Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Vai trò và địa vị của cá nhân trong nhóm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.35 KB, 12 trang )

I. Địa vị của cá nhân trong nhóm.
1. Định nghĩa địa vị.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về địa vị:
- Địa vị là vị trí xã hội của một người hay một nhóm người trong kết cấu xã hội,
được sắp xếp, thẩm định hay đánh giá của xã hội nơi người đó sinh sống. ( Pgs.
Ts Nguyễn Đình Tấn )
- Theo G. Lenski: Địa vị xã hội của một người là cái mà xã hội công nhận nơi
người này một cách tương đối tổng quát xét trong thang bậc xã hội.
Tóm lại: Địa vị của con người được định nghĩa như giá trị của vị trí vai mà
người đó thực hiện trong hoạt động nhóm. ( Ts Vũ Dũng )
2. Đặc điểm của địa vị.
Những đặc điểm quan trọng của địa vị là thể diện và uy tín của cá nhân, những
đặc điểm này biểu hiện như thước đo, đặc biệt về sự thừa nhận của những người
xung quanh đối với công lao của người đó. Mặt khác, địa vị của cá nhân trong
nhóm gắn liền với trách nhiệm của cá nhân đối với nhóm và những quyền lợi mà
người đó được hưởng.
- Địa vị cá nhân không bao giờ đứng độc lập mà nó nằm trong mối quan hệ với
các địa vị khác trong xã hội. Một địa vị xã hội sẽ không mang đầy đủ ý nghĩa của
nó nếu không đặt trong mối quan hệ với các địa vị khác. Ví dụ: Địa vị của người
vợ, người mẹ chỉ có ý nghĩa đầy đủ trong quan hệ với địa vị người chồng, người
con. Địa vị của bcs sĩ có ý nghĩa đầy đủ trong quan hệ với bệnh nhân. Địa vị
người giáo viên chỉ đầy đủ ý nghĩa trong quan hệ với học sinh…
- Mỗi địa vị bao gồm một số quyền lợi và nghĩa vị mà mỗi cá nhân nếu nắm giữ
địa vị đó phải thực hiện. Đồng thời, địa vị xã hội còn mang đặc điểm của sự phân
cấp, trong đó một số địa vị có uy tín và quyền hành nhiều hơn địa vị khác.
- Những gì xảy ra trong một bối cảnh xã hội bất kỳ được định hướng bằng mối
quan hệ giữa những địa vị mà con người đó nắm giữ. Ví dụ: Trong gia đình
tương tác xã hội dựa trên các địa vị chủ yếu là vợ - chồng, cha – con. Trong lớp
học tương tác xã hội dụa trên hai địa vị chính là thầy – trò…
- Con người liên kết với người khác trong nhiều tình huống xã hội khác nhau vì
vậy mỗi người có thể nắm giữ nhiều địa vị cùng lúc. Ví dụ: Cô gái có thể nắm


giữ những địa vị kà con gái trong mối quan hệ với cha mẹ, là bạn trong quan hệ
với bạn bè, là đồng nghiệp với các nhân viên khác cùng công ty, là thư kí trong
quan hệ với giám đốc…
- Tập hợp điạ vị rất phức tạp và có thể thay đổi.Việc cá nhân gia nhập vào một tổ
chức hay nhóm xã hội sẽ mở rộng tập hợp địa vị ngược lại nếu rút lui khỏi một số
hoạt động sẽ làm giảm địa vị của cá nhân ấy. Cá nhân có được và đánh mất nhiều
địa vị trong thời gian sống của mình.
- Một địa vị có khả năng thực sự tạo nên sự phù hợp với trang phục, hình thức và
cách ứng xử của cá nhân ấy trong xã hội. Ví dụ: Một giám đốc sẽ có cách ăn mặc
sanh trọng, đắt tiền hơn so với công nhân nặc những bộ đồ rẻ tiền.
