Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Khóa luận tốt nghiệp : Đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý môi trường tại KCN hố nai tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 93 trang )

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, tốc độ Công Nghiệp Hóa - Hiện Đại Hóa đang diễn ra mạnh mẽ góp
phần rất lớn trong sự phát triển chung của nhân loại. Hàng loạt các khu công nghiệp
(KCN) quy mô và hiện đại mọc lên nhanh chóng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội của mọi quốc gia trên thế giới. Tính đến cuối năm 2002, Việt Nam có 71 khu
công nghiệp bao gồm 67 KCN, 3 khu chế xuất (KCX), và 1 khu công nghệ cao [1].
Đến năm 2007, có 154 KCN [2]. Công Nghiệp Hóa - Hiện Đại Hóa làm cho chất
lượng sống của con người được nâng cao hơn. Song, nó cũng gây ra những hậu quả
tiêu cực cho môi trường tự nhiên như: gây mất cân bằng sinh thái, đa dạng sinh học,
ô nhiễm môi trường (ÔNMT)… Trong khi công tác quản lý môi trường (QLMT)
của các cấp chính quyền còn nhiều hạn chế như: hệ thống văn bản pháp lý về bảo vệ
môi trường (BVMT) còn chưa chặt chẽ, cụ thể và thiếu đồng bộ; các cấp chính
quyền chưa quan tâm đúng mức đối với công tác BVMT; công tác thẩm định và
đánh giá tác động môi trường chưa được coi trọng.
Cho nên, việc tìm ra phương hướng phát triển, quản lí cho các KCN đáp ứng
được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội mà ít gây tác động đến môi trường tự nhiên
như: áp dụng hệ thống QLMT theo tiêu chuẩn ISO 14001 của: KCN VISIP tại Bình
Dương, KCN Thăng Long ở Hà Nội, KCN Long Bình ở Đồng Nai… Hướng tới xây
dựng KCN sinh thái của: KCN Linh Trung ở quận Thủ Đức, KCN Nhơn Trạch 2…
đang là vấn đề quan tâm của các nhà quản lý KCN hiện nay nhằm đảm bảo sự phát
triển bền vững và lâu dài .
KCN Hố Nai - tỉnh Đồng Nai trong những năm gần đây có tốc độ phát triển
nhanh chóng. Là một KCN đang diễn ra quá trình công nghiệp hóa mạnh mẽ. Bên
cạnh đó, nó cũng thải vào môi trường một lượng lớn chất gây ÔNMT không khí do
bụi, khí thải, hơi xăng, dầu, khí độc hại, tiếng ồn, độ rung. Gây ô nhiễm nguồn nước
do nước thải sinh hoạt (NTSH) nước thải sản xuất (NTSX), nước mưa chảy tràn.
Gây ÔNMT đất do chất thải rắn (CTR) nguy hại, không nguy hai, rác thải sinh hoạt.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM


SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Gia tăng nguy cơ gây sự cố tiếng ồn (cháy, nổ). Tuy nhiên, tính đến thời điểm này
vẫn chưa có những giải pháp phù hợp nhằm định hướng KCN Hố Nai phát triển
theo hướng bền vững.
Vì vậy, việc “đánh giá hiện trạng để từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả QLMT cho KCN Hố Nai - Tỉnh Đồng Nai” là việc làm hết sức cần thiết, đảm
bảo được sự phát triển bền vững cho KCN Hố Nai trong tương lai.
1.2. Mục tiêu đề tài
Đề tài tập trung vào giải quyết các mục tiêu cụ thể sau:
Đánh giá hiện trạng QLMT KCN Hố Nai, tỉnh Đồng Nai.
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý dựa trên các phương pháp quản
lý hiệu quả hiện đang được áp dụng tại các KCN khác.
1.3. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu đề ra, đề tài cần thực hiện các nội dung sau:
- Tìm hiểu về cơ sở lý luận của QLMT.
- Thu thập các dữ liệu và khảo sát hiện trạng môi trường tại KCN Hố Nai, tỉnh
Đồng Nai.
- Đánh giá hiện trạng QLMT tại KCN Hố Nai, tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả QLMT tại KCN Hố Nai, tỉnh Đồng
Nai.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập tài liệu liên quan:
+ Tài liệu sơ cấp: thu thập số liệu tại KCN Hố Nai, tỉnh Đồng Nai. Khảo sát thực
tế tại KCN Hố Nai để nắm rõ tình hình phát thải tại các nhà máy, xí nghiệp trong
KCN.
+ Tài liệu thứ cấp: tham khảo tài liệu của nhiều tác giả, từ các báo cáo khoa học.
- Phân tích tổng hợp: trên cơ sở các thông tin cần thiết thu thập, quan sát, điều
tra tiến hành phân tích, chọn lọc rồi tổng hợp một cách logic, có hệ thống phù hợp

với mục tiêu và nội dung đề ra.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
2
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
1.5. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề QLMT tại KCN Hố Nai, tỉnh Đồng Nai.
1.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Vấn đề ô nhiễm và giải quyết ÔNMT tại các KCN là một vấn đề cấp bách và
cần thiết, nhằm bảo vệ sự trong lành của môi trường, bảo vệ sức khỏe của người lao
động bên trong KCN và người dân bên ngoài KCN. Do đó, việc đánh giá hiện trạng
QLMT cho KCN là một vấn đề hết sức cần thiết cho tỉnh Đồng Nai nói chung và
KCN Hố Nai nói riêng. Từ đó tìm ra phương pháp tối ưu để hạn chế các tác động có
hại đến môi trường cũng như sức khỏe của người lao động trong KCN và người dân
xung quanh KCN. Đề tài cũng cung cấp các số liệu phân tích về các thành phần môi
trường làm cơ sở cho việc so sánh công tác QLMT và kiểm soát ô nhiễm ở các
KCN khác.
1.7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đồ án là KCN Hố Nai thuộc xã Hố Nai 3, huyện Trảng
Bom, tỉnh Đồng Nai.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
3
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA
QLMT TẠI KCN
2.1. Tổng quan về QLMT KCN [3]
Quá trình phát triển nhanh của các khu đô thị và KCN đã gây những xáo trộn về
mặt xã hội, làm cho môi trường ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đặc biệt, thời

