Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

ASEAN đặc điểm PL ASEAN và so sánh với EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.75 KB, 13 trang )

A. MỞ ĐẦU
Cho đến nay, xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa đã không còn mới lạ đối với
chúng ta. Các quốc gia nói chung và mỗi cá nhân nói riêng đón nhận nó như một hiện
tượng khách quan, tất yếu và có những hành động chủ động, tích cực để sẵn sang hòa
nhập vào môi trường mở của thế giới. Trên cơ sở những điểm tương đồng và mục tiêu
chung, các tổ chức liên minh khu vực ra đời ngày càng nhiều. Có thể nói, ASEAN và
EU là hai tổ chức liên minh khu vực có những hoạt động và tầm ảnh hưởng lớn nhất trên
thế giới. Xét về góc độ pháp lí, pháp luật của hai cộng đồng trên có những đặc điểm như
thế nào, liệu chúng có mối tương quan nào không? Để trả lời cho câu hỏi trên, nhóm em
lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Bình luận các đặc điểm của pháp luật Cộng đồng
ASEAN trong mối tương quan với pháp luật của Liên minh châu Âu-EU”.
B.NỘI DUNG
I. Tổng quan về pháp luật Cộng đồng ASEAN và pháp luật của Liên
minh châu Âu-EU
1. Khái quát chung về Cộng đồng ASEAN và pháp luật Cộng đồng
ASEAN
1.1. Cộng đồng ASEAN
•Khái niệm cộng đồng ASEAN
Cộng đồng ASEAN (ASEAN Community-AC) là liên kết cuả các quốc gia
ASEAN trên cơ sở hệ thống thiết chế và thể chế pháp lí, bao gồm ba trụ cột: Cộng đồng
chính trị-an ninh, Cộng đồng kinh tế và cộng đồng văn hóa-xã hội nhằm xây dựng
ASEAN trở thành tổ chức quốc tế năng động, thịnh vượng, vững mạnh và bản sắc
chung.
•Đặc điểm của cộng đồng ASEAN
- Thứ nhất, Cộng đồng ASEAN không thay thế ASEAN mà chỉ là sự liên kết ở cấp
độ cao hơn và sâu rộng hơn.
- Thứ hai, Cộng đồng ASEAN được xây dựng trên một nền tảng thể chế pháp lí có
tính ràng buộc cao đối với các quốc gia thành viên.
- Thứ ba, Cộng đồng ASEAN được hình thành trên cơ sở ba trụ cột: Cộng đồng
chính trị-an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa-xã hội.
1


- Thứ tư, Cộng đồng ASEAN là liên kết “thống nhất trong đa dạng” của các quốc
gia độc lập trong khu vực Đông Nam Á.
- Thứ năm, Cộng đồng ASEAN là liên kết khu vực “mở” có vai trò quan trọng
trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
1.2. Pháp luật Cộng đồng ASEAN
•Khái niệm pháp luật Cộng đồng ASEAN
Pháp luật Cộng đồng ASEAN là tổng thể nguyên tắc và quy phạm pháp luật do
ASEAN xây dựng và ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ của Cộng đồng ASEAN,
phát sinh trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị-an ninh và văn hóa-xã hội.
•Đặc điểm của pháp luật Cộng đồng ASEAN
Thứ nhất, quan hệ do pháp luật cộng đồng ASEAN điều chỉnh:
- Chủ yếu là quan hệ phát sinh giữa các quốc gia trong cộng đồng ASEAN (quan hệ
nội khối). Ngoài ra, pháp luật cộng đồng ASEAN còn điều chỉnh những quan hệ hợp tác
với các đối tác ngoài ASEAN trong một số lĩnh vực (hợp tác ngoại khối), ví dụ: quan hệ
với các quốc gia như Hoa Kỳ, Nga, Hàn Quốc,…
- Quan hệ hợp tác phát sinh trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị-an ninh và
văn hóa-xã hội dựa trên ba trụ cột chính. Do đó, pháp luật cộng đồng ASEAN cũng
được phân chia thành ba lĩnh vực chính: Luật Cộng đồng chính trị-an ninh, Luật cộng
đồng kinh tế và luật Cộng đồng văn hóa- xã hội ASEAN.
Thứ hai, xây dựng pháp luật cộng đồng ASEAN
Pháp luật Cộng đồng ASEAN do ASEAN xây dựng và ban hành trên cơ sở đồng
thuận của tất cả quốc gia thành viên (Điều 20 Hiến chương ASEAN năm 2007). Cơ chế
này đảm bảo cho tất cả các quốc gia trong ASEAN có quyền bình đẳng với nhau đối với
việc quyết định các vấn đề chung của Cộng đồng.
Thứ ba, về thực thi Pháp luật cộng đồng ASEAN:
Thực thi pháp luật cộng đồng ASEAN là nghĩa vụ của các bên có liên quan, được
thực hiện thông qua hoạt động của các quốc gia thành viên, các thiết chế cộng đồng và
đối tác của ASEAN.
2
- Thực thi pháp luật Cộng đồng ASEAN của các quốc gia ASEAN được thực hiện

