Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Xuất khẩu lao động Việt Nam sang Trung Đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.82 KB, 68 trang )

GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG VÀ XUẤT
KHẨU LAO ĐỘNG
1.1/ VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG
1.1.1/ Vấn đề xuất khẩu lao động thoe học thuyế Mác
1.1.2/ Chính sách đối với thị trường lao động việc làm của một số nước
1.2/ VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.2.1/ Khái niệm
1.2.2/ Nội dung
1.2.3/ Các hình thức xuất khẩu lao động
1.2.4/ Đặc điểm của xuất khẩu lao động
1.2.5/ Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động
1.2.6/ Rủi ro,hạn chế và lợi ích trong xuất khẩu lao động
1.2.7/ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động
1.3/ NHÌN NHẬN VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT NHẬP KHẨU LAO ĐỘNG
TRÊN THẾ GIỚI
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG VIỆT NAM SANG TRUNG ĐÔNG THỜI GIAN QUA
2.1/ THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
2.1.1/ Cơ cấu dân số Việt Nam
2.1.2/ Đặc điểm của lao động Việt Nam
2.1.3/ Cơ cấu lao động Việt Nam
2.2/ CÁC THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG SANG
2.3/ THỊ TRƯỜNG TRUNG ĐÔNG
2.3.1/ Giới thiệu sơ lược về thị trường Trung Đông
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
1
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
2.3.2/ Lao động nước ngoài tại Trung Đông
2.3.3/ Mối quan hệ Việt Nam- Trung Đông


2.4/ VIỆT NAM XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG SANG TRUNG ĐÔNG
2.4.1/ Vì sao?
2.4.2/ Thực trạng xuất khẩu laod dộng Việt Nam sang Trung Đông những
năm qua
2.4.3/ Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu lao động sang Trung Đông
2.4.4/ Kết quả đạt được
2.4.5/ Những khó khăn, tồn tại trong việc xuất khẩu lao động Việt Nam
sang Trung Đông
2.4.6/ Nguyên nhân của những tồn tại trên
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP
3.1/ Về phía nhà nước Việt Nam
3.2/ Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam
3.2/ Về phía người lao động Việt Nam
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
2
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
DANH MỤC BẢNG BIỂU
1/ ĐÁNH SỐ BẢNG :
♦ CHƯƠNG 1
♦ CHƯƠNG 2 :
BẢNG 2.1 : Cơ cấu dân số Việt Nam theo nhóm tuổi phản ánh khả
năng lao động
BẢNG 2.2 : Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi ở khu vực thành thị
BẢNG 2.3 : Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm
phân theo thành phần, ngành nghề kinh tế
BẢNG 2.4 : Số lao động Việt Nam xuất khẩu sang UAE từ năm 2004
đến đầu năm 2010
BẢNG 2.5 : Số lao động Việt Nam xuất khẩu sang Qatar từ năm 2005
đến năm 2009
BẢNG 2.6 : Nguồn thu của chính phủ từ việc xuất khẩu lao động sang

Trung Đông năm 2009
BẢNG 2.7 : Tiền lương lao động nhận được từ các thị trường Trung
Đông năm 2009
♦ CHƯƠNG 3
2/ ĐÁNH SỐ BIỂU ĐỒ :
♦ CHƯƠNG 1
♦ CHƯƠNG 2
BIỂU ĐỒ 2.1 : Sự gia tăng số lao động xuất khẩu sang UAE và
Qatar trong những năm qua
BIỂU ĐỒ 2.2 : Số lao động được giải quyết việc làm khi xuất khẩu
lao động sang Trung Đông những năm qua
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
3
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
Lời mở đầu
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức kinh tế thế giới (WTO), đã và đang trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng nên việc mở rộng quan
hệ thương mại với các nước trên thế giới là một điều tất yếu. Trong thời đại
toàn cầu hoá, lao động di chuyển từ nước này sang nước khác đã trở thành
hiện tượng khá phổ biến. Tuy không nhộn nhịp như tư bản và công nghệ, lao
động cũng là một yếu tố sản xuất ngày càng vượt biên giới tìm nơi có mức
thù lao cao hơn. Hơn nữa Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng
- một cơ hội lần đầu tiên chúng ta có trong lịch sử nhân khẩu học (“Cơ cấu
dân số vàng”, tức là số người trong độ tuổi lao động cao hơn số người phụ
thuộc). Theo Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, hiện nay, mỗi năm
nước ta có khoảng 1,4 – 1,6 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động. Sự
dồi dào của lực lượng này thực sự đang tạo ra cơ hội vàng cho sự phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, đồng hành với nó là những thách thức không nhỏ về việc
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, tình trạng đô
thị hoá ngày càng mạnh, nông dân mất đất, không tìm được việc làm phù

hợp và hầu hết số người nông dân mất đất vẫn đang trong độ tuổi lao động
Nếu như lực lượng lao động dồi dào này không làm ra khối lượng của cải
vật chất đủ để nuôi sống chính họ thì hậu quả sẽ kéo dài mãi mãi về sau. Giá
trị tích luỹ không có, hoặc thấp, Nhà nước sẽ không đủ nguồn lực tài chính
để chi trả cho phúc lợi xã hội khi “dân số già”.
Mặc khác chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là dành nhiều
nguồn lực cho việc xoá đói giảm nghèo. Cùng với Đề án xoá đói giảm
nghèo cho 61 huyện nghèo nhất nước của Chính phủ, Bộ Lao động -Thương
binh và Xã hội cũng đang gấp rút hoàn chỉnh Đề án hỗ trợ đẩy mạnh xuất
khẩu lao động tại các huyện nghèo. Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ
được thực hiện ở thị trường trong nước mà còn chú trọng phát triển ở cả thị
trường nước ngoài.
Vì vậy vấn đề xuất khẩu lao động hiện nay đang được quan tâm rất nhiều.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động khá mới mẻ ở nước ta và chỉ phát triển
mạnh mẽ trong những năm gần đây.
Ta lại nhận thấy rằng, Trung Đông là khu vực gồm phần lớn các nước có
nhiều tài nguyên dầu mỏ, dân số ít nên là một trong những khu vực nhận lao
động nước ngoài lớn nhất thế giới. Chỉ tính riêng các nước thuộc Hội đồng
Hợp tác vùng Vịnh - GCC (gồm Ả Rập Saudi, Kuwait, Qatar, Oman,
Bahrain và Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất) đã có hàng chục triệu
lao động khắp thế giới đang làm việc trong đủ mọi lĩnh vực, từ cán bộ quản
lý, kỹ sư, lao động làm việc trong ngành dịch vụ, lao động công nghiệp, xây
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
4
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
dựng đến lao động phổ thông, giúp việc gia đình… Nơi đây đã thu hút khá
nhiều lao động Việt Nam trong thời gian gần đây và tạo cho em sự thú vị
hơn khi trung đông lại là một khu vực được biết với khá nhiều vấn đề bạo
động , khí hậu lại khắc nghiệt và quốc đạo nơi đây là đạo hồi, thường được
biết với sự khắc khe. Vậy thì Việt Nam ta có nên xuất khẩu lao động sang

Trung Đông không, xuất khẩu sang đây có đáp ứng được nhu cầu của người
lao động cũng như chính phủ ta mong muốn không? Từ đó đã thúc đẩy em
lựa chọn và thực hiện đề tài này “Xuất khẩu lao động Việt Nam sang
Trung Đông”
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
5
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG
VÀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.1/ Vấn đề lao động :
1.1.1/ Vấn đề lao động theo học thuyết Mác :
Lao động là vấn đề trung tâm trong học thuyết Mác
- Mác khuyên rằng : “để con người tư duy, hành động, xây dựng tính hiện
thực của mình, với tư cách là con người đã thoát khỏi ảo tưởng và đạt đến
tuổi có lý trí; để con người vận động xung quanh mình, nghĩa là vận động
xung quanh cái mặt trời thật sự của mình”
- Lao động có ý thức và có mục đích, theo Mác, là cơ sở thực tiễn tạo ra
mọi vấn đề và phương hướng giải quyết những vấn đề nói trên. Với hình
thức lao động đó, con người chẳng những chiếm hữu tự nhiên mà còn qua
đó “làm thay đổi bản tính của con người”, nghĩa là “phát triển những tiềm
lực đang ngái ngủ trong bản tính đó và bắt sự hoạt động của những tiềm
lực ấy phải phục tùng quyền lực của mình”. Đó chính là những hoạt động
mang tính giống loài của con người mà với những hoạt động ấy, con
nguời
Thực tiễn lao động có ý thức là gạch nối con người với tự nhiên: ngoài
thực tiễn ấy ra thì sẽ không còn có cái gì khác, đó chính là điểm cốt tử
trong tư tưởng của Mác.
“Một bên là con người và lao động con người, bên kia là tự nhiên và vật
liệu của tự nhiên – thế là đủ”, vì vậy “chúng ta không cần phải xét người
lao động trong mối quan hệ với những người lao động khác” .Nói lao động

có ý thức vì thế cũng có nghĩa là nói đến bản chất nội tại của con người với
tư cách là một loài người định nghĩa mình như là một chủ thể sáng tạo và
tự do
- Trong khi phân tích quy trình chung về sản xuất của loài người, Mác
cũng hay nói đến mối quan hệ giữa các khái niệm mà ông gọi là lao động
tất yếu với lao động thặng dư. Lao động tất yếu, theo Mác, chính là thời
gian lao động xã hội cần thiết để người lao động sản xuất ra một sản phẩm
tiêu dùng nào đó cho xã hội: giá trị sử dụng của sản phẩm ấy, theo sự trình
bày của Mác, không phải chỉ là kết quả của thời gian cụ thể mà người sản
xuất đã bỏ ra mà còn là kết quả tổng hợp của cả một trình độ về sức sản
xuất nào đó: sức sản xuất càng cao, trình độ tổ chức sản xuất càng khoa
học, hợp lý thì thời gian lao động tất yếu càng giảm, người sản xuất càng
có nhiều thì giờ rỗi rảnh để phát triển toàn diện cuộc sống của mình đồng
thời với những kết quả của sự phát triển do sức sản xuất ấy tạo ra. Nhưng
theo Mác nếu mục đích sản xuất chỉ dừng lại ở phạm vi hạn hẹp ấy thì xã
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
6
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
hội cũng không thể nào phát triển được, vì thế giả định về một nền sản xuất
chỉ đủ phục vụ cho sự tiêu dùng của những người sản xuất là hoàn toàn
không thích hợp với những xã hội phát triển, không thể tạo ra được một
sức sản xuất cao để xã hội ấy phát triển. Muốn phát triển, ngoài việc cần
phải có một số thời gian lao động tạo ra tiêu dùng (phục hồi sức lao động
đã tiêu hao), người ta còn phải tiến hành hình thức lao động gọi là dôi ra
(lao động thặng dư) tạo thêm của cải, hoặc là để dành đối phó với những
bất trắc có thể gặp phải, nuôi nấng những nguời già cả, thất nghiệp, chưa
có việc làm, góp phần vào công ích xã hội, và quan trọng nhất là tích luỹ
tạo vốn để mở rộng sản xuất v.v...Đối với những xã hội muốn phát triển
nhanh thì sự tích luỹ lao động thặng dư ấy càng phải được tiến hành trên
phạm vi rộng lớn, khắp xã hội, đi song song với việc cải tiến không ngừng

sức sản xuất và trình độ hợp lý hoá sản xuất, miễn là những hình thức tích
luỹ ấy được thực hiện theo chiều hướng phù hợp với bản chất của con
người: con người với tư cách là xã hội loài người thống trị được những sản
phẩm do mình làm ra, không bị những sản phẩm ấy chi phối. Thứ lao động
thặng dư mang tính xã hội để phục vụ cho nhu cầu tái sản xuất đó chính là
“quỹ tái sản xuất” bắt buộc phải là sở hữu của một cộng đồng mà Mác gọi
là “liên minh những người tự do”. Theo Mác, chỉ có trong quá trình cải
biến không ngừng trình độ sản xuất theo phương hướng đó, loài người mới
tạo ra được một thế giới phù hợp với bản chất đích thực của mình: một thế
giới đã được nhân hoá mang tính phổ biến, trong đó con người có thể sử
dụng được thời gian tự do do sức sản xuất mang lại để phát triển những
tiềm lực sáng tạo trong bản thân.
1.1.2/ Chính sách đối với thị trường lao động việc làm của một số nước :
1.1.2.1/ Xu hướng chung :
- Một là, giảm thiểu sự điều tiết từ phía Nhà nước, tăng tính linh
hoạt của thị trường lao động, việc làm trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế-xã hội. Trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay và sự
tác động từ nhiều phía vào nền kinh tế của từng quốc gia, đặc biệt là
sự tác động của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
đang diễn ra mạnh mẽ, buộc các đảng dân chủ xã hội và chính phủ của
họ phải thực thi các chính sách quản lý giảm thiểu sự điều tiết từ phía
Nhà nước, nâng cao tính tự thân vận động của thị trường lao động,
việc làm, chỉ có như vậy mới bảo đảm cho nền kinh tế thị trường đạt
hiệu quả cao.
- Hai là, khống chế tiền lương thấp và trợ cấp thất nghiệp, đây là
những chính sách tỏ ra có hiệu quả trong việc thu hút đông đảo người
lao động tham gia thị trường lao động, tăng số người có việc làm,
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
7
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP

giảm số người thất nghiệp, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân; khắc phục tình trạng tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp.
- Ba là, thực hiện một thiết chế quan hệ xã hội mới về thị trường
lao động, việc làm, gồm Nhà nước, giới chủ và người lao động (là 3
chủ thể nằm trong chính sách điều tiết thị trường lao động, việc làm).
Thiết chế này mang tính xã hội mềm dẻo hơn và người lao động cũng
có vai trò quan trọng nhất định, buộc Nhà nước mỗi khi đề ra chính
sách thị trường lao động, việc làm phải cân nhắc kỹ càng hơn, bảo
đảm hài hoà các lợi ích Nhà nước, giới chủ và người lao động.
Các xu hướng trên, đang được các Đảng dân chủ xã hội và Chính phủ
của họ vận dụng thực hiện trong cải cách ở những mức độ khác nhau
trong từng quốc gia, phù hợp với truyền thống lịch sử lao động, việc
làm mỗi nước nhằm đạt được yêu cầu caỉ cách chính sách xã hội đối
với mỗi quốc gia trong tình hình hiện tại.
1.1.2.2/ Một số mô hình cải cách chính sách thị trường lao động, việc
làm đã và đang được thực hiện ở một số nước :
a/ Mô hình của Cộng hoà Liên bang Đức:
Mọi cải cách về chính sách thị trường lao động, việc làm ở Cộng
hoà Liên bang Đức đều xoay quanh cái trục “nền kinh tế thị trường xã
hội, sở hữu hỗn hợp”. Các chính sách cải cách chủ yếu đã được thực
thi trong các thời kỳ như sau:
Thời kỳ tái thiết Nhà nước phúc lợi xã hội (1949-1965) được coi là
chuẩn mực của chính sách xã hội Đức, là thời kỳ xây dựng "chủ nghĩa
tư bản xã hội Đức”. Trong thời kỳ này đã tiến hành những cải cách có
tính quyết định về chính sách xã hội có liên quan trực tiếp đến thị
trường lao động, việc làm. Khâu quan trọng thứ nhất trong mạng lưới
an sinh xã hội là cuộc cải cách lương hưu năm 1957. Cuộc cải cách đã
xác định nguyên tắc lương hưu tương hợp với mức đóng góp bảo hiểm
và thu nhập.
- Thời kỳ đại liên minh “CDUCSU và SPD” (1966-1969): Chính

sách xã hội ở thời kỳ này hướng nhiều vào sự bình đẳng và giảm thiểu
các đặc quyền, đặc lợi đối với viên chức so với công nhân.
- Thời kỳ (1969-1982) đã đưa tỷ trọng các khoản chi xã hội tăng từ
26,2% lên mức 33,9%, đây là mức cao nhất so với các thời kỳ trước.
Cải cách lương hưu một lần nữa lại được tiến hành. Cuộc cải cách này
đã thành công. Bước ngoặt về chính sách xã hội đã bắt đầu mở ra ngay
dưới thời Chính phủ của thủ tướng Helmut Schmidr.
- Thời kỳ Liên minh “CDU-FDP”- Liên minh dân chủ thiên chúa
giáo (1982-1990) do Thủ tướng Helmut Kohl đứng đầu lên cầm quyền
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
8
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
năm 1982: Là thời kỳ diễn ra sự chuyển đổi theo hướng bảo thủ trong
nền chính trị Đức. Các cam kết về xã hội của Nhà nước được chuyển
vào thị trường và gia đình. Nhà nước xã hội được coi là Nhà nước
cạnh tranh và định hướng vào những điều kiện mới của nền kinh tế
toàn cầu hoá. Chính sách xã hội đã có bước ngoặt.
Việc chuyển các ưu tiên xã hội sang các ưu tiên về chính sách tài
chính, Nhà nước phúc lợi xã hội bắt đầu chuyển đổi thành Nhà nước
bảo hiểm.
Các yếu tố trọng tâm của Nhà nước xã hội vẫn được giữ nguyên.
Sự trì trệ của các cơ quan, các thiết chế đã cản trở cải cách và do đó
mà vẫn giữ được tính liên tục của các cấu trúc của Nhà nước phúc lợi
xã hội.
Trong các năm 1990-1998, việc thống nhất hai Nhà nước Đức và
áp dụng mô hình bảo hiểm xã hội của Tây Đức vào các bang mới phía
Đông nhằm nhanh chóng đưa mức sống ở phía Đông lên ngang bằng
với mức sống phía Tây đã làm thay đổi mạnh mẽ một số chính sách xã
hội liên quan đến lao động và việc làm. Trong chính sách xã hội đã
thiết lập hệ thống bảo hiểm xã hội trên các lĩnh vực lương hưu, thất

nghiệp và y tế. Cùng với việc chuyển giao tổng thể các thiết chế bảo
hiểm xã hội, chính sách thị trường lao động cũng phát triển tích cực.
Ngoài việc áp dụng rộng rãi các quy định về nghỉ hưu trước tuổi, các
biện pháp tạo việc làm phổ cập cũng được áp dụng và mở rộng các
chương trình đào tạo theo hình thức tập trung. Nhờ đó đã giảm thiểu
được tình trạng thất nghiệp. Những cắt giảm đầu tiên về các khoản chi
xã hội nhằm tài trợ cho gánh nặng bởi quá trình tái thống nhất nước
Đức đã đạt được qua các cuộc thương thảo hết sức khó khăn với đảng
đối lập SPD. Tuy nhiên, trợ cấp xã hội ít bị cắt giảm hơn so với những
nước khác.
Một trong những biện pháp đầu tiên mà liên minh “Đỏ - Xanh” khi
lên cầm quyền sau 1998 là tái thực hiện các cắt giảm trong chính sách
xã hội mà liên minh cầm quyền thiên chúa giáo - tự do đã khởi xướng.
Bằng các "đạo luật điều chỉnh bảo hiểm xã hội và bảo đảm các quyền
của người lao động", Chính phủ đã hạn chế các khoản chi ở các lĩnh
vực lương hưu, y tế và các khoản trợ cấp thay lương. Việc lành mạnh
hoá ngân sách bảo hiểm xã hội trở thành một trong những mục tiêu ưu
tiên hàng đầu. Chính phủ của Liên minh “Đỏ - Xanh” coi cải cách chế
độ bảo hiểm tuổi già là đề án cải cách lớn. Mục tiêu là giữ ổn định dài
hạm các khoản đóng bảo hiểm. Hai yếu tố cải cách được quan tâm :
Một là, đưa nhân tố cân đối vào công thức lương hưu. mức lương sẽ
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
9
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
được giảm xuống theo các bậc khác nhau và đạt mức 67% thu nhập;
Hai là, việc giảm lương hưu theo luật định cần được cân bằng trên cơ
sở xây dựng chế độ chăm sóc tuổi già tư nhân.
Trong quá trình tranh cử năm 1998, liên minh “Đỏ - Xanh" đã khơi
dậy và tạo ra sự đồng thuận xã hội nhằm thực hiện các biện pháp cải
cách căn bản trên lĩnh vực chính sách việc làm và chính sách xã hội.

Tuy nhiên một loạt cải cách theo hướng tự do hoá thị trường của Liên
minh “Đỏ - Xanh” không tiến hành được do nhiều nguyên nhân, trong
đó có cả việc thiếu sự thống nhất về cương lĩnh của Chính phủ trong
lĩnh vực chính sách xã hội.
b/ Mô hình của nước Anh:
Khác với chính phủ của các đảng dân chủ xã hội, Chính phủ của
Công Đảng Anh chủ trương hoàn toàn theo hướng thị trường. Chính
phủ của Đảng bảo thủ (1976-1996) đã tiến hành những cải cách về cơ
cấu, nhờ đó càng tăng cơ hội cải cách cho Chính phủ Công Đảng. Đặc
biệt Chính phủ của bà Margaret Thatcher đã hạn chế mạnh mẽ quyền
lực của các tổ chức Công đoàn và sử dụng các biện pháp phi điều tiết
thị trường lao động. Những biện pháp này tạo điều kiện cho Công
đảng mở ra những khả năng mới năng động hoá việc làm. Vì vậy,
Chính phủ Công đảng Anh ngay lập tức đã có thể bắt đầu dự án
“Welfare to work” mà không lo phải đụng độ với giới lao động và
công đoàn.
Trong cuộc vận động tranh cử Công đảng đã cam kết tiếp tục thực
hiện chính sách tài khoá bảo thủ của Chính phủ tiền nhiệm ít nhất 2
năm và đặt nó dưới hai nguyên tắc cơ bản sau: Một là, mọi khoản chi
thường xuyên chỉ được phép thực hiện trên cơ sở lấy từ các khoản thu
thường xuyên. Các khoản nợ mới chỉ được phép dùng cho các mục
đích đầu tư. Hai là, nợ công mới cần được giữ ở mức ổn định, không
phụ thuộc vào chu kỳ thăng trầm kinh tế và không được có những can
thiệp phản chu kỳ ngắn hạn.
Chính sách ngân sách của Anh không bó hẹp hơn bất kỳ chính sách
ngân sách nào của phần lớn các Chính phủ dân chủ xã hội và tư sản
thuộc lục địa Châu Âu. Hơn nữa, bộ trưởng Ngân khố Anh còn sử
dụng các khoản thu thuế vượt trội để tài trợ cho các chương trình đặc
biệt về giáo dục, việc làm và y tế. Công đảng bắt đầu cải tổ hệ thống
thuế theo hướng bỏ hẳn hoặc bỏ gần hết thuế thu nhập đánh vào khu

vực lương thấp. Với một hộ (gia đình) có ít nhất một người làm việc
toàn phần sẽ được bảo đảm mức thu nhập tối thiểu là 10.000 bảng
Anh. Dưới mức đó thì thu nhập gia đình sẽ được bù.
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
10
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
Từ năm 1996 đến 1999 việc làm ở Anh tăng 1,03%, tăng nhanh hơn
các nước thuộc liên minh kinh tế và tiền tệ WWU. Tỷ lệ thất nghiệp ở
Anh từ 8,7% (1996) giảm xuống còn 6,3% (1998). Điều đó cho thấy
thị trường lao động phi điều tiết mạnh của Công đảng Anh năng động
hơn phần lớn các thị trường lao động được điều tiết mạnh ở lục địa
Châu Âu. Việc thu hút lao động vào thị trường lao động, một mục tiêu
truyền thống của dân chủ xã hội đã được Công đảng Anh thực hiện
thành công hơn phần lớn các chính phủ dân chủ xã hội và tư sản ở lục
địa Châu Âu.
c/ Mô hình của Cộng hoà Pháp:
Đặc trưng truyền thống của chính sách xã hội Pháp thể hiện rõ nhất
trong chính sách việc làm. Điều này biểu hiện ngay trong năm cầm
quyền đầu tiên của những người theo Đảng dân chủ xã hội Pháp khi
họ đưa ra kế hoạch cắt giảm nạn thất nghiệp trong thanh niên. Mục
tiêu là tạo ra 700.000 việc làm, nhưng Nhà nước sẽ chi tài chính tới
80%. Trong đó, riêng khu vực công chiếm 350.000. Đây là một chính
sách mà cả Công đảng mới ở Anh, Đảng dân chủ xã hội Hà Lan và
Đảng dân chủ xã hội Đức đều không dám theo đuổi. Số 350.000 việc
làm còn lại được tạo ra trong khu vực tư bằng những khoản bù lỗ về
lương của Nhà nước. Ngoài ra còn có một số biện pháp khác sau đây:
Thông qua bù lỗ cho chế độ về hưu sớm để hạn chế cung về lực lượng
lao động; ban hành đạo luật khung áp dụng chế độ tuần làm việc 35
giờ; không áp dụng các biện pháp phi điều tiết thị trường lao động;
duy nhất chỉ có việc tạo điều kiện để dễ dàng hơn cho việc kết thúc

quan hệ lao động theo thời hạn.
Trong khi hai biện pháp đầu được coi như là những biện pháp của một
chính sách việc làm dân chủ xã hội truyền thống, thì biện pháp cuối lại
nhằm điều tiết thị trường lao động một cách mạnh mẽ. Nhưng chính
ngay khu vực thị trường phi điều tiết của những việc làm theo thời
hạn, được trả lương thấp và hầu như không được bảo hiểm xã hội lại
chứng tỏ rằng nó đặc biệt năng động, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ.
Nếu sự phát triển này tiếp diễn, thì ở Pháp (cũng giống như ở Tây Ban
Nha) có thể sẽ xuất hiện một thị trường lao động đối lập, một bên là
khu vực được điều tiết mạnh nhưng trì trệ, và bên kia là bộ phận phi
điều tiết nhưng năng động và sẽ đẻ ra những bất bình đẳng xã hội đáng
kể.
d/ Mô hình của Đan Mạch:
Chính sách thị trường lao động của Đan Mạch ngay trong những
năm 70 và 80 của thế kỷ XX đã có những yếu tố tích cực hoá mạnh
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
11
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
mẽ. Khác với các nhà nước phúc lợi xã hội Châu Âu lục địa, trọng
tâm của chính sách việc làm là tích cực hoá nguồn lực lao động chứ
không phải trợ cấp cho những người thất nghiệp. Những yếu tố tích
cực đó đặc biệt được phát triển trong những năm 90. Song giờ đây,
trọng tâm được nhấn mạnh là nghĩa vụ đào tạo lại, bồi dưỡng và nhận
việc. Cho đến năm 2000, chiến lược tích cực hoá này càng được tăng
cường hơn theo nhiều bước, nó thu hút rất mạnh tầng lớp thanh niên,
đưa họ vào các chương trình bồi dưỡng và việc làm mới. Nét đặc biệt
của chính sách tích cực hoá thị trường lao động của Đan Mạch là
nhấn mạnh giáo dục và đào tạo. Người thất nghiệp có nghĩa vụ tham
gia thực hiện biện pháp tích cực hoá, nếu không anh ta sẽ nhanh
chóng mất quyền được hưởng trợ cấp xã hội. Nhưng anh ta cũng có

quyền đề nghị với cơ quan quản lý thị trường lao động cho phép thực
hiện biện pháp tích cực hoá phù hợp với hoàn cảnh cá nhân. Thông
qua chiến lược nâng cao trình độ chuyên môn khuyến khích người lao
động tích cực hưởng ứng các chương trình đào tạo để có thể thích ứng
được với những đòi hỏi đang biến đổi một cách nhanh chóng của thị
trường lao động. Điều này đã trở thành động lực của chính sách thị
trường lao động Đan Mạch. Tính linh hoạt của thị trường lao động
Đan Mạch vượt xa mức độ linh hoạt của các thị trường lao động
thuộc lục địa Châu Âu. Ở Đan Mạch không có luật quy định lương tối
thiểu, chỉ có một khoản bảo hiểm nhỏ khi chấm dứt hợp đồng đối với
việc làm bán thời gian. Vì vậy, các doanh nhân Đan Mạch có thể thực
hiện một chính sách việc làm thích hợp với chu kỳ thăng trầm kinh tế
của xí nghiệp. Chính sách này cho phép cả việc sa thải người lao
động. Việc sa thải người làm công có thể được tiến hành nhanh chóng
hơn và ít tốn kém hơn so với Đức hay các nước khác ở lục địa Châu
Âu.
Tuy nhiên, chính sách thị trường lao động Đan Mạch cũng bắt đầu
gặp phải tình trạng phản ứng của cung về lực lượng lao động. Trong
suốt thập kỷ 90, Chính phủ tiếp tục nới rộng các chương trình cho
nghỉ hưu từ 60 và tìm cách hạn chế chương trình cho nghỉ hưu sớm.
Sự cân bằng giữa Nhà nước, thị trường và xã hội đã đạt tới một chất
lượng đặc biệt ở Đan Mạch. Trong khi chính sách đầu tư và chính
sách việc làm tiếp tục tạo không gian cho các lực lượng thị trường, thì
Nhà nước bằng những trợ giúp xã hội và dịch vụ phổ cập hào phóng
của mình vẫn bảo đảm an sinh xã hội và sự chấp nhận của xã hội đối
với thị trường phi điều tiết. Nhìn từ góc độ công bằng, Đan Mạch là
một nước toả sáng ở tất cả các chỉ số quan trọng. Nó thực hiện những
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
12
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP

khoản chi rất lớn cho giáo dục đào tạo và có những khoản chi xã hội
lớn nhất, có tỷ lệ nghèo khổ thấp nhất và mức chênh lệch thu nhập rất
vừa phải. Đan Mạch rất thành công trong việc thu hút lao động tham
gia vào thị trường lao động. Với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động có
việc làm đạt mức rất cao so với quốc tế và có tỷ lệ người thất nghiệp
thấp nhất trong tổ chức OECD. Phân loại theo lý thuyết công bằng,
Đan Mạch đứng hàng thứ tư trong các nước OECD, loại trừ được tình
trạng đẩy con người ra bên lề xã hội, đầu tư vào vốn người... Đan
Mạch được coi là tương đối lý tưởng ở các nước do Đảng dân chủ xã
hội cầm quyền hiện nay.
 Rút ra ưu điểm của từng mô hình có ý nghĩa thực tiễn với Việt
Nam.
a/ Ưu điểm của Cộng hoà Liên bang Đức: Lấy nền kinh tế thị trường
xã hội, sở hữu hỗn hợp làm trục xoay quanh để thực hiện các chính
sách cải cách thị trường lao động, việc làm. Nó buộc các mục tiêu cải
cách đặt ra phải gắn liền với vấn đề an sinh xã hội của người lao động
đang làm việc và cả những người đã nghỉ hưu, người thuộc tầng lớp
thấp của xã hội được chú ý nhiều hơn, tạo điều kiện thuận lợi để
chuyển dần từ Nhà nước phúc lợi xã hội sang Nhà nước bảo hiểm xã
hội, giảm bớt gánh nặng chi ngân sách, tăng tính tự chịu trách nhiệm
với các tổ chức xã hội và người dân.
b/ Ưu điểm của nước Anh: Chủ trương hoàn toàn theo hướng thị
trường, nó giúp Chính phủ Anh mở ra những khả năng mới năng động
hoá việc làm, nó kích cầu việc làm trong khu vực lương thấp. Tuy
nhiên mô hình này có một số hạn chế: tỷ lệ đói nghèo cao gấp đôi
Đức, các dịch vụ công trong lĩnh vực vận tải, giáo duc, y tế kém hơn
phần lớn các nước lục địa.
c/ Ưu điểm của Cộng hoà Pháp: Hầu như không có ưu điểm gì đáng
nói, vì nó phải trả giá ở sự kém cỏi trong chính sách thị trường lao
động, việc làm. Nhà nước phúc lợi xã hội thời kỳ sau chiến tranh thế

giới không có sức thuyết phục cả về phương diện chi trả tài chính và
cơ cấu cân bằng; Cơ cấu này quá ít kích thích đối với lao động nhận
việc làm. Điều đáng lo ngại là việc tiếp tục đẩy lùi các cuộc cải cách
và càng về sau các tầng lớp yếu thế của xã hội càng phải trả giá đắt.
d/ Ưu điểm của Đan Mạch: Ưu điểm là điều chỉnh việc làm, bảo đảm
thu nhập theo hướng không bám chặt vào quy chế và không dựa vào
trợ cấp xã hội. Việc điều chỉnh ngân sách dành cho các khoản chi xã
hội trong ngân sách Nhà nước theo hướng có lợi cho các nhiệm vụ
đầu tư xã hội. Trong đó, nghiên cứu, giáo dục và đào tạo giữ vị trí
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
13
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
then chốt.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh
mẽ như hiện nay, những ưu điểm của chính sách thị trường lao động
và việc làm phù hợp với tình hình trong nước và thế giới của các mô
hình nói trên là những kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam. Chúng ta có
thể nghiên cứu, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của mình
nhằm xây dựng và phát triển thị trường lao động, việc làm trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2/ V ấn đề xuất khẩu lao động :
1.2.1/ Khái niệm :
Xuất khẩu lao động là hoạt động mua-bán hàng hóa sức lao động nội địa
cho người sử dụng lao động nước ngoài.
+ Người sử dụng lao động nước ngoài ở đây chính là chính phủ nước
ngoài hay cơ quan, tổ chức kinh tế nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao
động trong nước.
+ Hàng hóa sức lao động nội địa : là muốn nói tới lực lượng lao động
trong nước sẵn sàng cung cấp sức lao động của mình cho người sử dụng

lao động nước ngoài.
+ Hoạt động mua-bán : thể hiện ở chỗ người lao động trong nước sẽ
bán quyền sử dụng sức lao động của mình trong một khoảng thời gian nhất
định cho người sử dụng lao động nước ngoài để nhận về một khoản tiền
dưới hình thức tiền lương. Còn người sử dụng nước ngoài sẽ dùng tiền của
mình mua sức lao động của người lao động, yêu cầu họ phải thực hiện
công việc nhất định nào đó ( do hai bên thỏa thuận ) theo ý muốn của
mình.
Nhưng hoạt động mua-bán này có một điểm đặc biệt đáng lưu ý là :
quan hệ mua-bán chưa thể chấm dứt ngay được vì sức lao động không thể
tách rời người lao động. Quan hệ này khởi đầu cho một quan hệt mới_quan
hệ lao động. Và quan hệ lao động sẽ chỉ thực sự chấm dứt khi hợp đồng lao
động ký kết giữa hai bên hết hiệu lực hoặc bị xóa bỏ hiệu lực theo thỏa
thuận của hai bên.
1.2.2/ Nội dung :
Xuất khẩu lao động gồm hai nội dung :
- Đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
- Xuất khẩu lao động tại chỗ ( Xuất khẩu lao động nội biên ) : người lao
động trong nước làm việc cho các doanh nghiệp FDI, các tổ chức
quốc tế qua Internet.
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
14
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
Xét về nội dung: đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài
+ Người lao động ở đây bao gồm: người lao động làm các công việc
phổ thông, sản xuất , giúp việc….(những công việc ít đòi hỏi trình độ
chuyên môn), chuyên gia, tu nghiệp sinh.
♦ Chuyên gia: là những người lao động có trình độ chuyên môn từ bậc
đại học trở lên

♦ Tu nghiệp sinh : chỉ những người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu
về trình độ chuyên môn của nước nhập khẩu lao động và nếu muốn vào
làm việc ở các nước này họ phải được hợp pháp hóa dưới hình thức tu
nghiệp sinh_nghĩa là vừa làm vừa được đào tạo tiếp tục về trình độ
chuyên môn kỹ thuật
1.2.3/ Các hình thức xuất khẩu lao động :
Hình thức xuất khẩu lao động : là cách thức thực hiện việc đưa người
lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do nhà nước qui định
Ở Việt Nam cho đến nay tồn tại các hình thức sau :
- Cung ứng lao động ra nước ngoài :
+ Nội dung : Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động sẽ tuyển lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các hợp đồng cung ứng lao động.
+ Đặc điểm :
♦ Các doanh nghiệp tự mình đảm nhiệm tất cả các khâu từ tuyển chọn
đến đào tạo, đưa đi và quản lý người lao động ở nước ngoài
♦ Các yêu cầu về tổ chức lao động do phía nước tiếp nhận đặt ra
♦ Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi pháp luật của nước tiếp nhận
♦ Quá trình làm việc là ở nước ngoài, người lao động chịu sự quản lý trực
tiếp của người sử dụng lao động nước ngoài
♦ Quyền và nghĩa vụ của người lao động do phía nước ngoài bảo đảm.
- Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhận thầu,
khoán công trình ở nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài.
+ Nội dung : Các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công
trình ở nước ngoài hoặc đầu tư dưới hình thức liên doanh, liên kết chia sản
phẩm hoặc các hình thức đầu tư khác. Hình thức này chưa phổ biến nhưng
sẽ phát triển trong tương lai cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực.
+ Đặc điểm :
♦ Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ tuyển chọn lao
động Việt Nam nhằm thực hiện các hợp đồng kinh tế, liên doanh, liên

kết giữa Việt Nam và nước ngoài
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
15
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
♦ Các yêu cầu về tổ chức lao động, điều kiện lao động do doanh nghiệp
xuất khẩu lao động Việt Nam đặt ra
♦ Doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam trực tiếp đưa lao động
sang nước ngoài, quản lý , đảm bảo quyền lwoji và nghĩa vụ cho lao
động tại nước ngoài. Vì vậy quan hệ lao động tương đối ổn định
♦ Cả người sử dụng lao động Việt Nam và lao động Việt Nam đều phải
tuân theo pháp luật nước nhập khẩu lao động
♦ Lao động cũng cần có trình độ học vấn, ngoại ngữ tốt, giao tiếp xã hội
rộng, tìm hiểu rõ các thông tin về đối tác.
1.2.4/ Đặc điểm của xuất khẩu lao động :
1.2.4.1/ Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đồng thời
cũng là hoạt động mang tính xã hội cao
- Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế ở tầm vi mô và vĩ mô.
Nói xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế vì nó đem lại lợi ích cho cả
hai bên tham gia ( bên cung và bên cầu ). Ở tầm vĩ mô, bên cung là
nước xuất khẩu lao động , bên cầu là nước nhập khẩu lao động. Ở tầm
vi mô, bên cung là người lao động mà đại diện cho họ là các tổ chức
kinh tế làm công tác xuất khẩu lao động ( gọi tắt là doanh nghiệp xuất
khẩu lao động ), bên cầu là người sử dụng lao động nước ngoài. Dù
đứng ở góc độ nào thì với tư cách là chủ thể của một hoạt động kinh tế,
cả bên cung và bên cầu khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động
đều nhằm mục tiêu là lợi ích kinh tế. Họ luôn luôn tính toán giữa chi
phí phải bỏ ra với lợi ích thu được để có quyết định hành động cuối
cùng sao cho lợi nhất. Chính vì thế bên cạnh các quốc gia chỉ đơn thuần
là xuất khẩu hay nhập khẩu lao động thì còn có cả những quốc gia vừa
xuất khẩu vừa nhập khẩu lao động.

- Tính xã hội thể hiện ở chỗ : dù các chủ thể tham gia xuất khẩu
lao động với mục tiêu kinh tế nhưng trong quá trình tiến hành xuất khẩu
lao động thì cũng đồng thời tạo ra các lợi ích cho xã hội như : giải quyết
công ăn việc làm cho một bộ phận người lao động góp phần ổn định và
cải thiện cuộc sống cho người dân, nâng cao phúc lợi xã hội, đảm bảo
an ninh chính trị…
1.2.4.2/ Xuất khẩu lao động là một hoạt động mang tính cạnh tranh
mạnh
Cạnh tranh là quy luật tất yếu của thị trường . Trong cạnh tranh ai
mạnh thì thắng, yếu thì thua. Và khi xuất khẩu lao động vận động theo
quy luật thị trường thì tất yếu nó phải chịu sự tác động của quy luật
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
16
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
cạnh tranh và mang tính cạnh tranh. Sự cạnh tranh ở đây diễn ra giữa
các nước xuất khẩu lao động với nhau và giữa các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động trong nước với nhau trong việc dành và thống lĩnh thị
trường xuất khẩu lao động. Cạnh tranh giúp cho chất lượng nguồn lao
động xuất khẩu ngày càng được nâng cao hơn và đem lại lợi ích nhiều
hơn cho các bên đồng thời cũng đào thải những cá thể không thể vận
động trong vòng xoáy ấy.
1.2.4.3/ Không có sự giới hạn theo không gian đối với hoạt động
xuất khẩu lao động
Thị trường xuất khẩu lao động với một số quốc gia xuất khẩu lao động
càng phong phú và đa dạng bao nhiêu thì càng tốt. Nó làm tăng các loại
ngoại tệ, giảm rủi ro trong xuất khẩu lao động và nó cũng thể hiện khả
năng cạnh tranh mạnh mẽ của quốc gia đó.
1.2.4.4/ Xuất khẩu lao động thực chất cũng là việc mua_bán một loại
hàng hóa đặc biệt vượt ra phạm vi biên giới quốc gia
Sở dĩ như vậy vì hàng hóa ở đây là sức lao động_loại hàng hóa

không thể tách rời người bán. Còn có tính chất đặc biệt của quan hệ
mua_bán.
1.2.5/ Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động
1.2.5.1/ Nhóm nhân tố khách quan
• Điều kiện kinh tế chính trị, tình hình dân số_nguồn lao động của
nước tiếp nhận lao động
Các nước tiếp nhận lao động thường là các nước có nền kinh tế
phát triển hoặc tương đối phát triển nhưng trong quá trình phát triển
kinh tế của minh họ lại thiếu hụt nghiêm trọng trong lực lượng lao động
cho một hoặc một vài lĩnh vực nao đó. Vì thế họ có nhu cầu tiếp nhận
thêm lao động ở nước khác. Ngoài ra, xuất khẩu lao động còn chịu
nhiều tác động ở sự phát triển kinh tế có ổn định hay không của nước
tiếp nhận. Nếu nền kinh tế có những biến động xấu bất ngờ xảy ra thì
hoạt động xuất khẩu lao động cũng gặp nhiều khó khăn.
Chính trị cũng ảnh hưởng tới xuất khẩu lao động. Nếu nước tiếp
nhận có tình hình chính trị không ổn định thì họ cũng có thể không có
nhu cầu tiếp nhận thêm lao động ở nước xuất khẩu.
• Điều kiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc giữa quốc gia xuất
khẩu lao động và quốc gia tiếp nhận
Nếu những điều kiện này tốt sẽ góp phần làm giảm chi phí trong
hoạt động xuất khẩu lao động cũng như thuận lợi trong quá trình đưa
lao động đi và nhận lao động về. Vì thế hoạt động xuất khẩu lao động
sẽ diễn ra thường xuyên và mạnh mẽ hơn.
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
17
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
1.2.5.2/ Nhóm nhân tố chủ quan
Bao gồm hệ thống các quan điểm, chính sách và chủ trương của nhà
nước về hoạt động xuất khẩu lao động. Nếu coi trọng xuất khẩu lao
động, xác định đúng vị trí của nó trong phát triển kinh tế_xã hội sẽ tạo

điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu lao động và ngược lại.
Đồng thời với quá trình này thì công tác tổ chức thực hiện, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của
hoạt động xuất khẩu lao động
1.2.6/ Rủi ro, hạn chế và lợi ích trong xuất khẩu lao động :
1.2.6.1/ Rủi ro trong xuất khẩu lao động :
Rủi ro trong xuất khẩu lao động là những biến cố bất ngờ không
may xảy ra gây thiệt hại cho các bên tham gia xuất khẩu lao động
Rủi ro trong xuất khẩu lao động phát sinh bởi các nguyên nhân sau
- Từ phía người sử dụng lao động (đối tác nước ngoài)
+ Khi người sử dụng lao động không may làm ăn thua lỗ, bị phá sản…
dẫn đến phải cắt giảm hay sa thải nhân công thì hợp đồng lao động sẽ bị
chấm dứt trước thời hạn. Trong trường hợp này người bị hại sẽ là người
lao động và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Người lao động bị
mất việc làm và phải trở về nước. Có người thì đã tích lũy đủ tiền để
góp phần ổn định cuộc sống khi về nhưng cũng có người thì lại rơi vào
hoàn cảnh nợ chồng chất. Mặc khác, có những trường hợp do người sử
dụng lao động không trả hoặc đánh mất hộ chiếu của người lao động
nên người lao động không thể về nước, khiến cho họ trở thành người
nhập cư bất hợp pháp và phải chịu bất cứ hình phạt nào theo quy định
của nước sở tại. Còn các doanh nghiệp xuất khẩu lao động , họ phải chụ
chi phí phát sinh để đưa người lao động trở về nước cũng như tiền đền
bù cho những người lao động này do hợp đồng bị phá vỡ mà không
phải do lỗi của người lao động. Theo thỏa thuận số tiền đó sẽ được bên
sử dụng lao động hoàn trả nhưng nếu họ không trả thì các doanh nghiệp
xuất khẩu lao động cũng khó mà đòi được. Nếu có khiếu kiện thì thủ
tục rất rườm rà và tốn kém  doanh nghiệp xuất khẩu lao động thường
thiệt
+ Khi người sử dụng lao động cố tình thực hiện không nghiêm túc hợp
động đã ký như cắt giảm tiền lương, cắt giảm các lợi ích của người lao

động như :bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…,đánh đập công nhân, bóc
lột công nhân một cách quá đáng dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa
người lao động và người sử dụng lao động. Hậu quả là người lao động
sẽ bỏ việc hoặc bị sa thải. Trong trường hợp này người lao động và
doanh nghiệp xuất khẩu lao động bị thiệt hại.
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
18
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
- Từ phía người lao động :
Các rủi ro từ phía người lao động chủ yếu là do người lao động ý thức
kém, nhận thức kém đã tự ý phá vỡ hợp đồng (bỏ việc làm) để ra làm
ngoài cho các công ty tư nhân với mức thu nhập cao hơn. Trong trường
hợp này người sử dụng lao động và doanh nghiệp xuất khẩu lao động sẽ
bị thiệt hại. Người sử dụng lao động sẽ bị thiệt hại nặng nề nếu số
người lao động bỏ việc ngày càng nhiều và nhất là trong cùng một lúc.
Khi đó có thể gây đình trệ trong sản xuất hoặc dư luận không tốt trong
xã hội của nước sở tại.
Với doanh nghiệp xuất khẩu lao động, điều đầu tiên họ phải gánh chịu
là sự mất uy tín với đối tác và thậm chí là nguy cơ mất thị trường lao
động và tiếp theo là sự thiệt hại về tài chính: chi phí đưa người lao động
về nước, chi phí tìm kiếm lao động…Nếu tình trạng này kéo dài doanh
nghiệp xuất khẩu lao động có thể bị phá sản hoặc bị thu hồi giấy phép
xuất khẩu lao động.
- Từ phía doanh nghiệp xuất khẩu lao động :
Rủi ro phát sinh chủ yếu là do doanh nghiệp xuất khẩu lao động là các
“doanh nghiệp ma” nghĩa là hoạt động không hề có sự cho phép của cơ
quan chức năng. Thực chất hành vi của các doanh nghiệp này là lợi
dụng sự cả tin của người lao động, sự thiếu thông tin về lĩnh vực xuất
khẩu lao động và đặc biệt là khát vọng muốn đổi đời của người lao
động để lừa đảo. Trong trường hợp này người bị hại trực tiếp là người

lao động. Họ bị thiệt hịa về tài chính nặng nề, thậm chí có người đã
phải trả giá cả bằng tính mạng, nhân phẩm. Chính phủ Việt Nam và
chính phủ nước sở tại có thể bị hại một cách gián tiếp trong việc giải
quyết hậu quả
Bên cạnh đó, cũng có những doanh nghiệp xuất khẩu lao động được
cấp giấy phép rồi nhưng hoạt động không hiệu quả đã nhận tiền của
người lao động nhưng không tìm kiếm được thị trường để đưa họ đi.
Trường hợp này người lao động cũng chịu thiệt hại nặng nề về tài chính
nhưng không bằng trường hợp trên.
1.2.6.2/ Lợi ích của việc xuất khẩu lao động :
- Xuất khẩu lao động mang lại lợi ích kinh tế đáng khích lệ (tăng
nguồn ngoại tệ trong nước) và góp phần quan trọng trong việc cải thiện
cuộc sống của người lao động. Xuât khẩu lao dộng thời gian qua đã tạo
việc làm cho một bộ phận người lao động, góp phần tích cực vào việc
giải quyết việc làm cho xã hội.
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
19
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
- Mặt khác, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài giúp nhà nước
giảm được khoản chi phí đầu tư đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc mới
cho người lao động.
- Ngoài ra thông qua lao động ở nước ngoài , người lao động đã
nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu được những
công nghệ và tác phong sản xuất công nghiệp tiên tiến, do đó từng bước
đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước khi họ trở về.
1.2.7/ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động:
Người ta dùng rất nhiều các tiêu thức khác nhau để đánh giá hiệu
quả của hoạt động xuất khẩu lao động. Nhưng tiêu biểu là hai chỉ tiêu
cơ bản:

1.2.7.1/ Hiệu quả về kinh tế
Là những lợi ích vật chất mà các chủ thề của nước xuất khẩu lao
động (nhà nước,doanh nghiệp xuất khẩu lao động, người lao động)
nhận được thông qua hoạt động xuất khẩu lao động.
Cụ thể như sau
+ Với người lao động : đó là thu nhập sau thuế và các hàng hóa có
giá trị có thể gửi về nước
+ Doanh nghiệp xuất khẩu lao động: là lợi nhuận từ hoạt động xuất
khẩu lao động
+ Nhà nước : là nguồn ngoại tệ thu về
1.2.7.2/ Hiệu quả về xã hội
Là tất cả những lợi ích phi vật chất có thể có được trực tiếp qua hoạt
động xuất khẩu lao động hoặc phát sinh từ hiệu quả kinh tế của hoạt
động xuất khẩu lao động nhằm đảm bảo cho xã hội ổn định, phồn vinh,
hạnh phúc
Biểu hiện:
+ Khả năng đảm bảo cuộc sống cho người lao động
+ Khả năng giải quyết công ăn việc làm
+ Mối quan hệ giao lưu hợp tác với nước bạn
Và một số các khía cạnh khác liên quan đến phúc lợi xã hội.
1.3/ Nhìn nhận về các thị trường xuất nhập khẩu lao động trên thế giới :
Sự di chuyển của lao động trí thức, xuất và nhập khẩu lao động giản đơn
(unskilled labor, less-skilled labor) hay lao động chân tay (blue-collar
workers) là hiện tượng tương đối mới. Vấn đề nầy cũng phức tạp, không
thể chỉ xét ở khía cạnh thuần kinh tế.
- Những nước cần nhập khẩu lao động có hai loại :
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
20
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
+ Một là những nước dân số ít mà giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở

đây thiếu lao động trong các ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại
tư gia; hai là những nước đã phát triển, kể cả những nước công nghiệp mới
như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia.
+ Hai là những nước có cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang những
ngành dùng nhiều tư bản, công nghệ và lao động trí thức, và chuyển sang
nước ngoài (đầu tư trực tiếp, FDI) những ngành có hàm lượng lao động
giản đơn cao. Tuy nhiên, tại những nước công nghiệp mới, những ngành
dùng nhiều lao động giản đơn có quy mô khá lớn nên không thể chuyển hết
ra nước ngoài. Thêm vào đó, trong những ngành đang phát triển mạnh tại
những nước nầy, nhiều công đoạn còn dùng lao động giản đơn nên nhu cầu
nhập khẩu lao động tăng. Tại những nước phát triển (Tây Âu, Bắc Mỹ,
Nhật), nhu cầu lao động tăng trong ngành xây dựng, ngành dịch vụ ẩm
thực, dịch vụ săn sóc người cao tuổi, một số nước cần lao động trong nông
nghiệp.
• Ở đây cần lưu ý một điểm là tại các nước đã phát triển không phải là
không còn tồn tại lao động giản đơn. Vẫn còn một bộ phận không
nhỏ số người mới ở trình độ giáo dục cưỡng bách. Tuy nhiên vì tiền
lương nói chung đã tăng cao theo mức sống của xã hội, các xí nghiệp
có khuynh hướng thuê mướn lao động nước ngoài để giảm chi phí.
Mặt khác, lao động bản xứ có khuynh hướng tránh những loại công
việc mà môi trường lao động không tốt, dễ gặp tai nạn, như ở các
công trình xây dựng. Tại Nhật 3 loại công việc, mà tiếng Nhật gọi là
3K, phải nhập khẩu lao động nước ngoài vì không thuê mướn được
lao động bản xứ : nguy hiểm (kiken), môi trường làm việc không sạch
sẽ (kitanai) và điều kiện lao động khắc nghiệt (kitsui) như nóng nảy,
ngột ngạt.
- Về phía các nước xuất khẩu lao động, nói chung đây là những nước kém
phát triển, hoặc phát triển với tốc độ chậm mà lại không ưu tiên đẩy
mạnh các ngành dùng nhiều lao động. Cho đến nay, những nước xuất
khẩu lao động vừa nhiều về số lượng vừa có tỉ lệ cao trong tổng dân số

của nước đó là Lebanon, El Salvador, Columbia, Pakistan và Phi-li-pin.
Riêng Phi-li-pin, hiện nay có khoảng 8 triệu người làm việc ở nước
ngoài, bằng khoảng 10 % dân số nước nầy. Hằng năm ngoại hối do lao
động xuất khẩu gửi về qua đường chính thức khoảng 10 tỉ USD, xấp xỉ
10 % GDP.
 Nhìn chung có thể thấy một số đặc điểm cơ bản liên quan đến lao động
xuất khẩu và liên quan đến những nước xuất khẩu nhiều lao động :
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
21
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
+ Thứ nhất, lao động giản đơn xuất khẩu sang các nước phát triển nhất là
các nước công nghiệp mới thông thường làm việc trong những môi trường
khó khăn, quyền lợi của người lao động dễ bị xâm phạm nếu việc xuất nhập
khẩu lao động không được tổ chức chu đáo, không có sự cam kết của xí
nghiệp dùng lao động và sự giám sát của các cơ quan của nước sở tại.
+ Thứ hai, vì là lao động giản đơn, trình độ học vấn, trình độ văn hoá của
người đi lao động nước ngoài thấp nên khó thích nghi với điều kiện văn
hoá, xã hội nước ngoài. Không ít người thất vọng với hoàn cảnh sống và
làm việc ở xứ người, và có nhiều trường hợp phạm pháp xảy ra, gây ra hình
ảnh xấu cho nước xuất khẩu lao động. Ngoài ra, cùng với điểm thứ nhất,
lao động có trình độ văn hoá thấp thường dễ bị bóc lột tại xứ người.
+ Thứ ba, nước xuất khẩu lao động hầu hết là những nước không thành
công trong các chiến lược phát triển kinh tế. Với trình độ văn hoá thấp,
người dân các nước nầy không khỏi không lo âu khi rời xứ sở ra nước
ngoài làm việc. Tại Á châu, ngay cả việc rời nông thôn để ra thành thị đối
với họ cũng không phải là sự chọn lựa dễ dàng. Thành ra, nếu trong nước
có công ăn việc làm, ít người muốn tham gia xuất khẩu lao động.
+ Thứ tư, cho đến nay, trong những nước xuất khẩu lao động chưa thấy
nước nào đưa vấn đề nầy vào trong chiến lược phát triển kinh tế chung,
trong đó lao động được đưa đi sẽ bảo đảm rèn luyện được tay nghề khi trở

về, ngoại hối thu được sẽ được dùng một cách hiệu quả trong việc du nhập
công nghệ, tư bản, v.v... và có kế hoạch chấm dứt xuất khẩu lao động trong
tương lai. Chỉ thấy có truờng hợp (như Malaysia đã làm 20 năm trước) tích
cực đưa thực tập sinh sang tu nghiệp ngắn hạn tại các nước tiên tiến để sau
đó về làm việc với năng suât cao hơn tại các nhà máy hoặc các cơ sở kinh
tế khác, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển chung. Nhưng
thực tập sinh khác về chất với vấn đề xuất khẩu lao động.
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
22
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ LAO ĐỘNG VIỆT NAM
VÀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG SANG TRUNG ĐÔNG THỜI
GIAN QUA
2.1/ Thực trạng lao động Việt Nam :
2.1.1/ Cơ cấu dân số Việt Nam :
- Từ cuộc Tổng điều tra dân số đầu tiên sau khi nước nhà thống nhất
(1975) đến nay, “bức tranh dân số” nước ta đã thay đổi nhanh chóng.
Quy mô dân số đã tăng từ 52,742 triệu năm 1979 lên 85,155 triệu năm
2007 và 88 triệu vào 2010; cơ cấu dân số cũng thay đổi mạnh, đặc biệt
là cơ cấu dân số theo nhóm tuổi; tỷ lệ những người trong độ tuổi lao
động tăng từ 51% lên 65%. Tương ứng, tỷ lệ những người ngoài độ
tuổi lao động giảm từ 49% xuống còn 35%.
- Dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh cả số tuyệt đối và số tương
đối
 Bảng 2.1 : Cơ cấu dân số Việt Nam theo nhóm tuổi phản ánh khả năng
tham gia lao động
( Nguồn : Tổng cục thống kê )
- Quy mô và cơ cấu dân số theo tuổi có ảnh hưởng trực tiếp đến việc
xác định số lượng người “trong độ tuổi lao động”. Ở Việt Nam, không
chỉ quy mô dân số tăng lên không ngừng mà cả “Tỷ lệ dân số từ 15

SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
23
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
đến 59 tuổi” cũng tăng nhanh. Do vậy, số người trong độ tuổi lao
động tăng lên với tốc độ thường cao hơn nhiều so với tốc độ tăng dân
số , số người phụ thuộc giảm đi nhưng vẫn còn cao và vấn đề việc làm
vẫn chưa được giải quyết đáng kể
 Số lao động trong độ tuổi này cần xuất khẩu lao động để kiếm công
ăn việc làm.
- Việt Nam tiến đến thời kì dân số vàng :
+ Trong giai đoạn (1979-2007), “Tỷ số phụ thuộc” của lao động Việt
Nam không ngừng giảm xuống
+ Sau 28 năm, “tỷ số phụ thuộc trẻ” đã giảm mạnh tới hơn một nửa,
từ 84,2 năm 1979 chỉ còn 39,2 năm 2007 và trở thành nhân tố quyết
định làm giảm tỷ số phụ thuộc nói chung. Trong khi đó, “tỷ số phụ
thuộc già” tăng lên đôi chút, từ 13,8 lên 14,5. Điều đó cho thấy tốc độ
già hóa dân số nhanh hơn tốc độ tăng “dân số trong độ tuổi lao động”.
“Phụ thuộc trẻ” giảm, “phụ thuộc già” tăng sẽ tạo ra những vận hội và
thách thức khác nhau cho cả gia đình và xã hội.
+ Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng - một cơ hội lần
đầu tiên chúng ta có trong lịch sử nhân khẩu học (“Cơ cấu dân số
vàng”, tức là số người trong độ tuổi lao động cao hơn số người phụ
thuộc).
 Theo Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, hiện nay, mỗi năm
nước ta có khoảng 1,4 – 1,6 triệu người bổ sung vào lực lượng lao
động. Sự dồi dào của lực lượng này thực sự đang tạo ra cơ hội vàng
cho sự phát triển kinh tế, với lực lượng lao động tăng như thế để tận
dụng thời kì vàng này nước ta cần đẩy mạnh xuất khẩu lao động để
tăng cường giải quyết việc việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động.

2.1.2/ Đặc điểm của lao động Việt Nam :
2.1.2.1/ Số lượng lao động tăng nhanh :
Có sự khác biệt chủ yếu giữa sự thách thức phát triển mà các nước
đang phát triển gặp phải so với các nước phát triển là sự gia tăng chưa
từng thấy của lực lượng lao động. Ở hầu hết các nước, trung bình mỗi
năm số người tìm việc tăng từ 2% trở lên. Sự gia tăng nguồn lao động
liên quan chặt chẽ với việc gia tăng dân số. Theo số liệu của tổng điều
tra dân số, năm 2009 dân số nước ta là 87,4 triệu người, trong đó
khoảng 55,93 triệu người là lực lượng lao động chiếm 64% dân số.
Dự báo ở nước ta mỗi năm bình quân tăng them hơn một triệu lao
động dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm.
2.1.2.2/ Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp :
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
24
GVHD : TRẦN VĂN NGHIỆP
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất về lao động ở các nước
đang phát triển là đa số lao động làm nông nghiệp. Ở Việt Nam lao
động nông nghiệp chiếm hơn 70% tổng số lao động. Loại hình công
việc này mang tính phổ biến ở những nước nghèo. Xu hướng chung là
lao động trong nông nghiệp giảm dần trong khi lao động trong công
nghiệp và dịch vụ lại tăng. Mức độ chuyển dịch này tùy theo mức độ
phát triển của nên kinh tế
2.1.2.3/ Chất lượng của lao động:
- Trình độ chuyên môn của người lao động thấp :
Ở Việt Nam hiện số người không biết chữ hiện nay vẫn còn chiếm tỷ
lệ đáng kể. Trong lực lượng lao động xã hội, số người lao động phổ
thông cơ sở chiếm 25%, phổ thông trung học chiếm 13%. Hàng năm
chỉ có 7% số thanh niên sau khi học hết phổ thông trung học được đào
tạo tiếp trong các trường học nghề, trung học và đại học chuyên
nghiệp. Chỉ có 9% trong tổng số lao động của xã hội là lao động kỹ

thuật, còn các chuyên viên kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và
công nhân kỹ thuật giỏi còn ít.
- Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay mới chỉ đạt
3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước châu Á
tham gia xếp hạng, theo đánh giá mới của Ngân Hàng thế giới
(WB). Một nghiên cứu khác cho thấy lao động Việt Nam chỉ đạt
32/100 điểm. Trong khi đó, những nền kinh tế có chất lượng lao
động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị
trường toàn cầu. Một khẳng định nữa cho thấy nguồn lao động của
nước ta có năng suất lao động quá thấp, đứng thứ 77/125 nước và
vùng lãnh thổ, sau cả Indonesia, Philippine và Thái Lan. Ngay tại
Thủ đô, có chưa tới 15% lực lượng lao động biết tiếng Anh và sử
dụng thành thạo máy vi tính. Theo bảng số liệu do PGS.TS Đặng
Quốc Bảo cung cấp thì tỉ lệ lao động không có chuyên môn ở Hà
Nội hiện là 41,4%, Hải Phòng 64%, Đà Nẵng 54,4%, TP.HCM
55% và Bà Rịa Vũng Tàu là 62,9%.Hiện nay, nhiều doanh nghiệp
không “dám” sử dụng lao động VN cho những vị trí cần kiến thức
và tay nghề cao nên sẽ có lúc chúng ta phải nhập khẩu lao động
chất lượng cao từ nước ngoài vào.
- Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để hoàn
thành công việc của lao động Việt Nam còn kém. Nhiều nhà quản
lý nước ngoài đã nhận xét rằng: "Lao động Việt Nam làm việc rất
tốt khi tự mình giải quyết công việc, nhưng nếu đặt họ trong một
nhóm thì hiệu quả kém đi nhiều". Chính điều này đã khiến cho
SVTH : NGUYỄN THỊ THU THẢO 34K01.2
25

×