- Địa vị qui định phạm vi mà các thành viên khác của nhóm phản ứng lại đối với
cá nhân và cá nhân có địa vị đó tác động trở lại các thành viên của nhóm. Những
cá nhân có địa vị cao thì được hưởng các đặc quyền mà những cá nhân có địa vị
thấp không có được. Ví dụ: Giam đốc của một công ty sẽ được hưởng những đặc
quyền như: có phòng làm việc riêng, có trang thiết bị trong phòng làm việc, có xe
ô tô con đưa đón, có thư ký văn phòng riêng… Những quyền lợi này các nhân
viên khác trong công ty không có được. Người ta thường có thói quen liên tưởng
địa với những đặc quyền của cá nhân giữ cương vị đứng đầu tổ chức. Sự liên
tưởng này vô hình dung đã tạo ra người có địa vị cao được hưởng những đặc
quyền (mà đáng lẽ ra họ không được hưởng). Mặt khác, điều này cũng tạo ra sự
ngộ nhận của người có địa vị cao về các đặc quyền của mình.
- Địa vị tác động đến kiểu cách và số lượng giao tiếp trong nhóm. Điểm xuất
phát của giao tiếp trong nhóm thường được bắt đầu từ những địa vị thấp trong
nhóm.Các thành viên có địa vị thấp thường cố gắng giao tiếp với những người có
địa vị cao trong nhóm, trong khi đó các cá nhân có địa vị cao hướng đến việc
giao tiếp với các thành viên của nhóm. Cá nhân có địa cao thường muốn biết
nhiều thông tin về những gì đang xảy ra trong nhóm hơn là những cá nhân có địa
vị thấp. Theo J.W. Thibaut, những thông tin mà cá nhân có địa cao nhận được
thường bị thiên lệch. Những cá nhân có địa vị thấp không muốn phê bình những
cá nhân có địa vị cao bởi vì họ sợ những ứng xử của cá nhân có địa vị cao trở lại

với họ. Do vậy, nội dung của các thông tin đến với những cá nhân có địa vị coa
thường có xu hướng tích cực nhiều hơn là những thông tin có nội dung tiêu cực.
Cá nhân có địa vị cao có thể nhận được nhiều thông tin, nhưng vấn đề chứa đựng
trong các thông tin đó (những vấn đề mà cá nhân có địa vị cao muốn nghe) lại
không đúng sự thật.
3. Phân loại địa vị.
Theo Sevey, Brigham và Schlenker thì địa vị được chia làm 2 loại: địa vị do
cá nhân đạt được và địa vị được gán cho.
a. Địa vị do cá nhân đạt được.
Địa vị do cá nhân đạt được là địa vị cá nhân có được thông qua lao động vất
vả và bằng khả năng của mình. Ví dụ: Giao sư, tiến sĩ, kỹ sư, giám đốc, sinh
viên… là những địa vị đạt được.
Thế nhưng, một vấn đề trong sự phân biệt này là nhiều địa vị thực ra là kết
quả của cả hai sự gán cho và đạt được. Ví dụ một người sinh ra trong một gia
đình có địa vị xã hội cao thường có nhiều thuận lợi rất có khả năng dẫn đến kết
quả trong những địa vị đạt được chẳng hạn như là người có nghề hưởng lương
cao và là thành viên của một câu lạc bộ xã hội đặc quyền – mỗi một địa vị đối với
một người sinh ra không có đặc quyền như thế còn khó khăn hơn rất nhiều mới
đạt được.
b. Địa vị gán cho.
Định nghĩa: Địa vị gán cho là địa vị cá nhân nhận được không phải do sai lầm
khuyết điểm hoặc không phải do sự cố gắng và nỗ lực của bản thân.
Ví dụ: Một người gia đình sinh ra trong một gia đình nghèo thì tất yếu cá nhân
đó là một người có địa vị được người ta gán cho ở mức độ thấp, trong khi đó một
người sinh ra trong gia đình triệu phú thì cá nhân đó được gán cho một địa vị cao,
sang trọng. Những đặc điểm khác như tôn giáo, chủng tộc, dòng họ xuất thân và
địa vị kinh tế xã hội cũng là cơ sở chung cho sự qui định các địa vị đối với cá
nhân.
