Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN CẢNH DŨNG
Tên đề tài:
“Xác định vai trò gây bệnh của vi khuẩn Escherichia
coli, Salmonella trong hội chứng tiêu chảy ở lợn sau cai
sữa nuôi tại một số địa phương thuộc tỉnh Lâm Đồng
và biện pháp phòng trị”
Chuyên ngành: Thú y
Mã số: 60.62.50
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. CÙ HỮU PHÚ
Thái Nguyên, 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành chăn nuôi nước ta đã và đang chiếm một vị trí quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp nói riêng và trong cơ cấu nền kinh tế của cả nước nói chung.
Chăn nuôi, với nhiều phương thức phong phú và đa dạng đã góp phần giải quyết
công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân, tạo ra
các nguồn thực phẩm cho người tiêu dùng.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO thì sản phẩm chăn nuôi thuộc ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và
sản phẩm thịt lợn nói riêng, khi làm ra phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn an toàn vệ
sinh, không ảnh hưởng tới sức khỏe con người, mới xuất khẩu ra thị trường thế
giới và thu ngoại tệ về cho đất nước.
Để đáp ứng yêu cầu trên, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều dự
án, chương trình như cải tạo giống lợn, xây dựng quy trình chăm sóc nuôi
dưỡng, quy trình phòng dịch bệnh phù hợp để tạo ra sản phẩm “sạch”, có giá
trị dinh dưỡng cao, đáp ứng tiêu chuẩn của người tiêu dùng trong nước cũng
như hướng tới thị trường quốc tế.
Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây, khi ngành chăn nuôi phát triển
mạnh thì dịch bệnh cũng hoành hành nhiều, nhất là những bệnh truyền nhiễm
như: bệnh lở mồm long móng, tai xanh, dịch tả, hội chứng tiêu chảy ở lợn sau
cai sữa…có thể đã làm ảnh hưởng tới chất lượng thịt cho người tiêu dùng,
theo Võ Thị Bích Thủy và cs (2002) [63] cho biết có 82 chủng Salmonella
phân lập được từ 212 mẫu thịt lợn, thịt bò, thịt gà và giò sống trên địa bàn Hà
Nội; Đinh thị Bích Lân (2007) [23] cho biết tỷ lệ ô nhiễm Salmonella trong
thực phẩm lưu thông trên địa bàn Thừa Thiên Huế là tương đối cao; điều đó
có thể làm ảnh hưởng đến thu nhập của những người chăn nuôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Ngành chăn nuôi lợn tại Lâm Đồng cũng chịu ảnh hưởng nặng nề về dịch
bệnh lở mồm long móng, bệnh tai xanh,… sau khi khắc phục được dịch, các nhà
chăn nuôi cố gắng phục hồi lại đàn lợn, trong quá trình nhân giống, số lợn sau
cai sữa bị tiêu chảy nặng nề, người dân phải chữa trị…gây thiệt hại cả số lượng
lẫn chất lượng thịt lợn. Bệnh này được gọi là hội chứng tiêu chảy do có rất nhiều
nguyên nhân gây nên và nhiều yếu tố bất lợi khác tác động như: sự thay đổi đột
ngột của thời tiết, khí hậu, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, quản lý cùng với
điều kiện môi trường chăn nuôi bị ô nhiễm, vệ sinh kém tạo điều kiện cho các vi
sinh vật gây bệnh phát triển.
Hội chứng tiêu chảy ở lợn sau cai sữa được nhiều tác giả trong và ngoài
nước nghiên cứu, đề cập tới ở nhiều khía cạnh khác nhau. Vi khuẩn Escherichia
coli (E.coli) và Salmonella sp cũng thường gây tiêu chảy cho lợn. Việc nghiên
cứu về vi khuẩn này cho chúng ta những hiểu biết sâu hơn về các đặc tính sinh
hóa, yếu tố gây bệnh của nó, từ đó có cơ sở đưa ra các biện pháp phòng và điều
trị bệnh bằng các phác đồ phù hợp, hiệu quả nhất, nhằm giảm thiểu thiệt hại tới
đàn lợn con sau cai sữa nuôi tại Lâm Đồng. Xuất phát từ những lý do trên chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Xác định vai trò gây bệnh của vi khuẩn Escherichia coli,
Salmonella trong hội chứng tiêu chảy ở lợn sau cai sữa nuôi
tại một số địa phương thuộc tỉnh Lâm Đồng và biện pháp
phòng trị”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân lập và xác định được các yếu tố gây bệnh của vi khuẩn
Escherichia coli, Salmonella gây bệnh tiêu chảy ở lợn sau khi cai sữa nuôi tại
tỉnh Lâm Đồng.
- Xây dựng được phác đồ điều trị lợn bị tiêu chảy nuôi tại Lâm Đồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Xác định được mỗi liên quan giữa các yếu tố ngoại cảnh và vai trò
của vi khuẩn Escherichia coli, Salmonella sp trong bệnh tiêu chảy ở lợn sau
cai sữa tại Lâm Đồng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở khoa học phục vụ cho các
nghiên cứu tiếp theo, đồng thời đóng góp thêm tư liệu cho cán bộ thú y cơ sở
và người chăn nuôi.
- Kết quả nghiên cứu phục vụ cho công tác phòng bệnh và điều trị bệnh
tiêu chảy ở lợn sau cai sữa có hiệu quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu bệnh tiêu chảy ở lợn
1.1.1. Nguyên nhân gây rối loạn tiêu hóa do chăm sóc nuôi dưỡng
Hệ thống tiêu hóa của lợn: bắt đầu từ miệng, dạ dày, tá tràng… cho tới
ruột già. Khả năng tiêu hóa thức ăn của nó phụ thuộc vào các loại men và số
lượng dịch tiết ra có trong đường ruột. Số lượng dịch tiết men tiêu hóa phụ
thuộc vào lứa tuổi của lợn trong quá trình phát triển.
Chính vì vậy, khi chăm sóc nuôi dưỡng nếu chúng ta cho lợn ăn không
đúng khẩu phần (thừa lượng protein, thừa lượng lipid…) hoặc không đúng
loại thức ăn sẽ gây ra hiện thượng tiêu chảy. Có những trường hợp thay đổi
khẩu phần ăn đột ngột làm cho lượng men tiêu hóa loại thức ăn đó không đủ
để tiêu hóa dẫn tới tiêu chảy. Có những trường hợp lợn khi sinh ra không
được cho bú sữa đầu kịp thời hoặc bú không đủ số lượng sữa đầu, hay sữa mẹ
kém phẩm chất (do chế độ khai thác không hợp lý), vì vậy khả năng miễn
dịch và hệ tiêu hóa kém phát triển dẫn tới bị tiêu chảy (Đào Trọng Đạt và cs
1996) [8].
Theo Lê Hồng Mân (2008) [29], các loại nấm độc aspergillus flavus,
aspergillus paraciticus, aspergillus niger, trong thức ăn ẩm mốc sản sinh ra
độc tố aflatoxin rất độc. Lợn ăn thức ăn mốc ẩm này là bị nhiễm độc. Mức độ
mẫn cảm độc tố aflatoxin ở lợn xếp từ cao đến thấp là 3- 13 tuần tuổi, vỗ béo,
nái chửa.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1985) [59] cho rằng: Khẩu phần ăn của vật
nuôi không thích hợp, trạng thái thức ăn không tốt, thức ăn kém chất lượng
như mốc, thối, nhiễm các tạp chất, các vi sinh vật có hại dễ dẫn đến rối loạn
tiêu hóa kèm theo viêm ruột, ỉa chảy ở gia súc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Tác giả Laval A (1997) [84] cho rằng: thức ăn chất lượng kém, ôi thiu,
khó tiêu hóa là nguyên nhân gây tiêu chảy ở gia súc. Thức ăn thiếu các chất
khoáng, vitamine cần thiết cho cơ thể gia súc, đồng thời phương thức cho ăn
không phù hợp sẽ làm giảm sức đề kháng của cơ thể gia súc và tạo cơ hội cho
các vi khuẩn gây ra hội chứng tiêu chảy.
Nguyên Xuân Bình (1997) [1] cho rằng: do thay đổi đột ngột khẩu phần
ăn của lợn mẹ trong thời kỳ cho con bú hoặc do sữa mẹ quá nhiều, lợn con bú
bị dư chất đạm tiêu hóa không hết được trôi xuống ruột già ở đó có một số vi
khuẩn sử dụng và phân hủy chất đạm sản sinh ra một số độc tố gây rối loạn
tiêu hóa dẫn tới ỉa chảy.
1.1.2. Nguyên nhân gây rối loạn tiêu hóa do môi trường, thời tiết, mùa vụ
Khả năng thích nghi của lợn đối với môi trường ngoại cảnh hết sức
quan trọng. Nếu sức khỏe của lợn không thích nghi được với môi trường thì
nó sẽ bị bệnh, trong đó bệnh tiêu chảy là chiếm chủ yếu. Trong giai đoạn thay
đổi mùa, các yếu tố như nhiệt độ, độ ẩm, nắng, mưa,…thay đổi đột ngột làm
cho lợn bị stress dẫn đến tiêu chảy.
Theo Đào Trọng Đạt và cs 1996 [8] cho rằng: trong những tháng mưa
nhiều, kèm theo khí hậu lạnh, tỷ lệ lợn con phân trắng rõ rệt, có khi chiếm tới
80 – 100% cá thể trong đàn bị tiêu chảy.
Theo Nguyên Xuân Bình (1997) [1], do thời tiết thay đổi đột ngột đang
nắng chuyển mưa, nhiệt độ thấp mà độ ẩm cao làm cơ thể lợn con mất cân
bằng giữa sản nhiệt và truyền nhiệt. Do đó sẽ tiêu hao nhiều năng lượng của
cơ thể để chống lạnh, lượng đường huyết trong cơ thể được điều động ra để
chống lạnh. Nếu lạnh kéo dài lượng đường huyết sẽ giảm xuống, sự giảm
đường huyết đột ngột sẽ gây rối loạn chức năng tiết dịch và nhu động dạ dày,
ruột, dẫn tới rối loạn tiêu hóa làm cho heo con ỉa chảy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Trong quá trình nghiên cứu tình hình bệnh tiêu chảy ở lợn sau cai
sữa, tác giả Nguyễn Thị Kim Lan và cs 2009 [22] đã cho rằng: lợn ở mùa
hè và mùa xuân mắc tiêu chảy nhiều hơn so với mùa thu và đông (13,67% -
14,75% so với 9,18% - 9,68%).
Khi gia súc bị nhiễm lạnh kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch,
giảm tác dụng thực bào, làm cho gia súc dễ bị nhiễm khuẩn gây bệnh, đó là
kết quả nghiên cứu của tác giả Hồ Văn Nam và cs (1997) [32], Bùi Quý Huy
(2003) [16].
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [25] cho rằng: Bệnh có thể xảy ra
quanh năm ở những nơi tập trung và thường phát mạnh từ đông sang hè.
Đặc biệt khi thời tiết thay đổi đột ngột (từ oi bức chuyển sang mưa rào, từ
khô ấm chuyển sang rét ẩm), bệnh phát hàng loạt, tỷ lệ mắc bệnh đến
100%, tỷ lệ chết bệnh 30 – 40%.
Như vậy, môi trường, thời tiết, khí hậu là nguyên nhân tác động gián
tiếp đến bệnh tiêu chảy ở lợn con. Các yếu tố lạnh, độ ẩm cao, nhiệt độ thay
đổi đột ngột tác động tới cơ thể làm rối loạn hệ thống miễn dịch, hệ thống trao
đổi chất, cơ thể thích nghi kém, từ đó các mầm bệnh trong đường tiêu hóa có
cơ hội tăng cường sinh sản, tăng độc lực và gây bệnh.
1.1.3. Nguyên nhân gây rối loạn tiêu hóa do ký sinh trùng
Ký sinh trùng trong ống tiêu hóa là một trong những nguyên nhân gây
tiêu chảy cho lợn. Tác hại của chúng không chỉ chiếm đoạt chất dinh dưỡng
của ký chủ mà còn tiết ra độc tố để đầu độc vật chủ, làm cho động vật bị giảm
sức đề kháng, suy nhược cơ thể, thích nghi với môi trường bên ngoài kém,
sức chống đỡ một số bệnh tật giảm, điều đó đồng nghĩa với tạo điều kiện cho
một số loài vi khuẩn và virus hoạt động và gây bệnh.
Theo Phạm Văn Khuê và cs 1996 [18] cho rằng: chính phương thức
sống ký sinh trong đường tiêu hóa của các loài giun sán đã làm tổn thương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
miên mạc ruột, gây rối loạn quá trình tiêu hóa hấp thu, kích thích nhu động
ruột, gây hiện tượng tiêu chảy và tạo điều kiện cho quá trình nhiễm trùng.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs 2006 [21] đã cho rằng: trong quá trình
nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở lợn tại Thái
Nguyên đã có kết luận: cầu trùng và một số loại giun tròn (giun đũa, giun tóc,
giun lươn) là một trong những nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy ở lợn từ sau
cai sữa.
Khi nghiên cứu tình hình bệnh tiêu chảy ở lợn sau cai sữa, tác giả
Nguyễn Thị Kim Lan và cs 2009 [22] đã cho rằng: giun sán ở đường tiêu hóa
có vai trò rõ rệt trong hội chứng tiêu chảy ở lợn sau cai sữa. Ở lợn bình
thường và lợn bị tiêu chảy đều nhiễm các loại giun đũa, giun lươn, giun tóc,
giun kết hạt và sán lá ruột, nhưng ở lợn tiêu chảy nhiễm tỷ lệ cao hơn và mức
độ nặng hơn.
Có rất nhiều nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy, nhưng dù nguyên nhân
nào gây tiêu chảy cho lợn đi nữa, thì cuối cùng cũng là quá trình nhiễm
khuẩn, vi khuẩn kế phát làm viêm ruột, tiêu chảy nặng thêm, có thể dẫn đến
chết, đó là kết quả của các tác giả Nguyễn Thị Nội (1985) [35].
1.1.4. Nguyên nhân gây rối loạn tiêu hóa do virus
Virus cũng là một trong những nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn. Trên
thực tế đã có một số công trình nghiên cứu khẳng định vai trò gây bệnh của
một số virus như: Parovirus; Enterovirus, Rotavirus, hay Transmissible
Gastroenteritis là những nguyên nhân chủ yếu gây viêm dạ dày ruột và gây
triệu trứng tiêu chảy ở lợn. Các virus này tác động vào hệ thống niêm mạc
ruột, gây rối loạn quá trình tiêu hóa, rối loạn khả năng hấp thu dẫn tới viêm
ruột tiêu chảy ở lợn.
Theo số liệu của Bergenlend (1980) (do Đào Trọng Đạt 1996 trích dẫn)
[8] cho biết: trong số những mầm bệnh thường gặp ở lợn trước và sau cai sữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
bị bệnh tiêu chảy do các loại virus chiếm tỷ lệ như sau: 20,9% lợn bệnh phân
lập được là do Rotavirus; 11,2% có virus viêm dạ dày ruột truyền nhiễm; 2%
có Enterovirus; 0,7% có Parovirus.
Bệnh viêm dạ dày ruột truyền nhiễm hay còn gọi là bệnh TGE
(Transmissible Gastro Enteritis) do vi rút Coronavirus gây ra có đặc tinh lây
lan rất nhanh, tiêu chảy nước dữ dội. Tử số tùy thuộc lứa tuổi, tuổi càng nhỏ
tử số càng cao. Lợn từ 1-7 ngày tuổi tử số 100%; lợn từ 8-14 ngày tuổi tử số
50%; lợn từ 15-21 ngày tuổi tử số 25%; tử số thấp đối với lợn con lớn hơn 3
tuần tuổi, đó là kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Quốc Định (2009) [120];
Nguyễn Đức Lưu và cs (2004) [28].
1.1.5. Nguyên nhân gây rối loạn tiêu hóa do vi khuẩn
Nói về hệ vi khuẩn trong đường ruột của lợn thì rất phong phú. Chúng
cùng tồn tại dưới dạng cân bằng giữa vi khuẩn và vật chủ. Trong trường hợp
nào đó khi cơ thể vật chủ giảm sức đề kháng, khả năng thích nghi với môi
trường bên ngoài yếu, cơ thể không giữ được thăng bằng, lúc đó hệ vi khuẩn
đường ruột hoạt động sinh sản với số lượng nhiều hơn mức bình thường và
gây bệnh cho vật chủ, hậu quả là lợn bị tiêu chảy.
Về nguyên nhân vi khuẩn đường ruột gây bệnh tiêu chảy cho lợn thì
đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đã công bố:
Theo Đoàn Thị Băng Tâm (1987) [49] cho rằng: sự xuất hiện của vi
khuẩn Salmonella phụ thuộc vào các điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng lợn. Mỗi
yếu tố bất lợi làm giảm sức đề kháng của vật nuôi đều phải coi là nguyên
nhân tiên phát của sự xuất hiện bệnh tiêu chảy.
Theo Phan Thanh Phựơng (1988) [43] lại nói: vi khuẩn Salmonella
thường xuyên có trong đường ruột của lợn và chỉ cần khi điều kiện chăn nuôi,
quản lý kém làm giảm sức đề kháng cơ thể vật nuôi, điều đó đã tạo điều kiện
cho Salmonella phát triển mạnh và gây bệnh tiêu chảy cho lợn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Radostits O.M (1994) [107] cho biết: vi khuẩn E.coli gây bệnh cho lợn
là các chủng có kháng nguyên pili và sản sinh độc tố đường ruột đóng vai trò
quan trọng, phổ biến trong quá trình tiêu chảy ở lợn.
Phạm Thế Sơn và cs (2008) [48] cho rằng: khi nghiên cứu hệ vi khuẩn
đường ruột ở lợn con khỏe mạnh và tiêu chảy cho thấy lợn cả hai trạng thái
đều có 6 loại vi khuẩn đường ruột thường gặp: E.coli, Salmonella, Klebsiella,
Staphylococcus, Streptococcus, B.subtilis và Cl.perfringens. Tuy nhiên trường
hợp loạn khuẩn trong tiêu chảy chủ yếu liên quan đến sự tăng số lượng đột
ngột của 3 loại vi khuẩn chủ yếu là E.coli, Salmonella sp và Cl.perfringens.
1.2. Tình hình nghiên cứu vi khuẩn E.coli, Salmonella ở lợn
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Có rất nhiều đề tài của các tác giả khác nhau đã triển khai nghiên cứu về
vi khuẩn E.coli và Salmonella gây bệnh tiêu chảy cho lợn, nuôi ở hầu hết các
khu vực thuộc nước Việt Nam.
1.2.1.1. Nghiên cứu về vi khuẩn E.coli
Công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Lương và cs (1963) [27] đã
tìm được 5 serotype E.coli gây bệnh tiêu chảy cho lợn con là: O
26
; O
55
; O
86
;
O
111
; O
119
.
Khi nghiên cứu vai trò của vi khuẩn E.coli trong bệnh phân trắng lợn con
nuôi tại các vùng Hà Tây, Hà Bắc, Bắc Thái, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh
Hóa, tác giả Nguyễn Thị Nội (1986) [36] đã phát hiện ra các serotype chủ yếu là:
O
115
; O
117
; O
138
; O
139
; O
141
; O
147
; O
149
.
Theo Lý Thị Liên Khai và cs (2001) [17] đã phân lập và xác định độc tố
ruột của các chủng E.coli gây bệnh tiêu chảy cho lợn con, tác giả cho rằng các
chủng F4 (K
88
) sinh độc tố đường ruột LT và ST, F5 (K
99
) và F6 (987P) sinh độc
tố đường ruột ST. Độc tố ST trở nên độc khi sức đề kháng của vật chủ giảm, gây
tiêu chảy cho lợn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Trịnh Quang Tuyên và cs (2003) [67] cho biết khi nghiên cứu E.coli gây
bệnh cho lợn thì đã phân lập được các loại độc tố ở các giai đoạn lứa tuổi khác
nhau: ở giai đoạn 1 – 21 ngày tuổi lượng LT chiếm 16,9%, Sta 37,3%, STb
45,8%; còn ở giai đoạn 22 – 60 ngày tuổi lượng LT có 42,4%, ST 57,6% và có
cả 2 loại ST + LT là 44,6%.
Để nghiên cứu chế tạo vắc xin phòng bệnh cho lợn con, Lê Văn Tạo và
cs (1993) [50] đã xác định thông qua yếu tố gây bệnh của vi khuẩn E.coli
phân lập từ bệnh phẩm lợn con chết do ỉa chảy phân trắng, sau đó chọn các
giống vi khuẩn điển hình để chế vắc xin chết (vắc xin Bacterin) để cho uống.
Lợn con sau khi đẻ 2 giờ được cho uống vắc xin với liều 1ml/ con, cho uống
liên tục 3 – 5 ngày. Kết quả tỷ lệ lợn con bị bệnh phân trắng giảm từ 30 –
35% so với lô đối chứng.
Theo tác giả Nguyễn Thị Nội và cs (1993) [37] đã căn cứ vào tần suất
xuất hiện, tỷ lệ phân lập được các loài vi khuẩn đường ruột như E.coli,
Streptococcus, Salmonella từ mẫu bệnh phẩm lợn bị tiêu chảy để chọn các giống
thuộc E.coli, Streptococcus, Salmonella nghiên cứu vắc xin đa giá (vắc xin
Salsco phòng bệnh tiêu chảy cho lợn). Sau khi nghiên cứu đã thử nghiệm tiêm
bắp cho lợn từ 21 ngày tuổi với liều 3 – 5ml/con, tiêm hai lần cách nhau 10 ngày.
Hiệu quả của nó sẽ làm giảm tỷ lệ lợn bị tiêu chảy 30 – 50% và giảm tỷ lệ chết
do tiêu chảy là 10 – 20%.
Theo nghiên cứu của Đỗ Trung Cứ và cs (2000) [5] sử dụng chế phẩm
Biosubtyl phòng bệnh tiêu chảy cho lợn con, làm giảm được 42% số lợn tiêu
chảy ở lợn con giai đoạn từ 1 đến 60 ngày tuổi.
Theo Phạm Thế Sơn và cs (2008) [48] đã kết luận rằng: bằng phương
pháp PCR đã xác định được 100% số chủng E.coli sinh độc tố STb, số chủng
sinh Sta là 61,56%; LT là 44,15%, số chủng sinh cả 3 loại độc tố (Sta + STb +
LT) là 68,53%. Số chủng E.coli mang kháng nguyên F4 (K88) là 78%, F5
(K99) là 22%. Số chủng ở Hưng Yên là 80%, Hà Nội là 76%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
1.2.1.2. Nghiên cứu về vi khuẩn Salmonella
Vi khuẩn Salmonella thường sống trong đường tiêu hóa của động vật
và người, khi sức đề kháng của vật chủ bị giảm sút, số lượng vi khuẩn sinh
sản tăng, chúng sẽ tác động vào thành ruột và gây bệnh tiêu chảy. Cũng chính
vấn đề này mà từ xưa đến nay có rất nhiều tác giả nghiên cứu về bệnh này.
Năm 1951-1953, viện Pasteur Sài Gòn đã nghiên cứu phân lập được 6
serotype Salmonella ở người và 35 serotype Salmonella ở lợn tại lò sát sinh.
Năm 1963, viện vệ sinh dịch tế Hà Nội kiểm tra và phát hiện 6,3% mẫu phân
của công nhân giết mổ và 22% mẫu thịt lợn nhiễm Salmonella, với phần lớn
là các serotype thuộc nhóm E (trích theo Nguyễn Quang Tuyên, 1996 [65]).
Cù Hữu Phú và cs (2000) [40] đã nghiên cứu phân lập vi khuẩn E.coli
và Salmonella ở lợn 35 ngày đến 4 tháng tuổi nuôi xung quanh Hà Nội. Kết
quả có 80% mẫu phân lợn tiêu chảy có nhiễm Salmonella. Tác giả đã xác định
và phân lập được độc tố của mầm bệnh có trong đường ruột, từ đó có cơ sở
chế ra loại vắc xin Autovacxin phòng bệnh tiêu chảy cho lợn. Kết quả sau 4
tháng tiêm phòng cho lơn đạt tỷ lệ phòng bệnh 89,22%.
Theo Nguyễn Bá Hiên (2001)[13], tỷ lệ nhiễm Salmonella ở các đàn
lợn, ngoại thành Hà Nội cao nhất là lợn trên 60 ngày tuổi (88,23%), thấp nhất
là lợn từ 1-21 ngày tuổi (73,68%).
Ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn Salmonella cũng đã và đang được rất
nhiều tác giả quan tâm. Lê Minh Sơn (2003)[45] đã xác định tỷ lệ nhiễm
Salmonella trong thịt lợn giết mổ tiêu dùng nội địa từ 10,91-16,67% và thịt
lợn xuất khẩu trung bình 1,42%. Tô Liên Thu (2005)[60] đã xác định tỷ lệ
nhiễm Salmonella của các mẫu thịt gà ở Hà Nội là rất cao: 33% các mẫu lấy
tại siêu thị, 40% các mẫu lấy từ chợ. Lò mổ là một mắt xích quan trọng có
nguy cơ cao ô nhiễm Salmonella vào thân thịt sau giết mổ. Trần Thị Hạnh
(2009)[11] đã công bố tỷ lệ nhiễm Salmonella tại các cơ sở giết mổ lợn công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
nghiệp và cho kết quả: Chất chứa manh tràng của lợn là 59,18%, ở mẫu lau
thân thịt là 70%, mẫu lau hậu môn 66%, mẫu lau nền chuồng nhốt lợn chờ
giết mổ là 40%, mẫu lau sàn giết mổ là 28%, còn các mẫu nước kiểm tra
không phát hiện Salmonella. Tại các cơ sở giết mổ lợn theo phương thức thủ
công cho thấy tỷ lệ nhiễm Salmonella ở chất chứa manh tràng của lợn chờ
giết mổ là 87,5%, ở mẫu lau thân thịt là 75%, mẫu lau hậu môn là 55%, mẫu
lau nền chuồng nhốt lợn chờ giết mổ là 70%, mẫu lau sàn giết mổ là 80%,
mẫu nước là 50%.
Phạm Thế Sơn và cs (2008) [48] đã kết luận rằng: bằng phản ứng
khuếch tán da thỏ xác định các chủng Salmonella sản sinh độc tố thẩm xuất
nhanh (RPF) là 60%, độc tố thẩm xuất chậm (DPF) là 46,66%; cả hai loại
(RPF + DPF) là 33,33%.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2.2.1. Nghiên cứu về vi khuẩn E.coli
Vi khuẩn E.coli được Theo bald Escherich phát hiện lầm đầu tiên vào
năm 1885, vi khuẩn này được coi là một loại vi khuẩn vô hại sống trong ruột già
người và động vật. Đến năm 1955 thì Schofield và Davis mới chứng minh được
vai trò gây bệnh đường ruột của vi khuẩn E.coli ở lợn.
Theo Smith H.W (1963) [113] đã nghiên cứu và cho thấy có hai loại độc
tố là thành phần chính của Enterotoxin được phát hiện ở vi khuẩn E.coli gây
bệnh. Hai loại độc tố đó có sự khác nhau về khả năng chịu nhiệt. Đột tố ST
(Heat stable enterotoxin) là độc tố chịu nhiệt, chịu được nhiệt độ 100
0
C trong 15
phút. Độc tố LT (Heat Labile enterotoxin) là độc tố không chịu nhiệt, chúng bị
vô hoạt ở 60
0
C trong vòng 15 phút.
1.2.2.2. Nghiên cứu về vi khuẩn Salmonella
Năm 1885, nhà khoa học người Mỹ có tên là Salmon lần đầu tiên phát
hiện ra vi khuẩn Salmonella thông qua phân lập từ mẫu bệnh phẩm mắc bệnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
dịch tả. Sau đó cộng sự của ông là T.Smith phát hiện ra loài Salmonella, trong
giai đoạn này người ta cho rằng vi khuẩn này là nguyên nhân gây bệnh dịch tả,
với cái tên Bacillus suipestifer. Cho đến năm 1903, Schweinitz và Dorset xác
định được nguyên nhân gây bệnh dịch tả lợn là do virus thì lúc đó Bacillus
suipestifer mới được coi là vi khuẩn chỉ đóng vai trò kế phát trong bệnh dịch tả
lợn, Selbitz và cs 1995 [110].
Năm 1888, A Gartner ở Jena ( thuộc nước Đức) đã xác định được nguyên
nhân gây viêm ruột người là do ăn phải thịt bò chết có chứa vi khuẩn, lúc đó
được gọi là Baccillus enteritidis ( hiện nay gọi la Salmonella enteretidis). Căn cứ
vào tên người phát hiện ra vi khuẩn, cũng như địa danh mà vi khuẩn gây bệnh để
đặt tên cho loại vi khuẩn này. Chính vì vậy, trong một thời gian dài loài vi khuẩn
Sal.enteretidis được gọi là trực khuẩn Gartner với các tên: Gartner bacilus hoặc
Typus Gartner Jena. Đến năm 1889-1890 tại Viện vệ sinh trường Đại học
Greiswald (thuộc nước Đức) do F.Loeffler phụ trách đã xảy ra dịch bệnh gây
thiệt hại nghiêm trọng đối với chuột thí nghiệm. Nguyên nhân được tìm ra là do
vi khuẩn Bacilus typhimurium, theo tài liệu của Selbitz và cs (1995) [110].
Cũng theo tài liệu của Selbitz và cs cho biết: năm 1914 có tổng cộng là 12
loài vi khuẩn được mô tả và xếp vào giống Salmonella. Năm 1926, White đã có
những công trình nghiên cứu về cấu trúc kháng nguyên của Salmonella, mở đầu
cho quá trình nghiên cứu khoa học về giống vi khuẩn này. Đến năm 1934,
F.Kauffmann đã nghiên cứu thành công và thành lập được bảng kháng nguyên vi
khuẩn Salmonella đầu tiên và đặt tên là bảng phân loại Kauffmann- White. Bảng
này được Trung tâm hợp tác của WHO về nghiên cứu Salmonella tại Viện
Pasteur Pari công nhận và thường xuyên bổ sung, đến năm 1993 đã có 2.375
serovar, Selbitz và cs (1995) [110]; số serovar đã lên tới 3000 vào năm 1997,
Plonait và cs (1997) [103].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Năm 1934, theo đề nghị của Hội nghị Vi sinh vật học Quốc tế, để kỷ niệm
người đầu tiên tìm ra vi khuẩn, người ta đặt tên cho vi khuẩn này là Salmonella
Nguyễn Quang Tuyên 2008 [66]. Và những năm sau đó, vi khuẩn Salmonella
được tìm thấy nhiều nước ở khắp trên thế giới.
Theo Wilcock và cs (1992) [118] cho biết: nước Anh năm 1972 đã tìm
thấy vi khuẩn Salmonella có trong phân lợn chiếm 9,9% số mẫu và một năm
sau đó cũng tiếp tục phát hiện loại vi khuẩn Salmonella trong hạch ruột lợn
ốm là 7,3%. Năm 1984, tại nước Mỹ người ta cũng đã phát hiện thấy
Salmonella trong máu lợn chết là 4,3%. Hunggari công bố tỷ lệ mẫu phân lợn
có nhiễm Salmonella vào năm 1989 là 48%.
Tại Nhật Bản, Asai và cs (2002) [70] cho thấy tỷ lệ nhiễm Salmonella ở
lợn sau cai sữa bị tiêu chảy là 12,4%; lợn vỗ béo là 17,3%; lợn con theo mẹ
4,5%. Tác giả cũng cho biết S.typhimurium được phân lập thấy nhiều nhất ở lợn
sau cai sữa là 72,6%; lợn gần xuất chuồng là 73,8%.
Kishima và cs (2008) [92] đã điều tra tỷ lệ nhiễm và phân bố của vi khuẩn
Salmonella trong phân lợn khỏe mạnh bình thường trên toàn lãnh thổ Nhật Bản
giữa năm 2003 và năm 2005 là 3,1%.
Một số tài liệu đã công bố vi khuẩn Salmonella còn gây bệnh trên một
số loài động vật như: Bệnh phó thương hàn cấp tính ở lợn con do
S.choleraesuis gây ra và bệnh viêm ruột mãn tính do S.typhisuis; gây bệnh
cho trâu, bò là S.dublin, S.enteretidis; bệnh ở cừu là do S.abortusovis,
S.montevideo, S.dublin, S.anatum; còn S.abortusequi là tác nhân gây bệnh
tiêu chảy cho ngựa; S.pullorum, S.gallinarum, S.typhimurium gây bệnh cho
các loài gia cầm và chim, Barnes và cs (1975) [71]; Wilcock và cs (1992)
[118]; Selbitz và cs (1995) [110].
Hiện nay, có rất nhiều loại thuốc kháng sinh có thể được sử dụng để điều
trị bệnh, nhất là với lợn con trước và sau cai sữa. Tuy nhiên, do việc sử dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
rộng rãi kháng sinh để phòng và điều trị bệnh nên đã xuất hiện các chủng vi
khuẩn Salmonella kháng thuốc, Kishima và cs, 2008 [92].
Gần đây, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào nghiên cứu gen kháng
kháng sinh DT104 ở vi khuẩn Salmonella. Chủng đa kháng thuốc
S.typhimurium DT104 được phát hiện lần đầu tiên ở người mắc Salmonellosis
tại Anh vào năm 1980. Sau đó được quan sát thấy cả ở người cũng như vật
nuôi trên khắp thế giới vào những năm thập niên 90 và hiện đang là mối quá
ngại hàng đầu đối với sức khỏe cộng đồng. Gen này thường xuất hiện ở các
serotyp S.typhimurium và ít thấy ở các serotyp khác. Một tổ hợp kháng thuốc
điển hình của S.typhimurium DT104 là kháng đồng thời với 5 loại kháng sinh,
bao gồm: Ampicillin, Chloramphenicol, Streptomycin, Sulfonamide và
Tetracycline (ACSSuT) Kishima và cs, 2008 [92]. Tuy nhiên, không có chiều
ngược lại, tức là nếu các kết quả xác định lâm sàng cho thấy một chủng vi
khuẩn kháng với cả 5 loại kháng sinh trên thì vẫn chưa đủ căn cứ để kết luận
là chủng vi khuẩn này có mang gen kháng kháng sinh DT104, Kishima và cs,
2008 [92]. Cũng theo tác giả, có 61,5% số chủng thuộc serotyp S.typhimurium
có mang gen DT104.
Selbitz (1995) [110] còn cho biết: “genom” của Salmonella được nghiên
cứu tương đối kỹ. Cho đến nay ít nhất đã chứng minh được 750 gen, trong đó có
680 gen đã có trong bản đồ gen.
Như vậy, vi khuẩn Salmonella được rất nhiều nhà vi sinh vật trên toàn
thế giới quan tâm. Mục đích của các nghiên cứu này nhằm tìm ra các biện
pháp có hiệu quả để góp phần ngăn chặn và đẩy lùi bệnh do Salmonella gây ra
ở động vật và ở người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
1.3. Một số đặc tính sinh hóa học của vi khuẩn E.coli, Salmonella
1.3.1. Đặc tính sinh hóa học của E.coli
1.3.1.1. Đặc tính về hình thái
E.coli là một trực khuẩn hình gậy ngắn, hai đầu tròn, kích thước 0,6 x 2-
3µ. Khi ở trong cơ thể động vật E.coli có hình cầu trực khuẩn đứng riêng lẻ, đôi
khi xếp thành chuỗi ngắn, có lông ở quanh thân nên có thể di động được.
Khi nhuộm bắt màu Gram âm, không hình thành nha bào, có thể có giáp
mô. Nếu lấy vi khuẩn từ khuẩn lạc để nhuộm màu thì có thể thấy giáp mô, còn
khi soi tươi không nhìn thấy được, Nguyễn Quang Tuyên (2008) [66].
Dưới kính hiển vi điện tử người ta còn phát hiện được cấu trúc pili, là
yếu tố mang kháng nguyên bám dính của vi khuẩn E.coli, Nguyễn Như Thanh
và cs (1997) [56].
1.3.1.2. Đặc tính về nuôi cấy
E.coli là trực khuẩn hiếu khí tùy tiện có thể sinh trưởng ở nhiệt độ 15-
24
0
C, nhiệt độ thích hợp: 37
0
C, pH thích hợp: 7,4. Vi khuẩn E.coli phát triển dễ
dàng trên các môi trường nuôi cấy thông thường:
Môi trường nước thịt: phát triển tốt, môi trường rất đục, có cặn lắng
xuống đáy màu tro nhạt, đôi khi hình thành màng xám nhạt. Canh trùng có
mùi phân hôi thối.
Môi trường thạch thường: ở 37
0
C sau 24 giờ hình thành khuẩn lạc hình
tròn ướt, trong suốt, màu tro trắng nhạt, hơi lồi, đường kính 2-3mm. Để lâu
khuẩn lạc phát triển rộng ra và có thể quan sát thấy cả những khuẩn lạc dạng R
(Rough) và M (Mucoid).
Môi trường Endo: E.coli hình thành khuẩn lạc màu đỏ.
Môi trường EMB (Eosin methylen blue): E.coli hình thành khuẩn lạc
màu tím đen.
Môi trường Intrati: E.coli hình thành khuẩn lạc màu vàng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Môi trường Wilson Blaire: E.coli bị kìm chế.
Môi trường Muler Kauffman: E.coli không mọc.
Môi trường gelatin: E.coli không làm tan chảy gelatin. Nguyễn Quang
Tuyên (2008) [66].
1.3.1.3. Đặc tính về sinh hóa
Trong môi trường đường vi khuẩn E.coli lên men và sinh hơi lactoza,
glucoza, galactoza, mantoza, arabinoza, xyloza, ramnoza, mannitol, fructoza. Có
thể lên men hay không lên men: saccaroza, rafinoza, salixin, esculin, dunxit,
glyxerol. Chủng Bacterium coli commune không lên men saccaroza, trái lại ba
chủng khác là B.coli communior, B.lactis và B.cloacae lên men saccaroza.
Không lên men dextrin, amidin, glycogen, inosit, xenlobioza.
Một số phản ứng khác bao gồm:
E.coli làm sữa đông sau 24-37 giờ ở 37
0
C
Phản ứng sinh Indol: dương tính (+)
Phản ứng sinh H
2
S: âm tính (-)
Phản ứng M.R: dương tính (+)
Phản ứng V.P: âm tính (-)
Hàn nguyên nitrat thành nitric, Nguyễn Quang Tuyên (2008) [66].
1.3.1.4. Đặc tính về cấu trúc kháng nguyên
Khi nghiên cứu vi khuẩn E.coli, các nhà khoa học đã xác định được cấu
trúc kháng nguyên gồm: Kháng nguyên vỏ K (Capsular) bao phủ kín kháng
nguyên thân O (Somatic), Bên ngoài kháng nguyên vỏ là kháng nguyên lông H
(Flagellar) và kháng nguyên F (Fimbrae) (hay còn gọi là kháng nguyên pili).
Theo Bertschinger H.U và cs (1992) [72] Hiện nay các nhà khoa học đã
xác định được ít nhất có 170 type kháng nguyên O và 70 type kháng nguyên K,
56 type kháng nguyên H và một số kháng nguyên F.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Sau đây là cấu trúc của các kháng nguyên E.coli mà các nhà khoa học đã
dày công nghiên cứu:
* Kháng nguyên O (Somatic): là thành phần của thân vi khuẩn bao bọc
các vật chất di truyền bên trong. Theo Zinner và cs (1983) [119] kháng nguyên
thân được coi như một loại độc tố, có thể tìm thấy ở màng ngoài vỏ của vi khuẩn
và thường xuyên được giải phóng vào môi trường nuôi cấy.
Các đặc tính của kháng nguyên O là: không bị phá hủy khi đun nóng ở
nhiệt độ 100
0
C trong hai giờ (nên người ta gọi đây là đặc tính chịu nhiệt); các
chất cồn và acide HCL nồng độ 1N chịu được 20 giờ. Kháng nguyên O rất độc,
chỉ cần 1/20 mg đã đủ giết chết một chuột nhắt trắng sau 24 giờ, nhưng nó lại bị
phá hủy bởi Formaline 0,5%.
Kháng nguyên O được cấu trúc bởi các thành phần:
- Protein: làm cho phức hợp có tính kháng nguyên
- Polyosit: Tạo ra tính đặc hiệu của kháng nguyên
- Lipit: Kết hợp với polyosit và là cơ sở của độc tính.
* Kháng nguyên H (Flagellar): hay còn gọi là kháng nguyên lông của vi
khuẩn và có bản chất là protein.
Kháng nguyên H có các đặc tính như: dễ bị phá hủy ở nhiệt độ 60
0
C
trong vòng 1 giờ; dễ bị cồn, acide yếu và các enzime phân giải protein phá
hủy; tuy nhiên dưới tác động của formaline 0,5% thì kháng nguyên H vẫn tồn
tại. Kháng nguyên H khi gặp kháng thể tương ứng sẽ xảy ra hiện tượng ngưng
kết H, trong đó có các vi khuẩn được ngưng kết lại với nhau nhờ lông dính
với lông. Các kháng thể kháng H cố định trên lông và là cầu nối với các lông
bên cạnh. Kết quả tạo nên những hạt ngưng kết giống như những cục bông
nhỏ. Nhờ các sợi lông nhỏ và dài nên khi các hạt ngưng kết lại dễ bị tan và
đứt. Các vi khuẩn di động khi cho tiếp xúc với kháng nguyên H tương ứng sẽ
trở thành không di động.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Theo Orskov và cs (1980) [101] cho rằng: Kháng nguyên H của vi khuẩn
E.coli không có vai trò về độc lực, đồng thời không có vai trò trong đáp ứng
miễn dịch nên ít được quan tâm nghiên cứu, nhưng nó có ý nghĩa rất lớn trong
xác định giống, loài của vi khuẩn.
* Kháng nguyên K (Capsular): còn gọi là kháng nguyên vỏ. Kháng
nguyên này có đặc tính ngăn cản sự ngưng kết của kháng nguyên O với kháng
nguyên O tương ứng, nhưng khi đun nóng ở nhiệt độ 100-121
0
C thì kháng
nguyên K sẽ mất tác dụng ngăn cản này.
Vai trò của kháng nguyên K còn có nhiều quan điểm khác nhau, có ý kiến
cho rằng nó không có ý nghĩa về độc lực. Vì vậy, chủng E.coli có kháng nguyên
K cũng giống như chủng không có kháng nguyên K, Orskov và cs (1980) [101].
Theo Evan và cs (1973) [80] lại cho rằng: Kháng nguyên K lại có ý nghĩa
về độc lực vì nó tham gia bảo vệ vi khuẩn trước các yếu tố phòng vệ của cơ thể.
Kháng nguyên vỏ (K) gồm ba loại kháng nguyên là L, A và B
- Kháng nguyên L: Bị phân hủy khi đun sôi ở 100
0
C trong 1 giờ (Kháng
nguyên không chịu nhiệt), trong điều kiện đó kháng nguyên mất khả năng ngưng
kết và không giữ được tính kháng nguyên.
- Kháng nguyên A: không bị phân hủy ở nhiệt độ 100
0
C trong 2 giờ 30
phút, tính kháng nguyên vẫn giữ nguyên nên người ta gọi là kháng nguyên
chịu nhiệt.
- Kháng nguyên B: Loại này bị phân hủy khi đun sôi ở 100
0
C trong 1 giờ
(Kháng nguyên không chịu nhiệt).
Kháng nguyên K và yếu tố bám dính là yếu tố quyết định của vi khuẩn
E.coli để gây được bệnh trong đường tiêu hóa của động vật. Để thực hiện chức
năng này, mỗi loại vi khuẩn đều sản sinh ra một yếu tố đặc trưng, yếu tố này có
cấu trúc đặc biệt phù hợp với cấu trúc của từng điểm tiếp nhận ở trên tế bào
nhung mao ruột.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
* Kháng nguyên F (Fimbrae) (hay còn gọi là kháng nguyên pili): Ngoài
lông vi khuẩn E.coli ra, còn có những sợi gần giống với lông đó là pili. Pili hay
còn gọi là Fimbrae và có bản chất là protein. Dưới kính hiển vi điện tử, chúng có
hình ảnh một chiếc áo lông bao bọc xung quanh vi khuẩn. Pili của vi khuẩn khác
với lông ở chỗ là ngắn hơn, cứng hơn, không lượn sóng và không liên quan đến
chuyển động. Kháng nguyên F có chức năng là giúp vi khuẩn bám giữ vào giá
thể (màng nhầy của đường tiêu hóa), hay còn gọi là bám dính. Yếu tố bám dính
có vai trò quan trọng trong việc tạo ra độc tố đường ruột và kích thích cơ thể gia
súc thực hiện đáp ứng miễn dịch. Hầu hết các chủng ETEC đều có mang 1 hoặc
nhiều các yếu tố bám dính như: F4(K88), F5(K99), F6(987), F17, F18, F41. Ở
lợn, các chủng vi khuẩn ETEC gây bệnh tiêu chảy chủ yếu nhất thường mang
các yếu tố bám dính sau đay:
- Kháng nguyên F4(K88): loại này có khả năng làm ngưng kết hồng cầu
và nó có mặt ở các chủng E.coli phân lập từ lợn con bị ỉa chảy, đây là yếu tố độc
lực đối với lợn và không có khả năng gây bệnh đối với loài gia súc khác. Bởi vì
trên bề mặt tế bào biểu mô ruột non của các loài gia súc khác nhau chỉ cho phép
một số serotype E.coli nhất định nào đó được gắn kháng nguyên F mà thôi, vì ở
đó phụ thuộc vào receptor đặc hiệu, Gyles (1992) [86].
- Kháng nguyên F5(K99): Trước kia tìm thấy kháng nguyên F5 chỉ gây
bệnh cho bê, nghé, dê và cừu. Tuy nhiên hiện nay, F5 cũng được tìm thấy ở các
chủng E.coli thuộc nhóm ETEC phân lập từ lợn con tiêu chảy (Links và cs,
1985) [95]. Sự sản sinh F5 phụ thuộc vào nhiều yếu tố của vi khuẩn như: Tốc độ
sinh tổng hợp F5 nằm trên DNA của plasmid (Isaacson, 1977) [89].
- Kháng nguyên F41: Theo Cox E và cs (1993) [78] đã nghiên cứu trong
phòng thí nghiệm về khả năng mẫn cảm và sức đề kháng của lợn đối với vi
khuẩn E.coli có F41. Kết quả cho biết các chủng có F41 bám vào lông nhung
của 23 lợn trong số 30 lợn từ 4 đến 5 tuần tuổi được kiểm tra. Những lợn lớn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
tuổi hơn có sức đề kháng với sự bám dính của các chủng E.coli có kháng nguyên
F41, vì các receptor tương ứng với F41 bị giảm đi về số lượng.
1.3.2. Đặc tính sinh hóa học của Salmonella
1.3.2.1. Đặc tính về hình thái
Salmonella là một loại hình gậy ngắn, hai đầu tròn, kích thước 0,4 - 0,6 x
1 - 3µ, không hình thành nha bào và giáp mô, phần lớn giống Salmonella thường
có từ 7 – 12 lông nên có khả năng di động được. Bắt màu Gram âm, dễ nhuộm
với các thuốc nhuộm thông thường, Nguyễn Quang Tuyên (2008) [66].
Cũng giống như vi khuẩn đường ruột khác, vi khuẩn Salmonella dưới
kính hiển vi điện tử người ta phát hiện được trên bề mặt vi khuẩn thì ngoài lông
ra còn có cấu trúc hình thái gần giống với lông nhưng ngắn hơn đó là cấu trúc
Fimbriae, Lê Văn Tạo (1993) [51].
1.3.2.2. Đặc tính về nuôi cấy
Vi khuẩn Salmonella sống được ở điều kiện hiếu khí và yếm khí, nhiệt độ
thích hợp 37
o
C, pH 7,2 - 7,6. Salmonella gây bệnh cho động vật sinh trưởng tốt
ở môi trường hiếu khí hơn ở môi trường yếm khí.
Môi trường nước thịt: sau khi cấy 18 giờ canh trùng đục đều, nếu nuôi cấy
lâu ngày thì ở đáy ống có cặn, trên mặt môi trường có màng mỏng.
Môi trường thạch thường: hình thành những khuẩn lạc tròn, trong sáng,
ẩm ướt nhẵn bóng, hơi lồi lên ở giữa. Một số chủng như Salmonella
paratyphy B, Salmonella cholerae suis, sau khi cấy được 24 giờ để ngoài tủ
ấm 1 – 2 ngày thì thấy khuẩn lạc được bao bọc bằng một cái bờ chất dính,
chất keo. Salmonella typhymurium không hình thành khuẩn lạc có bờ chất
dính. Trên mặt môi trường thạch thỉnh thoảng thấy khuẩn lạc dạng R, nhám
và mờ. Salmonella abortus equi lần đầu tiên cấy từ bệnh phẩm ở môi trường
thạch hình thành khuẩn lạc khô, hình hạt lỗ chỗ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Môi trường gelatin: vi khuẩn Salmonella không làm tan chảy gelatin.
Salmonella paratyphy B sau khi cấy từ 8 – 10 ngày sinh ra nhiều chất dính, dần
dần lắng xuống đáy ống, Nguyễn Quang Tuyên (2008) [66].
Có rất nhiều loại môi trường dinh dưỡng đặc biệt để phân lập vi khuẩn
Salmonella như: Môi trường MacConkey (MacC) vi khuẩn mọc thành khuẩn lạc
tròn, không màu; hoặc trên môi trường Bismuth Sulfite Agar (BSA) thì
Salmonella những khuẩn lạc đặc trưng: xung quanh màu nâu sẫm, vào giữa màu
vàng đậm, gần đen, khuẩn lạc có màu ánh kim, Timoney và cs 1988 [116].
Theo Quinn P.J và cs (2002) [106] nuôi cấy Salmonella trên môi trường
Brilliant Green Agar (BGA) sẽ hình thành khuẩn lạc màu đỏ. Còn trong môi
trường Tryple Sugar Iron (TSI) hình thành khuẩn lạc nhạt màu, mặt nghiêng môi
trường có màu đỏ, màu hồng, ở đáy sản sinh H
2
S làm cho môi trường chuyển
màu đen.
1.3.2.3. Đặc tính về sinh hóa
Môi trường đường: trực khuẩn Salmonella phần lớn lên men và sinh hơi
đường glucoza, mannit, mantoza, galactoza, levuloza, arabinoza. Trừ một số
Salmonella sau chỉ lên men các loại đường này nhưng không sinh hơi như
S.abortus equi, S.abortus bovis, S.abortus ovis, S.typhy suis, S.gallinarum và
S.enteritidis dublin.
Salmonella pullorum không lên men đường mantoza và Salmonella
cholerae suis không lên men arabinoza.
Phần lớn các loài Salmonella không lên men lactoza và saccaroza.
Đa số các Salmonella không làm tan chảy gelatin, không thủy hóa ure,
không sản sinh Indol.
Sinh H
2
S: dương tính, trừ Salmonella paratyphy A, Salmonella equi,
Salmonella typhy suis không sản sinh H
2
S.
Phản ứng V.P: âm tính.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Phản ứng M.R: dương tính, trừ Salmonella cholerae suis, Salmonella
pullorum và Sal.gallinarum cho phản ứng M.R âm tính.
Ngươi ta thường dùng một số môi trường đặc biệt để phân lập vi khuẩn
Salmonella như:
Môi trường thạch EMB (Eosin Methylen Blue): môi trường có màu đỏ
hồng, trong môi trường EMB, xanh methylen có tác dụng hạn chế sự sinh trưởng
của vi khuẩn Gram dương. Vi khuẩn lên men đường lactoza, sinh axit nên khuẩn
lạc màu đen tím có xung quanh vàng, do axit được tạo thành kết hợp hai màu
xanh methylen và eosin thành màu đen tím. Những vi khuẩn không lên men
lactoza không làm thay đổi màu của môi trường, nên khuẩn lạc của những vi
khuẩn này có màu đỏ hồng của môi trường.
Môi trường SS (Shigella Salmonella): Trong môi trường này có natri
dezexycolat hoặc natri torocola ngăn cản sự phát triển của E.coli, Proteus và vi
khuẩn Gram dương. Khuẩn lạc của E.coli có màu đỏ, khuẩn lạc của Salmonella
và Shigella trong, trắng hoặc không màu, Nguyễn Quang Tuyên (2008) [66].
Theo Erwing Edwars (1970) [79] cho rằng: Trong môi trường có
kalixyanua, tất cả các Salmonella đều không mọc. Khoảng 96% Salmonella tiết
ra enzim khử cacboxyn đối với lyzin, ocnitin và arginin. Đa số Salmonella
không làm tan chảy gelatin, không phân giải ure, không sản sinh indol. Phản ứng
MR, catalaza dương tính (trừ S.choleraesuis, S.gallinarum). Phản ứng H
2
S
dương tính (trừ S.paratyphi, S.abortusequi, S.typhisuis).
1.3.2.4. Đặc tính về cấu trúc kháng nguyên
Vi khuẩn Salmonella có cấu trúc kháng nguyên cũng rất phức tạp, gồm
các loại kháng nguyên như: kháng nguyên O, H, K và F. Trong đó: kháng
nguyên O có 67 loại, kháng nguyên H có 94 loại thuộc pha 1 và 11 loại thuộc
pha 2, Phạm Hồng Sơn (2002) [46].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
* Kháng nguyên thân (O): là một thành phần của tế bào vi khuẩn, có
cấu trúc phân tử Lypopolysacharide chia thành ba vùng riêng biệt: vùng ưa
nước, vùng lõi và vùng lipid A.
Kháng nguyên O là kháng nguyên chịu nhiệt, có thể chịu được 100
0
C
trong nhiều giờ, chịu được cồn và axit HCL 1N trong 20 giờ, Nguyễn Như
Thanh (1990) [55].
Theo Morris va cs (1976) [96] cho rằng: Kháng nguyên O không phải
là độc tố mà là yếu tố gây bệnh của vi khuẩn, giúp vi khuẩn chống lại khả
năng phòng vệ của cơ thể, chống lại hiện tượng thực bào.
Cấu trúc kháng nguyên O không phải là một đơn chất mà gồm nhiều
phần tử kháng nguyên tạo thành, gồm 40 thành phần khác nhau được đánh số
la mã hay số Ả rập. Do sự khác nhau giữa các loài Salmonella về phương diện
cấu tạo kháng nguyên O nên người ta đã chia Salmonella ra làm 34 nhóm: A,
B, C1, C2, C3, D1, D2, E1, E2, E3, E4, F, G1, G2, H, I, J, L, M, N, O, P, Q,
R, S, T, U, V, W, X, Y, Z, 49, 50. Trong đó: nhóm A (Salmonella paratyphi
A) thì kháng nguyên O gồm ba thành phần (I, II, XII). Thành phần I khi có khi
không, thành phần II là thành phần đặc biệt dùng để phân loại về mặt huyết
thanh học với các nhóm khác; nhóm B (Salmonella paratyphi B) có kháng
nguyên O gồm 4 thành phần (I, IV, V, XII). Thành phần I và V khi có khi
không, thành phần IV là đặc biệt, Nguyễn Quang Tuyên (2008) [66].
* Kháng nguyên lông (H): Bản chất là một protein. Kháng nguyên H
không chịu nhiệt, dễ bị phá hủy ở nhiệt độ 60
0
C trong một giờ, cồn và axit
cũng dễ làm phá hủy chúng.
Kháng nguyên H không quyết định yếu tố độc lực, không có vai trò
bám dính, nhưng có tác dụng bảo vệ vi khuẩn tránh sự tiêu diệt của đại thực
bào, điều đó giúp vi khuẩn này có thể tồn tại và nhân lên về số lượng,
Weinstein và cs 1984 [117].