Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Chữ người tử tù

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.69 KB, 18 trang )

Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong tác phẩm Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) cả một đời văn đi tìm cái Đẹp. Nhưng khác với Thạch Lam, tâm
hồn ông hướng về vớ i những nét toàn thiện toàn mĩ , vượt lên khỏi giới hạn của cái bình thường, luôn
nhìn nhận thế giới và con người ở phương diện thẩm mĩ – văn hoá.
Vang bóng một thời như là một điểm xuất phát của quan điểm nghệ thuật mang dấu ấn cá tính
con người tài hoa tài tử Nguyễn Tuân. Mười một truyện ngắn dựng lên những chân dung đặc sắc khó
quên của một thời quá vãng, tiêu biểu cho khuynh hướng thoát li của Nguyễn Tuân trước cách mạng :
những thú chơi tao nhã, những con người của quá khứ xa xăm, thực ra là một cách cắt nghĩa cho tấm
lòng của nhà văn vốn nặng tình cùng thời vàng son dĩ vãng. Nhưng ẩn chứa trong tập truyện là một tâm
hồn dân tộc yêu tha thiết những giá trị đã trở thành truyền thống. Bên cạnh đó, tác phẩm còn là nơi gửi
gắm tâm sự yêu nước, tâm trạng bất hoà của một người trí thức luôn cảm thấy bức bối trong khuôn đời
chật hẹp. Cảm hứng đặc biệt mãnh liệt của Nguyễn Tuân gắn với những nhân vật đối lập với trật tự
khuôn phép phong kiến, thể hiện tập trung trong truyện ngắn Chữ người tử tù, giúp ta hiểu sự chân
thành sâu lắng của Nguyễn Tuân trong cái vỏ khác người kiêu bạc.
Tác phẩm là câu chuyện xoay quanh nét chữ của Huấn Cao – người tử tù bất khuất. Xung quanh
trục chính của câu chuyện là những nhân vật thầy thơ lại, viên quản ngục và Huấn Cao. Họ vốn là kẻ thù
với nhau trong cuộc sống, nhưng lòng yêu cái Đẹp giúp họ tìm đến với nhau như những người bạn tâm
giao.
Cho đến tận thế kỉ XXI, trên văn đàn vẫn còn những cuộc tranh luận sôi nổi xung quanh Chữ
người tử tù về nhân vật chính của tác phẩm: Chữ hay là người tử tù Huấn Cao mới là cảm hứng chủ đạo
trong tác phẩm này của Nguyễn Tuân? Điều đó cho thấy tính phức tạp, đa nghĩa của tác phẩm. Chính vì
vậy, sức hấp dẫn của tác phẩm vẫn còn nguyên vẹn. Tuy nhiên cần phải nhìn nhận tác phẩm này từ quan
niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước cách mạng, đồng thời gắn với đặc trưng “văn học là nhân học”
để xácđịnh rõ tư tưởng của Chữ người tử tù. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân là đại diện cho khuynh
hướng thoát li trong văn học lãng mạn bằng việc đề cao những vẻ đẹp “vang bóng một thời”. Lấy cái tôi
làm trung tâm để nhìn nhận cuộc sống, ít nhiều trong tác phẩm, người nghệ sĩ lãng mạn bao giờ cũng
muốn bộc lộ chính những suy ngẫm, tâm trạng của riêng mình. Không phải ngẫu nhiên tác phẩm lại
chọn nguyên mẫu Cao Bá Quát để tạo dựng hình tượng Huấn Cao, vì ít ra nhà văn cũng cảm nhận được
mối quan hệ tương đồng giữa bản thân mình với nhân vật. Mặt khác, trước cách mạng, Nguyễn Tuân
luôn lấy tiêu chuẩn đánh giá con người ở ba khía cạnh: cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương nên Huấn
Cao là hình tượng độc đáo giúp nhà văn phát biểu quan niệm về con người của chính ông một cách toàn


diện. Chữ – thư pháp vốn là sở hữu của bậc văn nhân tài tử thời xưa, là phương tiện diễn tả thần thái,
tinh hoa của con người, là hiện hình cụ thể của chủ thể thẩm mĩ. Vì vậy, không thể xem chữ là nhân vật
trung tâm của tác phẩm. Con người và những vẻ đẹp Người bao giờ cũng là trung tâm cảm hứng của văn
học lãng mạn, chữ của Huấn Cao thực chất là sự lí giải một góc tâm hồn Huấn Cao, là lời ca tụng cái
đẹp Con Người trong hoàn cảnh tưởng chừng chỉ tồn tại những điều xấu xa.