thông qua hoạt động pháp lí của các quốc gia thành viên, theo cơ chế chung hoặc cơ chế
riêng trong từng lĩnh vực cụ thể.
- Thực thi pháp luật của các thiết chế cộng đồng được thực hiện thông qua hoạt
động chức năng theo nhiệm vụ của các thiết chế trong cộng đồng, cụ thể:
Thứ tư, giám sát thực thi pháp luật và giải quyết tranh chấp
- Chức năng giám sát thực thi pháp luật của Cộng đồng ASEAN được quy định cho
tất cả các thiết chế của Cộng đồng, từ Hội nghị cấp cao đến Ban thư kí ASEAN. Tuy
nhiên cơ chế này không được quy định thống nhất trong một văn bản pháp luật của
ASEAN mà được quy định ở hầu hết các văn bản pháp lý của ASEAN.
- Về cơ chế giải quyết tranh chấp, cho đến nay ASEAN đã xây dựng được hệ thống
quy định pháp luật tương đối hoàn chỉnh và hiện đại về giải quyết tranh chấp, bao gồm:
giải quyết tranh chấp về chính trị-an ninh, giải quyết tranh chấp về kinh tế-thương mại
và giải quyết tranh chấp trong một số lĩnh vực chuyên ngành.
Với tất cả những mục tiêu, tôn chỉ đã đưa ra, Hiến chương ASEAN khẳng định
nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp “ Các quốc gia thành viên sẽ nỗ lực giải
quyết một cách hòa bình và kịp thời tất cả các tranh chấp thông qua đối thoại, tham vấn
và thương lượng.” Khi có tranh chấp xảy ra, các bên tranh chấp có quyền lựa chọn các
biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua con đường ngoại giao hay tài phán, thông qua
bên thứ ba, trung gian, hòa giải, trọng tài . Tuy nhiên với đặc thù của truyền thống Đông
Nam Á và “phương thức ASEAN”, cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN hầu như
không được áp dụng trên thực tế mà chủ yếu được giải quyết theo con đường thương
lượng và hòa giải.
2. Khái quát chung về Liên minh châu Âu-EU và pháp luật của Liên
minh châu Âu-EU
2.1. Liên minh châu Âu-EU
•Khái niệm Liên minh châu Âu-EU
Liên minh Châu Âu (European Union - EU) là một tổ chức liên chính phủ liên
minh về chính trị, kinh tế-tiền tệ của các nước Châu Âu, được hình thành trên cơ sở hợp
nhất của Cộng đồng châu Âu và sự tham gia của các nước thành viên dưới sự điều
hành, quản lí của hệ thống các thiết chế là Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu và Nghị

viện châu Âu theo Hiệp ước thành lập EU (Hiệp ước Maastritch 1992).
3
•Đặc điểm của Liên minh châu Âu-EU
-Về tiến trình hội nhập:
+ Quá trình hình thành: EU không hình thành với các thiết chế và lĩnh vực hợp
tác tổng thể một cách ngay lập tức mà hình thành từng bước trên cơ sở các thành tựu
hợp tác thực tế trong từng lĩnh vực cụ thể: từ ECSC đến EEC và Euratom, EC rồi EU.
+ Về xu hướng phát triển : từ hài hòa trong từng lĩnh vực đời sống, sau đó từng
bước tiến tới nhất thể hóa mọi mặt đời sống xã hội châu Âu
- Về tổ chức bộ máy: Là sự kết hợp và pha trộn giữa cách thức tổ chức bộ máy của
các tổ chức quốc tế truyền thống như UN, ASEAN với các quốc gia hợp bang như USA.
- Về mô hình hợp tác: Liên minh châu Âu là một mô hình hợp tác chưa có tiền lệ,
thể hiện ở hai khía cạnh là mức độ liên kết giữa các thành viên và sự kết hợp giữa mô
hình hợp tác của một tổ chức quốc tế liên chính phủ và một nhà nước mang tính chất
“siêu quốc gia”
- Về cơ chế ra quyết định: EU chủ yếu ra quyết định theo nguyên tắc “đa số kép”.
Theo đó các quyết định của Liên minh châu Âu được thông qua một cách nhanh chóng
và kịp thời, đồng thời đảm bảo lợi ích và chủ quyền của đa số các quốc gia và lợi ích của
đa số dân chúng liên minh.
- Về kiểm soát biên giới: Mọi họat động kiểm soát biên giới nội bộ của EU được
xóa bỏ, các quốc gia thành viên không được tiến hành bất cứ biện pháp kiểm soát nào
đối với cá nhân khi đi qua biên giới nội bộ của liên minh… trên cơ sở nguyên tắc tự do
lưu thông hàng hóa, dịch vụ, vốn và quyền tự do đi lại của các cá nhân.
2.2. Pháp luật Liên minh Châu Âu-EU
•Khái niệm pháp luật Liên minh Châu Âu-EU
Luật Liên minh châu Âu là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật do Liên
minh châu Âu xây dựng và ban hành, có hiệu lức áp dụng thống nhất và trực tiếp đối với
các thể nhân, quốc gia thành viên và các cơ quan, thiết chế của Liên minh châu Âu
•Đặc điểm của pháp luật Liên minh Châu Âu-EU
- Là cơ sở pháp lí cho toàn bộ các hoạt động của EU: sự ra đời của Liên minh

