Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn thủ đô viêng chăn nước cộng hoà dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.62 KB, 101 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Phát triển ngành dịch vụ là một xu hướng tất yếu đang diễn ra trên thế
giới. Đó là một trong những mục tiêu rất quan trọng trong việc phát triển kinh
tế đất nước. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, dịch vụ sẽ ngày càng
đóng góp tỷ trọng lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước. Bởi dịch vụ vừa là
cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong q trình sản xuất, thúc
đẩy phân cơng lao động xã hội, vừa tác động tích cực đến sự phát triển cơ
bản, tồn diện của các ngành cơng nghiệp và nông nghiệp. Thủ đô Viêng
Chăn là vùng trọng điểm phát triển công nghiệp của nước Lào, thu hút ngày
càng nhiều lao động đến sinh sống nên nhu cầu về dịch vụ tăng nhanh. Thực
tế trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn thời gian qua, cơ cấu ngành dịch vụ có
chuyển biến tích cực, phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, thu hút được
sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và tỷ trọng đóng góp GDP của
ngành không ngừng tăng cao. Tuy nhiên, quy mô của ngành dịch vụ trên địa
bàn Thủ đô Viêng Chăn còn nhỏ bé, chưa phát triển tương xứng với tiềm
năng, nhiều thị trường tiêu thụ còn bỏ ngỏ. Sự tác động của ngành dịch vụ tới
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thủ đơ Viêng Chăn khơng cao và cịn hạn chế
trong việc đảm bảo tính ổn định của cơ cấu kinh tế trong vùng đồng thời sự
gắn kết giữa các ngành dịch vụ chưa được chặt chẽ, nhiều loại hình dịch vụ
cịn nằm ngồi tầm kiểm sốt của chính quyền. Xuất phát từ những yêu cầu ở
trên tôi chọn đề tài: “Phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đơ Viêng
Chăn nước cộng hồ dân chủ nhân Lào” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
kinh tế của mình.


2
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân tích làm rõ những lý luận về ngành dịch vụ và sự phát triển ngành


dịch vụ, làm sáng tỏ tính quy luật của sự phát triển ngành dịch vụ.
- Phân tích thực trạng phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô
Viêng Chăn nước cộng hoà dân chủ nhân Lào, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp
phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đơ Viêng Chăn nước cộng hồ dân
chủ nhân Lào.
- Đề ra hệ thống các giải pháp nhằm phát triển các ngành dịch vụ trên
địa bàn Thủ đô Viêng Chăn nước cộng hoà dân chủ nhân Lào.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển các
ngành dịch.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các ngành dịch vụ
như: Dịch vụ thương mại; Dịch vụ tài chính - ngân hàng; Bưu chính viễn
thơng và vận tải; Dịch vụ du lịch trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn nước cộng
hoà dân chủ nhân Lào.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2004 – 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu
là: phương pháp thu thập, tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh và phân tích kinh tế.
5. Dự kiến những đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn lý luận về ngành dịch vụ và sự phát triển ngành
dịch vụ.
- Phân tích rõ thực trạng ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn
nước CHDCND Lào, từ đó chỉ ra được những thành thực và hạn chế về sự phát
triển ngành dịch vụ ở Thủ đô Viêng Chăn nước CHDCND Lào.


3
- Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn
Thủ đô Viêng Chăn nước CHDCND Lào.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được trình bày gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ
đơ Viêng chăn nước cộng hồ dân chủ nhân Lào.
Chương 2: Thực trạng phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đơ
Viêng Chăn nước cộng hồ dân chủ nhân dân Lào.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển ngành dịch vụ trên địa
bàn Thủ đô Viêng Chăn nước cộng hào dân chủ nhân dân Lào.


4

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ TRÊN
ĐỊA BÀN THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN NƯỚC CHDCND LÀO
1.1. Ngành dịch vụ và sự cần thiết phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn
Thủ đô Viêng chăn nước CHDCND Lào
1.1.1. Khái niệm, phân loại và vai trò của ngành dịch vụ
1.1.1.1. Khái niệm ngành dịch vụ
Tuy nhận thức chung về dịch vụ tương đối đồng nhất nhưng khái niệm
về dịch vụ là một vấn đề chưa hoàn toàn sáng tỏ. Mỗi một khái niệm xuất
phát từ sự nhìn nhận về dịch vụ trên một khía cạnh khác nhau nên ln có sự
khác nhau nhất định.
Theo quan điểm truyền thống thì dịch vụ là “những sản phẩm vơ
hình được sản xuất để đáp ứng một nhu cầu nào đó của người tiêu dùng vì
mục đích sinh lời. Trước đây theo quan điểm của các nhà kinh tế thì của
cải vật chất được hình thành trong xã hội là do các ngành sản xuất đem
lại, như các ngành nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng… Trong khi đó,
các ngành dịch vụ được coi là không tạo ra giá trị mới và do vậy sản

phẩm của ngành này được coi là vơ hình. Tuy nhiên, định nghĩa này cũng
dựa trên tính chất cơ bản của dịch vụ và làm rõ được 2 vấn đề:
Thứ nhất, dịch vụ là một sản phẩm, là kết quả của quá trình lao
động và sản xuất nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người.
Thứ hai, khác với hàng hóa, thuộc tính của dịch vụ là vơ hình. Dịch
vụ khơng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất dưới dạng những sản phẩm
hữu hình nhưng chúng lại tạo ra giá trị thặng dư do có sự khai thác sức lao
động, tri thức, chất xám của con người. Dịch vụ kết tinh các hoạt động đa
dạng trên các lĩnh vực như tài chính, vận tải, bảo hiểm, kiểm toán, kế toán,