Xem Huấn Cao là nhân vật đại diện cho cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương theo quan niệm
Nguyễn Tuân cũng cần phải xét đến vai trò của viên quản ngục và thầy thơ lại. Bởi, cái đẹp chỉ thật sự
có ý nghĩa khi có người biết thưởng thức. Đó cũng là một khía cạnh chủ đề của tác phẩm mà nhà văn
muốn thông qua những nhân vật của mình phát biểu. Sẽ không ai biết đến Huấn Cao vào những thời
khắc khốc liệt nhất của đời ông nếu như không có những người như quản ngục, thơ lại. Hai nhân vật này
cùng Huấn Cao làm nên “ba đốm sáng đặc biệt” trên nền hiện thực tăm tối.
Tác phẩm hấp dẫn người đọc trước hết ở lối dựng chuyện rất ấn tượng của Nguyễn Tuân. Bản
thân ông ý thức rất rõ về việc tạo không khí cho tác phẩm để từ đó diễn giải về số phận, tính cách nhân
vật. Vốn là một người rất am hiểu văn hoá phương Đông, tiếp thu ảnh hưởng của cha, Nguyễn Tuân có
biệt tài tái hiện những hình ảnh xa xăm của một thời “một đi không trở lại”. Không khí cổ điển bao trùm
toàn bộ tác phẩm ngay từ câu đầu tiên: “Nhận được phiến trát của quan Sơn-Hưng-Tuyên đốc bộ
đường…”, để từ đó những con người của một thế giới xa xưa hiện ra trước mắt ta nguyên hình rõ nét.
Nhân vật chính chưa xuất hiện mà tác phẩm lại bắt đầu từ tâm trạng nửa lo – nửa mừng của viên quan
đứng đầu nhà ngục khi nghe tin Huấn Cao sẽ bị áp giải đến nơi mình cai quản. Bổn phận của một bề tôi
trung thành là phải làm tròn chức trách nên trong cuộc trao đổi giữa ngục quan với thuộc cấp đã hiện lên
một kẻ mẫn cán trong phận sự. Hoàn cảnh đề lao đã tạo nên con người theo khuôn phép, cẩn trọng đúng
mực như ngục quan. Nhưng để thấy con người thực của ngục quan và nỗi băn khoăn của ông ta cần phải
gắn cùng một hoàn cảnh khác, tâm trạng khác. Bởi qua những dòng đầu tiên, người đọc biết đến niềm
khao khát được thưởng thức tài hoa tuyệt đỉnh của thư pháp trong nét chữ tên tử tù Huấn Cao của một
người nắm quyền sinh quyền sát trong tay. Nhưng là người biết định giá cái Đẹp và đến với cái Đẹp
bằng tất cả tấm lòng, ngục quan cũng hiểu rõ tình thế khó xử của chính mình. Để nhân vật một mình lọt
thỏm trong mênh mông bóng tối của nhà ngục. Nguyễn Tuân đã thuật lại khá đầy đủ những xung đột
bên trong của nhân vật. Ngôn ngữ miêu tả tâm lý của Nguyễn Tuân đã đạt đến trình độ bậc thầy khi ông
đi sâu mổ xẻ những uẩn khúc trong lòng nhân vật một cách rất tự nhiên gắn kết với khung cảnh.
