Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

(Tiểu luận) chủ đề 7 phân tích các đặc điểm của văn hóa đô thị việt nam và mối quan hệ giữa các đặc điểm này trong đời sống văn hóa đô thị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 12 trang )

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA TP. HỒ CHÍ MINH
| KHOA VĂN HĨA HỌC |

Thuyết trình nhóm 7
Học phần: VĂN HĨA ĐƠ THỊ
Chủ đề 7: Phân tích các đặc điểm của văn hóa đơ thị Việt Nam và
mối quan hệ giữa các đặc điểm này trong đời sống văn hóa đơ thị
hiện nay
Mơn học: Văn hóa đơ thị
GVHD: PSG. TS Trần Hồi Anh
Lớp: 20DVH
Nhóm SV thực hiện: Vũ Quỳnh Trang
Trương Thị Thanh Thảo

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 08 năm 2022

h


1.Văn hóa đơ thị là gì?
Trước hết nhắc lại khái niệm văn hóa đơ thị là gì?
Văn hóa đơ thị là sản phẩm của con người đô thị, liên quan đến mọi hoạt động
của con người để sinh tồn và phát triển xã hội, từ xây dựng nhà cửa, cơ sở hạ
tầng xã hội, cơ sở văn hóa đến cách thức sản xuất, lối sống, tín ngưỡng tơn
ngưỡng, cách ứng xử giữa những giá trị văn hóa truyền thống với hiện đại, quan
hệ giữa cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, quan hệ mang tính nội bộ và quan
hệ với bên ngồi.
2. Đặc điểm văn hóa đơ thị
2.1. Tính đa văn hóa
“Đa” có nghĩa là nhiều. Khi nhiều nền văn hóa tiếp xúc và tiếp biến với nhau sẽ


xảy ra hiện tượng đa văn hóa. Chính là sự giao thoa về văn hóa giữa các nền văn
hóa khác nhau, có thể hịa nhập vào nhau tạo nên một nền văn hóa mới. Tính đa
dạng về sắc thái là bản chất của văn hóa. Đặc biệt, với văn hóa Việt Nam, một
nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng” thì tính đa dạng lại càng thể hiện rõ trên
nhiều phương diện và mức độ khác nhau, như đa dạng văn hóa tộc người, văn
hóa vùng (văn hóa địa phương), văn hóa tơn giáo, văn hóa nghề nghiệp (nơng
nghiệp, ngư nghiệp, thủ cơng, bn bán,...), văn hóa đơ thị và nơng thơn, thậm
chí cả văn hóa làng và văn hóa dịng họ,...
2.1.1 Văn hóa của nhiều dân tộc, nhiều chủng tộc
VN từ thời lập quốc với quốc hiệu Văn Lang – Âu Lạc (cách ngày nay khoảng
2500 năm) đã là quốc gia đa tộc người. Theo cơng bố chính thức của Nhà nước
vào năm 1972, nước Việt Nam có 54 tộc người, thuộc nhiều nhóm ngơn ngữ tộc người khác nhau: Việt - Mường, Môn - Khmer, Tày - Thái, Nam Đảo, Mông
- Dao, Tạng - Miến, Hán, với những sắc thái văn hóa rất phong phú, đa dạng. Sắc
2

h


thái văn hóa đa dạng ấy thể hiện trên ba cấp độ: nhóm ngơn ngữ - tộc người, tộc
người và của nhóm địa phương.
Từ góc độ tộc người và văn hóa, Việt Nam giống như một Đơng Nam Á thu nhỏ,
bởi vì trên lãnh thổ Việt Nam hiện tồn tại đầy đủ các đại diện của các nhóm ngơn
ngữ - tộc người (ngữ hệ và ngữ tộc) lớn của Đông Nam Á, như Nam Á (trong đó
có Mơn - Khmer, Việt - Mường, Thái, Mông - Dao), Nam Đảo (Austronesien) và
Hán - Tạng (Tạng - Miến, Hán).
Xét từ góc độ nguồn gốc và lịch sử, Việt Nam là nơi hội tụ giữa các tộc người
bản địa (Việt - Mường, Môn - Khmer) với các tộc từ phía bắc di cư xuống (Thái,
Mông - Dao, Tạng - Miến, Hán) và từ biển phía nam lên (Nam Đảo). Tình trạng
cư trú xen cài giữa các tộc người, một mặt, tạo môi trường thuận lợi cho sự giao
lưu văn hóa; mặt khác, làm tách biệt giữa các nhóm địa phương của tộc người,