5
tư vấn luật… Khác với hàng hóa là cái hữu hình, dịch vụ là vơ hình và phi
vật chất. Chính điểm khác nhau cơ bản này giữa sản phẩm hàng hóa hữu
hình với sản phẩm dịch vụ vơ hình đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới cách thức
tiến hành các hoạt động thương mại hàng hóa và hoạt động thương mại
dịch vụ ở phạm vi từng quốc gia cũng như phạm vi quốc tế. Vì dịch vụ là
vơ hình nên các quốc gia đã tốn khơng ít thời gian và cơng sức để xây dựng
được các quy chuẩn pháp lý điều chỉnh các hoạt động cung ứng dịch vụ nói
chung và các hoạt động thương mại dịch vụ nói riêng.
Hiện nay, có một định nghĩa khác mang tính tổng qt hơn được
thừa nhận nhiều hơn, đó là: Dịch vụ là hoạt động làm thay đổi điều kiện
và chất lượng của một chủ thể do tác động của chủ thể khác nhằm thỏa
mãn nhu cầu của chủ thể đó. Theo đó, dịch vụ khơng sinh ra nếu khơng
có sự tách rời giữa chủ thể tiêu dùng và chủ thể cung cấp. Ví dụ: Một
doanh nghiệp tự mình thực hiện khép kín các công đoạn sản xuất cho ra
một sản phẩm. Trường hợp này khơng phát sinh dịch vụ. Ngược lại,
doanh nghiệp đó thuê lại một doanh nghiệp khác thực hiện một công đoạn
trong chu trình đó như phân phối, thiết kế, kiểm tốn… Khi đó dịch vụ đã
xuất hiện. Xã hội ngày càng phát triển, tính chun mơn hóa càng cao thì

sự tách rời giữa cơng đoạn trong một chu trình sản xuất đã tạo nên các
ngành dịch vụ mới. Đôi khi ta rất khó khăn khi phân biệt một sản phẩm
hàng hóa hay dịch vụ do sự đan xen giữa chúng. Nhìn chung, trên góc độ
quản lý, các nước chấp nhận liệt kê một danh mục các sản phẩm dịch vụ
hơn là chỉ đơn thuần xuất phát từ khái niệm, ví dụ như Hệ thống phân loại
hàng hóa chủ yếu (CPC) của Liên Hiệp Quốc.
Dịch vụ có các đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, dịch vụ là vơ hình nên khó xác định: Q trình sản xuất
tạo ra sản phẩm hữu hình có tính chất cơ, lý, hóa… Nhất định, có tiêu


6
chuẩn kỹ thuật cụ thể và do đó có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hóa. Khác
với hàng hóa, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất bằng
những vật phẩm cụ thể, không cầm nắm được và do đó khó có thể xác
định chất lượng dịch vụ trực tiếp bằng những chỉ tiêu kỹ thuật được lượng
hóa. Chính vì vậy các cơng tác lượng hóa, thống kê, đánh giá chất lượng
và quy mô cung cấp dịch vụ của một công ty, nếu xét ở tầm vĩ mô trở nên
khó khăn hơn so với hàng hóa hữu hình rất nhiều.
Thứ hai, quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ
diễn ra đồng thời. Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất hàng hóa tách
khỏi lưu thơng và tiêu dùng. Do đó, hàng hóa có thể được lưu kho để dự
trữ, có thể vận chuyển đi nơi khác theo cung cầu của thị trường. Khác với
hàng hóa, q trình cung ứng dịch vụ gắn liền với tiêu dùng dịch vụ.
Thông thường, việc cung ứng dịch vụ đòi hỏi sự tiếp xúc trực tiếp giữa
người cung ứng và người tiêu dùng dịch vụ.
Thứ ba, dịch vụ không lưu trữ được. Do sản xuất và tiêu dùng dịch
vụ diễn ra đồng thời nên không thể sản xuất được dịch vụ hàng loạt và lưu
giữ trong kho sau đó mới tiêu dùng. Với cách hiểu đó, dịch vụ là sản
phẩm không lưu trữ được và trong cung ứng dịch vụ khơng có khái niệm

tồn kho hoặc dự trữ sản phẩm dịch vụ.
Thứ tư, dịch vụ có tính khơng bị hư hỏng. Do sản phẩm dịch vụ sản
xuất ra được tiêu dùng ngay do vậy dịch vụ không thể hư hỏng được.
Đây là những đặc điểm cơ bản để phân biệt sản phẩm dịch vụ vơ
hình với sản phẩm hàng hóa hữu hình. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng sẽ
không tồn tại một sự phân biệt tuyệt đối. Chẳng hạn, một số loại hình dịch
vụ khi kết thúc quá trình cung ứng sẽ tạo ra sản phẩm có hình thái vật
chất như bản photocopy. Hệ thống dịch vụ trả lời điện thoại tự động
khơng địi hỏi sự tiếp xúc trực tiếp giữa người cung ứng dịch vụ và người