Để cắt nghĩa tâm trạng ngục quan, Nguyễn Tuân đã khắc họa khỏanh khắc ngục quan khơi lại

ngọn đèn dầu sở soi sáng khuôn mặt, đối diện chính bản thân. Đây cũng là thủ pháp thường gặp trong
văn xuôi hiện đại. Nhà văn cũng đã không ngần ngại bộc lộ cảm tình của mình với ngục quan, khi ông
dùng những nét vẽ bằng ngôn ngữ phác họa chân dung nhân vật một cách trân trọng. Phẩm chất nhân vật
được khái quát đầy đủ ngay từ đầu với những nét tương hợp giữa ngôn ngữ, ngọai hình và nội tâm của
nhân vật. Đàng sau khuôn mặt bình thản như mặt nước hồ thu là cả một thế giới tâm hồn đáng trọng:
“trọng người ngay, biết giá người…” là cơ sở nhà văn khẳng định tâm hồn ngục quan như “bản đàn
trong trẻo” trong thế giới tạp âm, đối lập với “bọn cặn bã, lũ quay quắt”. Nhân vật đối lập với hoàn cảnh
luôn là đặc điểm hàng đầu trong sáng tác của Nguyễn Tuân, là chiếc chìa khóa mở tung những cửa
ngách phức tạp của hồn Nguyễn Tuân, văn Nguyễn Tuân. Đoạn đặc tả chân dung nhằm diễn giải cho
tình huống thử thách xảy đến cùng ngục quan: liệu giữa con người bản – chất và con người mặt – nạ,
phía nào sẽ thắng thế? Tâm nguyện của ngục quan có cơ hội thực hiện, nhưng bằng con đường nào phải
lẽ, bản thân nhân vật phải trải qua quá trình đấu tranh căng thẳng với chính mình. Xin được chữ Huấn
Cao – con người “văn hay chữ tốt nổi tiếng một vùng” là vinh hạnh của một kẻ như quản ngục, bị giam
cầm trong bổn phận, trách nhiệm. Liệu nhân vật có vượt qua được thử thách hay không? Câu hỏi định
hình từ phía nhà văn đã gợi được trí tò mò cho bạn đọc để làm nên một không khí khác hẳn với lối diễn
giải một chiều của tiểu thuyết chương hồi, phơi bày những phức tạp mâu thuẫn nội tâm để làm rõ nét
chân dung đặc sắc của ngục quan.
Nếu Huấn Cao là nhân vật trung tâm của tác phẩm thì ngục quan chính là nhân vật đối chiếu để
làm rõ cho ý đồ của nhà văn. Thế nhưng góc nhìn đối sánh ấy lại bắt đầu từ vị thế đối lập giữa hai nhân
vật. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên xuất hiện giữa nhà ngục, Huấn Cao đã hiện ra sừng sững những cốt
cách, khí phách của một anh hùng. Chiếc gông đeo cổ sáu tử tù – biểu tượng dữ tợn của quyền uy và tội
ác với kích cỡ “xứng đáng”, với màu “đen bóng” vì mồ hôi bao kẻ tử tội trở nên tầm thường thảm hại
trước thái độ lạnh lùng “dỗ gông” của Huấn Cao. Giữa ranh giới sống – chết mong manh, khí phách “uy
vũ bất năng khuất” (uy vũ không thể khuất phục) của Huấn Cao không thể được hiểu bằng đầu óc u tối
của đám lính lệ dựa hơi quan quyền ra oai phách lối. Chỉ có thái độ “hiền lành khác hẳn ngày thường”
của ngục quan mới là sự trọng thị thật sự của những người ý thức bản thân rõ nét. Nguyễn Tuân đã thuật
lại quá trình tìm cách tiếp cận Huấn Cao của ngục quan hoàn toàn khách quan và hợp logic phát triển
trên tâm lý nhân vật. Nhưng ông cũng giúp thấy rõ nghịch cảnh trớ trêu: một đàng tìm cách gần gũi, một
đàng cảnh giác tuyệt giao. Nỗi khổ tâm của ngục quan càng tăng thì sự lạnh lùng “khinh bạc đến điều”
của Huấn Cao càng tỏ rõ sự cứng rắn, đầy bản lĩnh của người anh hùng mạt lộ. Đơn giản một điều là họ

chưa tìm thấy tiếng nói chung khi vị thế hai người được đặt trong sự đối đầu về mặt xã hội.