châu Âu dựa trên cơ sở pháp lý là các hiệp ước thành lập. Pháp luật Liên minh châu Âu
chứa đựng các nguyên tắc và quy phạm pháp luật có giá trị xác lập các quyền và nghĩa
4
vụ đối với các thiết chế của Liên minh, với các quốc gia thành viên và đối với các thể
nhân, pháp nhân của Liên minh. Các thiết chế của Liên minh và bản thân các quốc gia
thành viên áp dụng pháp luật liên minh để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong thực
tiễn hoạt động của Liên minh và của chính quốc gia mình.
- Là sản phẩm ý chí của EU. Nói cách khác pháp luật Liên minh châu Âu không
phải là pháp luật quốc tế mà cũng không phải là pháp luật quốc gia. Đặc điểm này xuất
phát từ chính những đặc điểm trong cấu trúc nguồn của Pháp luật Liên minh châu Âu.
Cũng giống như các tổ chức quốc tế khác, Liên minh châu Âu được hình thành trên cơ
sở các Hiệp ước thành lập do các quốc gia thỏa thuận xây dựng nên và trong quá trình
hoạt động để thực hiện chức năng của mình, các thiết chế của Liên minh cũng ban hành
các văn bản. Tuy nhiên văn bản do các thiết chế Liên minh ban hành (được gọi là nguồn
luật phát sinh) có hiệu lực bắt buộc thực hiện chứ không chỉ mang tính chất khuyến
nghị. Ngoài ra, nguồn luật liên minh có sự xuất hiện của các điều ước quốc tế được ký
kết giữa Liên minh châu Âu với các tổ chức quốc tế hay các quốc gia khác. Điều này thể
hiện tính nhất thể hóa cao của Liên minh châu Âu.
Tuy vậy, Pháp luật Liên minh châu Âu cũng không phải là luật quốc gia, bởi trong
hệ thống nguồn thì các điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia thành viên được
coi là luật gốc, điều chỉnh tất cả các vấn đề pháp lý về hoạt động của Liên minh châu Âu
như mục tiêu, cơ cấu tổ chức, thẩm quyền hay hoạt động của các thiết chế liên minh.
Dưới góc độ luật quốc tế, những điều ước này chính là nguồn của luật tổ chức quốc tế.
Ngoài ra, bởi bản thân Liên minh châu Âu là một tổ chức quốc tế với rất nhiều quốc gia
thành viên và mặc dù ảnh hưởng tới sự nhất thể hóa nhưng pháp luật của Liên minh
châu Âu thống nhất trên cơ sở hài hòa giữa các quốc gia. Vì thế, các quy phạm pháp luật
Liên minh châu Âu phần lớn không quy định cụ thể.
 Nguồn luật của pháp luật EU bao gồm cả nguồn điều ước và các văn bản do
thiết chế của EU ban hành.
Tóm lại, về bản chất, Pháp luật Liên minh châu Âu là pháp luật của Liên minh