Một địa vị gán cho bất kỳ là một vị trí xã hội mà cá nhân ít có hay không
có sự lựa chọn. Ví dụ: Một cậu bé sinh ra trong hoàng tộc sẽ có ngay một tước

hiệu gán cho (hoàng tử, công tước, hầu tước…)mà cậu nhóc tì đó không phải mất
một chút nỗ lực phấn đấu nào và đương nhiên cậu bé đó sẽ ở một vị thế cao hơn
người khác.
c. Một số địa vị khác.
- Địa vị chính là địa vị có vai trò quyết định, chi phối các vị thế khác. Có thể
nói địa vị chính là một địa vị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc định dạng
toàn bộ đời sống của một người. Vì thế, địa vị chính thường là một yếu tố qui
định trong sự ý niệm và nhận dạng xã hội của một người. Sự tạo lập một vị thế
chính yếu của mỗi người một mặt phụ thuộc vào sự phấn đấu, hoạt động tích cực
của họ, mặt khác tùy thuộc vào thang giá trị mà xã hội tôn trọng. Ví dụ: Người
lãnh đạo cơ quan, xí nghiệp thời bao cấp chỉ biết phục tùng vô điều kiện cấp trên
và tập thể coi đó là nguyên tắc tối hậu, thậm chí sống “tròn vo” không biết đến
lợi ích riêng, xem đó như tội lỗi. Xã hội thời ấy đề cao mẫu người như vậy, do đó
lớp người này rất được tôn sùng, có vị thế xã hội cao.
4. Xung đột địa vị.
Xung đột một cách chung nhất có thể hiểu là sự tranh chấp, mâu thuẫn giữa
hai hoặc nhiều yếu tố trở nên. Xung đột địa vị là sự mâu thuẫn đối nghịch nhau
giữa những điều mong đợi về các địa vị xã hội. Trong cùng một khoảng thời gian
một cá nhân có thể có cùng một lúc nhiều địa vị xã hội rất khác nhau. Những lợi
ích của địa này có thể không phù hợp nhau, địa vị này đối nghịch với địa khác do
những điều mong đợi về các địa vị xung đột nhau.
II. Vai trò của cá nhân trong nhóm.
Vai trò của cá nhân như một vai diễn là một hay nhiều chức năng mà cá nhân
ấy phải đảm nhiệm trong nhiều nhóm khác nhau.Khái niệm vai trò bắt nguồn từ
khái niệm vai diễn trên sân khấu.Vai diễn trên sân khấu đòi hỏi diễn viên phải
nhập tâm, bắt chước và học tập đóng vai của những nhân vật được đạo diễn phân
đóng.Những vai trò của cá nhân trong nhóm không có tính chất tưởng tượng, bắt
chước cứng nhắt và nhất thời mà đó là những hành vi thực tế của một người nhờ
học hỏi được của những cá nhân trong nhóm nghĩa là người đó phải đảm nhận
hay thực hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn mực trên cơ sở vị thế

cá nhân của người đó. Đồng thời cá nhân đó cũng được những quyền lợi xã hội
tương ứng với việc thực hiện vai trò của mình.Mỗi cá nhân có vô vàn vai trò, có
bao nhiêu mối quan hệ xã hội thì có bấy nhiêu vai trò. Địa vị và vai trò của cá
nhân trong xã hội bắt nguồn từ vị trí kinh tế, chính trị, xã hội của họ, từ địa vị của
các cá nhân thuộc các giai cấp và các nhóm xã hội khác mà quy định nên. Mỗi cá
nhân có nhiều vị thế và vai trò khác nhau ở gia đình và ngoài xã hội…và tuỳ theo
vai trò của mình mà cá nhân sẽ có cách ứng xử, hành vi, tác phong, hành động
tương ứng với vai trò mà cá nhân đảm trách. Địa vị và vai trò luôn gắn bó mật
thiết với nhau, không thể nói tới địa vị mà không nói đến vai trò và ngược lại.