gian gần đây, tình trạng ÔNMT đã và đang trở thành vấn đề nóng hổi, khi các vụ vi
phạm về môi trường rất nghiêm trọng của các nhà máy trong các KCN lần lượt bị
phát giác ở nhiều địa phương (nhà máy Vedan là một điển hình). Đây là một thực
trạng đáng báo động và đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, trong khi công tác
QLMT của các cấp chính quyền còn nhiều hạn chế.
2.1.1. Những bất cập trong công tác QLMT
Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật về BVMT còn chưa chặt chẽ, cụ thể và
thiếu đồng bộ
Trong những năm gần đây, vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật về BVMT
ở nước ta đã được quan tâm (khoảng 300 văn bản). Việc ban hành Luật BVMT năm
1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 2005) và các văn bản dưới luật để cụ thể Luật này
đã góp phần tạo nên môi trường pháp lý điều chỉnh các hoạt động kinh tế - xã hội
nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững. Tuy vậy, hệ thống văn bản pháp luật về
BVMT hiện nay còn chưa đầy đủ, hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ: thiếu những văn
bản chi tiết hướng dẫn việc thực hiện BVMT thiếu chính sách cụ thể khuyến khích
ngành công nghiệp môi trường, xã hội hoá công tác BVMT; thiếu quy định cụ thể
khuyến khích sử dụng các sản phẩm dán nhãn sinh thái Rất nhiều văn bản pháp
luật đã được ban hành, nhưng nội dung từng lĩnh vực vẫn chưa được tập hợp một
cách có hệ thống.
Một vấn đề khác là tính ổn định của văn bản pháp luật về BVMT không cao. Có
những văn bản mới ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung, như Nghị định số
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
4
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật BVMT, đến ngày 28/2/2008 đã phải sửa đổi, bổ sung
bằng Nghị định số 21/2008/NĐ-CP. Ngoài ra, các điều kiện đảm bảo công tác
BVMT, bổ sung nguồn nhân lực và các trang thiết bị cần thiết, nhất là cho các tổ
chức cấp cơ sở, nâng cao nhận thức của người dân và cán bộ quản lý cũng không có

trong quy định. Bên cạnh đó, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính được ban hành ngày 2/4/2008 tuy có bổ sung thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính, nhưng vẫn chưa bổ sung thẩm quyền áp dụng các biện
pháp ngăn chặn (tạm giữ người, tang vật, phương tiện hay khám xét,…) cũng như
các quy định được sử dụng các phương tiện kỹ thuật để phát hiện, truy tìm đối
tượng, thu thập chứng cứ, phân tích dấu vết vi phạm pháp luật BVMT.
Thứ hai, các cấp chính quyền chưa quan tâm đúng mức đối với công tác BVMT.
ÔNMT hiện là vấn đề “nóng” trên phạm vi cả nước, không phải là vấn đề riêng
của địa phương nào. Tuy nhiên, sự phối hợp mang tính liên tỉnh, liên vùng nhằm đối
phó với tình trạng này vẫn còn nhiều bất cập.
Việc đề ra những yêu cầu về môi trường theo một “chuẩn” chung là rất khó, do đó
vẫn còn nhiều địa phương đưa ra những tiêu chuẩn thấp về môi trường (một phần còn
do tình trạng cạnh tranh thu hút đầu tư). Như vậy, nếu dự án gây ô nhiễm bị từ chối
cấp phép ở tỉnh này nhưng lại được cấp phép ở một tỉnh khác thì tình hình ô nhiễm sẽ
rất khó giải quyết. Đây có thể là kết quả của việc thiếu một quy chế rõ ràng và nhất
quán về việc hạn chế gây ô nhiễm, trong đó phải có sự phối hợp của các địa phương.
Việc xác định rõ cơ chế phối hợp giữa lực lượng cảnh sát môi trường và thanh
tra tài nguyên - môi trường cũng đang là vấn đề đặt ra. Lực lượng cảnh sát môi
trường được thành lập và hoạt động từ tháng 11/2006, nhưng chưa có chức năng xử
lý vi phạm, chỉ kiểm tra, phát hiện rồi chuyển hồ sơ cho ngành tài nguyên - môi
trường ra quyết định xử phạt, theo đó, chưa thực sự phát huy hiệu lực xử lý. Ngoài
ra, mối liên hệ giữa lực lượng chuyên trách về QLMT và các thành phần có chức
năng giám sát môi trường khác còn chưa chặt chẽ. Việc thiếu những hoạt động phối
hợp cụ thể như tuyên truyền, đào tạo, giáo dục về môi trường cũng khiến cho ý
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
5
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
thức, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và cộng đồng trong việc tự giác tham gia
BVMT chưa cao.

Tình trạng bị động và đùn đẩy trách nhiệm cũng là một thực tế khó có thể chấp
nhận. Việc tố giác, khiếu nại hành vi gây ÔNMT của người dân địa phương tại một
số nơi không được coi trọng. Các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương, cấp cơ sở
như công an, ban môi trường, trật tự đô thị xã (phường, thị trấn) có hiện tượng đùn
đẩy trách nhiệm, làm ngơ trước những thiệt hại về sức khoẻ, về tài sản của người
dân đang phải sinh sống trong môi trường ô nhiễm. Việc phải qua rất nhiều tầng,
nấc hành chính trước khi vấn đề về môi trường được nhận thức và giải quyết đang
gây ra nhiều thiệt hại không đáng có, làm mất lòng tin của người dân, tạo ra ý thức
coi thường pháp luật của các chủ cơ sở sản xuất (CSSX).
Trong thời gian qua, những vụ án về môi trường vẫn đang là vấn đề nổi cộm và
thu hút sự chú ý của nhân dân. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm về BVMT của các cấp chính quyền địa phương cũng bộc lộ không ít yếu kém.
Việc thanh tra, kiểm tra tại nhiều CSSX nhiều năm trước vẫn chỉ là những hoạt
động chiếu lệ, khi mà các doanh nghiệp gây ô nhiễm sử dụng những công nghệ lạc
hậu và thiếu các thiết bị xử lý ÔNMT vẫn tiếp tục hoạt động cho đến thời gian gần
đây mới bị phát giác. Các hành vi vi phạm BVMT thường được xử lý bằng xử phạt
hành chính và mức xử phạt hiện nay chưa đủ độ răn đe cần thiết, do đó, các doanh
nghiệp chưa thực sự ý thức được những hậu quả của hành vi do họ gây ra, và việc
tái vi phạm, thậm chí với mức độ trầm trọng hơn thường xuyên diễn ra.
Thứ ba, công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường (ĐTM) chưa được coi
trọng.
Một trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môi trường tại nước ta
bắt nguồn từ những yếu kém của khâu đầu tiên trong quá trình phê duyệt và cấp
phép dự án đầu tư, trong đó, hoạt động thẩm định và ĐTM còn nhiều hạn chế dẫn
đến chất lượng của báo cáo ĐTM còn thấp, chất lượng thẩm định của hội đồng thẩm
định dự án chưa cao.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
6
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Theo Luật BVMT và các văn bản pháp luật có liên quan, các chủ đầu tư phải có
Báo cáo ĐTM. Đây là công cụ QLMT được áp dụng cho từng dự án cụ thể nhằm
đánh giá mức độ và phạm vi tác động môi trường của dự án, đồng thời đưa ra các
giải pháp để giảm thiểu, hạn chế tác động tiêu cực vào môi trường. Báo cáo ĐTM
được lập và thẩm định trước để đánh giá tính khả thi về mặt môi trường của dự án
với mục đích tham mưu cho cấp lãnh đạo đồng ý cho triển khai đầu tư dự án hay
không. Song, thực tế cho thấy các báo cáo ĐTM vẫn còn được lập một cách máy
móc, rập khuôn, không thể hiện hết các tác động, đặc biệt là các tác động tiềm tàng
của dự án, gây khó khăn và tiêu tốn nhiều thời gian cho công tác thẩm định. Hoạt
động thẩm định và ĐTM đang gặp phải nhiều vướng mắc, chất lượng thẩm định và
phê duyệt chưa cao. Điều này bắt nguồn từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan
như:
- Do các dự án thuộc nhiều loại hình khác nhau, từ công nghiệp nặng đến các
ngành công nghiệp nhẹ, trong khi các Sở Tài nguyên và Môi trường chưa có nhiều
kinh nghiệm trong việc ĐTM của các dự án này.
- Việc thiếu chuyên gia am hiểu từng lĩnh vực tham gia vào hội đồng thẩm định
để phản biện những vấn đề liên qua đến môi trường của từng hoạt động riêng biệt
cũng là một nhân tố khiến cho kết quả và chất lượng thẩm định, ĐTM không cao.
- Trình độ của đội ngũ chuyên gia tham gia vào hội đồng thẩm định có vai trò
quyết định đối với chất lượng của khâu thẩm định và đánh giá, do các chuyên gia có
kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực hoạt động của mình và am hiểu về lĩnh vực môi
trường. Tuy nhiên, thành phần của hội đồng thẩm định được quy định như hiện nay
chưa đảm bảo tính khách quan, trung thực trong đánh giá. Luật đã quy định, 50% số
thành viên của hội đồng thẩm định là các nhà môi trường, nhưng chưa nêu rõ các
yêu cầu về trình độ, bằng cấp. Cũng do quy định chưa rõ ràng nên đã xảy ra trường
hợp thành viên tham gia hội đồng thẩm định có kiến thức về ĐTM nhưng không
hiểu biết nhiều về tính chất dự án cần thẩm định, hoặc am hiểu về dự án nhưng lại
không có kiến thức về ĐTM, hoặc cả hai. Việc thiếu đại diện của chính những
người dân sinh sống xung quanh khu vực dự án được thực hiện cũng khiến cho việc
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM

SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
7
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
đánh giá thiếu khách quan, trong khi họ chính là đối tượng chịu tác động mạnh nhất
khi dự án đi vào thực hiện và có vấn đề về môi trường.
2.1.2. Một số kiến nghị
Để khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác QLMT tại các KCN nước
ta hiện nay, Nhà nước cần tập trung thực hiện một số việc cụ thể sau:
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp lý với những chế tài đủ mạnh tuỳ theo tính
chất, mức độ và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trong bối cảnh môi trường nước ta đang xuống cấp nghiêm trọng với sự ra đời
của hàng loạt các hoạt động sản xuất mới không có quy định trong Luật, do đó, việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT là cần thiết. Hệ thống pháp luật này cần
đổi mới xây dựng theo hướng quy định rõ ràng, chặt chẽ, bám sát thực tiễn sản xuất,
kinh doanh của các đơn vị nhằm phát hiện và xử lý đúng những hành vi vi phạm
BVMT, đồng thời quy định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm của người thực hiện
các dự án đầu tư trong giai đoạn đầu. Việc triển khai thực hiện phải tiến hành
nghiêm túc, trong giai đoạn đầu có thể cưỡng chế thực hiện cho đến khi đi vào nền
nếp.
Mặc dù Luật BVMT năm 2005 đã có những điều chỉnh khá toàn diện về công
tác BVMT trong tình hình mới, cũng như tăng cường phân cấp quản lý cho uỷ ban
nhân dân các cấp, nhưng bên cạnh những nội dung được quy định chi tiết, dễ triển
khai thực hiện, Luật cũng đang bộc lộ một số bất cập cần tiếp tục phải sửa đổi, bổ
sung và điều chỉnh cho phù hợp như: xác nhận cam kết BVMT của các dự án nằm
trong KCN, KCX, quy định điều chỉnh đối với những dự án đã đi vào hoạt động
trước tháng 7/2006 mà không có báo cáo thẩm định môi trường hoặc bản đăng ký
đạt tiêu chuẩn môi trường; quy định trách nhiệm kiểm tra, thanh tra theo phạm vi
quản lý nhà nước các cấp…Việc tiếp tục điều chỉnh Luật phù hợp với điều kiện mới
sẽ hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện với con người.
Hai là, cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan trong việc

thẩm định ĐTM đối với các dự án ngay từ thời điểm xem xét ra quyết định cấp giấy
phép đầu tư.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
8
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Để giải quyết tốt vấn đề môi trường, cần có một bài toán tổng hợp với sự tham
gia của nhiều cấp, ngành từ trung ương đến địa phương, tuy nhiên, đây là một bài
toán rất khó.
Giải quyết vấn đề nêu trên, trước hết, phải đẩy mạnh công tác quản lý về môi
trường thông qua việc kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc cấp giấy phép đầu tư đối
với các dự án mới về các mặt như: các sản phẩm phát sinh của quá trình sản xuất,
phương án xả thải và xử lý môi trường sau sản xuất cũng như công tác quản lý cấp
giấy phép xả nước thải Cần xây dựng những cam kết và ràng buộc cụ thể về
quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với địa phương sở tại trong việc xử
lý các tác hại có thể và chưa thể kiểm soát của môi trường; tạo cơ chế phối hợp chặt
chẽ trong công tác chuyên môn giữa Thanh tra môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi
trường) và Cục Cảnh sát môi trường (Bộ Công an) trong việc QLMT.
Việc tăng cường phối hợp giữa Thanh tra môi trường và Cục Cảnh sát môi
trường là yêu cầu hết sức quan trọng, góp phần giải quyết các vụ việc nhanh chóng,
khẩn trương, tăng cường sức mạnh răn đe đối với các doanh nghiệp có hành vi gây
ÔNMT, tránh tình trạng thủ tục bị cắt khúc, khiến việc xử lý còn sót, chưa nghiêm
minh. Bởi vì, mỗi cơ quan có đặc thù, chức năng, nhiệm vụ khác nhau và có thể bổ
sung cho nhau trong thực hiện nhiệm vụ giám sát, BVMT. Cảnh sát môi trường có
thể kiểm tra đột xuất bất cứ đơn vị nào có dấu hiệu vi phạm nên có thể xử lý nhanh,
mạnh từng vụ việc, trong khi Thanh tra môi trường hoạt động phải theo chương
trình, muốn thanh tra đơn vị nào thì phải có kế hoạch, phải báo trước nên có trường
hợp khi thanh tra xuất hiện thì vi phạm đã được phi tang, che lấp.
Ba là, sử dụng công cụ chính sách như thu thuế, thu phí chất thải hợp lý để tái
đầu tư cho BVMT.