châu Âu-một thể chế đa quốc gia độc đáo mang tính nhất thể hóa cao với kết cấu là sự
kết hợp mô hình của một tổ chức quốc tế truyền thống với mô hình của một Nhà nước
liên bang, vì thế Pháp luật Liên minh châu Âu chứa đựng một số đặc biểm của luật quốc
gia, một số đặc điểm của luật quốc tế nhưng vẫn mang những đặc điểm riêng của Liên
minh châu Âu.
- Là một hệ thống pháp luật hoàn toàn độc lập với hệ thống pháp luật của các
quốc gia thành viên và có giá trị cao hơn nội luật: Hiệu lực của Pháp luật Liên minh
châu Âu cao hơn so với luật các quốc gia thành viên, đồng nghĩa với việc cao hơn cả
5
hiến pháp và nếu có mâu thuẫn thì hiến pháp phải thay đổi chứ không phải là Pháp luật
Liên minh châu Âu. Pháp luật Liên minh châu Âu được tự động đưa vào nội luật của
quốc gia thành viên, Tòa án quốc gia có nghĩa vụ áp dụng và bảo đảm thực thi Pháp luật
Liên minh châu Âu.
II. Bình luận về các đặc điểm của Pháp luật Cộng đồng ASEAN trong
mối tương quan với Pháp luật của Liên minh châu Âu-EU
Pháp luật Cộng đồng ASEAN và Pháp luật Liên minh Châu Âu đều là hình thức
chứa đựng các nguyên tắc và quy phạm pháp luật được xây dựng và ban hành bởi chính
các thành viên của cả hai cộng đồng này, được chính cộng đồng đảm bảo thực thi nhằm
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong những lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của hai
cộng đồng. Cụ thể, về các đặc điểm của 2 hệ thống pháp luật này trong mối tương quan
với nhau có những điểm tương đồng và khác biệt như sau:
1) Điểm tương đồng
-Thứ nhất, Pháp luật của Cộng đồng ASEAN và EU đều không phải là luật
quốc tế và cũng không phải là luật quốc gia. Tổ chức và hoạt động của cả hai loại pháp
luật này đều theo mô hình của tổ chức quốc tế truyền thống và theo kiểu của một nhà
nước liên bang (thực chất là dựa trên cơ sở mối liên minh giữa các quốc gia thành viên
trong một khuôn khổ chung nhất định).
Sở dĩ có điểm chung này là vì xuất phát từ đặc điểm chủ thể của luật quốc tế. Luật
quốc tế thừa nhận tư cách chủ thể của tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng như thừa
nhận những quyền năng phái sinh và hạn chế của nó cho nên khi một tổ chức quốc tế

được hình thành và xây dựng trên hệ thống pháp luật của mình thì sẽ phải tuân theo
những nguyên cơ bản của Luật quốc tế để phù hợp và đảm bảo được những quyền, lợi
ích hợp của các quốc gia thành viên.
-Thứ hai, pháp luật của cả hai khu vực này đều điều chỉnh những quan hệ pháp
lý hợp tác về kinh tế, chính trị-an ninh.
* Lý do thứ nhất: xuất phát từ bối cảnh quốc tế và khu vực tại thời điểm pháp luật
của hai khu vực được xây dựng
+ Về tình hình quốc tế: trên thế giới đang hình thành xu hướng toàn cầu hóa, khu
vực hóa mạnh mẽ dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của các tổ chức quốc tế liên chính
phủ. Các tổ chức này tiến hành hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực quan trọng về kinh
tế, an ninh-chính trị. Xu hướng đó đã thôi thúc các quốc gia có những đặc điểm chung
(vị trí địa lý, chính trị, kinh tế-xã hội…) tìm đến nhau cùng hợp tác. Các quốc gia trong
6
liên minh liên kết với nhau trong một hệ thống pháp luật riêng nhằm tạo ra những thuận
lợi và ràng buộc nhất định: tạo ra cơ hội cho các quốc gia thành viên cùng nhau phát
triển đồng thời tạo ra một môi trường pháp lý chung để quyền và lợi ích của các quốc
gia thành viên được đảm bảo.
+ Về tình hình khu vực: xu hướng toàn cầu xích lại gần nhau hơn với mục đích xây
dựng một cộng chung, một hệ thống pháp luật chung, tạo ra sự ràng buộc cũng như điều
kiện để các quốc gia có thể cùng nhau hợp tác và phát triển, đứng vững trước xu hướng
quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang phát triển mạnh mẽ lúc bấy giờ.
* Lí do thứ hai: xuất phát từ bản thân các quốc gia thành viên. Mặc dù có sự đa
dạng và khác biệt về nhiều mặt (thể chế chính trị, tình hình phát triển kinh tế- xã hội…)
nhưng các quốc gia thành viên vẫn tìm được cho mình những điểm chung. Đó là thể
hiện ý chí, mong muốn được hợp tác cùng nhau nhằm hướng tới những mục tiêu chung
về lợi ích mà các quốc gia có thể sẽ có được dựa trên sức mạnh tập thể . Thông qua sự
hợp tác, các quốc gia sẽ có nhiều điều kiện để hội nhập và phát triển toàn diện, đầy đủ.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được ở giai đoạn đầu và những biểu hiện hợp tác
lỏng lẻo, kém hiệu quả đòi hỏi các quốc gia thành viên phải tạo ra một môi trường pháp
lý chung để đáp ứng được xu hướng và nhu cầu phát triển của cộng đồng.

* Ngoài ra còn được dựa trên chính sự tương đồng về trình độ phát triển giữa các
quốc gia trong khối liên minh. Mặc dù trình độ phát triển giữa các thành viên là không
đồng nhất nhưng lại có sự đồng đều tương đối giữa các nhóm nước. Sự liên kết cộng
đồng thông qua một hệ thống pháp lí chung là vô cùng quan trọng và cần thiết, sẽ hỗ trợ
và thúc đẩy cho việc phát triển chung.
-Thứ ba, có sự tương đồng trong việc xây dựng pháp luật cộng đồng. Pháp luật
của Cộng đồng ASEAN và Liên minh Châu Âu đều được xây dựng trên cơ sở sự thỏa
thuận và chấp thuận của các quốc gia thành viên. Việc xây dựng pháp luât cộng đồng sẽ
được đưa ra thảo luận và xây dựng trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia thành viên,
sau đó để được coi là luật chung cho cả cộng đồng buộc phải có sự chấp thuận của các
quốc gia thành viên. Đây là một điểm chung của loại pháp luật được xây dựng trong
khuôn khổ một cộng đồng các quốc gia. Vấn đề xây dựng pháp luật trong cộng đồng vừa
là quyền nhưng cũng có thể được xem là nghĩa vụ của các quốc gia thành viên khi tham
gia một quan hệ pháp luật chung. Có như vậy thì các quyền, lợi ích cũng như nghĩa vụ
của các thành viên mới được đảm bảo và nó cũng thể hiện được trách nhiệm của các
quốc gia thành viên đối với cộng đồng mà mình tham gia. Ngoài ra, thông qua sự thỏa
thuận và chấp thuận để xây dựng pháp luật cũng là một biểu hiện của việc tôn trọng các
nguyên tắc cơ bản được đề ra trong quá trình hoạt động của cộng đồng, phù hợp với
7
nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc
gia.
-Thứ tư, tương đồng về thực thi pháp luật cộng đồng, được thực thi ở hai cấp
độ: cấp quốc gia và cấp cộng đồng. Ở cấp độ cộng đồng, viêc thực thi pháp luật được
thực hiện thông qua hoạt động chức năng theo nhiệm vụ của các thiết chế được cơ cấu
trong tổ chức của cộng đồng. Ở cấp độ quốc gia, trên cơ sở quy định của pháp luật cộng
đồng về từng lĩnh vực cụ thể, các quốc gia thành viên có thể áp dụng trực tiếp các quy
phạm pháp luật hoặc cũng có thể xây dựng những quy phạm cụ thể phù hợp thông qua
quá trình nội luật hóa. Với bất kỳ một pháp luật cộng đồng nào cũng sẽ có hai cấp độ để
thực thi pháp luật như trên bởi đây là các tổ chức quốc tế liên chính phủ nên việc thực
thi pháp luật của các quốc gia trên cơ sở pháp luật chung phải dựa trên các nguyên tắc

của Luật quốc tế.
- Thứ năm, tương đồng trong việc giám sát thực thi pháp luật và giải quyết tranh
chấp. Pháp luật của cả hai cộng đồng này đều có thiết chế giám sát việc thực thi pháp
luật và cơ chế giải quyết tranh chấp khá hoàn thiện. Tuy nhiên, mỗi cộng đồng lại có
những thiết chế và cơ chế giải quyết tranh chấp khác nhau để phù hợp với cơ cấu tổ
chức, hoạt động, khuôn khổ hợp tác của mỗi cộng đồng.
Tuy những thiết chế cụ thể trong từng cộng đồng là không giống nhau, mức độ liên
kết cũng khác nhau song về cơ bản cũng đều mang những đặc điểm chung trong quá
trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật
 Có những điểm tương đồng đó là do cùng xuất phát từ mục tiêu chung là nhằm
xây dựng một cộng đồng chung ở mỗi khu vực hòa bình, ổn định, tiến bộ và phát triển.
Mặt khác không thể phủ nhận rằng ASEAN là cộng đồng ra đời sau, phát triển trên nền
tảng Liên minh EU là một cộng đồng chung lớn nhất trên thế giới hiện giờ vì vậy đã có
những tiếp thu nhất định từ Cộng đồng chung liên minh Châu âu.
- Thứ sáu, tương đồng về điều kiện phát sinh hiệu lực pháp luật. Pháp luật Cộng
đồng ASEAN và Pháp luật Liên minh châu Âu có hiệu lực tối cao: pháp luật cộng
đồng có giá trị cao hơn nội luật và có hiệu lực trực tiếp đối với các quốc gia thành viên
mà không cần văn bản phê chuẩn cho phép áp dụng.
2) Điểm khác biệt
- Thứ nhất, về đối tượng và phạm vi điều chỉnh:
+Quan hệ pháp luật cộng đồng ASEAN phát sinh trong tất cả các lĩnh vực hợp tác
kinh tế, chính trị-an ninh và văn hóa-xã hội. Cộng đồng ASEAN bao gồm 3 trụ cột Cộng
8
đồng chính trị-an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa-xã hội. Do vậy, pháp
luật Cộng đồng ASEAN cũng được phân chia thành 3 lĩnh vực chính tương ứng.
+Pháp luật của liên minh Châu Âu chỉ điều chỉnh 2 lĩnh vực là hợp tác kinh tế
và chính trị, không điều chỉnh trên lĩnh vực văn hóa- xã hội.
 Như vậy, so với pháp luật liên minh Châu Âu, pháp luật cộng đồng ASEAN có
thêm 1 đối tượng điều chỉnh nữa đó là trong lĩnh vực văn hóa – xã hội.
Nguyên nhân:

+ Về phía Liên minh Châu Âu:
* Thứ nhất, trước khi Cộng đồng Châu Âu (EC) ra đời năm 1975, Châu Âu đã
thống nhất cơ bản về mặt văn hóa, sự đồng nhất của văn minh Châu Âu hình thành nên
bản sắc văn hóa Châu Âu. Văn minh Châu Âu bắt nguồn từ Hi Lạp, tiến trình “ Hy Lạp
hóa” làm cho văn minh Hi Lạp cổ đại và văn minh La Mã cổ đại giao thoa với nhau, tạo
nên khung của văn minh Châu Âu và đạt tới sự nhất thể hóa châu Âu ngày nay. Sự đồng
nhất về văn minh, văn hóa cùng với sự thuận lợi trong giao thông, kinh tế hàng hóa phát
triển khiến cho quan hệ giao lưu giữa các dân tộc châu âu diễn ra thường xuyên, đa dạng
và khá thuận lợi. Vì thế, tồn tại dưới hình thức quốc gia đơn lẻ hay việc hình thành nhà
nước quốc gia liên bang đều dễ dàng được chấp nhận hơn so với các dân tộc châu Á.
Khi đã đạt tới đỉnh cao của văn hóa là xây dựng được nền văn minh Châu âu thống nhất
thì EU không tập trung để xây dựng cộng đồng văn hóa giống như ASEAN mà chủ yếu
xây dựng chính sách văn hóa hài hòa với tính cách là bộ phận hợp thành của chính sách
nhất thể hóa Châu âu. Chính sách văn hóa ấy đề cập tới lí tưởng của người Châu Âu, bản
sắc của người Châu Âu và quảng bá hình ảnh Châu Âu ra thế giới để khẳng định được vị
thế của người Châu Âu trên trường quốc tế.
* Thứ hai, do mục đích của pháp luật liên minh Châu Âu được thể hiện rõ nét ở nội
dung kinh tế và cả ở nội dung chính là tiến tới hợp nhất châu Âu. Để đạt được mục đích
này, các nước thành viên xác định lấy sự hợp nhất về kinh tế để làm động cơ thúc đẩy sự
hợp nhất chính trị. Đây là hai mục tiêu không tách rời nhau. Như vậy, sự thống nhất
châu Âu được thực hiện bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, thương mại
 Mục tiêu hợp nhất kinh tế: nhằm tạo ra một liên minh kinh tế (thị trường chung
Châu Âu với sự tự do luân chuyển nhân lực, hàng hoá, dịch vụ và vốn), tạo ra một liên
minh tiền tệ với sự hình thành đồng tiền chung duy nhất.
9
Mục tiêu chính trị: nhằm tạo dựng một liên minh chính trị, bước đầu với việc xây
dựng một chế định về công dân châu Âu, một chính sách đối ngoại và phòng thủ chung,
hợp tác trong lĩnh vực tư pháp và nội vụ.
+ Về phía ASEAN
ASEAN bao gồm các quốc gia khác biệt về tôn giáo và chịu ảnh hưởng của văn