7
tiêu dùng dịch vụ, về một mặt nào đó có thể coi là sản phẩm “lưu trữ
được”. Hầu như trong mọi hoạt động cung ứng dịch vụ đều có sự xuất
hiện của các sản phẩm hữu hình như là các yếu tố phụ trợ. Cũng như vậy,
khi tiến hành mua bán trao đổi bất kỳ hàng hóa hữu hình nào cũng đều
cần đến các dịch vụ hỗ trợ. Người ta thấy rằng sự liên kết và phụ thuộc
lẫn nhau giữa các ngành kinh tế trở nên thực sự khó khăn. Điều này cũng
giải thích rằng sự phân biệt giữa dịch vụ và hàng hóa chỉ mang tính chất
tương đối. Dịch vụ và hàng hóa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quá
trình hình thành và phát triển của phân cơng lao động diễn ra ngày càng
sâu rộng thì các ngành dịch vụ cũng sẽ được hình thành và phát triển
nhiều hơn, đa dạng hơn. Nếu như trước đây, nói đến một nền kinh tế
người ta chỉ nói đến hai lĩnh vực then chốt là cơng nghiệp và nơng nghiệp
thì ngày nay lĩnh vực được quan tâm đến nhiều cũng như chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong GDP lại là lĩnh vực dịch vụ.
1.1.1.2. Phân loại ngành dịch vụ
Vấn đề phân loại dịch vụ hiện nay trên thế giới có rất nhiều cách
phân chia ngành dịch vụ khác nhau tùy thuộc vào mục đích khác nhau.
Các tiêu thức để phân chia ngành dịch vụ:

 Dịch vụ mang tính thương mại và dịch vụ khơng mang tính thương mại:
Dịch vụ mang tính thương mại là những dịch vụ được thực hiện,
được cung ứng nhằm mục đích thu lợi nhuận và vì mục tiêu là kinh doanh.
Ví dụ dịch vụ quảng cáo để bán hàng, dịch vụ mơi giới…
Dịch vụ khơng mang tính chất thương mại (dịch vụ phi thương mại)
là những dịch vụ được cung ứng khơng nhằm mục đích kinh doanh, khơng
vì mục đích thu lợi nhuận. Những dịch vụ này bao gồm các dịch vụ cơng
cộng, thường do các Đồn thể, các tổ chức xã hội phi lợi nhuận cung ứng
hoặc do các cơ quan Nhà nước cung ứng khi cơ quan này thực hiện chức


8
năng nhiệm vụ của mình.
Cách phân loại này giúp chúng ta xác định mục tiêu, đối tượng và
phạm vi của ngành dịch vụ. Không phải tất cả các loại dịch vụ đều có thể
được trao đổi hay mua bán. Rất nhiều dịch vụ khơng thể thương mại hóa
được, ví dụ như dịch vụ công cộng. Chỉ khi nào dịch vụ trở thành một
“hàng hóa” thực sự (hàng hóa vơ hình), được mua bán, trao đổi (cung cấp)
trên thị trường theo đúng quy luật cung cầu và các quy luật của thị trường
như các hàng hóa hữu hình khác thì lúc đó dịch vụ mới trở thành đối
tượng của thương mại dịch vụ.
 Dịch vụ về hàng hóa và dịch vụ về tiêu dùng
Dựa vào mục tiêu của dịch vụ người ta chia dịch vụ thành 4 nhóm sau:
Dịch vụ phân phối: Vận chuyển, lưu kho, bán buôn, bán lẻ, quảng
cáo mơi giới…
Dịch vụ sản xuất: Ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các dịch vụ về kỹ
sư kiến trúc cơng trình, dịch vụ kế toán kiểm toán, dịch vụ pháp lý…
Dịch vụ xã hội: Dịch vụ sức khỏe, y tế, giáo dục, bưu chính viễn
thơng, các dịch vụ nghe nhìn và các dịch vụ xã hội khác.
Dịch vụ cá nhân: dịch vụ sửa chữa, dịch vụ khách sạn nhà hàng, các

dịch vụ giải trí, dịch vụ du lịch văn hóa.
Bằng cách phân loại trên, chúng ta phân biệt được dịch vụ về hàng
hóa mang tính chất thương mại với các dịch vụ về tiêu dùng mang tính
chất thương mại và mang tính chất khơng thương mại (dịch vụ cá nhân và
xã hội). Dịch vụ thương mại bao gồm các dịch vụ về hàng hóa (dịch vụ
phân phối và dịch vụ sản xuất) như phân loại ở trên, nghĩa là bao gồm các
dịch vụ phục vụ cho việc sản xuất mua bán, trao đổi hàng hóa trên thị
trường như vận chuyển hàng hóa, lưu kho hàng hóa, bán bn, bán lẻ,
quảng cáo, mơi giới, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các dịch vụ về kỹ sư


