng thới đó còn là cơ sở để nước ta có thể đào tạo nâng cao trình độ cho nguồn
nhân lực đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
nền kinh tế thị trường hiện nay.
Bên cạnh những giá trị tích cực trong việc phát huy nguồn nhân lực thiết
nghĩa còn tồn tại một số mặt hạn chế sạu:
Một là: Mặc dù tỷ lệ nguồn nhân lực biết chữ cao nhưng số người có trình
độ từ trung học phổ thông trở lên còn thấp nên gặp không ít khó khăn trong việc
chiếm lĩnh những trị thức khoa học công nghệ cao, khó có thể đáp ứng yêu cầu
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hai là: Tỷ lệ công nhân và dân thành thị thấp phản ánh cơ cấu kinh tế ở
nước ta nông nghiệp là chủ yếu.
Ba là: Sức khoẻ kém, chiều cao thấp, cân nặng ít (trọng lượng cơ thể của
người Việt nam chỉ bằng gần 70% trọng lượng cơ thể của người Châu Âu), trẻ

em bị suy dinh dưỡng cao khoảng 36%.
Bốn là: Tâm lí của người Việt Nam còn nặng tư tưởng địa phương, cục
bộ.
Năm là: Mặc dù khi đất nước đổi mới đời sống nhân dân đã được cải thiện
tuy nhiên thu nhập bình quân đầu người còn thấp gây khó khăn trong việc đào
tạo nâng cao trình độ của nguồn nhân lực.
* Những kết quả đạt được:
15
Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, những người Việt Nam đã từ địa vị
những người mất nước, người nô lệ trở thành những người làm chủ đất nước.
Nhà nước của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Những năm qua, kinh tế – xã hội Việt Nam ngày càng phát triển,
năng suất lao động ngày càng cao, đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể đời sống
nhân dân, giúp cho việc chăm sóc con người ngày một tốt hơn.
Việt Nam đã quan tâm tới giáo dục đào tạo, đã đưa tỷ lệ số người biết chữ
từ 5% trước đây, tới nay đã gần 90% dân số biết chữ. Nhà nước khẳng định giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, tạo ra điều kiện thuận lợi để “cả nước trở
thành một xã hội học tập”. (văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX).
Việc chăm sóc sức khỏe cho các tầng lớp nhân dân đã được xã hội quan tâm.
Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng lên nhiều so với trước đây. Thể
lực của thể lực của người Việt Nam đã được cải thiện hơn trước. Nhìn chung,
trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo tới việc bồi dưỡng
nguồn nhân lực của đất nước cả sức khỏe, tri thức, năng suất,phầm chất đạo đức;
thực hiện cải cách bộ máy Nhà nước về mọi mặt; tạo điều kiện cho mỗi người
phát huy được khả năng của mình đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
* Những hạn chế của việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam
Trước hết, trong việc phát huy nguồn lực con người con người ở Việt
Nam, chúng ta đề quá cao mặt xã hội, nặng động viên tinh thần, nhẹ mặt tự
nhiên, không quan tâm đúng mức đến nhu cầu vật chất, tài năng cá nhân chưa