hóa Ấn Độ, Trung Quốc và Phương Tây nhưng mức độ ảnh hưởng của từng quốc gia
cũng khác nhau tạo nên những màu sắc văn hóa khác nhau. Trước khi ASEAN thành
lập, hầu như sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc còn hạn chế. Những đặc điểm lịch sử
khác biệt đã tạo nên Đông Nam Á đa dạng như ngày nay. Bên cạnh đó sự chênh lệch về
trình độ phát triển đã đặt ra thách thức cho ASEAN về vấn đề thu hẹp khoảng cách phát
triển và ý thức được việc san sẻ hơn nữa chủ quyền quốc gia, chấp nhận sự bao trùm của
tính chất khu vực lên mỗi quốc gia? Sự thành lập ASCC sẽ là biện pháp hữu hiệu nhất
cho thách thức này.
- Thứ hai, về xây dựng pháp luật: có sự khác biệt về cơ chế ban hành và ra quyết
định
+ Pháp luật Cộng đồng ASEAN do ASEAN xây dựng và ban hành theo cơ chế
tham vấn và nguyên tắc đồng thuận “ Việc ra quyết định dựa trên tham vấn và đồng
thuận là một nguyên tắc cơ bản của ASEAN” (khoản 1 Điều 20 Hiến chương). Các quyết
định và văn bản pháp lí của ASEAN chỉ được ban hành trên cơ sở đồng thuận của tất cả
các quốc gia thành viên.
+Trong khi đó, Pháp luật liên minh Châu Âu chủ yếu ban hành theo “nguyên tắc
đa số phiếu kép” (qualified majority voting). Theo đó, quyết định được thông qua khi đa
số quốc gia thành viên bỏ phiếu thuận và số phiếu thuận đảm bảo đại diện cho đa số dân
số của Liên minh Châu Âu.
Nguyên nhân có sự khác biệt này là do:
+ ASEAN bao gồm các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau, qui định
về cơ chế đồng thuận sẽ đảm bảo cho tất cả các quốc gia có quyền bình đẳng như nhau
trong quyết định về các vấn đề của Cộng đồng, đảm bảo cho ASEAN tồn tại và phát
triển theo định hướng “thống nhất trong đa dạng” trong suốt những năm qua.
+ Còn Liên minh Châu âu thì bao gồm các quốc gia thành viên có trình độ phát
triển tương đương nhau nên luôn có được sự bình đẳng cơ bản. Việc qui định cơ chế
“nguyên tắc đa phiếu kép” sẽ đẩy nhanh quá trình thực hiện pháp luật trong liên minh
Châu Âu.
10
- Thứ ba, về đảm bảo thực hiện chức năng giám sát thực thi pháp luật:

+ Chức năng giám sát thực thi pháp luật của Cộng đồng ASEAN được qui định
cho tất cả các thiết chế của Cộng đồng, từ Hội nghị cấp cao đến Ban thư kí ASEAN. Tuy
nhiên, cơ chế này không được qui định trong 1 văn bản thống nhất mà được qui định ở
hầu hết cá văn bản pháp lý của ASEAN từ Hiến chương đến các văn bản hợp tác chuyên
ngành. Mỗi văn bản pháp luật lại qui định về các thủ tục giám sát khác nhau tùy thuộc
vào từng lĩnh vực hợp tác (sự không tập trung, thống nhất này đã làm giảm hiệu quả
giám sát thực thi pháp luật của Cộng đồng).
+ Chức năng giám sát thực thi pháp luật của Liên minh Châu Âu được giao cho Uỷ
Ban Châu Âu, với thủ tục cụ thể và chặt chẽ. Ủy ban Châu Âu với tư cách là cơ quan
hành pháp của liên minh, có trách nhiệm trong việc thực thi các chính sách và quyết
định mà Nghị viện và Hội đồng Bộ trưởng Châu Âu đã đề ra.
Nguyên nhân được xét từ góc độ thiết chế bộ máy của EU và ASEAN.
Ta thấy rằng sự khác biệt không phải ở cơ cấu tổ chức hay chức năng nhiệm vụ mà
là ở tính chất của toàn hệ thống.Trong hệ thống tổ chức của cả ASEAN và EU đều là cơ
cấu có sự tham gia của mỗi nước thành viên đại diện cho quyền lợi của nước mình. Tuy
nhiên hệ thống tổ chức của EU còn được thiết kế và tuân thủ theo nguyên tắc tam quyền
phân lập của một nhà nước siêu quốc gia. Đại diện cho các thành viên trong cơ cấu tổ
chức không chỉ có tiếng nói vì lợi ích riêng của nước mình mà nó còn hoạt động như
một thành viên của một thiết chế ngày càng mang tính chất siêu quốc gia.
 Đây là điểm mà ASEAN nên học tập liên minh Châu Âu. Trong việc giám sát
thực thi pháp luật cần có một cơ quan chuyên trách sẽ đảm bảo hiệu quả cao hơn là giao
cho nhiều cơ quan khác nhau. Thay vì để các quốc gia hoàn toàn độc lập, tự chủ xây
dựng lộ trình riêng cho mình phù hợp với lộ trình chung của Cộng đồng, một cơ quan có
thể tư vấn cũng như giám sát việc thực hiện lộ trình giai đoạn cụ thể cho các quốc gia.
Như vậy sẽ chắc chắn đảm bảo hoàn thành mục tiêu chung của cả Cộng đồng đồng thời
cơ quan này sẽ dễ dàng tạo ra được sự liên kết, hỗ trợ phù hợp giữa các quốc gia trong
khu vực với nhau.
- Thứ tư, về giải quyết tranh chấp
+ Cho đến nay ASEAN đã xây dựng được một hệ thống các qui định pháp luật
tương đối hoàn chỉnh và hiện đại để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, thực tiễn của