Đỉnh cao của xung đột đầu tiên giữa hai kẻ không cùng chiến tuyến là lúc ngục quan mạo hiểm
xuất hiện trước mặt Huấn Cao và nhận được câu trả lời đuổi thẳng. Đáp lại thái độ khinh bạc của Huấn
Cao là một lời bẽ bàng của quản ngục “Xin lĩnh ý” . Tưởng chừng sau phút đó, chuyện sẽ rẽ ngoặt sang
hướng khác: kính trọng sẽ thành thù hận. Nhưng điều bất thường là rượu thịt cung phụng cho “thú sinh
bình” của Huấn Cao lại còn hậu hơn trước khiến cho nảy sinh tình huống mới: thái độ ngạc nhiên băn
khoăn về quản ngục của Huấn Cao. Ngạc nhiên là phải, vì đàng sau rượu thịt không phải là những trò
mua chuộc hạ sách mà ông Huấn Cao từng biết. Băn khoăn của Huấn Cao xoay quanh bí ẩn về nhân
thân của quản ngục. Nét đặc sắc trong nghệ thuật dựng chân dung nhân vật của Nguyễn Tuân là ở đó,
ông đặt nhân vật vào những ranh giới đòi hỏi sự lựa chọn đúng – sai, thật – giả, tốt – xấu … để khám
phá thêm những mặt tiềm ẩn của tâm hồn con người, hé lộ những mặt đa dạng của tính cách nhân vật.
Lời giải đáp cho băn khoăn của Huấn Cao đến trong một hoàn cảnh thật nghiệt ngã, ông phải
đứng trước thử thách của chính mình. Ranh giới phân định không còn nằm trong thế cho con người lựa
chọn như trước, bởi đó là sự sống còn và cái chết của chính ông. Kết cục số phận của một người tử tù là
cái chết, nhưng trước cái chết con người cũng có những phản ứng khác nhau. Một người bình thường sẽ
mặt tái nhợt hốt hoảng như thầy thơ lại khi báo tin cho Huấn Cao, còn bản thân một kẻ “chọc trời khuấy
nước” như Huấn Cao lại dường như bình thản đón nhận. Người anh hùng luôn đón đợi hiểm nguy, xem
cái chết nhẹ tựa lông hồng, phải chăng vì vậy Nguyễn Tuân đã không dùng một từ nào mô tả phản ứng
của Huấn Cao khi nghe tin dữ đến với mình. Giây phút “lặng người đi một lát rồi mỉm cười” của Huấn
Cao chính là thời điểm mở ra thế giới thực của một con người tài hoa. Cuối cùng những “kẻ thù “ trong
đời đã gặp nhau ở một tấm lòng. Thời điểm này ta cũng nhận rõ hơn vai trò của thầy thơ lại. Ông ta hoàn
toàn không phải là người trung gian, kẻ đầu sai cho chủ. Cũng giống viên quản ngục, ông ta còn giữ
được “thiên lương” nhưng hoàn cảnh không cho phép ông bộc lộ con người thực của mình. Thậm chí, so
với ngục quan, thầy thơ lại còn hiêïn lên vẻ an phận thủ thường bằng dáng vẻ khúm núm, rụt rè, hớt hải
của một kẻ ý thức được thân phận của mình. Nhưng đôi mắt “biết giá người” của ngục quan đã phát hiện
được con người thực của ông ta. Thầy thơ lại chính là điểm tựa, là niềm tin giúp ngục quan đủ dũng khí
vượt qua nỗi sợ hãi thường trực trong cảnh sống nơm nớp lo âu. Có thể xem thầy thơ lại là nhân vật bổ
sung cho tính cách của ngục quan. Dẫu cho ông ta không phải là người đam mê cái đẹp thư pháp giống
như ngục quan, nhưng ông ta là người đóng vai trò xúc tác để cái đẹp tìm đến nhau. Cuộc sống rất cần
loại người như thế. Trong thế giới nhân vật lý tưởng hoá của Nguyễn Tuân, viên thơ lại này là con người

của đời thường, tận tâm trong công việc và tận tâm với cả bạn bè, dám làm những việc nguy hiểm cho
tính mạng bản thân vì người khác. Không có thầy thơ lại, sẽ không có cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với
quản ngục, không có cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”.