góp phần làm suy giảm đáng kể tính thống nhất và cố kết văn hóa giữa các nhóm
địa phương của tộc người, khiến bức tranh văn hóa càng trở nên phức tạp hơn.
“Do lịch sử phân bố và di cư của các tộc người, ở Việt Nam đã hình thành nên
các vùng sinh thái - tộc người khác nhau, như: Cư dân - tộc người đồng bằng và
ven biển (Việt - Mường), cư dân - tộc người thung lũng (Tày - Thái), cư dân - tộc
người rẻo núi giữa và cao nguyên (Môn - Khmer, Nam Đảo), cư dân - tộc người
rẻo núi cao (Mơng - Dao, Tạng - Miến)”. Chính nhân tố sinh thái tộc người này
đã tạo nên những truyền thống văn hóa khác nhau, góp phần làm phong phú, đa
dạng hơn văn hóa các tộc người Việt Nam.
Vd: Vào cuối thế kỉ XX, trong dân số thường trú tại tp HCM đã đại diện của gần
50 tộc người trên tổng số 54 tộc người trên của nước, trong đó đơng nhất là
người Việt, kế đó là người Hoa, người Chăm, người Khmer… Tài liệu của Cục
Thống kê thành phố Hồ Chí Minh, có: 89,91% là người Việt; 9,8% là người Hoa;

3

h


0,09% là người Chăm; 0,07% là người Khmer; 0,13% là các tộc người khác (gồm
người Tày: 0,02%, người Mường: 0,01% v.v…).

2.1.2 Văn hóa nhiều vùng miền, nhiều địa phương
Văn hóa vùng (hay văn hóa địa phương) là một thực thể văn hóa, hình thành và
tồn tại trong một khơng gian lãnh thổ nhất định, thể hiện qua một tập hợp các
đặc trưng văn hóa về cách thức hoạt động sản xuất; về ăn, mặc, ở, đi lại; về cách
tổ chức xã hội cổ truyền và giao tiếp cộng đồng; về tín ngưỡng, phong tục và lễ
hội; về các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật; về vui chơi giải trí; về các sắc thái tâm
lý của cư dân,... từ đó có thể phân biệt với các đặc trưng văn hóa của vùng khác.
Những đặc trưng văn hóa đó hình thành và định hình trong quá trình lịch sử lâu

dài, do cư dân các dân tộc trong vùng thích ứng với cùng một điều kiện mơi
trường, có sự tương đồng về trình độ phát triển xã hội, đặc biệt là giữa họ có mối
quan hệ giao lưu văn hóa mật thiết.
“Trên cơ sở những quan niệm lý thuyết nêu trên có thể phân vùng văn hóa Việt
Nam thành 7 vùng văn hóa lớn, trong mỗi vùng lại có thể phân chia thành các
tiểu vùng văn hóa nhỏ hơn, khoảng 23 tiểu vùng, bao gồm: vùng văn hóa đồng
bằng Bắc Bộ, vùng văn hóa Việt Bắc, vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Thanh Nghệ, vùng văn hóa Bắc Trung Bộ, vùng văn hóa Nam Trung Bộ, vùng văn hóa
Trường Sơn - Tây Nguyên, vùng văn hóa Nam Bộ.”
Vd: Người ở mỗi vùng sẽ có những văn hóa riêng của từng vùng họ sinh sống,
có thể coi như đặc điểm con người của mỗi vùng (so sánh giữa người miền Bắc,
Nam, Tây, Trung)
2.1.3 Văn hóa của nhiều tín ngưỡng, tơn giáo
Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tơn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ cho
thấy, Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và tơn giáo (trong
hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng ơng bà tổ tiên và tín
4

h


ngưỡng thờ Mẫu. Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng,
trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo, một số di tích
được UNESCO cơng nhận là di sản thế giới. Hàng năm, Việt Nam có gần 13.000
lễ hội, gồm 5 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ
hội du nhập từ nước ngồi, lễ hội văn hóa - thể thao và ngành nghề.
Riêng trong lĩnh vực tơn giáo, Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm
27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được nhà nước công nhận hoặc cấp
chứng nhận đăng ký hoạt động. Cả nước hiện có hơn 57,4 ngàn chức sắc, trên
147 ngàn chức việc, hơn 29,6 ngàn cơ sở thờ tự. Số lượng tín đồ theo các tơn
giáo hiện nay: Phật giáo 15,1 triệu; Công giáo 7,1 triệu; Cao đài 1,1 triệu; Tin