ASEAN cho thấy cơ chế này rất ít được áp dụng mà chủ yếu các tranh chấp được giải
quyết bằng con đường thương lượng, hòa giải. Cộng đồng ASEAN không có một thiết
chế riêng để giải quyết tranh chấp.
11
+ Liên minh Châu Âu có các Tòa án như: Tòa Công lý Châu Âu, Tòa chung Châu
âu và các tòa chuyên môn với chức năng là giải quyết tranh chấp, xét xử các vụ việc.
Ngoài ra các tòa còn có chức năng tư vấn, giải thích và phán quyết của tòa có giá trị bắt
buộc đối với tòa án đưa ra yêu cầu giải thích và các quốc gia thành viên.
 Tuy nhiên với đặc thù của truyền thống Đông Nam Á và “phương thức
ASEAN” , cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN hầu như không được áp dụng trên
thực tế, các tranh chấp xảy ra chủ yếu được giải quyết theo con đường thương lượng và
hòa giải. Cụ thể, là các nước ASEAN có nhiều nét tương đồng về truyền trống lịch sử và
văn hóa, nền nông nghiệp lúa nước cũng như tinh thần quật cường đấu tranh bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ dẫn đến một trong những đặc trưng
chung của văn hóa pháp luật, đó là việc ưu tiên coi trọng giữ gìn mối quan hệ hài hòa
trong gia đình, tập thể, xã hội và rộng hơn là giữa các quốc gia với nhau, hết sức tránh
những xung đột, mâu thuẫn, tránh và hạn chế việc kiện tụng trước tòa án. Nếu xảy ra
những xung đột, việc giải quyết chúng một cách hài hòa, thân thiện bằng các biện pháp
mềm dẻo, không chính thức,mang tính truyền thống như thông qua con đường ngoại
giao, thương lượng, đàm phán, trung gian hòa giải hay thông qua bên thứ ba, thông qua
các diễn đàn luôn được ưu tiên lựa chọn để giải quyết những xung đột, tranh chấp.
Tuy nhiên, xét về lâu dài thì đây không phải là một biện pháp thực sự hữu ích, nhất
là cần tạo ra sự ràng buộc trách nhiệm trong một chỉnh thể thống nhất. Do đó, thiết nghĩ
ASEAN nên xây dựng cho mình một cơ chế phù hợp trên con đường xây dựng Cộng
đồng ASEAN để giải quyết các vấn đề phát sinh trong đời sống giữa các quốc gia.
C.KẾT LUẬN
Thông qua bài tiểu luận của nhóm, hi vọng rằng những tương quan về các đặc
điểm của pháp luật Cộng đồng ASEAN và pháp luật của Liên minh châu Âu-EU phần
nào được làm sáng tỏ.Qua đây, nhóm cũng mong muốn đem đến cái nhìn bao quát hơn
về hoạt động, vị trí của Cộng đồng ASEAN và EU trong giai đoạn hiện nay. Bài làm

không tránh khỏi những thiếu sót, nhóm rất mong nhận được những ý kiến đánh giá, góp
ý quí báu của quí thầy cô. Xin chân thành cảm ơn!
12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Pháp luật Cộng đồng ASEAN, trường ĐH Luật HN, NXB Công
an nhân dân, 2012
2. Tập bài giảng Pháp luật Liên minh châu Âu, trường ĐH Luật HN (khoa
Pháp luật Quốc tế/ Trung tâm Luật châu Á-Thái Bình Dương), 2011
3. Hiến chương ASEAN năm 2007.
4. Cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật liên minh Châu Âu ở cấp độ liên minh,
Khoá luận tốt nghiệp / Nguyễn Thị Kim Ngân - Hà Nội, 2012
5. Cơ chế giải quyết tranh chấp của Asean, Khoá luận tốt nghiệp / Kiều Thị
Huyền; - Hà Nội, 2010
13

×