9
và kiến trúc cơng trình, dịch vụ kế tốn kiểm tốn, dịch vụ pháp lý… Dịch
vụ tiêu dùng mang tính chất thương mại như dịch vụ khách sạn, dịch vụ
du lịch… Dịch vụ tiêu dùng khơng mang tính chất thương mại như dịch
vụ văn hóa, dịch vụ giải trí, dịch vụ vệ sinh môi trường…
 Thương mại dịch vụ
Thương mại dịch vụ (tiếng Anh là trade in service) là khái niệm chỉ
các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ hay khái niệm dùng để
nhấn mạnh khía cạnh thương mại, tính chất thương mại trong lĩnh vực
dịch vụ hay nói cách khác thương mại dịch vụ là sự trao đổi dịch vụ giữa
các cá nhân tổ chức với nhau vì mục đích kinh doanh sinh lời. Như vậy
thương mại dịch vụ khác với thương mại hàng hóa ở đối tượng trao đổi,
đối với thương mại hàng hóa thì đối tượng trao đổi là hàng hóa - các sản
phẩm hữu hình, cịn đối với thương mại dịch vụ thì đối tượng trao đổi lại
là dịch vụ - các sản phẩm vơ hình.
Về bản chất thương mại dịch vụ là sự trao đổi, mua bán các loại
dịch vụ trong đó người mua được thỏa mãn nhu cầu về dịch vụ đó, còn
người bán (nhà cung cấp dịch vụ) cung ứng được dịch vụ cần tiêu thụ và
thu được lợi nhuận.

WTO/GATT đã phân biệt 4 hình thức cung cấp dịch vụ như sau:
Phương thức 1: (Cung cấp qua biên giới) là việc doanh nghiệp dịch
vụ của một nước bán hay cung cấp cho người tiêu dùng của nước khác
thông qua các hệ thống thơng tin, viễn thơng ví dụ: Dịch vụ tư vẫn kỹ
thuật, thiết kế, tư vấn pháp lý, dịch vụ điện thoại quốc tế…
Phương thức 2: (Tiêu dùng dịch vụ ngoài lãnh thổ) là doanh nghiệp
dịch vụ của một nước bán dịch vụ cho người tiêu dùng của nước khác tại
nước mình. Trường hợp này địi hỏi người tiêu dùng của nước mua sang
nước bán để sử dụng dịch vụ. Ví dụ người tiêu dùng A sang nước B để du


10
lịch hoặc khám chữa bệnh.
Phương thức 3: (Hiện diện thương mại) là việc doanh nghiệp dịch
vụ một nước thiết lập các cơng ty, chi nhánh của mình tại thị trường của
nước khác để cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng tại nước đó. Ví dụ
cơng ty A đầu tư tại nước B để cung cấp dịch vụ cho nước B.
Phương thức 4: (Hiện diện của thể nhân cung cấp dịch vụ) là việc
cung cấp dịch vụ của thể nhân (con người) của một nước tại nước khác.
Ví dụ bác sĩ ở nước A sang nước B để tự mình cung cấp dịch vụ y tế cho
người tiêu dùng của nước B hoặc bác sỹ của nước A sang làm việc cho
một bệnh viện của nước B để cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng ở
nước đó.
Về hoạt động cung cấp dịch vụ trong nước, cũng như các sản phẩm
hàng hóa, sản phẩm dịch vụ được chuyển từ các nhà cung cấp dịch vụ đến
tay người tiêu dùng thông qua một hệ thống cung cấp dịch vụ, qua hệ
thống này, sản phẩm dịch vụ sẽ được chuyển đến người tiêu dùng một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các đại lý, văn phòng đại diện, thể
nhân hoặc phương tiện kỹ thuật đặc thù khác như mạng internet, mạng
truyền thông…

 Phân biệt thương mại dịch vụ và dịch vụ thương mại:
Dịch vụ thương mại là khái niệm chưa có sự thống nhất, chưa có sự
chuẩn hóa và cũng ít có tài liệu phân tích khái niệm và nội hàm dịch vụ
thương mại một cách có hệ thống. Tuy nhiên, trong thực tế ở một số nước, nơi
mà hoạt động thương mại dịch vụ chưa phát triển, người ta thường hay dùng
khái niệm dịch vụ thương mại thay vì dùng khái niệm thương mại dịch vụ. Vì
vậy thương mại dịch vụ được hiểu là các loại hình dịch vụ gắn liền và phục vụ
cho việc mua bán hàng hóa sản phẩm hữu hình. Với cách hiểu này người ta
cho rằng dịch vụ thương mại là một nhánh nhỏ, là một bộ phận ngành nhỏ


11
trong toàn bộ hệ thống ngành thương mại dịch vụ, là một bộ phận của ngành
thương mại dịch vụ có quan hệ chặt chẽ với thương mại hàng hóa. Nhưng
hiểu một cách chính xác hơn thì dịch vụ thương mại là một sản phẩm và là
một bộ phận của dịch vụ. Dịch vụ thương mại là một khái niệm cho hoạt động
dịch vụ trong ngành thương mại.
Từ khái niệm về dịch vụ và dịch vụ thương mại ta có thể phân biệt
hai loại hình này như sau:
Thương mại dịch vụ là khái niệm rộng dùng để chỉ tất cả các hành
vi cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận. Như
vậy chỉ các dịch vụ được đem ra mua bán trên thị trường nhằm thu lợi
nhuận thì mới được coi là mang tính chất thương mại và nằm trong khái
niệm thương mại dịch vụ. Còn dịch vụ thương mại là nghĩa hẹp hơn, chỉ
bao gồm các loại hình dịch vụ phục vụ cho việc sản xuất, mua bán, trao
đổi hàng hóa trên thị trường. Như vậy khái niệm thương mại dịch vụ bao
trùm khái niệm dịch vụ thương mại. Nhưng đây chỉ là cách hiểu ở những
nước có thương mại dịch vụ khơng phát triển, do đặc điểm của cơ sở kinh
tế, do trong lịch sử cũng như do cách quan niệm của nền kinh tế kém phát
triển đặc biệt là do nền kinh tế kế hoạch hóa, xuất phát từ quan điểm

khơng thừa nhận thương mại là một ngành kinh tế đóng vai trị quan trọng
nên ở những nước này người ta không quan tâm đến vai trị của thương
mại hàng hóa cũng như vai trị của thương mại dịch vụ.
Ngày nay, cách nhìn nhận trên về thương mại dịch vụ đã thay đổi,
người ta ngày càng nhận ra vai trò năng động của dịch vụ trong tiến trình
phát triển của nền kinh tế. Cơng nghệ ngày càng phát triển mở ra nhiều cơ
hội để ngành dịch vụ phát triển mạnh mẽ, đặc biệt đã tạo điều kiện để cho
việc trao đổi, lưu thông dịch vụ mở rộng và vượt ra khỏi biên giới quốc
gia, trở thành sản phẩm có giá trị của thị trường quốc tế như các phần


12
mềm máy tính, internet… Do tác động của cơng nghệ, ở các nước đang
phát triển, ngành dịch vụ trở thành bộ phận được coi là tăng trưởng nhanh
nhất của nền kinh tế. Ví dụ ở Mỹ dịch vụ tạo ra 80% việc làm, 75% tổng
sản phẩm quốc nội, 30% xuất khẩu. Mục đích của các nước phát triển là
thương mại hóa các dịch vụ nói chung và các sản phẩm của dịch vụ,
ngành dịch vụ nói riêng. Các nước này đã xây dựng hệ thống pháp luật về
thương mại dịch vụ khá hoàn chỉnh để tạo điều kiện cho ngành thương
mại dịch vụ phát triển.
Nhưng ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở những nước có nền
kinh tế đang chuyển đổi. Những nước này đã dần thừa nhận việc thương
mại hóa các ngành dịch vụ. Các dịch vụ như sức khỏe, nhà ở, giáo dục, tài
chính ngân hàng… Được xem như là một bộ phận trong chiến lược phát
triển quốc gia với cơ sở hạ tầng cho các hoạt động kinh tế thương mại
khác. Cùng với sự phát triển của thương mại nói chung và thương mại
hàng hóa nói riêng, các dịch vụ có tính thương mại nói trên được trao đổi
gắn liền với thương mại hàng hóa hữu hình.
Như vậy ta có thể phân biệt thương mại dịch vụ và dịch vụ thương mại.
Thương mại dịch vụ là một phạm trù kinh tế và để hiểu được nó trước hết phải

hiểu thương mại là gì. Thương mại là một phạm trù của lưu thơng hàng hóa,
xuất hiện khi lưu thơng hàng hóa trở thành một chức năng độc lập tách khỏi sản
xuất. Thương mại là một trong những ngành kinh tế quốc dân độc lập, ra đời và
phát triển cùng với sự phân công lao động xã hội. Thương mại còn là một lĩnh
vực hoạt động nằm trong một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm:
thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Như vậy thương mại dịch vụ
chính là q trình mà ở đó các sản phẩm dịch vụ được cung cấp từ nhà cung
ứng dịch vụ tới tay người tiêu dùng dịch vụ. Dịch vụ thương mại là một sản
phẩm và là một bộ phận của dịch vụ. Dịch vụ bao gồm rất nhiều ngành như:


13
Dịch vụ tài chính, dịch vụ bưu chính viễn thơng, dịch vụ vận tải, dịch vụ hàng
hóa… Dịch vụ thương mại là một khái niệm cho hoạt động dịch vụ trong
ngành thương mại.
1.1.1.3. Vai trò của ngành dịch vụ trong nền kinh tế thị trường
Thứ nhất: Ngành dịch vụ là bộ phận cấu thành và càng giữ vai trò
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Nếu như một nền kinh tế mà khơng có sự trao đổi hàng hóa thì nền
kinh tế đó sẽ diễn ra như thế nào? Các thương nhân sẽ sử dụng phương
tiện chuyên chở của mình đưa hàng hóa từ nơi cung cấp đến nơi tiêu thụ,
tự tìm kiếm khách hàng và việc mua bán thanh toán được diễn ra trực tiếp.
Trong nền kinh tế như vậy, khối lượng hàng hóa được trao đổi và giao
dịch là rất nhỏ, tốc độ lưu thơng hàng hóa chậm và hiệu quả hoạt động
trao đổi hàng hóa thấp. Cùng với sự phát triển của sản phẩm sản xuất, của
lưu thơng và trao đổi hàng hóa đã diễn ra q trình phân cơng lao động ở
đó một số cơng đoạn trong quá trình phân phối đã được tách riêng bằng
việc hình thành các thương nhân chuyên phục vụ chuyển chở hàng hóa từ
nơi này sang nơi khác bằng các phương tiện chuyên dùng, các thương
nhân làm môi giới giữa người bán và người mua… Để tăng hiệu quả kinh

doanh, các hãng kinh doanh đều có xu hướng chuyển dịch từ việc sử dụng
các dịch vụ bên ngoài do các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp cung
cấp. Các loại hình dịch vụ đã được hình thành và phát triển trong một quá
trình như vậy.
Trong nền kinh tế hiện nay, khu vực dịch vụ đóng vai trị đặc biệt
quan trọng với khoảng 60% giá trị đóng góp vào GDP Thế giới.Tuy
nhiên, những kết quả phân tích gần đây cũng cho thấy rằng sự đóng góp
của khu vực được vào GDP là rất khác nhau ở các nền kinh tế khác nhau.
Một trong những nhân tố có mối quan hệ chặt chẽ và trực tiếp tới tỷ lệ


14
này là mức thu nhập của quốc gia đó. Với các quốc gia có thu nhập thấp
khu vực dịch vụ đóng góp khoảng 38% vào GDP, với các quốc gia có
mức thu nhập trung bình là 56%, cịn đối với các quốc gia có thu nhập cao
tỷ lệ này là 65%.
Theo phân tích và đánh giá của Ngân hàng Thế giới, mức độ đóng
góp của khu vực dịch vụ có mối liên hệ trực tiếp và chặt chẽ với mức thu
nhập của quốc gia. Khi thu nhập người dân càng cao thì họ có xu hướng
chi tiêu ngày càng nhiều hơn cho các loại hình dịch vụ trong tương quan
so sánh với mức độ tăng lên trong chi tiêu cho các sản phẩm hàng hóa.
Trong sự tăng trưởng chung của khu vực dịch vụ có sự đóng góp khơng
nhỏ của các ngành cơng nghiệp hiện đại vì sản phẩm của những ngành
này là những sản phẩm có độ phức tạp cao, đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ
với những ngành dịch vụ chuyên môn khác (như dịch vụ thiết kế, nghiên
cứu phát triển, marketing, phân phối, bảo hiểm…) để sản xuất và tiêu thụ.
Những quốc gia có mức thu nhập cao hơn sẽ có điều kiện hơn để đầu tư
cả về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực cho sự phát triển và mở rộng khu
vực dịch vụ hơn các nước khác. Hiện nay các nước có đóng góp vào GDP
cao là Mỹ (72%), Pháp (71%), Nhật Bản (60%)… Một số nước ở Đơng

Nam Á có tỷ lệ đóng góp của ngành dịch vụ vào GDP khá cao như Thái
Lan (50%), Malaysia (45%)…
 Ngành dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thơng, phân phối
hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm
vi quốc gia cũng như quốc tế.
Các ngành dịch vụ là cầu nối giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra
trong quá trình sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm. Bn bán quốc tế,
đặc biệt là bn bán hàng hóa sẽ khơng thể vận hành nếu như khơng có
dịch vụ vận tải, dịch vụ thanh tốn. Chính sự ra đời và phát triển của dịch


15
vụ đã góp phần khắc phục được trở ngại về địa lý, đẩy nhanh tốc độ lưu
thơng hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu bn bán, trao đổi hàng hóa từ nước
này sang nước khác, từ khu vực địa lý này sang khu vực địa lý khác.
Trong quá trình chuyên chở hoặc lưu thơng, hàng hóa ln bị đe dọa bởi
những rủi ro nên sự ra đời của dịch vụ bảo hiểm làm cho thương mại quốc
tế trở nên an toàn hơn, ít tổn thất hơn. Các dịch vụ ngân hàng cũng cho
phép khâu thanh toán được diễn ra một cách có hiệu quả, giúp cả hai bên
xuất khẩu và nhập khẩu đạt được mục đích trong quan hệ bn bán. Các
dịch vụ viễn thơng, thơng tin cũng có vai trị hỗ trợ cho các hoạt động
thương mại trong việc kích cầu, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng
của người tiêu dùng. Các dịch vụ cung tiêu như dịch vụ đại lý, bán bn,
bán lẻ giữ vai trị trung gian kết nối giữa người sản xuất với người tiêu
dùng, đồng thời góp phần đẩy mạnh q trình tiêu thụ hàng hóa, rút ngắn
thời gian hàng hóa lưu thơng, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi
vốn để đầu tư tái sản xuất. Như vậy dịch vụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới
các hoạt động thương mại hàng hóa. Điều này càng trở nên rõ nét trong
thương mại quốc tế. Các dịch vụ về vận tải, bảo hiểm, thanh toán quốc tế
là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến lưu thơng và bn

bán hàng hóa trên phạm vi quốc tế.
 Ngành dịch vụ trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất
Nhu cầu về dịch vụ xuất phát ở chính các nhà sản xuất khi họ thấy
rằng để có thể tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt
ở cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các
yếu tố dịch vụ vào sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng. Các
dịch vụ nghiên cứu và phát triển thị trường, thiết kế, tiếp thị, phân phối…
Đã thâm nhập sâu vào quá trình sản xuất hàng hóa và có những đóng góp
đáng kể trong việc tạo ra các giá trị gia tăng đối với sản phẩm hàng hóa.