lành 1 triệu; Hồi giáo 80.000; Phật giáo Hòa hảo 1,3 triệu, cịn lại là các tơn giáo
khác (Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Bà La môn, Bửu Sơn Kỳ
Hương, Minh sư đạo, Minh lý đạo…).
2.1.4 Văn hóa của nhiều kiến trúc nghệ thuật
Cùng với bề dày lịch sử và văn hóa lâu đời thì kiến trúc cũng có những sự ảnh
hưởng nhất định về văn hóa. Như kiến trúc truyền thống của Việt Nam có những
giá trị văn hóa riêng, cùng với sự giao thoa của 2 nền văn minh cổ đại lớn của
Châu Á và Ấn Độ và Trung Hoa, thường có những đặc điểm được thể hiện ở các
chùa chiền truyền thống, đa số đều đơn giản, khiêm tốn, không quá xa hoa và
cầu kì, thể hiện tính dân tộc đậm đà, đa phần các cơng trình kiến trúc, đặc biệt là
nhà ở đều có sự đều cao tính hịa hợp và gắn bó với thiên nhiên theo đúng đặc
trưng của nền văn minh lúa nước cùng với màu sắc đẹp mắt giàu tính dân gian
như các tơng màu nâu, đỏ gạch… ngồi ra cịn thể hiện ở các đình làng cùng với
những biểu tượng quen thuộc nói lên văn hóa làng ở Việt Nam như cây đa –
giếng nước – sân đình

5

h


(Vd về chùa Tản Viên – Ba Vì thể hiện kiểu kiến trúc chùa truyền thống Việt
Nam hay Việt Nam Quốc Tự - HCM)
Ngoài ra ở cùng duyên hải Nam Trung Bộ và miền Nam của Việt Nam là nơi có
đơng người Chăm sinh sống nhất, chính vì thế nơi đây có thể được dễ dàng thấy
với những kiến trúc tháp Chăm xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sấm lấy từ đất
địa phương, mở rộng phía trên và thon vút hình bơng hoa. Hiện nay những ngơi
tháp Chăm nổi tiếng ở Việt Nam có thể kể đến chính là thánh đại Mỹ Sơn, tháp
Poklong Garai, tháp Bà Panagar và tháp Nhạn


Bên cạnh đó theo dịng lịch sử, sự ảnh hưởng của các nền văn hóa nước ngồi,
trong q trình thuộc địa tại Việt Nam thì người Pháp đã mang nền kiến thúc của
họ vào theo nhưng để thích ứng với thời tiết nhiệt đới oi bức của Việt nam nên
phần nào các cơng trình kiến trúc đều có sự pha trộn và được biến đổi, giản lược
các chi tiết (Sự giao thoa văn hóa về kiến trúc)
Ví dụ như những cơng trình kiến trúc nổi tiếng có trên khắp Sài Gòn như nhà thờ
Đức Bà, nhà hát Lớn Sài Gòn, bưu điện trung tâm Sài Gòn hay Trụ sở UBND TP
Hồ Chí Minh, với những nét kiến trúc đặc trưng của Pháp được xây dựng tỉ mỉ
và đến bây giờ vẫn cịn ngun vẹn, mơ phong những nét kiến trúc cơ bản, độc
đáo nhất của nền kiến trúc Pháp
2.1.5. Văn hóa của nhiều tầng lớp, nhiều nghệ nghiệp, nhiều trình độ, nhiều địa
vị chính trị xã hội…
Văn hóa đơ thị là một thực thể văn hóa phức hợp với tính biến đổi cao, nên việc
sống và làm việc, hoạt động trong môi trường đô thị với những đặc trưng văn
hóa đa quan hệ, đa phương tri thức, đa ngành đa phong cách văn hóa địa phương
và chịu sự ảnh hưởng của nhiều dịng văn hóa khác nhau cũng góp phần làm
6

h


phong phú hơn về văn hóa đơ thị. Địa vị chính trị xã hội khác nhau cũng tạo nên
những khác biệt văn hóa, nếu như có một địa vị lớn trong chính trị thì cách cư xử
cũng như văn hóa trong môi trường làm việc cũng khác so với những văn hóa
ứng xử trong cơng sở.
 Chính ứng xử văn hóa khác nhau tạo nên tính đa văn hóa ở đô thị => đô
thị với nhiều thành phần dân cư (sự di dân từ nông thôn lên thành thị), sự
phân tầng xã hội – cơ cấu giai cấp đa tầng, sự phân hóa rõ ràng tạo nên sự
đa văn hóa đơ thị
 Tính đa văn hóa cũng là một tính chất quan trọng để phân biệt văn hóa đơ

thị và văn hóa nơng thơn
- Tính đa văn hóa ở thành thị được thể hiện đẩy đủ và rõ ràng nhất ở
những khu đô thị, thành phố tập trung dân cư đông, thành phần dân cư
đa dạng, tập trung nhiều ngành nghề khác nhau. Sự đa dạng những tính
chất nêu trên tạo nên một sắc màu văn hóa riêng biệt, dễ dàng phân biệt
với những vùng nơng thơn.
- Văn hóa nơng thơn với tính tự trị, khơng gian khép kín cùng tính cộng
đồng cao, nên sự du nhập của những tính chất văn hóa mới có phần
khó hơn so với đo thị. Chính vì thế văn hóa nơng thơn khó có được tính
đa văn hóa so với đơ thị

2.2 Tính mở
- Mơi trường văn hóa đơ thị là khơng gian mở, khơng khép kín như nơng thơn
nên các yếu tốc văn hóa truyền thống khó thiết lập và nếu được thiết lập cũng sẽ
biến đổi, khơng cịn giữ được tính ngun thủy của nó
Các đơ thị ln được xây dựng với khơng gian mở, chính những q trình đơ thị
hóa, cơng nghiệp hóa hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ và tác động đến mọi mặt đợi
7

h


sống xã hội nhất là ở các đô thị các thành phố, càng tăng thêm tính đa dạng và
phức tạp. Các không gian công cộng được xây dựng và mở rộng nhiều hình
thành nên khơng gian văn hóa mở
- Cư dân đô thị xuất thân từ nhiều thành phần, nhiều địa phương khác nhau, luôn
biến động theo hướng mở nên văn hóa đơ thị cũng phát triển theo hướng mở
Cư dân đô thị vốn là cư dân tứ phương, đến từ nhiều nơi khác nhau, nên họ có sự
khác biệt lớn về tơn giáo, trình độ văn hóa, dân tộc, phong tục tập quán. Họ
mang những đặc trưng văn hóa vùng miền của họ gia nhập vào vùng họ sinh

sống và hịa chung với cộng đồng ở đây. Chính sự phân hóa rõ rệt và mức độ
khơng đồng đều tạo nên sự biến động theo chiều hướng mở, chính vì vậy nền
văn hóa đơ thị cũng phát triển theo hướng mở
- Đơ thị là nơi có mở rộng giao lưu văn hóa với các vùng miền, các dân tộc nên
văn hóa đơ thị ln mở để tiếp biến các nền văn hóa khác nhau
Vì đơ thị là nơi tập trung dân cư ở khắp nơi, cùng với q trình đơ thị hóa hiện
đại hóa, mở rộng giao lưu văn hóa với xuất phát điểm từ nhiều nguồn gốc khác
nhau, mang những đặc trưng văn hóa vùng miền khác nhau, cùng những phương
thức kinh ế và vị thế xã hội khác nhau… Người dân từ khắp phương cư tụ lại
trong một thời gian cùng nhau, cùng một không gian đô thị tạo nên sự đa dạng
về lối sống và văn hóa
- Các phương tiện truyền thơng, điển hình là internet làm cho văn hóa đơ thị biến
đổi nhanh. Đây là ngun nhân tạo nên tính mở của văn hóa đơ thị.
Những thành tựu của khoa học kỹ thuật về lĩnh vực truyền thông – công nghệ
thông tin và đặc biệt là internet đã làm cho văn hóa đơ thị biến đổi nhanh. Cùng
với sự phát triển tồn cầu hóa, thế giới chung ta đang sống chính là thời đại bùng
nổi thơng tin 4.0, dễ dàng tiếp cận những nền văn hóa từ trong nước đến quốc tế.
8

h


Chỉ cần ngồi tại chỗ cùng với điện thoại được kết nối internet, có thể dễ dàng tra
cứu tìm hiểu các thông tin từ khắp nơi trên thế giới, hiểu biết và du nhập những
nền văn hóa từ các đơ thị lớn, những siêu đơ thị tồn cầu.
2.3. Tính biển đổi liên tục
Văn hóa đơ thị có đặc điểm: đa văn hóa và mở, nên cũng là nền văn hóa biến đổi
liên tục.
Nền văn hóa biến đổi liên tục được hợp thành từ đặc điểm đa văn hóa và mở. Vì
sự đa dạng về văn hóa cần có tính mở. Nói cách khác, khi một quốc gia mở cửa

ngoại giao với các nước bạn từ quốc tế đồng nghĩa với việc họ đã chấp nhận tiếp
thu những tinh hoa văn hóa của các quốc gia khác. Chính việc tiếp thu đó đã từ
từ tạo nên những sự đa dạng về văn hóa trong chính quốc gia của họ.
Việt Nam chúng ta là một ví dụ điển hình. Đất nước hình chữ S này là một quốc
gia rất đặc biệt. Đi từ lịch sử đến hiện đại, chúng ta tồn tại vơ vàng những nét
văn hóa đặc sắc. Chúng ta đã chịu gần 1000 năm đô hộ từ phương Bắc và gần
100 năm đô hộ từ phương Tây. Khoảng thời gian đó chúng ta đã có những sự
thay đổi. Sự phát triển đồng đều trên mọi phương diện từ ăn mặc, chữ viết, kiến
trúc cho tới cả vấn đề xã hội, đơ thị.
=> Tính biển đổi là kết quả tất yếu của tính đa văn hóa và tính mở của văn hóa
đơ thị.
- Xét trong mối quan hệ hữu cơ, các đặc điểm này vừa là nguyên nhân lại vừa là
kết quả của nhau. Đây là quá trình cộng sinh mang tính biện chứng
- Các đặc điểm này vừa làm nên diện mạo của văn hóa đơ thị. Đó là diện mạo
luôn biến đổi như một yếu tố tất yếu tác động đến việc hình thành văn hóa đơ thị.

9

h


3. Mối quan hệ giữa các đặc điểm
Dựa vào các đặc điểm đã được phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy rõ mối
quan hệ của các điểm chính là mối quan hệ bền chặt, không thể tách rời. Miền
Nam, hay TPHCM là một trong những ví dụ điển hình trong mối quan hệ giữa
các đặc điểm.
Miền Nam, vào khoảng thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII đã được Nguyễn Hữu Cảnh
vào kinh lược xứ Đồng Nai và lập ra hai huyện Phước Long và Long Bình. Lúc
bấy giờ vùng đất này chỉ có 4 vạn hộ dân sinh sống tồn vùng. Có thể nói đây là
khoảng thời gian đầu để bắt đầu gầy dựng phát triển vùng đất nơi đây. Cùng với

tiến trình lịch sử khai khẩn, lưu dân Việt cùng với người Hoa, Khơ-me, Chăm đã
tạo nên sắc thái văn hóa độc đáo riêng. Cũng từ đó, đô thị tại miền Nam cũng
ngày càng phát triển mạnh mẽ và sôi nổi.
Theo công cuộc đổi mới từ năm 1986 của chị thỉ nhà nước đến nay, Thành phố
Hồ Chí Minh đã trở thành đầu tàu kinh tế cả nước . Ở Miền Nam, đơ thị hình
thành một cách tự phát khác với Bắc và Trung bộ. Vào thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18
đã có sự xuất hiện của một số đơ thị lớn như Biên Hịa, Sài Gịn, Mỹ Tho, Long
Hồ, Hà Tiên. Trong số đó Biên Hòa là một trong những trung tâm giao thương
mua bán của miền Nam. Trịnh Hồi Đức đã có những nhận xét vào khoảng đầu
thế kỷ 19 trong tác phẩm Gia Định thành thơng chí. Tất cả những nhận xét của
Trịnh Hồi Đức về đơ thị nơi đây cho ta thấy được quá trình hình thành tương
đối giống với phương tây sau này trong thời kỳ xâm lược Việt Nam của các đế
quốc họ vẫn tiếp tục phát triển mở mang một cách khoa học song song đó là sự
hình thành nhiều tầng lớp cư dân đã tạo nên một diện mạo hồn chỉnh cho các đơ
thị

10

h


Như ta được biết Nam Bộ được thiên nhiên ban tặng một hệ thống sơng ngịi dày
đặc, biển bao quanh đó là một trong những điều kiện thuận lợi để giao thương
với toàn khu vực và các quốc gia bên ngồi nhất là khu vực Đơng Nam á. Chúng
ta có đặc điểm mở về giao thông đã tạo nên sự mở mang và thông thương giữa
vùng này đến vùng kia trong khu vực và giữa các quốc gia khác nhau ngồi ra
tính chất mở của Nam Bộ cịn thể hiện ở thái độ của cư dân đô thị người dân nơi
đây có tính cởi mở và thơng thống hơn.
Từ khi xuất hiện, đô thị đã tập trung nhiều tầng lớp dân cư đa dạng như tầng lớp
trí thức, tầng lớp thương, nhân tầng lớp công nhân, nông dân.

Hiện nay ở các đơ thị của Việt Nam nói chung và các đơ thị Nam Bộ nói riêng.
Các phương tiện truyền thơng viễn thơng mà đặc biệt là internet truyền hình kỹ
thuật số, truyền hình cáp đóng vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần của
người dân. Hạ tầng cho loại dịch vụ này không ngừng mở rộng, các nhà cung
cấp cũng theo đó tăng lên về số lượng để đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng
tăng của người dân.
Internet và truyền hình số, truyền hình cáp đã mở ra cánh cửa rộng lớn trong tiếp
xúc giữa Việt Nam với thế giới. Nó đưa con người, đưa những nền văn hóa trên
tồn cầu vượt qua những giới hạn về khơng gian để xích lại gần nhau. Những giá
trị văn hóa do nhân loại sáng tạo được cập nhật thường xuyên thơng qua internet
và truyền hình. Đơ thị với cơ sở hạ tầng hồn thiện đã khơng gặp bất cứ trở ngại
nào trong việc lãnh hội những giá trị văn hóa ấy. Vả lại đô thị và nhất là đô thị
Nam bộ với bản chất cởi mở trong việc tiếp nhận các giá trị văn hóa từ bên ngồi
đã từng ngày giao lưu và tiếp biến về văn hóa chuyển hóa những yếu tố văn hóa
ngoại sinh thành nội sinh. Sự chuyển biến ấy khởi nguồn từ một nhóm một tầng
lớp dân cư rồi dần được cộng đồng tiếp nhận lực lượng đi đầu trong việc tiếp

11

h


nhận và truyền bá những giá trị văn hóa ấy chính là tầng lớp tri thức những
người có đầy đủ điều kiện trình độ để tiếp xúc và lưu truyền nó.
Những năm trước đây khái niệm về ngày lễ hội có nguồn gốc từ phương Tây như
ngày tình nhân, ngày của cha, ngày của mẹ, hay lễ hội Halloween vẫn cịn xa lạ
với cư dân đơ thị, thì những năm trở lại đây cùng với sự tiếp xúc về thông tin và
hình ảnh lễ hội được tiếp nhận thơng qua internet và truyền hình giới trẻ đơ thị
đã tiếp nhận nó. Ban đầu chỉ một nhóm rồi lan sang một tầng lớp và hiện nay nó
đã trở thành nét sinh hoạt của cả cộng đồng đô thị. Sự tiếp nhận ấy diễn ra tự

nguyện và vui vẻ bởi ý nghĩa của những lễ hội đó phần nào đã gặp gỡ với văn
hóa truyền thống của dân tộc như đề cao tình u tơn kính mẹ cha. Ở đây văn
hóa truyền thống đã không hề mất đi mà được truyền tải dưới một hình thức mới.
Các đơ thị Nam Bộ đang thật sự chuyển mình và phát triển mạnh mẽ trong giai
đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của nước ta.
Hiện nay cùng với đà tăng trưởng mạnh về kinh tế, các đô thị Nam Bộ đang dần
trở thành những trung tâm văn hóa của khu vực văn hóa đơ thị theo hướng hiện
đại đang dần được hình thành tại nơi đây. Bên cạnh đó với truyền thống cởi mở
và hịa hợp của vùng đất Nam Bộ quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa với bên
ngồi đang diễn ra mạnh mẽ tạo nền cho văn hóa đơ thị Nam Bộ một diện mạo
đa văn hóa đa lối sống. Bên cạnh những tín hiệu tích cực của văn hóa đơ thị nơi
đây vẫn cịn tồn tại những mảng tối về văn hóa, đặc biệt ở các thị dân trẻ đòi hỏi
những cơ quan có thẩm quyền và cộng đồng thị dân cần phải có những hành
động mạnh mẽ để xây dựng một mơi trường văn hóa lành mạnh tạo động lực
thúc đẩy các đô thị Nam Bộ phát triển nhanh và bền vững.

12

h



×