Thuế, phí môi trường là một trong những công cụ quan trọng mà các quốc gia
trên thế giới thường dùng trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô, hạn chế những
ngoại ứng bất lợi của quá trình sản xuất và thu lại tiền nhằm tái phân phối, tái đầu tư
cho môi trường. Thuế sẽ khuyến khích và nâng đỡ các hoạt động kinh tế có lợi cho
môi trường, nâng cao chất lượng môi trường, đồng thời thu hẹp, kìm hãm các hoạt
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
9
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
động kinh tế gây ô nhiễm, huỷ hoại môi trường. Bản chất thuế là các khoản thu
mang tính chất bắt buộc, cưỡng bức theo pháp luật, không bồi hoàn trực tiếp, do
vậy, nó sẽ tác động trực tiếp đến hành vi của người phải nộp thuế. Đó cũng là cách
thức chi trả cho sự tiêu dùng liên quan đến môi trường.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, các loại thuế, phí này còn chưa đầy đủ, chưa được sử
dụng rộng rãi và thuế môi trường ở đây mới chỉ được hiểu là tiền trả cho việc thu
gom, xử lý chất thải, rác thải của quá trình sản xuất và hầu hết là chi phí thấp, đặc
biệt là các làng nghề nông thôn. Sự dễ dãi trong công tác QLMT, chi phí xả thải
thấp khiến cho nhiều doanh nghiệp nước ngoài đưa công nghệ cũ, lạc hậu vào Việt
Nam làm cho môi trường sản xuất nói riêng, môi trường tại địa phương có KCN nói
chung bị ô nhiễm trầm trọng.
Việc xây dựng hệ thống thuế, phí cần thực hiện theo nguyên tắc: tuỳ theo khối
lượng, tính chất, mức độ của chất xả thải, xả thải càng nhiều, chất xả thải càng nguy
hiểm thì càng phải trả tiền nhiều, tuy nhiên, đến một mức độ nhất định thì cơ sở gây
ô nhiễm phải bị đình chỉ hoạt động sản xuất hoặc đóng cửa; thuế, phí phải được
đánh vào tất cả các hành vi gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người nói
riêng, của hệ thống môi trường nói chung như ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không
khí, ô nhiễm âm thanh, ô nhiễm rác thải Khung định mức của các loại thuế này
cần rõ ràng, dễ hiểu để các doanh nghiệp có thể hiểu và tự kiểm soát hành vi xả thải
của mình. Thuế, phí môi trường, một mặt là nguồn kinh phí để Nhà nước tái đầu tư
vào các công trình hạ tầng như các nhà máy xử lý nước thải (XLNT), các khu chôn

lấp, xử lý, tiêu huỷ rác thải công nghiệp, mặt khác nhằm hạn chế các doanh nghiệp
gây ÔNMT. Về lâu dài, thuế, phí trở thành một biện pháp để nâng cao tinh thần,
trách nhiệm đối với môi trường của các doanh nghiệp sản xuất.
Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện và xử
lý kịp thời những doanh nghiệp vi phạm.
Công tác thanh tra, kiểm tra đối với các hành vi vi phạm môi trường của nước ta
trong thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn là do lực lượng cán bộ làm
công tác môi trường của Việt Nam vừa mỏng lại vừa yếu. Bên cạnh những khó
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
10
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
khăn do khung pháp lý cho công tác QLMT còn nhiều hạn chế (như đã nêu trên), thì
sự hạn chế về số lượng cán bộ cũng như chuyên môn yếu khiến cho việc thanh tra,
kiểm tra các CSSX không thể tiến hành thường xuyên, liên tục, khiến cho việc vi
phạm BVMT diễn ra nhiều lần mà cơ quan chức năng không thể xử lý kịp hoặc có
tình trạng kiểm tra, xử phạt nhưng doanh nghiệp lại tái diễn ngay sau đó. Đồng thời,
sự xuống cấp về đạo đức của một số cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra, thẩm
định, cấp giấy phép về chất lượng môi trường là một trong những nguyên nhân
khiến cho các hành vi vi phạm Luật BVMT tái diễn và bất chấp phản ứng của dư
luận.
Để nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường, cần chú trọng
một số vấn đề như tăng cường số lượng cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra môi
trường; nâng cao trình độ, nghiệp vụ của cán bộ làm công tác môi trường phù hợp với
sự phát triển. Là một ngành nghề nhạy cảm, độc hại nên để có thể thu hút các cán bộ
trẻ có tâm huyết cần thiết là phải có chính sách ưu đãi hợp lý. Nguồn kinh phí có thể
lấy từ nguồn thuế và lệ phí xả thải, thu xử phạt đối với các hành vi vi phạm của doanh
nghiệp; bên cạnh đó, cần tăng cường giáo dục ý thức, trách nhiệm đối với đội ngũ
làm công tác kiểm tra, giám sát và thẩm định các dự án đầu tư, xây dựng, sản xuất.
Năm là đẩy mạnh việc áp dụng các công nghệ mới, giải pháp quản lý tiên tiến

phù hợp với điều kiện Việt Nam thông qua các chính sách hỗ trợ tài chính, nguồn
nhân lực cũng như kiến thức của các chuyên gia.
2.2. Hệ thống nhà nước về QLMT KCN [4]
So với những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006-2010, tỷ lệ các KCN đã đi vào
hoạt động có công trình XLNT tập trung đi vào vận hành đã tăng lên đáng kể, từ
gần 35% trong năm 2006 lên 60% năm 2011. Dự kiến Kế hoạch 5 năm 2011-2015
đã đặt ra mục tiêu đến năm 2015, 100% các KCN đã đi vào hoạt động có công trình
XLNT tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
11
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2.2.1. Một số kết quả đã đạt được
Hiện nay trên địa bàn cả nước có 260 KCN đã được thành lập với tổng diện tích
hơn 71.000 ha, trong đó có 173 KCN đã đi vào hoạt động, 87 KCN đang giải phóng
mặt bằng và xây dựng cơ bản. Trong đó, 105 KCN đã xây dựng và đi vào vận hành
công trình XLNT tập trung, chiếm 60% tổng số các KCN đã đi vào hoạt động.
Ngoài ra, còn 43 KCN đang xây dựng công trình XLNT tập trung và dự kiến đưa
vào vận hành trong thời gian tới.
Như vậy, so với những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006-2010, tỷ lệ các KCN
đã đi vào hoạt động có công trình XLNT tập trung đi vào vận hành đã tăng lên đáng
kể, từ gần 35% trong năm 2006 lên 60% năm 2011. Dự kiến Kế hoạch 5 năm 2011-
2015 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2015, 100% các KCN đã đi vào hoạt động có công
trình XLNT tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
Ngoài việc tăng số lượng KCN xây dựng và vận hành công trình XLNT tập
trung, theo báo cáo của nhiều địa phương, đặc biệt là các địa phương tập trung
nhiều KCN như Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, ý thức BVMT
của các chủ đầu tư hạ tầng KCN cũng như của các doanh nghiệp thứ cấp trong KCN
cũng đã được cải thiện theo hướng tích cực. Các sở, ngành ở địa phương đã tập
trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc doanh nghiệp thực hiện pháp luật về BVMT.