Vai trò và địa vị là hai mặt của một vấn đề. Địa vị của cá nhân được xác định
bằng việc trả lời cho câu hỏi: người đó là ai? Còn vai trò của cá nhân được xác
định bằng việc trả lời câu hỏi: người đó phải làm gì? Trong mối quan hệ giữa vị
thế và vai trò thì vị thế thường ổn định hơn, ít biến đổi hơn, còn vai trò thì biến
động hơn. Thông thường thì sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của
vị thế.
1. Khái niệm vai.
Theo nhà tâm lý học Mỹ J.P.chaplin: “Vai là chức năng hoặc nhiệm vụ của cá
nhân trong nhóm; là chức năng hoặc hành vi mà qua đó thể hiện sự mong muốn
hoặc tính cách của cá nhân; là chức năng tạo nên một số biến đổi trong quan hệ
nguyên nhân - kết quả.
Theo các nhà tâm lý học Xô Viết: “Vai là chức năng xã hội của cá nhân, nó
phản ánh phương thức hoạt động của cá nhân tương ứng với những tiêu chuẩn
được quy định bởi vị trí hay chỗ đứng của cá nhân ấy trong xã hội nói chung và
trong các nghệ lien nhân cách nói riêng.
2. Sự thể hiện vai trong nhóm.
Trong cấu trúc của nhóm phân ra các vai khác nhau.Mỗi chúng ta ở trong
nhiều nhóm khác nhau ví thế đóng nhiều vai khác nhau.Chẳng hạn trong một
công ty, có cá nhân giữ vai giám đốc, phó giám đốc, trưởng phòng, phó phòng,
nhân viên…
Có một số thành viên của nhóm ở vị trí cao hơn những thành viên khác và tuỳ

theo vai của mình mà họ có thể ảnh hưởng ít hay nhiều đến các thành viên khác
trong nhóm.Ví dụ: người dữ vai giám đốc, phó giám đốc sẽ có phạm vi ảnh
hưởng đến các thành viên của nhóm rộng hơn những người giữ vai trưởng phòng
hoặc phó phòng…Vì thế sự phân vai trong nhóm và thể hiện các vai đó giống
như một hình chóp, càng ở gần đỉnh cáng có vị thế cao hơn (giữ vai trò quan
trọng hơn) và đáy hình hình chóp là các thành viên của nhóm (người có vai ở vị
trí thấp nhất).
Trong nhóm, một số thành viên có thể có nhiều vai khác nhau.Một số cá nhân
có thể vừa là hiệu trưởng trường THCS vừa là trưởng thôn, một người công nhân
có thể vừa là đảng viên, vừa là nhân viên làm việc trong một công ty.
Sự nhập vai trong nhóm mang màu sắc cá nhân rõ rệt.Nó phụ thuộc vào hiểu
biết và khả năng của cá nhân, vào tầm quan trọng của vai, vào nguyện vọng thoả
mãn và sự chờ đợi của mọi người xung quanh.
3. Đặc điểm của vai trò.
- Đối với con người, đóng vai trò xã hội và thay đổi vai trò là công việc hằng
ngày, diễn ra liên tục, kế tiếp nhau và không trùng lặp về thời gian. Mỗi cá nhân
có vô vàn vai trò, có bao nhiêu mối quan hệ xã hội là bấy nhiêu vai trò xã hội. Ở
mỗi hoàn cảnh không gian và thời gian khác nhau con người sẽ có những vai trò
xã hội khác nhau. VD: Khi ở nhà cô bé đóng vai trò của một người con nhưng lên
lớp vai trò của cô bé lại là học sinh.
