Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bài lớn môn đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.62 KB, 11 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước
thực hiện cơ chế quản lý mới bằng việc trả lại đất đai những giá trị vốn có
thì tranh chấp đất đai phát sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số
lượng cũng như tính chất phức tạp về mặt nội dung. Tính phức tạp của
tranh chấp đất đai không chỉ bắt nguồn từ những xung đột gay gắt về lợi
ích kinh tế, mà còn do các yếu tố lịch sử để lại, trong thực tế có rất nhiều
vụ tranh chấp đất đai rất khó để xác định chủ sở hữu của mảnh đất bởi khi
giải quyết tranh chấp các bên đều không có chứng cứ pháp lý cụ thể
chứng minh quyền sử dụng đất của mình. Trong những trường hợp đó,
cần có phương hướng giải quyết như thế nào để đảm bảo lợi ích cho chủ
sở hữu, xuất phát từ lý do đó em xin lựa chọn tình huống sau để có thể
thấy rõ được một trong rất nhiều những vụ khiếu kiện về đất đai đang xảy
ra trên thực tế hiện nay, đó là:
“Năm 1959, ông Hà cho gia đình chị gái, anh rể là bà Thảo và ông
Vũ mượn 5 sào ruộng canh tác tại xã Trung Tín, huyện Yên Hưng. Năm
1968, bà Thảo chết. Năm 1979, ông Vũ lấy bà Hòa đến năm 1981 thì
sinh được anh Ngọc. Năm 2000, ông Vũ chết. Sau khi ông Vũ chết, bà
Hòa và anh Ngọc tiếp tục canh tác trên toàn bộ diện tích đó.
Trong suốt thời gian từ năm 1959 đến năm 2007 không xảy ra bất kì
tranh chấp nào liên quan đến thửa đất này, nhưng đến tháng 7/2007, do
đã có nhiều con cháu nên ông Hà đến yêu cầu mẹ con bà Hòa, anh Ngọc
trả diện tích đất mà ông đã cho bà Thảo và ông Vũ mượn canh tác từ
năm 1959. Hiện nay, diện tích đất này chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, mẹ con bà Hòa cho rằng đây là tài sản
của ông Vũ để lại thừa kế, mẹ con bà không biết việc ông Vũ mượn đất
của ông Hà nên không có nghĩa vụ phải trả lại đất cho ông Hà. Không
thỏa thuận được, ông Hà làm đơn kiện đòi lại đất.
Hỏi: Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết và hướng giải quyết như
thế nào?”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:


1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai giữa ông Hà và mẹ
con bà Hòa :
Trường hợp của ông Hà là tranh chấp đất đai mà chưa có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nên theo quy định tại Điều 136 Luật Đất đai:
“Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải
quyết như sau:
1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền
với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy
định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như
sau:
a) Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không
đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; quyết
định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương là quyết định giải quyết cuối cùng;
b) Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự chưa
không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ
trưởng Bộ tài nguyên và Môi trường; quyết định của Bộ trưởng Bộ tài
nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng”.
Vì vậy, việc giải quyết vụ tranh chấp đất đai của ông Hà có hai trường
hợp xảy ra.
Thứ nhất, tuy không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng
nếu ông Hà có một trong các loại giấy tờ được quy định tại các Khoản 1,

2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai thì thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp đất
đai của ông Hà thuộc về Tòa án nhân dân.
Thứ hai, nếu cả ông Hà và mẹ con bà Hòa đều không có một trong
các loại giấy tờ được quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất
đai thì thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp đất đai của ông Hà thuộc về
Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng.
2. Hướng giải quyết vụ tranh chấp đất đai giữa ông Hà và mẹ
con bà Hòa :
Đối với cả hai trường hợp trước khi đưa tranh chấp kiện ra Tòa án
nhân dân hoặc Ủy ban nhân dân thì đều cần phải tiến hành hòa giải tại cơ
sở. Điều 135 Luật Đất đai quy định về Hòa giải tranh chấp đất đai :
“1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc
giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi
đơn đến Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất đai đang tranh
chấp.
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ
chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất đai.
Thời hạn hòa giải là ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nhận được đơn.
Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản có chữ
ký của các bên tranh chấp và xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn chuyển kết quả hòa giải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
giải quyết theo quy định về quản lý đất đai”.
Như vậy, trước khi giải quyết tranh chấp đất đai cho ông Hà, trong cả
hai trường hợp cơ quan có thẩm quyền đều phải hướng dẫn cho ông Hà
tiến hành việc hòa giải tại cơ sở trước. Nếu việc hòa giải tại cơ sở không
giải quyết được tranh chấp thì mới tiến hành việc kiện lên Tòa án nhân
dân hoặc Ủy ban nhân dân theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành

hòa giải tại cơ sở không chỉ thể hiện truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân
tộc, đậm tính nhân văn và trên cơ sở tình người mà việc tiến hành hòa
giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã trong tranh chấp đất đai còn là một thủ
tục có tính chất pháp lý bắt buộc, đây có thể được coi là một giai đoạn
tiền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân hoặc cơ quan hành
chính nhà nước có thẩm quyền.
2.1: Hướng giải quyết đối với trường hợp thứ nhất – ông Hà tuy
không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có một trong
các loại giấy tờ được quy định tại Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất
đai:
Trong trường hợp này, nếu ông Hà có một trong các loại giấy tờ quy
định tại Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai và chứng minh được ông
đã cho gia đình chị gái, anh rể là bà Thảo và ông Vũ mượn mảnh đất 5
sào trước Tòa án nhân dân thì mảnh đất này thuộc về quyền sở hữu của
ông Hà. Bởi vì theo Khoản 1 Điều 517của Bộ luật Dân sự quy định
Quyền của bên cho mượn tài sản:
“Bên cho mượn tài sản có các quyền sau đây:
1. Đòi lại sản ngay sau khi bên mượn đạt được mục đích nếu không có
thỏa thuận về thời hạn mượn; nếu bên cho mượn có nhu cầu đột xuất và
cấp bách cần sử dụng tài sản thì được đòi lại tài sản đó mặc dù bên
mượn chưa đạt được mục đích, nhưng phải báo trước một thời gian hợp
lý;”.
Như vậy với tư cách là bên cho mượn trong Hợp đồng cho mượn tài
sản ông Hà hoàn toàn có quyền đòi lại 5 sào ruộng thuộc quyền sở hữu
của mình. Tuy mẹ con bà Hòa không biết 5 sòa ruộng này là của ông Vũ
mượn của ông Hà và cho rằng đây là tài sản được thừa kế từ ông Vũ
nhưng theo Khoản 1 Điều 637 Bộ luật Dân sự quy định về Thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại : “Những người được hưởng thừa kế
có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người
chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”, nên trong trường hợp

này khi ông Hà đã chứng minh được quyền sở hữu 5 sào ruộng của mình
và mảnh đất này là cho ông Vũ mượn thì mẹ con bà Hòa có trách nhiệm
thay ông Vũ trả lại mảnh đất này cho ông Hà.
Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi ông Hà đã tạo điều kiện cho ông Vũ
mượn 5 sào ruộng để canh tác và trên thực tế ông gia đình ông Vũ đã
canh tác được rất lâu trên mảnh đất này nên đã đạt được mục đích của
bên mượn. Nay do nhu cầu của gia đình ông Hà đòi lại mảnh đất thì mẹ
con bà Hòa phải có nghĩa vụ trả lại mảnh đất vì đây không phải là tài sản
thuộc quyền sở hữu của ông Vũ mà ở đây ông Vũ chỉ là người chiếm hữu
hợp pháp thông qua hợp đồng cho mượn với ông Hà nên khi ông Hà đòi
lại mảnh đất thì mẹ con bà Hòa là người thừa kế hợp pháp tài sản của ông
Vũ phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của bên mượn tài sản thay cho
ông Vũ. Để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên thì nếu trên 5 sào ruộng
này hiện đang có lúa hoặc hoa màu thì ông Hà cần đợi thu hoạch xong
hoặc nếu ông Hà muốn lấy lại đất luôn thì cần bồi thường một khoản tiền
hợp lý cho mẹ con bà Hòa.
2.2: Hướng giải quyết đối với trường hợp thứ hai, ông Hà và mẹ
con bà Hòa đều không có một trong các loại giấy tờ được quy định
tại Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai:
Theo Điều 161 Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành luật Đất đai
quy định về Căn cứ để giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các
bên tranh chấp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất:
“Tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ
quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì việc giải
quyết tranh chấp được thực hiện dựa theo các căn cứ sau:
1. Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do các bên tranh
chấp đưa ra.
2. Ý kiến của Hội đồng tư vấn giải quyết tranh chấp đất đai của xã,
phường, thị trấn do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thành lập gồm

có:
a) Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn là
Chủ tịch Hội đồng;
b) Đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn;
c) Tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp, bản,
buôn, phum, sóc đối với khu vực nông thôn;
d) Đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn
biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó;
đ) Cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn.
3. Thực tế diện tích đất mà các bên tranh chấp đang sử dụng ngoài diện
tích đất đang có tranh chấp và bình quân diện tích đất cho một nhân
khẩu tại địa phương.
4. Sự phù hợp của hiện trạng sử dụng thửa đất đang có tranh chấp với
quy hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt.
5. Chính sách ưu đãi người có công của Nhà nước.
6. Quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất.”.
Như vậy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng sẽ xem xét
việc đưa ra các chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của ông
Hà và mẹ con bà Hòa để quyết định xem ai là chủ sở hữu của 5 sào ruộng
đang tranh chấp.
Trong trường hợp cả hai bên đương sự đều không đưa ra được chứng
cứ chứng minh về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất một cách thuyết
phục thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Yên Hưng sẽ lấy ý kiến của
Hội đồng giải quyết tranh chấp đất đai của xã Trung Tín với những thành
phần theo quy định tại Khoản 2 Điều 161 Nghị định 181/2004/NĐ-CP và
xem xét tới các điều kiện được quy định tại các Khoản 3, 4, 5 và 6 của
Nghị định này để đưa ra quyết định xem mảnh đất đang tranh chấp là
thuộc quyền sở hữu của ai.
Tuy nhiên, trên thực tế từ các dữ liệu mà tình huống đưa ra khó có
thể xác định được quyền sở hữu 5 sào ruộng này thuộc về ai. Ông Hà là

chủ sở hữu thật sự, nhưng nếu không đưa ra được bằng chứng cụ thể
chứng minh mảnh đất này có nguồn gốc này là của mình và ông Vũ có
được mảnh đất này là do ông Hà đã cho ông Vũ mượn; thì lợi thế sẽ
nghiêng về mẹ con bà Hòa bởi họ đã có quá trình sử dụng đất lâu dài, ổn
định. Cũng bởi vì thời gian cho mượn đã từ rất lâu, cách năm tranh chấp
gần năm mươi năm nên việc xác định là rất khó. Giải quyết như thế nào
để đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu thật sự của mảnh đất lẫn người
đang sử dụng trực tiếp mảnh đất cần phải căn cứ nhiều về tình hình thực
tế.
KẾT LUẬN:
Với kiến thức lý luận và hiểu biết thực tế còn hạn hẹp. Bài viết trên
không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự
chỉ bảo và đóng góp ý kiến của thầy cô để bài làm trở nên hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Đất đai, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, 2005.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 1,
Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2012.
3. Bộ Luật Dân sự, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2011.
4. Luật Đất đai, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2012.
5. />%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=18562
6. />ItemID=16
MỤC LỤC:
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai giữa ông Hà và mẹ con bà
Hòa 2
2. Hướng giải quyết vụ tranh chấp đất đai giữ ông Hà và mẹ con bà
Hòa .3

2.1 Hướng giải quyết đối với trường hợp thứ nhất – ông Hà tuy không có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có một trong các loại giấy tờ
quy định tại Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai 5
2.2 Hướng giải quyết đối với trường hợp thứ hai, ông Hà và mẹ con bà
Hòa đều không có một trong các loại giấy tờ được quy định tại Khoản 1,
2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai 6
KẾT LUẬN 8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 9

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×