2.2.2. Một số biện pháp quản lý đã thực hiện
Để có được những kết quả nêu trên, trong thời gian qua, các cơ quan quản lý
Nhà nước đối với lĩnh vực môi trường KCN đã nỗ lực xây dựng và ban hành cơ
chế, chính sách và triển khai thường xuyên nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn
doanh nghiệp thực hiện pháp luật về BVMT. Một số công việc cụ thể đã triển khai
là:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT
ngày 15/7/2009 quy định về BVMT khu kinh tế (KKT), khu công nghệ cao, KCN
và cụm công nghiệp, trong đó quy định cụ thể những nhiệm vụ của công ty phát
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
12
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
triển hạ tầng, doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển của KCN. Đây là một
trong những cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác QLMT KCN.
- Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 quy định
về KCN, KCX, KKT, trong đó quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Ban quản lý
KCN, KKT trong công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM, xác nhận bản cam
kết BVMT theo hướng tăng cường phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý KCN, KKT
trong thực hiện một số nhiệm vụ BVMT KCN, KKT. Việc tăng cường phân cấp, ủy
quyền cho Ban quản lý KCN, KKT đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Ban quản lý
KCN, KKT-cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp các KCN, KKT thực hiện sát sao
hơn nhiệm vụ quản lý, kiểm tra, giám sát môi trường KCN, KKT.
- Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày
19/3/2009 về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương cho xây dựng cơ sở hạ tầng
KCN ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (thay thế Quyết định
183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004). Theo đó, các KCN ở địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn được ngân sách Trung ương hỗ trợ một phần cho xây
dựng công trình XLNT tập trung cho KCN. Việc triển khai Quyết định số
183/2004/QĐ-TTg và Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg đã góp phần tích cực trong

việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng công trình XLNT tập trung ở các địa phương có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng thường xuyên có văn bản chỉ đạo, đôn đốc,
hướng dẫn các địa phương tăng cường QLMT KCN, KKT; phối hợp với Bộ Tài
nguyên và Môi trường triển khai thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động của các
KCN, KCX, KKT, trong đó có tình hình BVMT KCN, KCX, KKT; tổ chức các hội
thảo chuyên đề về BVMT KCN, KCX, KKT, qua đó thu thập thông tin, ý kiến của
các cơ quan Nhà nước Trung ương, địa phương và doanh nghiệp để nắm bắt tình
hình thực tế, nghiên cứu điều chỉnh các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu
quả BVMT KCN, KCX, KKT.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
13
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2.2.3. Những hạn chế, bất cập
Nỗ lực của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc cải thiện, nâng cao hiệu
quả công tác BVMT KCN, KCX, KKT trong thời gian qua đã được khẳng định qua
ý kiến của nhiều địa phương và doanh nghiệp và được thể hiện qua những kết quả
cụ thể nói trên.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, vẫn còn những hạn
chế, bất cập trong công tác tuân thủ pháp luật BVMT của một số KCN và doanh
nghiệp KCN cũng như công tác quản lý Nhà nước về BVMT. Những vấn đề hạn
chế, bất cập chủ yếu là: việc tuân thủ pháp luật về BVMT của doanh nghiệp còn
yếu; việc xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, nước thải tại một số KCN còn chưa
được thực hiện nghiêm túc, ảnh hưởng tới MTTN, môi trường sống của người dân
khu vực xung quanh KCN.
Những hạn chế, bất cập này do các nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong
đó một số nguyên nhân chủ yếu là:
- Ý thức tuân thủ pháp luật về BVMT của công ty phát triển hạ tầng KCN,
doanh nghiệp KCN còn hạn chế;

- Tại một số địa phương do còn khó khăn đã chỉ tập trung thu hút các dự án đầu
tư, chưa chú trọng đến công tác BVMT của các dự án;
- Bộ máy, biên chế của các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan đến BVMT
KCN, KKT còn mỏng ở cả cấp Trung ương và địa phương, chưa đáp ứng được mức
độ phát triển ngày càng lớn của các KCN, KKT và doanh nghiệp KCN, KKT;
- Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan cấp Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Tài nguyên và Môi trường) và cấp địa phương (Ban quản lý KCN, khu kinh tế,
Sở Tài nguyên và Môi trường, cảnh sát môi trường) còn chưa thực sự chặt chẽ,
thường xuyên.
- Theo Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008, một số Ban quản lý KCN,
KKT đã thành lập bộ phận Thanh tra, nhưng vai trò của Ban quản lý KCN, KKT
trong công tác thanh tra KCN, KKT nói chung và môi trường KCN, KKT nói riêng
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
14
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
còn chưa rõ ràng do pháp luật hiện hành về Thanh tra không quy định Thanh tra
Ban quản lý KCN, KKT trong hệ thống thanh tra Nhà nước.
- Tại các Ban quản lý KCN, KKT có phòng Môi trường, tuy nhiên chưa được
trang bị các thiết bị, dung cụ quan trắc cần thiết để kịp thời phát hiện những sai
phạm trong công tác môi trường. Mặt khác, theo pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính, Ban quản lý KCN, KKT không có quyền xử phạt vi phạm hành chính khi
phát hiện các sai phạm về môi trường nên làm giảm hiệu quả công tác QLMT.
- Ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho xây dựng công trình XLNT tập trung ở các địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn còn hạn chế. Mặt khác, việc huy động
các nguồn vốn đầu tư cho xây dựng công trình XLNT còn nhiều khó khăn. Doanh
nghiệp phát triển hạ tầng KCN gặp nhiều trở ngại về thủ tục vay vốn từ Quỹ môi
trường, ngân hàng, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): nguồn vốn vay hạn chế, lãi
suất cao, điều kiện cho vay phức tạp do dự án xây dựng công trình XLNT khó hoàn
vốn.

* Nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới
Để thực hiện tốt hơn công tác BVMT KCN, trong thời gian tới cần tập trung
thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
2.2.4. Thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về
BVMT KCN, KKT
Trong năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ chủ trì, phối hợp với một số bộ,
ngành liên quan triển khai một cuộc kiểm tra tình hình thực hiện quy hoạch KCN ở
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam-nơi tập trung nhiều KCN nhất cả nước, trong đó
có nội dung kiểm tra tình hình, tiến độ xây dựng công trình XLNT tập trung của các
KCN. Trong năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng sẽ chủ trì tổ chức ba cuộc
kiểm tra tình hình sử dụng vốn hỗ trợ ngân sách Trung ương cho xây dựng một số
hạng mục hạ tầng KCN (công trình XLNT tập trung, giải phóng mặt bằng, xây dựng
đường trục chính theo Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày 19/3/2009 của Thủ
tướng Chính phủ) tại một số địa phương vùng Trung du và miền núi Bắc bộ, miền
Trung và Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
15
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2.2.5. Tiếp tục triển khai công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch KCN đảm
bảo hiệu quả, chặt chẽ
Giám sát chặt chẽ, chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thành lập KCN đúng theo
Quy hoạch tổng thể phát triển KCN cả nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt,
đáp ứng đủ điều kiện thành lập mới, mở rộng KCN theo quy định; triển khai xây
dựng các công trình cơ sở hạ tầng KCN, trong đó có các công trình xử lý chất thải
KCN theo đúng quy hoạch chi tiết KCN được duyệt và tiến độ đã cam kết. Ngoài
ra, trong quý I/2011, trong chương trình tổng kết 20 năm xây dựng và phát triển
KCN, KKT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổ chức Hội thảo chuyên đề về môi trường
KCN, KKT để các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp phát triển hạ tầng và
doanh nghiệp KCN, KKT thảo luận, đề xuất hoàn thiện các cơ chế, chính sách về

môi trường KCN, KKT trong thời gian tới để đảm bảo thực hiện nghiêm túc vấn đề
BVMT KCN, KKT.
2.2.6. Nghiên cứu, điều chỉnh cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước đối với lĩnh
vực môi trường KCN
Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tổ chức điều tra, nghiên cứu toàn diện tình
hình BVMT, xây dựng công trình XLNT tập trung trong KCN để đề xuất các biện
pháp tổng thể điều chỉnh cơ chế, chính sách hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả
công tác BVMT KCN. Trong thời gian tới, cơ chế, chính sách quản lý KCN, KKT
trong lĩnh vực môi trường cần điều chỉnh theo hướng:
- Xây dựng cơ chế phân công trách nhiệm và phối hợp giữa Sở Tài nguyên và
Môi trường, Ban quản lý KCN, KKT địa phương, cảnh sát môi trường trong công
tác thanh tra, kiểm tra, quản lý Nhà nước về môi trường KCN, KKT; tăng cường
phối hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ
quan liên quan trong công tác quản lý Nhà nước về KCN, KKT.
- Tăng cường phân cấp cho Ban quản lý KCN, KKT trong việc thực hiện nhiệm
vụ quản lý Nhà nước về môi trường trong KCN, KKT gắn với tăng cường cơ chế
phối hợp, hướng dẫn giữa các cơ quan Trung ương và địa phương cũng như tăng
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
16
GIA CÔNG
CHẾ BIẾN
NGUYÊN LIỆU
XỬ LÝ
CHẤT THẢI
KHU VỰC
TIÊU THỤ
NGUYÊN
LIỆU,NĂNG LƯỢNG
NGUYÊN THUỶ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
cường bộ máy, nhân lực, thiết bị cho Ban quản lý KCN, KKT, Sở Tài nguyên và
Môi trường để thực hiện tốt hơn công tác BVMT KCN, KKT.
- Xác định rõ vị trí, vai trò của Thanh tra Ban quản lý KCN, KKT trong hệ thống
Thanh tra Nhà nước để đảm bảo thẩm quyền của Ban quản lý KCN, KKT trong việc
thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử phạt hành chính đối với hoạt động của KCN, KKT
nói chung và BVMT KCN, KKT nói riêng.
- Tăng cường vai trò của các cơ quan Nhà nước trong công tác tuyên truyền, vận
động, tăng cường năng lực và nâng cao ý thức BVMT trong quá trình sản xuất kinh
doanh, xây dựng và phát triển KCN, KKT theo hướng bền vững.
2.3. Các phương pháp QLMT KCN tại Việt Nam hiện nay
2.3.1. Khu công nghiệp sinh thái [5]
2.3.1.1. Khái niệm khu công nghiệp sinh thái (KCNST)
Khái niệm KCNST được hai nhà khoa học Mỹ là FROSCH và
GALLOPOULOS đề xuất vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX. KCNST hình
thành trên cơ sở sinh thái học công nghiệp, sản xuất sạch, quy hoạch, kiến trúc và
xây dựng bền vững, tiết kiệm năng lượng và hợp tác các doanh nghiệp.
Hình 1: Sơ đồ chức năng hệ sinh thái công nghiệp
Các nhà khoa học cho rằng: Hệ thống công nghiệp không phải là các thực thể
đơn lẻ mà là tổng thể các hệ thống giống như hệ sinh thái tự nhiên. Sinh thái học
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
17
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
công nghiệp tìm cách loại trừ khái niệm "chất thải" trong sản xuất công nghiệp. Sơ
đồ trên hình 1 phản ánh mô hình hoạt động sản xuất công nghiệp theo hệ thống, các
dòng năng lượng và vật chất luân chuyển tuần hoàn. Những bán thành phẩm, chất
thải hoặc năng lượng thừa có cơ hội quay vòng tối đa ngay bên trong hệ thống,
giảm đến mức thấp nhất các chất thải phát tán vào môi trường tự nhiên.
Từ đó có thể hiểu một cách đầy đủ KCNST là tập hợp các CSSX và dịch vụ tìm

kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng môi trường sống và hiệu quả kinh tế bằng
cách phối hợp QLMT và tài nguyên. Bằng cách này, các CSSX trong cùng KCNST
sẽ thu được lợi ích chung lớn hơn nhiều so với tổng lợi ích mà từng cơ sở đạt được
khi tối ưu hoá hiệu quả hoạt động riêng cơ sở mình.
2.3.1.2. Mục tiêu của KCNST
Mục tiêu của KCNST là cải thiện hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp tham
gia KCNST đồng thời giảm thiểu các tác động xấu lên môi trường. Cụ thể là [6,7]:
- Các CSSX thu được nguồn lợi về kinh tế do trao đổi, chuyển nhượng hoặc
bán các sản phẩm phụ của mình cho các xí nghiệp khác trong cùng hệ thống trong
mối quan hệ cung - cầu, đôi bên cùng có lợi.
- Giảm đáng kể những chi phí xử lý, khắc phục sự cố môi trường đối với chất
thải.
2.3.1.3. Nguyên tắc xây dựng KCNST [7]
Mục tiêu của sinh thái học công nghiệp là bảo vệ sự tồn tại sinh thái của hệ
thống tự nhiên, đảm bảo chất lượng sống của con người và duy trì sự tồn tại mang
tính kinh tế của hệ thống công nghiệp, kinh doanh, thương mại. Để đảm bảo thực
hiện những mục tiêu này, cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau trong khi xây
dựng KCNST:
- Tập hợp các doanh nghiệp độc lập vào Hệ Sinh thái công nghiệp.
- Thiết lập chu trình khép kín tái sử dụng và tái chế, cân bằng đầu ra và đầu vào
với khả năng cung cấp và tiếp nhận của Hệ sinh thái tự nhiên.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
18
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
- Tìm ra các giải pháp mới cho việc sử dụng năng lượng và nguyên - vật liệu
trong công nghiệp. Thiết kế hệ thống công nghiệp hoà nhập với sự phát triển kinh tế
và xã hội quanh vùng.
2.3.1.4. Yêu cầu đối với KCNST [5,6]
- Phải tương thích về quy mô diện tích chiếm đất, sử dụng nguyên - nhiên liệu,

bán thành phẩm, chất thải,
- Giảm khoảng cách giữa các CSSX.
- Hạn chế thất thoát nguyên vật liệu trong quá trình trao đổi.
- Kết hợp giữa phát triển công nghiệp với các Hệ sinh thái tự nhiên lân cận:
vùng nông nghiệp, cộng đồng dân cư.
2.3.1.5. Lợi ích của việc phát triển KCNST [7]
Các KCNST đem lại lợi ích nhiều mặt, thiết thực, cụ thể:
a. Đối với các doanh nghiệp thành viên và chủ đầu tư KCNST:
- Giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất bằng cách tiết kiệm, tái chế, tái sử dụng
nguyên - vật liệu và năng lượng: tái chế và tái sử dụng chất thải.
- Đạt hiệu quả kinh tế cao hơn nhờ chia sẻ chi phí cho các dịch vụ chung: quản
lý chất thải, đào tạo nhân lực, nguồn cung cấp và hệ thống thông tin môi trường
cùng các dịch vụ hỗ trợ khác.
- Những lợi ích cho các doanh nghiệp thành viên là làm tăng giá trị bất động
sản và lợi nhuận cho chủ đầu tư KCNST.
b. Đối với SXCN nói chung:
- KCNST là một động lực phát triển kinh tế công nghiệp của toàn khu vực:
tăng giá trị sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thu hút đầu tư, cơ hội tạo việc làm cho
người lao động.
- Tạo điều kiện hỗ trợ và phát triển các ngành công nghiệp nhỏ địa phương,
làng nghề truyền thống cùng tồn tại và phát triển.
- Thúc đẩy quá trình đổi mới, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học,
tăng nhanh tốc độ triển khai công nghệ mới.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
19
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
c. Lợi ích cho xã hội:
- KCNST là một động lực phát triển kinh tế - xã hội mạnh của khu vực lân
cận, thu hút các tập đoàn lớn trong nước và nước ngoài. Tạo việc làm mới trong các

lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
- Tạo động lực hỗ trợ các dự án phát triển mở rộng của địa phương về: đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực, phát triển nhà ở, cải tạo và nâng cấp hệ thống hạ tầng
kỹ thuật (HTKT)
- Tạo bộ mặt mới, một môi trường trong sạch và hấp dẫn cho toàn khu vực,
thay đổi cách nhìn thiếu thiện cảm cố hữu của cộng đồng đối với sản xuất công
nghiệp lâu nay.
- KCNST tạo điều kiện hợp tác với các cơ quan nhà nước trong việc thiết lập
các chính sách, luật lệ về môi trường và kinh doanh ngày càng thích ứng với xu thế
hội nhập và phát triển bền vững.
d. Lợi ích cho môi trường:
- Giảm các nguồn gây ô nhiễm cho môi trường, giảm lượng chất thải cũng như
giảm nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên thông qua các nghiên cứu mới nhất về
sản xuất sạch, bao gồm: hạn chế ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng, quản lý chất thải,
tái tạo tài nguyên và các phương pháp QLMT và công nghệ mới khác.
- Đảm bảo cân bằng sinh thái. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển
KCNST: từ việc chọn địa điểm, quy hoạch, xây dựng, tổ chức hệ thống HTKT, lựa
chọn doanh nghiệp, quá trình hoạt động, quản lý, đều phù hợp với các điều kiện
thực tế và đặc điểm sinh thái của khu đất xây dựng và khu vực xung quanh.
- Tất cả vì mục tiêu môi trường, mỗi KCNST có một mô hình phát triển và
quản lý riêng để không ngừng nâng cao đặc trưng cơ bản của nó về BVMT.
* So sánh với mô hình KCN truyền thống:
So sánh mô hình KCN truyền thống với mô hình KCNST cho thấy: mô hình
KCN truyền thống vận hành theo quy trình, phát sinh nhiều chất thải là điều khó
tránh khỏi. Trong khi đó, mô hình KCNST vận hành theo hệ thống khép kín trên
nguyên tắc: cộng sinh công nghiệp, thực hiện trao đổi chất, tái sinh tái chế, tuần
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
20
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

hoàn năng lượng và vật chất nhằm giảm thiểu chất thải, đem lại lợi ích kinh tế đồng
thời đạt được hiệu quả môi trường là không phủ nhận.
Phân tích và tổng hợp các quan điểm về sinh thái công nghiệp của nhiều nhà
khoa học từ nhiều quốc gia, nhận thấy có sự đồng thuận: Các nhà khoa học không
nhìn nhận sản xuất công nghiệp thông qua một công ty riêng lẻ hoặc viễn cảnh một
dây chuyền sản xuất đơn lập, mà nhận thứcsản xuất công nghiệp như là Hệ sinh thái
của mọi tổ chức - trao đổi thông tin, năng lượng và vật chất với nhau và với môi
trường của chúng.
2.3.1.6. Khả năng ứng dụng mô hình KCNST ở Việt Nam
a. Tình hình phát triển các KCN ở nước ta:
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
21
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
22
Hình 2: Sơ đồ các KCN ở nước ta [8]
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Qua mười lăm năm phát triển, đến nay Việt Nam đã có 135 KCN được cấp phép
hoạt động, chưa tính hàng chục cụm công nghiệp nhỏ và vừa khác [9] Đặc biệt,
trong một năm trở lại đây, số lượng KCN được cấp phép tăng lên rất nhanh. Chưa
kể, theo thừa nhận của một quan chức Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hàng chục hồ sơ xin
phép mở KCN vẫn tiếp tục được gửi về bộ. Điều này phần lớn là do việc quy hoạch
phát triển hệ thống KCN không được xét trên bình diện tổng thể của cả nước mà chỉ
theo quy hoạch riêng của từng tỉnh thành đưa đến tình trạng “nhà nhà làm KCN”.
Bên cạnh đó, việc xây dựng các KCN ở Việt Nam đang ở trong tình trạng vừa
thừa vừa thiếu. Tỷ lệ lấp đầy của các KCN hiện chỉ ở mức 52%, thậm chí nhiều
KCN chỉ lấp đầy 10-20%, hoặc bỏ trống. Chưa kể nhiều diện tích đất đã được đăng
ký sử dụng nhưng việc đầu tư, triển khai dự án kéo dài. Nếu tính cả các KKT mở,

tổng diện tích đất đã được cấp là hơn 60.000 héc ta, và với tỷ lệ sử dụng như trên, rõ
ràng sự lãng phí là quá lớn.
Một bất cập khác là tình trạng chồng chéo trong quản lý. Hà Nội hiện có 18 khu,
cụm công nghiệp đang hoạt động theo bốn mô hình khác nhau. Công tác quản lý
nhà nước về KCN còn chồng chéo giữa các sở, ngành cũng như giữa thành phố và
các quận, huyện. Cần thống nhất khuôn khổ quản lý chung cho các loại hình KCN
cũng giống như luật đầu tư chung cho các doanh nghiệp.
Việc quản lý các KCN chỉ dừng ở mức cấp phép thành lập chứ chưa chú ý đến
vấn đề quy hoạch. Tại Hà Nội, sau hơn mười năm xây dựng KCN người ta mới giật
mình nhận ra rằng quá nhiều KCN được xây dựng gần trung tâm thành phố như
trường hợp các KCN Đài Tư, Sài Đồng Khi thành phố mở rộng, các KCN này
nằm lọt ngay giữa trung tâm thành phố và một cuộc di dời tốn kém lại được bắt đầu.
Các KCN trên cả nước là tập trung đa ngành, vì vậy dẫn đến một số khó khăn,
chẳng hạn như xử lý việc ÔNMT. Bất cập này hiện đang được một số địa phương
khắc phục bằng cách chỉ cho phép thành lập các KCN theo từng ngành.
b. Cơ hội và thách thức trong việc áp dụng mô hình KCNST:
* Cơ hội:
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
23
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
- Chuyển đổi từ mô hình KCN truyền thống thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam sang mô hình KCNST trên nền tảng của vị trí khu đất hiện có, không cần hình
thành trên một địa điểm mới, do vậy không ảnh hưởng tới quỹ đất đô thị và không
bị chi phối bởi sự bành trướng của quá trình đô thị hoá và không xâm phạm tới đất
đai nông nghiệp có giá trị.
- Sử dụng có hiệu quả của hệ thống HTKT có sẵn.
- Sử dụng mạng lưới giao thông vận chuyển hiện hữu của vùng, kết nối với
mạng lưới giao thông thuỷ, đường bộ, đường sắt và đường hàng không quốc gia và
quốc tế.

* Thách thức:
Trường hợp trên khu đất của KCN cũ:
- Khó xây dựng được Hệ sinh thái công nghiệp đối với bán thành phẩm, phụ
phẩm, chất thải nguyên liệu và năng lượng ở đầu vào, đầu ra, vận chuyển trong một
số doanh nghiệp hiện hữu và chuyển đổi thành công nghệ BVMT.
- Khó giải quyết mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp có sẵn hay tham dự mới vào
KCNST.
- Khó xác định chính xác năng lực của Hệ thống HTKT hiện hữu và các hệ
thống dịch vụ khác để chuyển đổi sang Hệ thống HTKT theo chủ đề môi trường đã
định. Thật sự khó khăn đối với các doanh nghiệp không đủ tiêu chuẩn là doanh
nghiệp thành viên của KCNST phải di dời hay chuyển đổi ngành nghề sản xuất để
trở thành các sing thái công nghiệp.
Trường hợp trên khu đất hoàn toàn mới:
- Thuận lợi triển khai hệ thống HTKT theo chủ đề môi trường đã định.
- Chi phí đầu tư cho hệ thống này sẽ rất cao và phụ thuộc rất nhiều vào tiềm lực
HTKT toàn vùng.
- Tối ưu hoá dòng năng lượng và nguyên liệu còn phụ thuộc khả năng tổ chức.
* Sự hỗ trợ:
Xây dựng mô hình KCNST cho các Khu / Cụm công nghiệp hiện hữu đòi hỏi sự
hỗ trợ của Nhà nước về chính sách, chủ trương và các giải pháp cụ thể, như:
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
24
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
- Miễn giảm chi phí thuê đất cho các doanh nghiệp và người thuê đất.
- Hỗ trợ tài chính trong quá trình thay đổi công nghệ, đào tạo nhân lực.
- Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia KCNST.
- Các tiêu chí định hướng phát triển bền vững công nghiệp của Bộ Công Nghiệp.
c. Xây dựng KCN mới:
Trong điều kiện kinh tế-xã hội và công nghệ hiện có của nước ta, với nhận thức

về vấn đề BVMT hiện tại của các nhà sản xuất cũng như thực tế khó khăn và hạn
chế về tài chính, việc áp dụng mô hình KCNST như ở các nước phát triển rất kém
khả thi. Hiển nhiên để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, chiến lược xây dựng
KCNST của nước ta cuối cùng sẽ phải tiến tới những mô hình như thế. Tuy nhiên,
trong điều kiện hiện tại, để khắc phục và hạn chế quá trình hủy hoại môi trường
đang diễn ra hàng ngày hàng giờ do chất thải công nghiệp đã và đang phát sinh,
chúng cần có những mô hình KCNST phù hợp đảm bảo cho việc phát triển kinh tế
công nghiệp, vừa xử lí hiệu quả ÔNMT.
Việc xây dựng KCNST ở nước ta cần trải qua các bước sau: [6,7]
- Vận dụng sáng tạo các mô hình CNST thành công ở các nước
- Điều tra quan trắc môi trường ở khu vực xây dựng KCN và các khu vực lân
cận.
- Điều tra nguồn tài nguyên, tiềm năng của địa phương.
- Xây dựng mô hình KCN tương ứng với tiềm năng sẵn có và nguồn vốn đầu tư.
- Xác định thành phần và khối lượng chất thải.
Trong bước này, thành phần và khối lượng chất thải của tất cả các nhà máy
thuộc KCN nghiên cứu, các phương pháp xử lý và quản lý hiện tại cũng như các tác
động của chúng đến môi trường phải được xác định. Bên cạnh đó, nguyên liệu và
năng lượng cần thiết cho dây chuyền sản xuất của các nhà máy cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc đánh giá khả năng tái sử dụng chất thải từ nhà máy để thay
thế một phần nguyên liệu của các nhà máy khác trong cùng KCN hay khu vực. Các
số liệu thu này là cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp khắc phục trong các bước
tiếp theo.
GVHD: TS. THÁI VĂN NAM
SVTH : ĐỖ ÁNH NGUYỆT– 09B1080150
25

×