- Vai trò xã hội phát sinh theo nhu cầu cá nhân. Theo George Herbert Mead,
người đứng đầu học thuyết Tương tác tượng trưng trong xã hội học cho rằng sự
tăng thêm các vai trò xã hội trong một cá thể là bởi con người “ một mặt thừa
nhận tính mong manh và hạn chế của bản thân khiến họ phải tìm kiếm những
quan hệ với với người khác đểcó thể sống còn. Mặt khác là xu hướng đi tìm và
lựa chọn những kiểu hành động có lợi cho sự hợp tác, giao dịch xã hội”. Do vậy
tính đa phức của vai trò xã hội phát sinh theo hai nhu cầu:
+ Nhu cầu bổ sung những mặt hạn chế của bản thân
+ Nhu cầu giao dịch vì lợi ích
- Vai trò xã hội được thể hiện ở nhiều mặt:

+ Vai trò thật là vai trò diễn ra trong đời sống hằng ngày, ngược lại là các vai trò
giả tưởng xuất hiện trong các mối quan hệ ngoại giao …
+ Vai trò định chế là vai trò của một cá nhân do một tổ chức quy định. Ngoài ra
là các vai trò do các nhân tự chon. VD: Một cảnh sát giao thông trong lúc làm
việc phải thực hiện vai trò do cơ quan quy định còn khi không làm việc thì anh ta
có thể đóng nhiều vai trò khác nhau
- Một vai trò xã hội có thể có nhiều mức độ biểu hiện, hay sắc thái khác nhau về
khuôn mẫu tác phong. VD: Cùng là vai trò giảng dạy của một giáo viên nhưng
người này dạy theo kiểu độc thoại bằng cách đọc bài giảng từ đầu đến cuối, còn
người khác lại vừa giảng vừa đặt câu hỏi thảo luận và lắng nghe ý kiến phát biểu
của học sinh.
- Vai trò không chỉ bao gồm những khuôn mẫu tác phong biểu hiện ra bên ngoài
mà còn bao hàm cả những khuôn mẫu nội dung tinh thần ở bên trong. VD: Người
ta không chỉ chấp nhận mệnh lệnh của người lãnh đạo không chỉ vì mệnh lệnh đó
có tính chất quyền uy, áp đặt mà còn vì đức độ, sự độ lượng, vị tha trong cách
ứng xử hay trí tuệ sắc bén khôn ngoan, dày dạn kinh nghiệm của người lãnh đạo.
- Khi người nào đó thực hiện vai trò của mình thì đồng thời họ đã hành động
trong sự tương quan với vai trò của người khác. Nói cách khác, người ta không
thể tách rời một cách cô lập ra khỏi người khác mà có thể thực hiện được vai trò
của mình. Người thầy chỉ có thể làm tốt vai trò của mình khi hiểu rõ yêu cầu của
học sinh.
- Mức độ thực hiện vai trò có sự co giãn nhất định, nhưng mức độ của sự co
giãn được chấp nhận đến một giới hạn nhất định, vượt khỏi giới hạn đó thì sẽ dẫn
đến sai lệch; có nghĩa là người ta sẽ không làm đúng vai trò của mình nữa. VD:
Người mẹ tôn trọng sự tự lập của con mà bỏ bê phó mặc, thiếu trách nhiệm với
con cái thì sẽ bị xã hội phê phán.
- Căng thẳng và xung đột vai trò. Căng thẳng vai trò chỉ xảy ra khi cá nhân thấy
rằng vai trò không còn thích hợp và họ khó khăn trong việc thực hiện vai trò đó,
nhất là những vai trò được nhiều người mong đợi, kỳ vọng quá nhiều. Xung đột
vai trò xảy ra khi cá nhân cùng lúc chiếm giữ hai hay nhiều vị thế, vai trò và khi

cá nhân tham gia nhiều nhóm xã hội khác nhau, họ phải đáp ứng những mong
đợi của những nhóm xã hội khác nhau, nhiều khi những trông đơi đó xung đột
với nhau về lợi ích. VD: Sự xung đột vai trò của một nữ doanh nhân, một mặt họ
phải thực hiện vai trò của một người lãnh đạo trong kinh doanh mặt khác lại là sự
mong đợi của gia đình về sự quan tâm chăm sóc của một người vợ, một người
mẹ.
- Tất cả những vai trò của một người nào đó tạo thành nhân cách xã hội của họ.
Nhân cách là sự phối hợp của các vai trò
4. Các loại vai trò.
Có nhiều cách phân loại vai trò.
* Vai trò chỉ định và vai trò lựa chọn:
- Vai trò chỉ định là vai trò gán cho một người nào đó từ bên ngoài mang tính
chất tự nhiên mà người đó dù có muốn hay không muốn cũng không thể tự mình
lựa chọn được,Ví dụ: Vai trò còn … theo một nghĩa khác, vai trò chỉ định là vai
trò đươc tạo nên từ sự bàn bạc thoả thuận của những người khác dưới một người
nào đó.Hay như quy định ai đó làm người quản lý nhân sự.
- Vai trò lựa chọn là vai trò được hình thành do một cá nhân chủ động nắm lấy
vai trò bằng những nỗ lực và quy định cả người của mình.Ví dụ: quyết định chọn
nghề giáo viên hay thường nhân.
* Nếu xét theo mức độ cao thấp của thang giá trị thì ta có những vai trò cao và
vai trò thấp.Ví dụ: Vai trò của tổng giám đốc, vai trò của bộ trưởng…vai trò thấp
như vai trò của bảo vệ, lao công.
- Nếu nhận xét theo tính phức tạp thì chúng ta có vai trò phức tạp của các nhà
sang chế, phát minh… cũng có những vai trò đơn giản hơn như vai trò của thợ
bốc vác, vai trò của người gác cổng.
* Vai trò then chốt và vai trò tổng quát.
- Vai trò then chốt: trong một phức hợp các vai trò ở một người luôn nổi lên một
vai trò then chốt.Ví dụ: trong gia đình, người chồng đóng vai trò chính làm kinh
tế thì công việc chính của người vợ la nội chợ. Có những người đóng nhiều vai
trò then chốt ở các nhiều nhóm xã hội. VD: một người vừa làm giám đốc của một

xí nghiệp, vừa là chủ tịch câu lạc bộ…
- Vai trò tổng quát: sự phối hợp các vai trò khác nhau trong một người tạo ra ra
bộ mặt chung-đặc trưng cho người đó gọi là vai trò tổng quát
5. Xung đột giữa các vai trò.
Trong thực tế có thể xảy ra sự xung đột giữa các vai. Chẳng hạn một sinh viên
nữ của trường đại học, cô ta tự nhận thấy mình với vai của một người trưởng
thành trẻ tuổi - một người mà có thể hành động một cách độc lập và tự đưa ra
quyết định hành động của mình. Nhưng ở nhà cô phải ý thức bản thân mình trong
vai một “cô con gái ngoan ngoãn”, chiều theo những phán xử cha me. Như vậy ở
người sinh viên này cần phải hiểu khi nào cô ta được hành động một cách độc
lập, khi nào phải hành động phụ thuộc vào yêu cầu của cha mẹ. Tức là cô ta phải
thực hiên những vai rất trái ngược nhau. Nhiều sinh viên đã có những hành vi nổi
loạn trong những ngày trước kì nghỉ hè để cố gắng khẳng định cá tính của mình,
nhưng sau đó họ lại bắt đầu cảm thấy phải tập làm quen với vai của cậu con trai
hoặc cô con gái (trong thời gian nghỉ hè) ở gia đình. Khi trở lại trường đại học họ
lại thực hiện vai của một người trưởng thành tre tuổi mang tính độc lập (trong
quan hệ với những người bạn đồng lứa). Sự xung đột vai còn nhận thấy ở nhiều
phụ nữ hiện nay. Họ cảm thấy xung đột giữa vai truyền thống của một người vợ,
người mẹ, người quản lý gia đình và vai mới trong nghề nghiệp của họ ở cơ quan.
Đặc biệt, những người phụ nữ giữ cương vị quản lý cơ quan. Họ cảm thấy có sự
xung đột giữa vị thế của mình trong gia đình với vị thế cao trong cơ quan mà họ
đang đảm nhận.
6. Phân biệt giữa địa vị và vai trò.
Địa vị Vai trò
- Là một vị trí xã hội, là chỗ đứng của
một người trong nhóm xã hội.
- Là kết quả của sự phối hợp và áp
dụng những tiêu chuẩn về giá trị đang
hiện diện và thịnh hành trong xã hội.
VD: học vấn cao, dòng dõi quyền quý,

tài sản nhiều
- Là tập hợp các chuẩn mực, hành vi,
nghĩa vụ và quyền lợi của một người
trên cơ sở địa vị của người đó.
- Trong nhiều trường hợp là những
tiêu chuẩn tạo ra địa vị. Bên cạnh tiền
tài, dòng dõi, đẳng cấp… người ta còn
tính đến những lợi ích xã hội do việc
đảm nhận vai trò mang lai.
III. Mối quan hệ giữa địa vị và vai trò:
Địa vị và vai trò luôn gắn bó mật thiết với nhau. Không thể nói tới vị thế mà
không nói tới vai trò và ngược lại. Vai trò và địa vị là hai mặt của vấn đề.
Một địa vị có thể có nhiều vai trò. VD: một giáo sư có thể đảm nhiệm nhiều vai
trò như giảng dạy, nghiên cứu khoa học, phát minh…
Địa vị thường ổn định hơn, ít biến đổi hơn còn vai trò thì động hơn hay biến
đổi hơn.VD: một người đang làm bộ trưởng bộ Kế hoạch và Đầu tư sang làm bộ
trưởng bộ Công thương, ở đây vị thế không có gì thay đổi nhưng vai trò và nhiệm
vụ đã thay đổi do tính chất hoat động của từng lĩnh vực khác nhau.
Sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của địa vị. Địa vị biến đổi
vai trò cũng biến đổi…Sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của địa
vị qua mỗi giai đoạn cụ thể của từng cá nhân cũng như nhóm xã hội.
Vai trò và địa vị thường thống nhất với nhau, song đôi khi cũng gặp nhiều mâu
thuẫn. VD: một giám đốc cùng một lúc có thái độ thân thiện, gần gũi với cấp
dưới nhưng lại cũng phải đưa ra những quyết sách mà có thể làm cấp dưới bất
bình.
IV. Ứng dụng.
Vai trò của làm việc nhóm trong doanh nghiệp:
Theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế, thế kỉ XXI là thế kỉ làm việc theo
nhóm. Nền sản xuất hiện đại với những cỗ máy công suất cực lớn hoạt động phối
hợp nhịp nhàng trong dây truyền sản xuất đồ sộ buộc chúng ta phải có tư duy và

thói quen văn hóa mới. Tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ngay cả văn học
và nghệ thuật, một cá nhân cũng không thể đảm đương được. Khi mọi người làm
việc như một nhóm, họ sẽ đem lại lợi ích nhiều hơn khi họ làm việc một cách độc
lập.
Tuy nhiên, mô hình làm việc theo nhóm đang là một thách thức rất lớn đối với
các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra sôi động,
bắt nguồn từ những thói quen và hành vi văn hóa của một nền sản xuất nhỏ,
manh mún. Để thay đổi được nét tư duy cố hữu ấy, điều kiện tiên quyết là bản
thân doanh nghiệp cần nhận thức được vai trò của mô hình làm việc này với hoạt
động của tổ chức.
1. Nâng cao tinh thần đồng đội.
Mô hình nhóm có thể tạo ra sự giao tiếp và hợp tác tốt hơn trong tổ chức, do
đó nó có khả năng khơi dậy và duy trì tinh thần đồng đội, sự đoàn kết cao độ
trong tập thể công ty.
Thực tế chứng minh, sự thành công của một doanh nghiệp quả thực không thể
tách rời khỏi sự đoàn kết hợp tác của toàn thể nhân viên, mỗi bộ phận, mỗi nhân
viên xuất phát từ lợi ích tổng thể của công ty, biết suy nghĩ vì người khác, xây
dựng ý thức hợp tác đồng đội, đồng thời, không ngừng bồi dưỡng tinh thần tự
hào là một nhân viên của một doanh nghiệp nào đó, tập thể có thể chiến thắng
mọi khó khăn.