Khi những hận thù, ngộ nhận được xoá nhoà, nhà văn mới để Huấn Cao bộc lộ rõ con người thật
bằng những lời nói cảm động. Điều bất ngờ của Huấn Cao về quản ngục còn làm người đọc bất ngờ hơn
về thái độ của Huấn Cao khi ân hận “Thiếu chút nữa thì ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
Huấn Cao bỗng trở nên gần gũi, rất con người sau câu nói này. Hoá ra nhân cách cao quí của Huấn Cao
ngoài thái độ bất khuất kiên cường còn có cả một tấm lòng biết trân trọng con người. Hoá ra nụ cười
Huấn Cao không chỉ là “trông chết cười ngạo nghễ” mà còn là nụ cười sung sướng tìm được một con
người có “sở thích cao quí” chính vào thời khắc số mệnh đã an bài. Cuộc gặp gỡ của những tấm lòng đã
làm nên lời giải đáp, hoá giải mọi khổ tâm, băn khoăn, sợ hãi.
Nguyễn Tuân đã dựng lên một không gian đặc biệt để ba nhân vật gặp gỡ. Đúng như ông mô tả,
đây là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nhưng trang viết này đã thể hiện bút lực Nguyễn Tuân dồi dào
sung mãn nhất. Cảm hứng mạnh mẽ, tô đậm những nét độc đáo phi thường đã làm nên nhừng hình ảnh,
câu văn thật phóng khoáng. Bắt đầu của sự chuyển đổi không gian nhà ngục – vốn tối tăm ghê rợn đã
bừng sáng lên trong ánh lửa cháy “rừng rực” của những bó đuốc tẩm dầu. Xung đột Bóng tối – Ánh sáng
mang ý nghĩa tượng trưng, điển hình cho một cảm hứng quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Đây là ánh
sáng khác hẳn với sắc nhợt nhạt của “những vì sao” nhấp nháy sắp rụng, với ánh leo lét của ngọn đèn
dầu sở soi sáng gương mặt ngục quan, tâm hồn ngục quan. Aùnh đuốc làm bật lên ba con người đẹp đẽ
trên nền hiện thực nhà tù tàn ác xấu xa. Đối cực giữa hoàn cảnh với con người nhờ vậy tạo được ấn
tượng mạnh mẽ cho độc giả, tạo một tâm thế hào hứng đón nhận cái đẹp vượt lên thực tại tầm thường tù
túng, để thât sự thăng hoa.
Cảnh tượng đẹp nhất đánh dấu thời khắc cái Đẹp lên ngôi chính là lúc Huấn Cao viết chữ, thầy
thơ lại khúm núm bưng chậu mực, viên quan coi ngục đánh dấu lên từng con chữ. Vẫn là những con
người ấy nhưng thật sự họ đã toàn tâm toàn trí hướng về cái đẹp. Người sáng tạo, người thưởng thức,
tôn vinh cái đẹp đã gặp gỡ nhau. Lời nói của Huấn Cao dành cho quan coi ngục là lời chỉ dành cho
người tri âm tri kỷ. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng bình khoảnh khắc này là khoảnh khắc “ba đốm
sáng gặp nhau”, khoảnh khắc để con người cúi đầu trước cái đẹp để thật sự cảm nhận vẻ đẹp toát lên từ
con chữ, từ tấm lụa bạch, thỏi mực thơm.
Nhà văn khép lại câu chuyện bằng lời nói của ngục quan, như hứng lấy tâm huyết hoài bão một

đời của Huấn Cao: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!”. Đó là lúc cái đẹp chiến thắng tuyệt đối, là lúc “Ba
người nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau”. Họ đã thật sự chiến thắng nỗi sợ hãi, cái chết. Đó là thời khắc
hội tụ cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương.
Chữ người tử tù đã thể hiện trọn vẹn quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân trước các h mạng
tháng Tám. Cái đẹp đối lập vối thực tại tầm thường giả trá, cái đẹp của những con người phản ứng thực
tại xã hội đương thời. Và Nguyễn Tuân cũng đã đem lại cho người đọc thú thưởng thức văn hoá rất đặc
sắc trong nét chữ tài hoa. Tài hoa ấy, tấm lòng ấy cũng là của chính Nguyễn Tuân muốn gửi gắm lại cho
cuộc đời này.