được coi trọng.
Hai là, có lúc chúng ta đề cao quá mức tính giai cấp, coi nhẹ tính nhân
loại, không chú ý kế thừà những giá trị truyền thống dân tộc, chưa làm theo
đúng quy luật mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra. Sự hiểu biết về tinh hoa văn
hóa trong nhiều người Việt Nam còn hạn chế. Điều đó gây ra những khó khăn
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay.
16
Ba là, tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước, một bộ phận cán bộ
tham nhũng, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân; không ít kẻ cơ hội, hữu
khuynh chui vào tổ chức đảng, cơ quan nhà nước gây ra những tác động xấu
đang làm xói mòn lòng tin của quần chúng đối với Đảng và Nhà nước ta. Cơ cấu
đào tạo giữa các ngành, các bậc học chưa hợp lý, việc đào tạo và sử dụng cán bộ
còn nhiều bất cập. Tình trạng thiếu việc làm trong một bộ phận thanh niên đang
tạo sức ép lớn cho xã hội.
Bốn là, sự kết hợp các nguồn lực ở nước ta còn nhiều hạn chế, hiệu quả
khai thác đất đai ở nước ta còn thấp trong khi đó sức lao động còn dôi dư khá
nhiều. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn và một bộ phận người lao động ở
thành phố gây ra sự lãng phí lớn về nguồn lực con người.
Năm là, năng lực lao động của người Việt Nam còn hạn chế. Tinh thần kỷ
luật, trách nhiệm chưa cao.
Những hạn chế trong việc xây dựng, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con
người Việt Nam trong thời gian quan do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, việc
chăm sóc đầy đủ, đảm bảo những điều kiện cho con người phát triển toàn diện
còn hạn chế.
Thứ hai: Việt Nam trải qua nhiều năm chiến tranh, hậu quả chiến tranh
còn để lại rất nặng nề đòi hỏi toàn đảng, toàn dân phải tiếp tục khắc phục.
Thứ ba: những ảnh hưởng của phong tục tập quán ,thói quen của người
sản xuất nhỏ.
Thứ tư: tư tưởng chủ quan nóng vội,muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã

hội. Cơ chế hành chính bao cấp tạo nên tư tưởng trông chờ ỷ lại, sự thiếu dân
chủ trong đời sống xã hội đã hạn chế phát triển tính năng động, sáng tạo, tính
dám chịu trách nhiệm của con người Việt Nam.
Thứ năm: Trong quá trình chuyển dang nền kinh tế thị trường, mở rộng
giao lưu quốc tế, một mặt cũng tạo ra những tác động tích cực, nhưng mặt khác
17
cũng tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực như : lối sống thực dụng, vì lợi mà không
ít người có thể làm mọi việc bất chấp đạo lý.
Thứ sáu: Sự đầu tư cho giáo dục - đào tạo còn hạn chế “công tác quản lý
giáo dục - đào tạo có những mặt yếu kém bất cập” (Văn kiên Hội nghị lần thứ
hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII) trực tiếp ảnh hưởng tới việc phát huy
nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.
Thứ bảy: những yếu kém trong quản lý nhà nước, hệ thống luật pháp chưa
đồng bộ
2.3. Phương hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người Việt Nam
2.3.1. Phương hướng phát huy nguồn lực con người Việt Nnam
Chiến lược 10 năm 2001 - 2010 là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu
hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của
nước ta trên trường quốc tế được nâng cao
Từ mục tiêu trên, để phát huy nguồn lực con người Việt nam hiện nay,
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cần chú ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Nguồn lực con người không thể đặt ngang hàng với các nguồn
lực khác mà phải coi nguồn lực con người là nhân tố trung tâm, xuất phát điểm
và bao trùm nên các nguồn lực khác. Song nguồn lực con người không đồng
nhất với con người nhưng cũng không thể tách khỏi con người, khỏi cộng đồng
người trong xã hội. Vì vậy, việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện

nay không chỉ tìm ra phương hướng khai thác tối đa những năng lực vật chất,
tinh thần hay trí tuệ của con người mà còn phải biết vì con người.
18
Thứ hai: Nghiên cứu con người không chỉ dừng lại ở khái quát lí luận mà
còn phải xem xét ở cả thực tiễn nữa. Vì vậy, nghiên cứu nguồn lực con người
cần dựa vào cơ sở thực tiễn là con người và những điều kiện kinh tế - xã hội
Việt Nam…
Thứ ba: Con người trong xã hội Việt Nam hôm nay chịu ảnh hưởng hàng
loạt những nhân tố khách quan cũng như chủ quan trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội nên chưa có sự ổn định, thống nhất trong tâm lý, đạo đức, lối
sống,v.v. Vì vậy, việc phát huy nguồn lực con người phải đặt trong mối quan hệ
giữa khai thác và bồi dưỡng phát triển.
2.3.2. Giải pháp phát huy nguồn lực con người Việt nam
Ở nước ta hiện nay, phát huy nguồn lực con người là một điều cần thiết.
Nhưng để phát huy tốt nguồn lực con người thì điều quan trọng nhất là phải có
phương pháp. Trong phạm vi một khóa luận chuyên ngành chủ nghĩa xã hội
khoa học thì việc sáng tạo, tìm tòi ra một giải pháp nào đó là một điều hết sức
khó khăn. Trên tinh thần ấy chỉ có thể tìm hiểu và làm sáng tỏ những giải pháp
đã được Đảng, nhà nước đề ra mà thôi. Những giải pháp đó bao gồm:
* Nhóm giải pháp kinh tế:
Như đã thấy việc phát huy nguồn lực con người và phát triển kinh tế có
quan hệ gắn bó với nhau, chúng ta không thể có đời sống cao khi kinh tế không
phát triển, ngược lại kinh tế không thể phát triển khi không có sự phát huy
nguồn lực con người.
Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang thực hiện chính sách phát triển kinh
tế thông qua thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc phát huy nguồn lực
con người phải gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tiễn đó yêu cầu
nguồn nhân lực cần phải được nâng cao cả về số lượng và chất lượng, cả về thể
lực và trí lực, cả năng lực và đạo đức nghề phiệp. Nghĩa là với sự phát triển của

19
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì số lượng lao động công nghiệp phải được tăng
lên, trình độ của người lao động cũng không ngừng được bổ sung, phát triển.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn là trọng điểm nhằm phát triển nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới. Trong quá trình ấy cần nâng cao vị thế của người lao động
trong quá trình sản xuất, khắc phục tình trạng tách rời giữa người lao động với
tư liệu sản xuất. Để làm được điều đó cần thực hiện giao đất, giao rừng cho nông
dân để nông dân trở thành người làm chủ cụ thể những tư liệu sản xuất của toàn
xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế, để phát huy nguồn lực con người cần phải có dân
chủ trong xây dựng đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của đất nuớc, của địa phương, của đơn vị xây dựng kinh doanh. Đồng thời
động viên người lao động bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh phát huy thế mạnh của
địa phương, của đất nước, phát triển các ngành nghề truyền thống. Qua đó phát
huy trình độ tay nghề năng lực quản lí kinh doanh của mỗi thành viên trong xã
hội. Để làm được điều đó, Đảng và nhà nước cần quan tâm chăm lo tới đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân, thực hiện phân phối công bằng, dân chủ, công
khai. Có như vậy nền kinh tế mới phát triển, nguồn lực con người mới được phát
huy.
Qua sự trình bày trên, thiết nghĩ để phát huy tốt nguồn lực con người thì
điều quan trọng là cần phải có đường lối chính sách kinh tế đúng đắn, khách
quan, phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với thực tiễn của đất nước. Sau
hơn 20 năm đổi mới đất nước, những thành tựu về kinh tế mà chúng ta đạt được
đã phần nào khẳng định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về kinh
tế là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn xã hội Việt nam.
* Nhóm giải pháp chính trị:
Để đảm bảo cho việc phát huy nguồn nhân lực cần xây dựng hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam với mục tiêu hoàn thiện nền
20

dân chủ xã hội chủ nghĩa và nội dung cốt lõi đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân; dân chủ gắn liền với sáng tạo, biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất: Nâng cao trình độ nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên và
nhân dân về pháp luật về nhà nước của dân, do dân, vì dân. Qua đó nâng cao
được trách nhiệm và năng lực của họ khi tham gia vào công việc của Đảng, nhà
nước và các cơ quan nhà nước. Đây là điểm hết sức quan trọng bởi muồn cán
bộ, đảng viên, và nhân dân thực hiện đúng chủ truơng, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước thì khâu đầu tiên là phải nhận thức đúng trước đã, nếu
không nhân thức thức đúng đắn sẽ dẫn đến hành động sai lầm.
Thứ hai: Để nhà nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân cần
phải phát huy dân chủ trong nhân dân, tăng cường công tác kiểm tra giám sát
của nhân dân đối với các cán bộ, đảng viên, cũng như các cơ quan của Đảng,
nhà nước. Nhưng để phát huy được quyền làm chủ của nhân dân và phát huy
dân chủ thì trước hết cần phải có chính sách, phát luật và phải có cơ quan
bảo vệ.
Thứ ba: Cần xây dựng cơ chế chính sách để nhân dân có thể tham gia
quản lí đất nước, quản lí xã hội, để nhân dân thực sự là người làm chủ đất nước,
Thứ tư: Cần phân công trách nhiệm một cách rõ ràng cho từng cấp, từng
ngành, từng cơ quan, đơn vị, tránh tình trạng chồng chéo trong việc thực hiện
chức năng nhiệm vụ.
Qua những giải pháp về chính trị trên, có thể thấy rằng Đảng và Nhà nước
ta đã và đang có những chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm xây dựng thành
công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân và đã
không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhờ vậy, trong mấy năm
trở lại đây vai trò làm chủ của nhân dân đã phát huy tác dụng, đã có không ít các
vụ án được phanh phui nhờ có sự tố giác của nhân dân, và cũng không ít những
vụ oan sai được sửa chữa. Đồng thời nhờ có sự phát huy dân chủ nên nên năng
21
lực của nhân dân được phát huy, Đảng và Nhà nước có điều kiện tuyển chọn
được những nhân tài trong lãnh đạo và quản lí đất nước.

* Nhóm giải pháp xã hội:
Xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt nam để phát huy nguồn lực con người
Việt nam, ngoài những nhóm giải pháp kinh tế, chính trị thì giải pháp xã hội
cũng cần được chú trọng ở những điểm sau:
Thứ nhất: Từng bước khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục tập quán
lạc hậu, xây dựng mối quan hệ giữa người với người trên tinh thần tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, trong đời sống xã hội.
Thứ hai: Thực hiện những biện pháp nhằm khắc phục tình trạng chênh
lệch giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãng thổ. Quan tâm, giúp đỡ hộ
nghèo những gia đình khó khăn
Thứ ba: Thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo, tập trung giải quyết
những vấn đề cấp bách về lao động việc làm. Trên cơ sở đó, người lao động mới
có điều kiện nâng cao trình độ trị thức, trình độ tay nghề,
Thứ tư: Giải quyết việc làm khắc phục tình trạng thất nghiệp ở thành thị;
giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn; đào tạo nghề trong nước, tham
gia xuất khẩu lao động nước ngoài nhằm giải quyết việc làm cho người lao
động.
Thứ năm: Giải quyết quan hệ lợi ích giữa tiền lương, tiền thưởng như thế
nào cho thoả đáng
Thứ sáu: Giải quyết quan hệ lợi ích giữa chủ doanh nghiệp với công nhân
Từ những giải pháp xã hội trên cho thấy Đảng và Nhà nước ta đã có
những định hướng đúng đắn trong việc thiết kế một xã hội công bằng và dân
chủ, không có bất bình đẳng xã hội, giảm thiểu tình trạng chênh lệch giàu nghèo
giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, thực hiện xoá đói giảm nghèo nâng cao
mức sống cho nhân dân. Với những giải pháp đó đã tạo cơ sở xã hội quan trọng
trong việc đào tạo, khai thác, sử dụng nguồn nhân lực hiện nay.
22
* Nhóm giải pháp về giáo dục- đào tạo:
Giáo dục và đào tạo là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát
huy nguồn lực con người, nhưng trước khi khai thác, sử dụng nguồn lực con

người thì trước hết cần chú ý đến khâu đào tạo nguồn nhân lực. Vì vậy, cần chú
ý một số giải pháp sau:
Thứ nhất: Coi “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”( 6 - tr107) cho đất nước đáp ứng
yêu cầu của công nghiệ hoá, hiện đại hoá và nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai: Đảng, nhà nước, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị xã
hội và gia đình đều phải quan tâm đến giáo dục và đào tạo. Tăng cường sự phối
hợp giữa nhà trường, gia đình, và xã hội trong đào tạo thế hệ trẻ.
Thứ ba: Kết hợp giữa giáo dục phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề
nghiệp và trình độ chuyên môn tay nghề, nhằm xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa. Đó là con người có ý thức trình độ và năng lực làm chủ; Có tri thức
sâu sắc về công việc mà mình đang đảm nhận; Có ý thức kỷ luật, có tinh thần
hợp tác với đồng nghiệp; Con người sống có văn hoá, có tình nghĩa anh em, bạn
bè, và mọi người xung quanh; Giàu lòng yêu nước thương dân, có tình thương
yêu giai cấp, thương yêu đồng loại,v.v…
Thứ tư: Phải tích cực đổi mới phương pháp dạy và học sao cho phát huy
được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, hăng say tìm tòi của người học,v.v.
Như vậy, qua sự quan tâm chú ý những giải pháp giáo dục đào tạo trên có
thể thấy rõ sự quan tâm chú ý của Đảng và Nhà nước ta đối với giáo dục - đào
tạo, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo của đất nước, coi giáo dục là quốc
sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; coi sự phát triển
giáo dục là công việc chung của đất nước, nó không phải là công việc của riêng
cá nhân nào, của cơ quan đơn vị nào; coi sự đổi mới phương pháp giảng dạy là
vấn đề quan trong trong phát huy tính chủ động sáng tạo của người học qua đó
23
dần hình thành những con người mới xã hội chủ nghĩa tương lai. Với sự quan
tâm đặc biệt cho giáo dục như vậy trong những năm qua sự nghiệp giáo dục Việt
nam đã đạt được những thành tựu to lớn như đào tạo được đội ngũ người lao
động có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ năng lực làm việc cao đáp ứng được

yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên cũng cần thấy rằng bên cạnh những
thành tựu trên sự pghiệp giáo dục đào tạo nước ta cũng còn tồn tại nhiều bất cập
như tình trạng thừa thầy thiếu thợ, người lao động có trình độ lí thuyết tốt
nhưng lại kém về năng lực thực hành, v.v…Dưới đây là những biến đổi cơ cấu
nguồn lực con người phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội:
Về cơ cấu lao động,
Cần khắc phục tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu lao động giữa các ngành,
các khu vực sản xuất, từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng
lao động cho sản xuất công nghiệp, giảm lao động nông nghiệp. Đại hội Đảng
lần thứ IX nêu lên mục tiêu: tăng lao động trong công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ lên 50% vào năm 2010, giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp cả về số tuyệt
đối và tỷ trọng từ 61,3% (năm 2000) xuống còn 50% (năm 2010). Trong những
năm tới cần phải nỗ lực nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo với cơ cấu: đại
học 1, trung học chuyên nghiệp 5, công nhân kỹ thuật 10. Bên cạnh đó, cần
nhanh chóng khắc phục tình trạng thừa “thầy”, thiếu “thợ” như hiện nay theo
hướng gắn việc hình thành các khu công nghiệp, khu công nghệ cao với hệ
thống các trường đào tạo nghề. Phát triển nhanh và phân bố hợp lý các trường
dạy nghề trên địa bàn cả nước, mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh
hoạt, năng động. Phấn đấu đạt số học sinh công nhân kỹ thuật tăng 11-12%/năm
trong giai đoạn 2000 – 2005.
Về tầm vóc, thể lực.
Tầm vóc và thể lực là những đặc điểm sinh thể quan trọng, phản ánh một
phần thực trạng của cơ thể con người, liên quan chặt chẽ đến khả năng lao động
24

×