2. Góp phần tạo nên văn hóa doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp duy trì được mô hình nhóm hiệu quả đồng nghĩa với việc
hình thành được một nét văn hóa đẹp cho tổ chức: văn hóa chia sẻ và hợp tác trên
cơ sở các mối quan hệ bình đẳng.
Quản lý theo nhóm giúp phá vỡ bức tường ngăn cách, tạo sự cởi mở và thân
thiện giữa các thành viên và người lãnh đạo. Các thành viên trong nhóm có cảm
giác kiểm soát công việc của mình tốt hơn và không phải chịu đựng sự chuyên
quyền của bất cứ người lãnh đạo nào.
Trong kho đó, cá nhân được đảm bảo quyền lợi, các nhu cầu được đáp ứng
một cách công bằng, điều này giúp họ dễ dàng hơn trong việc liên kết với những

cá nhân khác trong tập thể. Nhân viên sẽ không chi li tính toán được mất nhất
thời của mình, mà biết nhìn xa hơn, làm việc hết mình vì sự nghiệp chung, thật sự
hòa mình vào sự phát triển của doanh nghiệp.
3. Phát triển năng lực đội ngũ nhân viên.
Thông qua tương tác nhóm, các thành viên có thể trau dồi năng lực bản thân
và bổ sung, bù đắp cho nhau những thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng làm việc.
Tham gia thảo luận, tìm hiểu mục đích và văn hóa nhóm, mỗi người có khả
năng giải quyết những vấn đề liên quan đến công việc. Từ đó mỗi người có thể
phát huy được khả năng tiềm tàng của cá nhân.Vì nhóm có thể tạo ra môi trường
làm việc tập thể - nơi mỗi cá nhân đều được giao trách nhiệm và có quyền hạn,
nơi mà sự tin tưởng sẻ chia được đặt lên hàng đầu – nên có thể khuyến khích mọi
người làm việc nhiệt tình hơn. Mặt khác nhóm có thể thu thập được nhiều thông
tin và học hỏi nhiều kinh nghiệm, bí quyết hơn nhờ có nhiều thành viên. Mỗi
người học hỏi những thành viên khác và cả người lãnh đạo, bổ sung những kỹ
năng riêng biệt để tháo gỡ những vấn đề nan giải.
Điều này giải thích cho thực tế khác biệt giữa các công ty quốc tế vốn quen
với mô hình làm việc nhóm hiện đại và các công ty Việt Nam vẫn chưa thoát
khỏi lối làm việc theo tổ sản xuất truyền thông. Tại các công ty quốc tế, thành
viên trong nhóm thường rất năng động, có cá tính mạnh mẽ và không ngại tranh
luận với nhau để tìm ra giải pháp tối ưu nhằm hoàn thành mục tiêu của nhóm.
Trong khi đó tại nhiều công ty trong nước, các nhóm hoạt động thiếu đồng bộ,
thành viên thiếu tin tưởng lẫn nhau, một số thành viên quá bị động, dựa dẫm vào
trưởng nhóm hoặc các thành viên khác.
4. Tận dung nguồn lực của nhóm.
Với mô hình nhóm, doanh nghiệp không chỉ khai thác được nguồn lực của
từng cá nhân mà còn tận dụng được nguồn sức mạnh tổng lực khi họ liên kết với
nhau.
Kỹ năng của mỗi cá nhân và sự giám sát của nhóm sẽ tạo điều kiện cho việc
hoàn thành mục tiêu một cách tốt nhất. Thậm chí với những vấn đề có thể được
xử lý bởi cá nhân, thì việc giao cho đội nhóm giải quyết vẫn có những ích lợi

riêng. Việc tham gia của nhóm sẽ giúp phát huy khả năng phối hợp những bộ óc
sáng tạo để đưa các quyết định đúng đắn. Đồng thời, có những vấn đề mà nhóm
có khả năng phân tích rõ hơn cho từng cá nhân riêng lẻ. Mặt khác, việc ra quyết
định theo nhóm xác nhận một cách gián tiếp sự đồng thuận giữa những người
phải thực thi quyết định.

×