Chữ người tử tù nhìn dưới góc độ phương pháp sáng tác
Đầu thế kỷ XX, bứt tung ra khỏi sự cương tỏa của thi pháp văn học trung đại, trào lưu văn học lãng
mạn Việt Nam đã chứng tỏ sự vươn mình thật mãnh liệt của văn học dân tộc để bắt nhịp với văn học
hiện đại thế giới. Chỉ trong một thời gian rất ngắn (chưa đầy 20 năm) kể từ khi ra đời, vừa tiếp nhận
những thành tựu của văn học lãng mạn Pháp thế kỷ XIX, vừa bằng khát khao đổi mới mình, văn học
lãng mạn Việt Nam đã đi được những chặng đường dài, hoàn thiện dần chân dung của một trào lưu văn
học. Quy tụ những sáng tác xuất sắc của những tác giả tiêu biểu: Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Xuân Diệu,
Huy Cận, Hàn Mặc Tử , văn học lãng mạn đã làm nên một khuynh hướng sáng tác với những đặc
trưng nổi bật nhất của nó.
Trong trào lưu văn học lãng mạn ấy, Nguyễn Tuân là một nhà văn tiêu biểu. Mỗi tác phẩm của ông
in đậm dấu ấn của một cái tôi tài hoa và độc đáo, nhưng vẫn không nằm ngoài nguyên tắc sáng tác của
chủ nghĩa lãng mạn. Tìm hiểu tác phẩm xuất sắc nhất của ông - Chữ người tử tù - dưới góc độ phương
pháp sáng tác, không chỉ là để hiểu thêm về một tác phẩm, một phong cách nghệ thuật, mà còn để hiểu
thêm một trào lưu sáng tác đã có ảnh hưởng sâu rộng trên văn đàn và trong tiến trình văn học dân tộc.
1. Nhân vật trung tâm của Chữ người tử tù – kiểu nhân vật tài hoa theo lý tưởng thẩm mỹ của
Nguyễn Tuân.
Nếu chủ nghĩa hiện thực phê phán xây dựng nhân vật theo nguyên tắc “tính cách điển hình trong
hoàn cảnh điển hình” thì chủ nghĩa lãng mạn lại xây dựng nhân vật theo mong muốn chủ quan của nhà
văn. Vì thế, nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn thường vươn đến một vẻ đẹp có tính lý tưởng theo quan
niệm thẩm mỹ của tác giả.
Ở Chữ người tử tù, mọi giá trị và vẻ đẹp của tác phẩm quy tụ quanh nhân vật Huấn Cao. Nhân vật
Huấn Cao là sự hội tụ của ba vẻ đẹp: TÀI HOA- KHÍ PHÁCH- THIÊN LƯƠNG. Nhưng, khí phách và

thiên lương, chung quy lại, cũng là để cho cái tài hoa được thăng hoa đến mức rạng rỡ, sáng chói. Huấn
Cao xuất hiện giữa nhà ngục với tư cách là một tử tù, một kẻ “đứng đầu bọn phản nghịch”. Chống lại cả
một trật tự xã hội đương thời,. Huấn Cao là một trang anh hùng dũng liệt. Nhưng ngay từ đầu tác phẩm,
trước khi nhắc đến tài “bẻ khóa và vượt ngục” thì cái tên Huấn Cao đã gắn liền với một cái tài khác, tài
“viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Như thế có nghĩa, đây mới là cái tài mà Nguyễn Tuân đặc biệt đề cao và
nó sẽ là tâm điểm của mọi chi tiết xuất hiện sau đó trong tác phẩm. Thái độ kính cẩn khác thường, biệt
đãi khác thường của viên quản ngục bắt nguồn từ cái tài viết chữ ấy. Nét chữ Huấn Cao ám ảnh tâm trí
viên quản ngục trong những ngày Huấn Cao làm một tử tù ở chốn đề lao. Cái khát khao có được nét chữ
Huấn Cao mãnh liệt đến mức gần như chi phối toàn bộ suy nghĩ và cảm xúc của viên quan coi ngục ấy:
“Nơi góc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi.
Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, “Quản ngục mong mỏi một ngày gần đây ông Huấn Cao sẽ
dịu bớt tính nết, thì y sẽ nhờ ông viết ”, “Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi ” . Tài
viết chữ của Huấn Cao cũng là nguyên nhân cho một cuộc hội ngộ đặc biệt giữa ba kẻ ở những trận
tuyến đối đầu nhau: Huấn Cao - viên quản ngục - thầy thơ lại.
Khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã dụng công khắc họa nét
chữ Huấn Cao. