Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

THẢO LUẬN :tài chính công (phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới thu nhập công. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó đến thu nhập công ở Việt nam hiện nay )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.63 KB, 24 trang )

Đề tài: phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới thu nhập công. Đánh
giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó đến thu nhập công ở Việt
nam hiện nay.
Mở bài
I, Lý luận chung về thu nhập công
1.1Khái niệm, đặc điểm, phân loại
1.1.1 Khái niệm về thu nhập công
- Thu nhập công là quá trình nhà nước sử dụng quyền lực để huy động một bộ phận
của cải xã hội để hình thành nên các quỹ tài chính nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của nhà nước.
- Thu nhập công là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hình
thành các quỹ tài chính của nhà nước
Thu nhập công được xây dựng trên nền tảng kinh tế đó là sự trao đổi giữa các
nghĩa vụ: các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ trích một phần thu nhập vào nngaan
sách nhà nước để hình thành nên các quỹ tài chính, đổi lại, nhà nước có nghĩa vụ
sử dụng hiệu quả nguồn thu nhập này vào các mục đích kinh tế xã hội.
1.1.2 Đặc điểm của thu nhập công
- Đặc điểm nổi bật nhất của thu nhập công là phần lớn các khoản thu nhập
công được xây dựng trên nền tảng nghĩa vụ vông dân, điển hình là thuế. Ngoài ra,
thu nhập công còn bao gồm các khoan thu dựa trên cơ sở trao đổi như phí và lệ phí,
các khoản thu do thỏa thuận như vay mượn nước ngoài, các khoản thu do người
dân tự nguyện đóng góp chiếm tỷ trọng không đáng kể.
- Phần lớn các khoản thu nhập công không mang lại tính bồi hoàn trực tiếp,
do đa số các khoản thu nhập công được lấy từ thuế, mà các cá nhân và tổ chức nộp
thuế cho nhà nước không có nghĩa là phải mua một hàng hóa hay dịch vụ đó của
1
nhà nước. Tuy nhiên nhà nước sẽ dùng thuế nhằm tạo ra các hàng hóa và dịch vụ
công sẽ được thụ hưởng bởi chính người dân.Như vậy, các khoản thu nhập công sẽ
được chuyển trở lại cho dân chúng một cách gián tiếp
- Thu nhập công gắn chặt với việc thực hiện các nghĩa vụ của nhà nước.
Nhà nước thu để tài trợ cho mọi hoạt động của nhà nước, tức là thu để chi tiêu


công chứ không phải thu để tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, thu nhập công được phát
triển theo các nhiệm vụ của nhà nước. Không thể đòi hỏi nhà nước gia tăng hoạt
động của mình trên cơ sở giảm mức động viên từ GDP.
-Thu nhập công khó kiểm soát và đánh giá một cách hiệu quả. Phần lớn chi
tiêu của nhà nước tạo ra hàng hóa, dịch vụ công là những sản phẩm được tiêu dùng
công cộng, nên không có người thụ hưởng cụ thể để kiểm soát quá trình chi tiêu.
Mặt khác, nhà nước không phải là một doanh nghiệp nên không thể lấy tiêu chí lợi
nhuận làm thước đo hiệu quả hoạt động. Phần lớn các khoản chi tiêu công của nhà
nước mang tính chất công cộng, không đòi hỏi người thụ hưởng phải trả phí nên
không thể so sánh doanh thu, chi phí như một doanh nghiệp bình thường.
1.1.3 Phân loại thu nhập công.
Phân loại thu nhập công nhằm quản lý và sử dụng các nguồn lực công một
cách phù hợp với pháp luật và có trách nhiệm trước công chúng.
a, Căn cứ theo tính chất của thu nhập công:
-Các khoản thu từ thuế: là các khoản thu mang tính chất bắt buộc, không bồi
hoàn trực tiếp, xây dựng trên nghĩa vụ của công dân. Thuế chiếm tỉ trọng lớn trong
tổng thu ngân sách nhà nước.
- Các khoản thu không phải thuế: bao gồm phí, lệ phí, quyên góp, vay
mượn là các khoản thu không mang tính đối giá và được xây dựng trên cơ sở thỏa
2
thuận giữa dân chúng và chính phủ. Mặc dù chiếm tỷ trong nhỏ nhung đây là các
khoản thu không thể thiếu trong cơ cấu thu của ngân sách nhà nước.
b,Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ
-Thu trong nước: Thuế, phí, lệ phí, vay mượn trong nước, khai thác và bán
tài nguyên, thu khác Thu trong nước là nguồn nội lực cơ bản giúp Chính phủ xây
dựng một ngân sách nhà nước chủ động , mọi sự dựa dẫm vào bên ngoài đều để lại
những hậu quả lâu dài, nền tài chính chỉ lành mạnh và bền vững khi nguồn thu dựa
chủ yếu vào nội lực của nền ki00000000bnh tế quốc dân.
- Thu ngoài nước: Bao gồm các khoản thu từ đầu tư nước ngoài, viện trợ
nước ngoài, vay nước ngoài Đây là các nguồn ngoại lực giúp nhà nước tích tụ và

tập trung vốn đầu tư vào nhiều công trình then chốt, từ đó tạo ra các bước chuyển
đang kể trong tiến trình phát triển.
c, Căn cứ vào nội dung kinh tế:
- Khoản thu không mang nội dung kinh tế bao gồm:
Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn được xây dựng trên cơ sở trao đổi nghĩa vụ
giữa công dân và nhà nước.
Quyên góp và viện trợ nước ngoài là những khoản thu hình thành trên cơ sở tự
nguyện nhỏ dần về mặt tỷ trọng. Đây là những khoản thu không mang tính chất
đôúi ứng với việc thụ hưởng các hàng hóa dịch vụ công của chủ thể.
-Khoản thu mang nội dung kinh tế: bao gồm lệ phí, phí, vay nợ, cho thuê công sản,
bán tài nguyên thiên nhiên
Phí và lệ phí là những khoản thu mang tính chất đối giá, có tỷ trọng nhỏ hơn son
với thuế nhưng góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả cung cấp và sử
dụng hàng hóa dịch vụ công, đảm bảo phân phối một cách công bằng phúc lợi
công cộng cho mọi công dân trong xã hội.
3
Vay nợ nước ngoài mang tính chất bồi hoàn, đẩy nhanh tốc độ tích tụ và tập trung
vốn tạo từ những công trình lớn khi các khoản thu từ phí, lệ phí, thuế chưa đáo ứng
đủ nhu cầu chi đầu tư phát triển của nhà nước.
Cho thuê công là khoản thu tương đối hấp dẫn nhưng cái giá phải trả cho sự tổn hại
về thiên nhiên và tài nguyên sau thời hạn cho thuê là tương đối lớn.
Thu từ bán tài nguyên thiên nhiên là các khoản thu do bán quặng, dầu thô, than tài
nguyên thiên nhiên là nguồn lợi do thiên nhiên ban tặng và đa phần không thể tái
tạo được nên cần phải khai thác một cách hợp lý.
d, Căn cứ vào tính chất phát sinh:
-Thu thường xuyên: bao gồm thuế, phí, lệ phí là các khoản thu phát sinh đều
đặn và ổn định liên tục về số lượng và thời gian thu.
-Thu không thường xuyên: vay nợ, vay viện trợ nước ngoài, là các khoản thu
mang tính chất thời điểm, không thường xuyên, không ổn định về lượng và thời
gian thu.

II, Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập công và mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đó đến thu nhập công ở Việt Nam hiện nay.
2.1 Thực trạng thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
a, Thu NSNN trước khi Việt Nam gia nhập WTO
( Tỉ lệ % )
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Thu trong nước 50.59 51.29 51.67 54.77 52.49 52.03 55.17 55.13
Thu từ dn nhà nước 21.7 20.24 18.88 16.85 17.12 16.58 15.94 16.43
Thu từ dn có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài
5.22 5.87 6.53 7.91 8.36 9.25 9.94 10.52
Thu khác 17.64 18.91 19.46 23.06 19.59 18.3 19.42 17.74
4
Thu từ dầu thô 25.93 21.4 24.15 25.43 29.16 29.82 24.37 21.31
Thu từ hải quan 20.89 25.49 22.23 18.29 16.7 15.32 19.11 21.82
Thu viện trợ k hoàn lại 2.23 1.82 1.95 1.51 1.66 2.83 1.35 1.74
Bảng: Cơ cấu thu NSNN Việt Nam từ năm 2000 đến 2008 (Nguồn Niên giám thống
kê Bộ Tài chính)
Trước khi Việt Nam gia nhập WTO, dầu thô là khoản thu có đóng góp lớn
nhất vào tổng thu ngân sách nhà nước hàng năm (29% tổng thu ngân sách nhà
nước vào các năm 2005- 2006). Nhưng đây là khoản thu không vững chắc vì còn
phụ thuộc giá dầu thế giới và nguồn dự trữ dầu .Thu xuất nhập khẩu chiếm tỉ trọng
tương đối lớn (khoảng 18-23%/ năm) trong tổng thu ngân sách nhà nước tuy nhiên
đang có xu hướng giảm về tỷ trọng, năm 2001 đạt 25,49% nhưng đến năm 2006
giảm còn 15,32% Thu từ thành phần kinh tế nhà nước có xu hướng giảm trong khi
khi thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh có
xu hướng tăng lên.
b, Thu NSNN từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay
Sau khi gia nhập WTO, thu NSNN Việt Nam có những thay đổi đáng kể:
Thu ngân sách nhà nước không chỉ tăng về tổng số thu mà nguồn thu cũng đã dần

ổn định với việc tăng tỷ trọng thu trong nước, giảm thu từ tài nguyên thiên nhiên,
trong đó: Thu trong nước vẫn chiếm phần lớn đóng góp vào tổng thu ngân sách nhà
nước và đang có xu hướng tăng. Trong đó khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài tăng khá mạnh với 10,52% năm 2008, gấp đôi tỷ trong khu vực này năm
2000 với 5.22% Thu từ dầu thô có xu hướng giảm từ 29,82% năm 2006 xuống còn
24,37% năm 2007 và 21,31% vào năm 2008 Thu từ xuất nhập khẩu có xu hướng
tăng cả về hai chỉ tiêu: thuế xuất nhập khẩu, tiêu thu đặc biệt; và thuế Giá trị gia
5
tăng Nhưng nhìn chung số thu NSNN từ nội lực nền kinh tế vẫn còn thấp, thu
NSNN còn chứa nhiều yếu tố đột biến, bất ổn định.
Năm 2011, với những diễn biến thăng trầm kinh tế, Việt Nam còn phải chịu
khủng hoảng tài chính thế giới, trong điều kiện khó khăn đó với tinh thần chủ động
thích ứng với tình hình, Chính phủ đã có nhiều cố gắng áp dụng nhiều biện pháp
quản lý, nuôi dưỡng nguồn thu và xử lý các vi phạm , ban hành và triển khai quyết
liệt Nghị quyết 11nên công tác thu chi ngân sách trong thế chủ động. Theo Báo cáo
thẩm tra của Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội, năm 2011, tổng thu
NSNN đạt 962.982 tỷ đồng, Thu ngân sách năm 2011 vượt kế hoạch 21,3%. Trong
đó, thu nội địa từ sản xuất kinh doanh vượt trên 30%. Thu từ dầu thô tăng 40.905
tỷ đồng, thu nội địa từ sản xuất kinh doanh tăng 35.812 tỷ đồng, thu cân đối từ xuất
nhập khẩu tăng 17.065 tỷ đồng, thu về nhà đất tăng 25.918 tỷ đồng.
Theo Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội, số thu NSNN vượt dự toán chủ
yếu từ yếu tố khách quan, nhất là do giá cả tăng (chỉ số giá tiêu dùng năm 2011
tăng 18,13% so với năm 2010, giá dầu thô tăng 28 USD/thùng so với giá dự toán,
tỷ giá tính thuế thực tế cao hơn tỷ giá khi xây dựng dự toán).
Bên cạnh đó, tăng thu còn nhờ việc điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu đối với một số
mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu và tăng thu các khoản về nhà đất. Thu từ
sản xuất kinh doanh chỉ chiếm khoảng 20% trong tổng số tăng thu. Điều này phản
ánh thu NSNN tuy tăng cao nhưng chưa bắt nguồn từ nội lực kinh tế và chưa thực
sự vững chắc.
Năm 2012, thu ngân sách nhà nước đạt 607.844 tỷ đồng, tăng 12,3%. Theo

số liệu được Tổng Cục thuế công bố, kết quả thu ngân sách nhà nước năm 2012 do
ngành Thuế quản lý ước đạt 607.844 tỷ đồng, bằng 104,5% so với dự toán, tăng
12,3% so với thực hiện năm 2011. Trong đó, thu dầu thô ước đạt 140.107 tỷ đồng,
bằng 161% so với dự toán (vượt 53.107 tỷ đồng) và tăng 27,1% so với thực hiện
6
năm 2011.Tuy nhiên, thu nội địa ước đạt 467.737 tỷ đồng, chỉ bằng 94,6% so với
dự toán và tăng 8,6% so với thực hiện năm 2011.
Theo lãnh đạo Tổng Cục thuế, những khoản thu từ khu vực kinh tế đều
không đạt dự toán và có mức tăng trưởng thấp so với cùng kỳ như khu vực doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh…Trong 14 khoản thu, sắc thuế được ngành thuế quản lý, chỉ có 6 khoản thu
vượt dự toán pháp lệnh, 7 khoản thu tương đương cùng kỳ. Nếu không kể thu từ
dầu thô, tiền đất, chỉ có 37/63 địa phương hoàn thành nhiệm vụ năm 2012.
Đánh giá về thành công của ngành thuế năm 2012, Tổng Cục thuế cho biết
đã mở rộng việc kê khai thuế qua mạng Internet, đến nay đã triển khai được 50 tỉnh
thành phố với gần 203 nghìn doanh nghiệp tham gia. Hiện Tổng Cục thuế đang
triển khai giai đoạn 2 để tích hợp tự động Thuế - Hải quan – Kho bạc – Tài chính,
bước đầu thí điểm tại Quang Ninh. Trong tháng 3/2013, ngành thuế sẽ triển khai
rộng việc áp dụng chữ ký số trong toàn hệ thống.
Thực trạng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2013 được đánh giá rất
cam go, do tình hình kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp báo lỗ hoặc đóng cửa
trước kết quả kinh doanh thấp.
Tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/11/2013 ước tính đạt 657,6
nghìn tỷ đồng, bằng 80,6% dự toán năm, trong đó thu nội địa 432,6 nghìn tỷ đồng,
bằng 79,3%; thu từ dầu thô 97 nghìn tỷ đồng, bằng 97,9%; thu cân đối ngân sách
từ hoạt động xuất, nhập khẩu 123,1 nghìn tỷ đồng, bằng 73,9%.
Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước 130,7 nghìn tỷ
đồng, bằng 75% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(không kể dầu thô) 94,4 nghìn tỷ đồng, bằng 88%; thu thuế công, thương nghiệp và
dịch vụ ngoài nhà nước 92,2 nghìn tỷ đồng, bằng 76,6%; thuế thu nhập cá nhân

7
41,6 nghìn tỷ đồng, bằng 75,9%; thuế bảo vệ môi trường 10 nghìn tỷ đồng, bằng
70,4%; thu phí, lệ phí 8,3 nghìn tỷ đồng, bằng 79,6%.
2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập công và mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đó đến thu nhập công ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1 Trình độ phát triển kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình
quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay
đổi về lượng của nền kinh tế.
Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm
tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi
xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu
vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một
quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi
trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn
đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn.
Thu nhập công chủ yếu được hình thành từ những giá trị do nền kinh tế tạo
ra, nhà nước không thể dùng quyền lực của mình để ép buộc các cá nhân và tổ
chức kinh tế đóng góp nhiều hơn phần thu nhập của mình nhiều hơn để tăng thu
nhập công. Do vậy muốn thu nhập công tăng lên một cách bền vững thì phải thúc
đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, như vậy sẽ tạo ra nhiều giá trị gia tăng.
GDP là cơ sở duy nhất và bền vững nhất của thu nhập công. Mối qua hệ
giữa GDP và thu nhập công được mô tả theo công thức sau:
Thu nhập công = f(GDP)
8
Từ công thức trên ta thấy rằng, nếu hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế càng
cao, tỷ suất doanh lợi càng lớn thì giá trị sản phẩm thặng dư được tạo ra ngày càng
nhiều, tạo điều kiện tăng tỷ lệ thu nnsn
Các nguồn vay mượn hay viện trợ từ nước ngoài chỉ đáp ứng được nhu cầu
tạm thời và đều phải trích từ thuế để trả nợ nên nó sẽ để lại nhưng gánh nặng về

mặt kinh tế cho tương lai, làm cho nền kinh tế bị phụ thuộc.Vì vậy, chăm lo phát
triển kinh tế chính là chăm lo nguồn thu nhập công cho tương lai.
Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quyết định dặc biệt với các nước đang phát
triển như Việt Nam hiện nay. Nó là tiền đề tạo ra các giá trị vật chất để giảm bớt
tình trạng đói nghèo, giảm sự khoảng cách tụt hậu về kinh tế với các nước phát
triển, giúp củng cố quốc phòng, an ninh chính trị, tạo niềm tin cho cộng đồng quốc
tế. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi
cho nhân dân. Từ đó tạo đà cho nhà nước thu ngân sách nhà nước. Của cải xã hội
làm ra ngày càng nhiều thì thu nhập công cũng ngày càng tăng mà không tăng
gánh nặng nợ cho xã hội.
Mặt khác, khi thu nhập công tăng, nhà nước sẽ có điều kiện phát triển cơ sở
hạ tầng, đầu tư cho các công trình sự nghiệp, các công trình phúc lợi xã hội, nhân
dân được hưởng lợi nhiều hơn, tạo cơ sở vật chất cho xã hội phát triển. Từ đó giúp
cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Đó chính là mối quan hệ tác động qua lại
chặt chẽ với nhau, cùng tạo đà cho nhau cùng phát triển. Và ngược lại, nếu nền
kinh tế kém phát triển thì của cải vật chất làm ra ít, làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến nguồn thu của ngân sách nhà nước. Khi đó, Nhà nước nếu muốn ổn định nền
kinh tế thì phải tăng chi tiêu công, nguồn thu ngân sách không đủ để bù đắp các
khoản chi tiêu công sẽ gây ra tình trạng thâm hụt ngân sách, mất cân đối ngân sách
nhà nước. Tình trạng này càng nghiêm trọng thì càng làm cho nên kinh tế mất ổn
9
định, tụt hậu. Thu ngân sách quá gắt gao lại gây ra tình trạng mất ổn định chính trị,
nhân dân không tin tưởng vào nhà nước.
Chính vì vậy, một nên kinh tế phát triển là điều kiện tuyệt vời cho thu nhập
công tăng trưởng, là tiền đề cần thiết để phát triển xã hội, là đòn bẩy cho nền kinh
tế quốc gia đi lên.
Thực tiễn ở Việt Nam những năm gần đây cho thấy những ảnh hưởng mạnh
smẽ của sự phát triển kinh tế đến thu nhập công. Sau khi gia nhập WTO, nền kinh
tế Việt Nam có những bước chuyển mình đáng kể. Tuy nhiên, một số dự báo cho
rằng: gia nhập WTO Việt Nam buộc giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo cam kết

với Tổ chức Thương mại Thế giới (số dòng thuế đã công bố cắt giảm là 1.812 với
mức thuế suất giảm bình quân 14,5%). Thêm vào đó, hàng hoá nhập khẩu từ nước
ngoài sẽ có mức giá thấp hơn trước đây khiến thị phần của hàng hoá sản xuất trong
nước bị thu hẹp, làm giảm số thu thuế nội địa. Điều này làm giảm đáng kể nguồn
thu cho ngân sách. Nền kinh tế tăng trưởng chậm với GDP dự đoán không vượt
quá 5% là thách thức lớn đối với thu nhập công ở nước ta.
Những tháng cuối năm 2008 Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt
đầu từ nền kinh tế hùng mạnh như Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra khắp thế giới.
Tác động bởi sự suy thoái toàn cầu, đã đảo lộn và ảnh hưởng đến các nước, rõ nhất
vẫn là hệ thống tài chính, ngân hàng của mỗi nước. Tại Việt nam, phần lớn hoạt
động sản xuất phục vụ cho lĩnh vực xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. quy mô
xuất khẩu đến Liên minh Châu Âu (là thị trường số một cùng với Hoa Kỳ) đã thay
đổi từ mức tăng trưởng 60% trở thành giảm 30% (IMF, 2010). Lạm phát cũng là
dấu hiệu báo động với tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng lên đến 28% vào tháng 9
năm 2008 và thậm chí còn lên đến 65% đối với nhóm mặt hàng lương thực (gạo và
ngũ cốc). các thị trường lớn như : Mỹ, EU, Nhật là những thị trường truyền thống
nhập khẩu hàng sản xuất từ Việt nam đang bị khủng hoảng, do mức sinh hoạt của
10
người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buột
bụng, mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu … có thời điểm nông sản
xuất khẩu giảm mạnh so với thời điểm giá cao nhất trong năm : Gạo đã giảm 58%,
Cao su giảm 48%, Cà phê giảm 24% cả những tháng đầu năm 2009 so với 2008
Tổng kim ngạch xuất khẩu Nông, Lâm ,Thủy sản… Việt nam giảm 15%. Việt
nam là một trong những nước ảnh hưởng nặng trong hoạt động xuất khẩu hàng
hóa. Điều đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam bị sụt giảm,
từ mức 8,48% năm 2007 xuống còn 6,23% năm 2008 và chỉ còn 5,32% năm 2009.
( nguồn từ thông báo cục thống kê cuối tháng 12-2009)
Sự tác động khủng hoảng thế giới làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Việt nam gặp rất nhiều khó khăn một phần bị từ chối hợp đồng, sản phẩm tiêu thụ
chậm, hàng tồn kho ngày càng nhiều. Phần thì chịu ảnh hưởng của chính sách thắt

chặt tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín dụng ngân hàng làm lãi suất cho vay cao vượt
xa khả năng kinh doanh của doanh nghiệp (lãi suất đi vay không ngừng được nâng
lên và lãi suất cho vay cũng tăng lên từ 14% năm (năm 2007) và đã tăng 20% và
24% năm ( năm 2010).
Tất cả những lý do trên, đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Tốc độ tăng
GDP của cả năm đã giảm chậm lại từ 8,5% năm 2007 xuống còn 6,3% năm 2008
và tiếp đó là 5,3% năm 2009 trước khi hồi phục trở lại mức 6,5% năm 2010. Sự
giảm nhịp tăng trưởng đặc biệt diễn ra vào khoảng thời gian giữa quý I năm 2008
và trong năm 2009. Trong khoảng thời gian này, tốc độ tăng GDP chỉ đạt được một
nửa so với trước đó, giảm từ 8% xuống còn 4%. Năm 2007, bội chi ngân sách nhà
nước là 22 217 tỉ vnd. Năm 2009, bội chi lên đến 106 487 tỉ vnd. Thu ngân sách
giảm mạnh. Trong 6 tháng đầu năm 2009,ước tính đạt 14,9 nghìn tỷ đồng, lũy kế
đến nửa đầu tháng 6 ước đạt 171 nghìn tỷ đồng, bằng 43,9% dự đoán cả năm.
Trong đó thu nội địa đạt 105 nghìn tỉ đồng, bằng 45,1% dự đoán cả năm. Thu từ
11
dầu thô đạt 23 nghìn tỉ đồng, bằng 36,1 % dự đoán cả năm, thu từ xuất nhập khẩu
chỉ đạt 41,1 nghìn tỷ đồng, bằng 46,6% dự đoán cả năm. Nhưng tổng chi cho ngân
sách nhà nước lại đạt hơn 195 nghìn tỷ đồng, bằng 40,2 % dự toán năm cho thấy
mức thâm hụt ngân sách ở nước ta trong những năm khủng hoảng kinh tế là rất
lớn. thu ngân sách đang bị đè nặng bởi khủng hoảng kinh tế và các chương trình
phát triển nền kinh tế. CHính phủ phải đưa ra 2 gói kích cầu để kích thích nền kinh
tế, kích thích tiêu dung trong xã hội và tăng thu nhập công lên. Tuy nhiên, hiệu quả
của 2 gói kích cầu này vẫn chưa thể giải quyết hết sức ép đè nặng lên thu nhập
công. Nền kinh tế tăng trưởng chậm với GDP dự đoán không vượt quá 5% là thách
thức với thu nhập công của nước ta. Một khi dòng vốn FDI chảy vào yếu đi và mức
giải ngân yếu kém như hiện nay, thì nhà nước lại càng phải đẩy mạnh chi tiêu công
thêm để giải quyết các nhiệm vụ kinh tế chính trị của mình. Cho thấy rằng, giải
quyết tốt quan hệ giữa thu nhập công và sự phát triển kinh tế, tăng cường phát triển
kinh tế chính là yếu tố tác động mạnh mẽ đến thu nhập công, làm cho ngân sách
nhà nước bội chi quá mức, ổn định trong thời kì biến động.

Như vậy có thể nói, tang trưởng kinh tế có ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ
đến thu nhập công. giải quyết tốt mối quan hệ giữa thu nhập công và sự phát triển
kinh tế là vấn đề quan trọng, phức tạp, gặp nhiều khó khăn. Nếu giải quyết tốt vấn
đề phát triển kinh tế, sẽ tạo điều kiện giải quyết tốt vấn đề thu nhập công, giúp thu
nhập công tăng cao trong điều kiện phúc lợi xã hội đươc đảm bảo, k tạo ghánh
nặng cho tương lai
2.2.2 Trình độ tổ chức thanh toán và hạch toán.
Trình độ tổ chức hoạt động thanh toán và hạch có ảnh hưởng không nhỏ đến
thu nhập công ở Việt Nam hiện nay.Trình độ tổ chức thanh toán và hạch toán ngày
càng hiện đại và được hệ thống hóa một cách phù hợp sẽ làm cho các hoạt động
12
thu chi của các cá nhân và tổ chức được ghi chép và phản ánh một cách cụ thể,
minh bạch, dẫn tới việc động viên, huy động của nhà nước cũng trở nên chính xác
và công bằng hơn. Khi đó thu nhập công sẽ tự động tăng lên mà không cần phai
điều chỉnh mức thu, đặc biệt trong quá trình quản lý và thu thuế. Vì trong thu nhập
công, thuế chiếm hơn 70% tổng thu ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trình độ
thanh toán và hạch toán càng hiện đại, nhà nước có thể giảm và kiểm soát phần nào
sự thất thoát trong thu ngân sách, tăng thu ngân sách và đảm bảo công bằng giữa
các chủ thể trong xã hội. Tăng động viên vào ngân sách nhà nước và làm lành
mạnh hóa đời sống kinh tế-xã hội.
Tính hiện đại trong công nghệ thanh toán thể hiện trước hết ở sự phong phú
đa dạng của các phương tiện thanh toán, loại hình thanh toán, trình độ công nghệ,
sự phát triển của các tổ chức tài chính trung gian cung cấp dịch vụ và thói quen của
dân chúng. Xu hướng chung khi nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ thanh toán
không dùng tiền mặt trong nền kinh tế càng tăng, theo đó thu nhập công cũng tăng
lên. Trong giai đoạn 1996-2001, thị trường thẻ Việt Nam còn sơ khai, nhận thức
của người dân về thanh toán thẻ còn hạn chế nên các sản phẩm thẻ chủ yếu chỉ đáp
ứng nhu cầu của tầng lớp dân cư có thu nhập cao và phần lớn chỉ là thẻ quốc tế
được sử dụng khi mua sắm hàng hóa dịch vụ ở nước ngoài.Từ năm 2002, các ngân
hàng đầu tư nâng cấp, các sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa lần đầu tiên được phát hành

tại Việt Nam. Nhờ đó, người dân đã bắt đầu biết đến và làm quen với một phương
tiện thanh toán tiện lợi, nhanh gọn, dễ đăng ký, dễ sử dụng hoạt động dựa trên cơ
sở tài khoản cá nhân.
Tuy nhiên, dịch vụ thẻ thanh toán thực sự sôi động, bắt đầu có chiều sâu vào những
năm 2006-2007 khi Chính phủ ban hành Quyết định số 291/2006/ TTg về triển
khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2011 và đặc biệt sự ra
đời của quyết định số 20/2007/NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước
13
(NHNN) Việt Nam điều chỉnh các quy định về phát hành, thanh toán, sử dụng và
cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân. Các số liệu thống kê cho thấy, số thẻ
đã có sự tăng trưởng khá nhanh. Nếu như năm 2007, toàn thị trường mới có
khoảng gần 9,34 triệu thẻ thì đến hết năm 2012, con số đó đã lên tới hơn 54,9 triệu
thẻ tăng gần 5,6 lần. Số thương hiệu thẻ cũng tăng từ 95 thương hiệu lên khoảng
350 thương hiệu thẻ các loại, số lượng đơn vị thực hiện trả lương qua tài khoản đạt
trên 26.600 đơn vị với số người nhận lương đạt gần 1,32 triệu người, tương đương
mức tăng hơn 2 lần so với nửa đầu năm 2008.
Lợi ích của việc chi trả lương qua tài khoản không chỉ dừng lại ở việc góp
phần hạn chế và ngăn chặn dược tình trạng tham nhũng vì kiểm soát được nguồn
thu của cán bộ, công viên chức qua tài khoản, mà ý nghĩa của nghiệp vụ này còn
rộng lớn hơn. Đó là tiết kiệm nhân lực và tiết kiệm hàng loạt chi phí cho các đơn vị
trả lương, tiết kiệm chi phí cho hệ thống kho bạc nhà nước và tiết kiệm thời gian
cho người hưởng lương…Hiệu quả chung mả cả nên kinh tế tiết kiệm được thật sự
là lớn. Cũng chính nhận thấy hiệu quả của dịch vụ này mà các đơn vị tiên phong
chính là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp
có đông công nhân, đã chủ động phối hợp với các ngân hàng thương mại thực hiện
từ nhiều năm qua. Bởi vì tiết kiệm chi phí trong trả lương cũng đồng nghĩa với việc
nâng cao sức mạnh cạnh tranh, vì thế có thể giảm chi phí, giảm giá thành, tăng lợi
nhuận. Từ những lợi ích đó mà nâng cao thu nhập công cũng tăng lên.
Trước đây, trong thời kỳ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp việc hạch toán ở
các cửa hàng cấp 2 ,cấp 3, cấp 3 còn sơ sài nhà nước quản lý không chặt chẽ làm

thất thoát trong thu, chi công, do đó dẫn tới tình trạng bội chi ngân sách nhà nước
lạm phát tăng hơn 700%.
Trình độ hạch toán thể hiện ở phương tiện sử dụng, thể hiện ở công nghệ và thói
quen của dân chúng. Trình độ hạch toán cao sẽ làm giảm được thất thoát ngân sách
14
nhà nước và phản ánh minh bạch, chính xác hơn các khoản thu và chi phí của mọi
tổ chức và cá nhân
Nhiệm vụ thu NSNN của ngành Thuế lại đang đối mặt với thực trạng trốn thuế và
gian lận thuế ngày càng tinh vi và phức tạp. Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, số
thu NSNN của ngành Thuế trong 8 tháng đầu năm 2013 ước đạt 390.712 tỷ đồng,
tương đương 60,6% so với dự toán, bằng 107,2% so với cùng kỳ năm 2012. Trong
tháng 8/2013, Ngành thu ước đạt 38.100 tỷ đồng, bằng 5,9% so với dự toán, bằng
101,8% so với thực hiện cùng kỳ năm 2012.
Đối mặt với thực trạng trên càng đòi hỏi công tác hạch toán chi tiêu công càng phải
trở nên hoàn chỉnh để có để đáp ứng tình hình chi tiêu ngày càng phức tạp. Do đó
cơ chế quản lý nhà nước càng cần theo dõi và giám sát chặt chẽ mọi hoạt động
thanh toán và hạch toán để đảm bảo nguồn thu hiệu quả của chi tiêu công và tránh
tình trạng tham nhũng lãng phí tài chính công.
2.2.3 Trình độ nhận thức của dân chúng
Khi đất nước phát triển và ý thức của người dân được cao họ càng nhận ra
được sự cần thiết của nhà nước và trách nhiệm mỗi bên trong tiến trình thúc đẩy
kinh tế xã hội phát triển. Đến khi đó, nghĩa vụ đóng góp tài chính cho nhà nước
không còn nặng nề nữa bởi nó là kết quả của một quá trình nhận thức của dân
chúng về trách nhiệm của mình đối với nhà nước.Việc đóng góp tài chính nhằm
chia sẻ những chi phí công cộng và người dân chính là người đang được hưởng và
họ sẽ tự nguyện trong việc đóng góp này.Trình độ nhận thức của dân chúng cũng
giúp Chính phủ hành động công bằng sòng phẳng hơn và cung cấp hàng hóa dịch
vụ công cộng đạt hiểu quả kinh tế cao hơn.
Hiện nay, Việt Nam đã được Thế giới công nhận về nỗ lực xóa đói giảm
nghèo, tuy nhiên bên cạnh nghèo đói về kinh tế, người ta còn nghiên cứu thêm về

nghèo đói ở các khía cạnh khác như nghèo đói về tri thức và nghèo đói về nhân
15
văn: “ Nghèo đói về tri thức và nhân văn cho thấy những người giàu có lên nhưng
vẫn ít có ý thức về học hành, nâng cao nhận thức về văn hóa thực thụ, dù họ có
nhiều cơ hội hơn và thay vào đó một số có thể dẫm đạp lên giá trị nhân văn và còn
có các hành vi làm tổn hại tới cộng đồng, xã hội và lịch sử”.Vì vậy mà vẫn tồn tại
một bộ phận người dân vẫn chưa thực sự hiểu được tài chính công có vai trò như
thế nào đối với sự phát triển của xã hội, chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của
Nhà nước. Chính vì vậy nên họ cũng chưa ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ
nộp thuế cho Nhà nước.Nên đâu đó một bộ phận người dân cố tình khai khống
thuế, trốn thuế, cá biệt có doanh nghiệp cố tình dây dưa chiếm dụng tiền thuế làm
thất thu Ngân sách Nhà nước mỗi năm lên tới hàng nghìn tỷ đồng ảnh hưởng đến
chương trình phát triển kinh tế Xã hội của chính phủ ta.
Nghèo đói về tri thức làm ảnh hưởng tới xã hội, tới cộng đồng dân cư. Nghèo đói
về tri thức làm cho họ chỉ biết mình mà không hề biết tới sự khó khăn của cộng
đồng. Nó cũng góp phần đẩy lùi sự phát triển chung của đất nước do sự phân hóa
lớn trong 1 xã hội, 1 đất nước.
Hiện tượng trốn thuế của người giàu ở đỉnh trên cùng , mà hiện cũng khó xác định
chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong nhóm chiếm khoảng từ 5%-10% dân số Việt nam,
có vẻ đây là một trong các nguyên nhân trực tiếp của bất bình đẳng xã hội và
khoảng cách giàu nghèo đang giãn rộng ra trong nhóm dân số giàu có, có một bộ
phận không nhỏ được hưởng lợi từ hệ thống chính trị, quyền lực và đang đảm bảo
lợi thế xã hội giàu có của mình bằng việc trốn thuế, đặc biệt là thuế thu nhập và lợi
tức cá nhân. Hiện tượng này cũng xảy ra trong một bộ phận người có quyền chức ở
địa phương,nhiều người có thể trốn thuế thu nhập, lợi tức qua việc không khai báo
đầy đủ hoặc lách luật đối với những tài sản hoặc dòng thu nhập dấn tới tài sản của
họ như buôn bán, tích trữ địa ốc,tài chính, cổ phiếu và các tài sản có giá trị khác.
16
Bên cạnh đó là do nước ta có thu nhập bình quân đầu người hàng năm thuộc vào
loại thấp.Việc chi phí sinh hoạt thì ngày càng cao nên người dân chưa có ý định

thực hiện theo quy định, hoặc cũng ý thức được việc đóng góp thuế nhưng do điều
kiện còn khó khăn.Như vậy, ta cũng có thể thấy một phần ảnh hưởng của việc chấp
hành đóng thuế là do khó khăn về kinh tế làm người ta sũy nghĩ làm sao cắt giảm
chi phí phát sinh.
Hiện tượng trốn thuế thu nhập và lợi tức, mặc dù đang được kỳ vọng xử lý, đa lan
rộng từ lĩnh vực kinh tế sang giáo dục, nơi thu nhập cá nhân khai thuế của các viên
chức ở khu vực công mới bắt đầu được xử lý đơn giản qua việc “trả lương qua thẻ
tín dụng ngân hàng”.Nhà nước ta cũng đang thực hiện việc thu thuế cá nhân có
điều chỉnh hơn và phù hợp hơn với từng đối tượng.
2.2.4 Năng lực quản lý của nhà nước
Chính phủ là một bộ máy do xã hội xây dựng để dẫn dắt xã hội đạt được
những mục tiếu công cộng. Do đó bộ máy này đương nhiên phải dựa trên một căn
bản pháp lý vững chắc và phải được mọi thành viên trong xã hội tôn trọng. Năng
lực pháp lý của bộ máy nhà nước được nâng cao sẽ giúp cho chính phủ đặt ra và
quản lý hiêu quả các khoản thu phù hợp thể chế và khả năng chịu đựng của doanh
nghiệp và dân chúng. Đồng thời hạn chế thất thu đến mức tối thiểu ở cả khu vực
nhà nước lẫn khu vực ngoài nhà nước. Qua đó góp phần nâng cao tính minh bạch
trong quá trình động viên và sử dụng một phần của cải xã hội.
Năng lực pháp lý của nhà nước đối với thu nhập công thể hiện ở chỗ hệ
thống bộ máy thu thuế, phí, lệ phí, và các khoản thu khác hoàn thiện tới đâu, chặt
chẽ tới đâu và có hiệu quả tới đâu.
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập cho đến nay, cùng với
sự phát triển của ngành tài chính, tổ chức bộ máy tài chính nói chung và tổ chức bộ
máy thu thuế nói riêng được phát triển và hoàn thiện dần, từng bước phù hợp với
17
cơ chế quản lý kinh tế tài chính phù hợp với tổ chức hành chính Nhà nước và tổ
chức quản lý sản xuất, kinh doanh.
Trước khi tiến hành cải cách hệ thống pháp luật thuế áp dụng cho tất cả các
thành phần kinh tế, bộ máy thu thuế được tổ chức theo từng thành phần kinh tế,
phù hợp với chế độ thu thuế áp dụng cho mỗi thành phần kinh tế. Hiện nay, để phù

hợp với tình hình mới của đất nước, yêu cầu cấp bách phải tổ chức bộ máy thu thuế
thống nhất trong cả nước. Hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước về thuế được tổ
chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất từ trung ương đến địa phươ ng
để quản lý thuế và cùng thực hiện nhiệm vụ tổ chức thực hiện các Luật thuế trong
cả nước.
Tuy nhiên, quá trình cải cách thuế chỉ mới tập trung nhiều khía canh chính
sách mà chưa có sự quan tâm thích đáng đến việc cải cách hành chính thuế ngay từ
đầu. Điều này đã dẫn đến năng lực quản lý hành chính thuế thấp, hiệu quả chưa
cao, làm xuất hiện nhiều tồn tại trong công tác hành thu.
- Chương trình tổng rà soát, sửa đổi, đơn giản hóa thủ tục hành chính, đặc
biệt chú trọng vào những lĩnh vực có nhiều bức xúc, liên quan trực tiếp tới người
dân và doanh nghiệp vẫn đang trong quá trình chỉnh sửa hoàn thiện.
- Việc hỗ trợ giải đáp các vướng mắc, đối chiếu chéo số liệu giữa cục thuế
và các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế.
- Mô hình “ một cửa” nhằm thực hiện hệ thống phục vụ đối tượng nộp thuế
chất lượng cao gặp nhiều khó khăn trong bố trí nhân sự. Công tác xây dựng quy
chế, quy trình “một cửa” và quy trình tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế chưa
được Tổng cục Thuế ban hành kịp thời, nên trong quá trình triển khai thực hiện,
các cơ quan quản lý thuế ở địa phương còn nhiều lúng túng.
- Hiện chưa có quy chế chỉ đạo, phối hợp thống nhất giữa các bộ, ngành
trong công tác thu hồi nợ thuế, hỗ trợ cơ quan thuế trong việc cưỡng chế để thu hồi
nỡ, cũng như chưa có quy trình cưỡng chế nợ đọng thuế, hay để cưỡng chế, cơ
quan thuế phải tiến hành nhiều thủ tục qua các bước rất phức tạp và không tiết
kiệm.
18
2.2.5 Hiệu quả hoạt động của chính phủ
Hiệu quả hoạt động của chính phủ được thể hiện thông qua việc sử dụng
nguồn lực tài chính một cách hợp lý để cung cấp những hàng hoá, dịch vụ công
được xã hội chấp nhận.Thu chi ngân sách một cách hợp lý và công bằng. Phối hợp
chặt chẽ giữa chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ để giữ vững ổn định kinh tế

vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đồng thời tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh,
phục hồi tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế. Như vậy khả năng thu ngân sách sẽ
tăng lên.
Hoạt động của Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đến thực trạng thu nhập công
ở Việt Nam hiện nay, chính phủ càng hoạt động hiệu quả thì khả năng thu từ các
khu vực kinh tế và dân cư càng cao, gia tăng tiềm lực tài chính để phát triển bề
rộng và chiều sâu các hoạt động của chính phủ, tình hình buôn lậu cũng như trốn
thuế được giảm tối thiểu. Nư vậy thì khả năng thu ngân sách sẽ hiệu quả hơn.
Tăng cường quản lý ngân sách, chống thất thu và tiết kiệm chi phí. Năm
2011 –2012, Chính phủ đã cố gắng cân đối ngân sách theo kế hoạch . Năm 2013,
thu ngân sách khó khăn, tổng thu ước đạt 96,9%, tổng chi ước đạt 100,8% so với
dự toán. Bội chi khoảng 5,3% GDP. Nợ chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của
quốc gia vẫn nằm trong giới hạn an toàn. Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với
các mặt hàng , dịch vụ công thiết yếu như điện, than, xăng dầu, nước, dịch vụ y
tế theo lộ trình phù hợp, bảo đảm yêu cầu kiểm soát lạm phát, công khai minh
bạch và có hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, người nghèo. Hoàn thiện thể chế,
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính,
trước hết là hệ thống pháp luật về thuế, hải quan, ngân sách, quản lý tài chính
doanh nghiệp. Rà soát, sửa đổi, bổ sung và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các cơ chế
chính sách tài chính phù hợp với yêu cầu hội nhập, mở cửa thị trường nhưng phải
bảo đảm lợi ích quốc gia, tích cực, chủ động xây dựng các phương án đàm phán về
thuế, hải quan, thương mại và đề xuất các giải pháp để tận dụng cơ hội đẩy mạnh
xuất khẩu, thu hút đầu tư, hạn chế các tác động tiêu cực của việc hội nhập. Đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính, tập trung đơn giản hóa, nhất là thủ tục về thuế
19
và hải quan, kho bạc nhà nước, bảo đảm tiết kiệm chi phí và tạo mọi thuận lợi cho
tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp.
Đến nay,Chính phủ đã có những chính sách đạt được hiệu quả trong việc
quản lý thu nhập công, bên cạnh đó kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được
kiểm soát nhưng chưa vững chắc. Cân đối ngân sách khó khăn, bội chi cao hơn kế

hoạch. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số mặt hang và dịch vụ
thiết yếu còn chậm, chưa tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội.
2 – Mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả thu nhập công trong
thời gian tới.
Cùng với xu hướng chung hiện nay, các nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam đang thúc đẩy một cách mạnh mẽ cải cách hoạt động tài chính công nhằm
nâng cao hiệu quả thu nhập công. Có nhiều lý do, song chủ yếu vẫn là:
Xét ở góc độ vật chất, tài chính công là một phần của cải của xã hội dưới hình thức
giá trị được giao cho khu vực công sử dụng. Trên thực tế hiện nay, đa phần nguồn
của cải đó đang bị khu vực công sử dụng chưa được hiệu quả như mong muốn,
trong khi nguồn lực của đất nước có hạn.
Ở nhiều góc độ, hoạt động của tài chính công có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nếu hoạt động của tài chính công được
triển khai theo hướng tích cực, phù hợp với xu thế cải cách hành chính, đáp ứng
với những đòi hỏi hợp lý của các lực lượng thị trường sẽ là động lực thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Ngược lại, nếu hoạt động của tài
chính công không hiệu quả, không thích ứng với bối cảnh kinh tế, xã hội mới, thì
sẽ là lực cản cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
Cải cách hoạt động tài chính công là xu hướng phổ biến của các nước có liên quan
mật thiết với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và là yêu cầu bắt buộc đối với các
nước khi tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế.
20
Cải cách tài chính công ở nước ta cần phải vừa góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa phù hợp với yêu cầu của quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù đã hơn 20 năm đổi mới, nhưng cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp
vẫn chưa hoàn toàn bị xóa bỏ. Nhiều hoạt động của nền kinh tế rất có thể "nhân
danh" vì lợi ích chung, vì thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước mà tài chính công
bị lợi dụng và lạm dụng. Vì thế, để đổi mới tài chính công có hiệu quả, cần nắm
vững quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển nền kinh tế nước ta sang

nền kinh tế thị trường.
Cải cách phải phù hợp với yêu cầu mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Mở cửa và
hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và quốc tế đòi hỏi Việt
Nam phải tuân thủ những luật chơi chung đã cam kết với các tổ chức khu vực và
quốc tế. Điều đó đòi hỏi phải có những cải cách về mặt hành chính, trong đó có cải
cách tài chính công sao cho phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế, bảo
đảm nâng cao năng lực quản lý nhà nước về kinh tế và nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp và của nền kinh tế là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
Trên cơ sở đó,Chính phủ đã đưa ra những mục tiêu cần phải đạt được trong thời
gian tới nhằm ổn định nền kinh tế vĩ mô, tiếp tục kiềm chế lạm phát là:
- Bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả các khoản chi tài chính của khu vực công
bởi vì thực tế cho thấy các khoản chi có phạm vi rộng, khối lượng chi lớn nhưng
hiệu quả thấp, lãng phí còn lớn.
- Cải cách, đổi mới tài chính công phải hướng tới mục tiêu thúc đẩy mạnh
mẽ công cuộc cải cách hành chính nhà nước, bảo đảm cho bộ máy hành chính hoạt
động tốt hơn (trung thực, minh bạch, gần dân hơn, không cửa quyền, không tham
nhũng) chuyên nghiệp hơn, điều hành có hiệu quả hơn hoạt động kinh tế – xã hội
của đất nước.
21
- Thông qua cải cách, đổi mới hoạt động tài chính công phải bảo đảm cho
việc sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng công bằng và hiệu quả hơn.
- Đối với thu – chi ngân sách nhà nước nội dung đổi mới bao gồm đổi mới
chính sách, cơ chế, quy trình làm thay đổi căn bản cách thức thu – chi ngân sách
nhà nước, bảo đảm ngân sách nhà nước thực sự là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước.
- Đối với hoạt động các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, nội dung
đổi mới là gia tăng tỷ trọng huy động các nguồn lực tài chính nhàn rỗi của xã hội
trên cơ sở bảo đảm tính hợp pháp của số lượng các quỹ và sử dụng chúng một cách
có hiệu quả.
- Đối với tài chính của các cơ quan công quyền và các đơn vị sự nghiệp công

lập, nội dung đổi mới là tập trung nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn
việc đổi mới với công cuộc cải cách hành chính và việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ
công cộng công bằng và hiệu quả.
Trên cơ sở những mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra đối với cải cách tài chính công
trong thời gian tới là:
- Tiếp tục cải cách thuế cho phù hợp với tình hình đất nước; yêu cầu của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phù hợp với và các cam kết quốc
tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống
thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào. Cơ
cấu lại nguồn thu, khắc phục tình trạng hạn hẹp trong phạm vi đánh thuế gây ra bỏ
sót nguồn thu và đối tượng nộp thuế, đáp ứng yêu cầu động viên thu nhập quốc dân
vào ngân sách nhà nước. Hiện đại hóa công tác thu thuế và đổi mới quản lý thu
thuế.
- Cần tiếp tục hoàn thiện phân cấp ngân sách bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương; đồng thời
22
phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương và các ngành trong việc quản lý
tài chính và ngân sách đã được phân cấp.
- Khắc phục tính dàn trải trong chi ngân sách nhà nước và cơ cấu lại hợp lý
các khoản chi ngân sách, bảo đảm tính hiệu quả và công bằng trong chi tiêu ngân
sách nhà nước. Cân đối ngân sách một cách tích cực. Nâng cao hiệu quả đầu tư
bằng vốn ngân sách nhà nước từ xác định chủ trương, lập và duyệt dự án đến thực
hiện dự án.
- Tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị hành chính
và sự nghiệp theo Nghị định số 130/2005/NĐ – CP và Nghị định số 43/2006/NĐ –
CP của Chính phủ đã ban hành.
- Nhà nước cần khẩn trương nghiên cứu để trình Quốc hội thông qua Luật
Quản lý, sử dụng tài sản; nó là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà

nước về đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước; đặc biệt là cơ chế
quản lý vốn, tách bạch tài chính doanh nghiệp với tài chính nhà nước.
- Nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của các cơ quan có nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát kết quả quản lý và sử dụng tài chính công.
- Quy định rõ ràng trách nhiệm vật chất của những người đứng đầu cơ quan
chính quyền nhà nước mỗi cấp trước kết quả quản lý tài chính công của cấp đó.
- Đổi mới công tác thanh tra, giám sát tài chính trong toàn bộ quá trình quản
lý tài chính công.
Kết luận:
Thu nhập công không chỉ mang lại lợi ích cho nhà nước mà còn mang lại lợi
ích cho mọi tầng lớp nhân dân, những người trực tiếp hưởng thụ và giảm sát các
dịch vụ công cộng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của thu nhập công
23
trong giai đoạn hiện nay là ột vấn đề nhạy cảm luôn tiềm ẩn nững khó khăn và
thách thức lớn vì vậy cần phải đặc biệt quan tâm chỉ đạo và có biện pháp thực hiện
một cách thường xuyên có kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn. Trên đây là một số
vần đề nổi bật về thu nhập công cũng như các mục tiêu và nhiệm vụ cần phải thực
hiện trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả của thu nhập công , góp phần quan
trọng vào quá trình sử dụg nguồn lực tài chính nhà nước từ đó ổn định kinh tế
dảmd bảo an sinh xã hội.
24

×