16
Ngày nay, ranh giới giữa sản phẩm hàng hóa và sản phẩm dịch vụ chỉ
mang một ý nghĩa tương đối. Sản phẩm hàng hóa ngày càng có hàm lượng
dịch vụ cao kết tinh trong đó. Các ngành dịch vụ có vai trò rất quan trọng
trong việc hỗ trợ các ngành kinh tế khác phát triển. Chẳng hạn, theo ước
tính của một số chuyên gia nước ngoài, để đưa một sản phẩm trị giá
100USD tới tay người tiêu dùng, nhà sản xuất phải chi tới 10USD cho
dịch vụ vận tải, 10USD cho dịch vụ viễn thông, 10USD cho dịch vụ
quảng cáo, 30USD cho các dịch vụ khác có liên quan tới sản xuất và chỉ
có 20USD cho nguyên vật liệu và cịn lại là các chi phí khác như tiền
lương, quản lý… Như vậy giá trị dịch vụ trong một sản phẩm chiếm tới
60% giá trị của hàng hóa và tỷ lệ này ngày càng có xu hướng gia tăng với
sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự xuất hiện các phương thức kinh
doanh mới.
 Ngành dịch vụ có tác động tích cực đối với phân cơng lao động xã hội
Thương mại hình thành và phát triển gắn liền với sự phân cơng lao
động xã hội. Hay nói cách khác, phân công lao động xã hội là tiền đề cho
sự ra đời và phát triển thương mại. Ngược lại sự phát triển của thương
mại cũng góp phần làm cho phân công lao động sâu sắc hơn. Đặc biệt

trong sản xuất ngày càng chun mơn hóa cao hơn. Các nhà sản xuất tận
dụng được lợi thế về quy mô bằng việc chỉ chun mơn hóa trong lĩnh
vực sản xuất cụ thể và sử dụng một cách hiệu quả các dịch vụ thương mại
do các nhà cung ứng dịch vụ cung cấp. Nền kinh tế càng phát triển thì
thương mại dịch vụ càng phát triển phong phú và đa dạng. Hiện nay, sự
phát triển của dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Người ta thấy rằng trình độ phát triển kinh tế của một nước càng cao
thì tỷ trọng của dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế của nước đó càng lớn.
Bởi thương mại dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội


17
và chun mơn hóa, tạo điều kiện cho các lĩnh vực sản xuất khác phát
triển. Sự tăng trưởng của ngành thương mại dịch vụ là động lực cho sự
phát triển kinh tế.
Vai trò của dịch vụ được phản ánh rõ nét nhất ở số lượng lao động
trong ngành dịch vụ và tỷ trọng của dịch vụ trong GDP. Ngành dịch vụ ở
Mỹ hàng năm tạo ra 80% cơ hội làm việc, xuất khẩu dịch vụ chiếm tới
30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước
phát triển vào ngành dịch vụ chiếm tới 40% tổng giá trị đầu tư.
Thứ hai: Đóng góp của thương mại dịch vụ vào cán cân thương mại.
Xuất phát từ vị trí của dịch vụ trong ngành kinh tế nói chung, vai trò
của dịch vụ trong cán cân thương mại cũng ngày càng trở nên quan trọng
và đóng góp một phần đáng kể và cán cân thương mại, đặc biệt là đối với
các nền kinh tế có trình độ phát triển cao.
Trong thương mại thế giới, giá trị xuất khẩu của khu vực dịch vụ
chiếm từ 20-25% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; giá trị nhập
khẩu của khu vực dịch vụ chiếm từ 19-21% tổng giá trị nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ, và tỷ lệ này có xu hướng ngày càng tăng. Theo số liệu
thống kê của Ngân hàng Thế giới, nếu như năm 2000 cán cân thương mại

toàn thế giới là 156 tỷ USD, trong đó cán cân dịch vụ là 65 tỷ USD và cán
cân hàng hóa là 90 tỷ USD, thì đến năm 2005, cán cân thương mại toàn
thế giới là -124 tỷ USD, trong đó cán cân dịch vụ là 83 tỷ USD và cán cân
hàng hóa là -207 tỷ USD. Điều này cho thấy rằng thương mại dịch vụ
khơng những có xu hướng tăng về quy mơ mà ngày càng có vị trí quan
trọng đối với tình trạng thặng dư hay thâm hụt cán cân thương mại nói
chung (theo số liệu thống kê của ngân hàng thế giới năm 2006).
Thứ ba: Ngành dịch vụ tạo ra một số lượng rất lớn việc làm cho người
lao động.
Ngành dịch vụ đã tạo ra khối lượng việc làm rất lớn cho người lao động.


18
Tỷ lệ lao động làm trong các ngành dịch vụ khơng những ngày càng tăng cao
mà cịn chiếm tỷ trọng lớn hơn hẳn so với các ngành kinh tế khác. Ở những
nước có trình độ phát triển cao thì tỷ lệ lao động làm trong ngành này chiếm
70-80% tổng số lao động của nền kinh tế. Ở các nước đang phát triển số
lượng lao động chưa chiếm ưu thế như ở các nước phát triển song có thể thấy
xu hướng tăng nhanh tỷ trọng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ là rõ
rệt, có khoảng 20-30% số lao động làm việc trong khu vực dịch vụ và con số
này đang tăng với tốc độ rất nhanh.
Thứ tư: Hỗ trợ các ngành kinh tế phát triển.
Dịch vụ là lĩnh vực có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế nhưng vai trị
của nó đối với các ngành kinh tế thì mỗi giai đoạn là có một nhận thức khác
nhau. Đã có những thời kỳ dịch vụ chỉ được coi là ngành kinh tế bổ trợ và
đóng vai trị thứ yếu trong các ngành sản xuất, đến nay các quốc gia trên thế
giới đã khơng chỉ thừa nhận vai trị quan trọng của lĩnh vực dịch vụ trong việc
hỗ trợ các ngành kinh tế khác phát triển, mà còn thấy được sự quan trọng của
chính bản thân các ngành dịch vụ với tư cách như một ngành kinh tế độc lập,
đem lại thu nhập và việc làm cho quốc gia.

Thứ năm: Ngành dịch vụ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngồi.
Hiện nay lĩnh vực dịch vụ có một sức hấp dẫn rất lớn đối với các nhà
đầu tư, khơng những là đầu tư nước ngồi mà cịn cả các nhà đầu tư trong
nước. Điều này có thể lý giải bởi lợi nhuận cao do ngành này mang lại.
Tóm lại, hoạt động của các ngành dịch vụ có vai trị hết sức quan
trọng, và có xu hướng ngày càng tăng, gắn liền cả về quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, xét cả về trước mắt và
lâu dài, cần có sự quan tâm, đầu tư một cách thích đáng đối với phát triển
hoạt động, giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần đẩy nhanh q
trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa trong những năm tới.


19
1.1.2. Sự cần thiết phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng
Chăn nước CHDCND Lào
Mở cửa hội nhập nền kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu trong xu
thế phát triển kinh tế toàn cầu. Mỗi quốc gia khơng thể tự mình giải quyết tốt
nhất và có hiệu quả nhất mọi nhu cầu của sản xuất và đời sống xã hội. Việc
giao lưu buôn bán các sản phẩm hàng hóa - dịch vụ giữa các quốc gia trở
thành vấn đề đương nhiên của mọi đất nước trên thế giới. Yêu cầu mở cửa
nền kinh tế địi hỏi mỗi quốc gia phải khơng ngừng phát triển không chỉ lĩnh
vực sản xuất mà cả lĩnh vực thương mại dịch vụ. Sự phát triển thương mại
dịch vụ là cầu lối giữa các nền kinh tế thế giới với nhau. Bởi vậy muốn hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế phải phát triển được thương mại.
Trên một góc độ khác, sự phân công hợp tác quốc tế là một địi hỏi của
nền kinh tế tồn cầu. Các quốc gia với những lợi thế của mình, để đảm bảo tính
hiệu quả của sản xuất xã hội, cần nhận thấy phải sản xuất kinh doanh lĩnh vực
sản phẩm gì?, Với những đối tác nào?, Sự phân công hợp tác quốc tế giữa các
nền kinh tế làm cho mỗi nền kinh tế vừa có sự độc lập tự chủ của mình vừa cần
có sự hợp tác, hỗ trợ từ những quốc gia khác. Chất kết dính các nền kinh tế với

nhau là hoạt động thương mại dịch vụ. Một khi nền kinh tế tồn cầu ngày càng
trở thành hiện thực thì sự phân công hợp tác quốc tế giữa các quốc gia ngày
càng có tính cụ thể và chặt chẽ hơn. Điều đó cũng đồng nghĩa với sự gia tăng
các hoạt động thương mại dịch vụ để đảm bảo một sự kết hợp tối ưu nhất các
lợi thế mỗi nền kinh tế của từng quốc gia với nhau.
Khi thị trường thế giới phát triển, đòi hỏi sự phát triển thương mại dịch
vụ cũng phải phát triển tương ứng. Quan hệ cung cầu trên thị trường thế giới
ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu là cơ sở để phát triển
mạnh mẽ cả về quy mô, cơ cấu các loại hình thương mại dịch vụ. Tính chất
nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp thì sự địi hỏi cũng ngày


20
càng cao về thương mại dịch vụ. Như vậy việc phát triển thị trường thế giới là
một yêu cầu tất yếu khách quan, đòi hỏi chủ quan đối với mỗi quốc gia trong
lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Trong mỗi quốc gia, xu hướng tự do hóa thương mại dịch vụ là xu
hướng hợp quy luật. Mở rộng ra phạm vi tồn cầu, xu hướng này là một địi
hỏi thực tế. Tự do hóa thương mại ngày càng rộng rãi, sự xâm nhập giữa các
nền kinh tế tạo ra tiền đề cho sự giao lưu các hoạt động kinh tế trong đó có tự
do thương mại dịch vụ.
Tóm lại, do quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, q trình phân cơng hợp tác quốc tế ngày càng đa dạng phong phú.
Thị trường thế giới phát triển khơng ngừng, xu hướng tự do hóa thương mại
toàn cầu cũng như trong mỗi quốc gia, mỗi quốc gia đều phải phát huy lợi thế
so sánh của mình địi hỏi thương mại dịch vụ khơng ngừng phát triển cả chiều
rộng lẫn chiều xâu… Là một nước có nền kinh tế đang phát triển, sự phát
triển của ngành dịch vụ đối với Thủ đô Viêng Chăn nước CHDCND Lào (sau
đây gọi tắt là Thủ đô Viêng Chăn) là một sự cần thiết khách quan và là một
đòi hỏi cấp bách khi hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.

1.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát
triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng chăn
1.2.1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá sự phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn
Thủ đô Viêng chăn
Tương tự với việc đánh giá nghiên cứu bất kỳ một vấn đề kinh tế - xã
hội, đánh giá sự phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn
là một việc làm không dễ, cần phải có phương pháp và các cơng cụ để thực
hiện. Do đó, việc thiết lập một hệ thống chỉ tiêu đánh giá là cần thiết. Dựa vào
hệ thống này, chúng ta có thể đánh giá sự phát triển ngành dịch vụ một cách



×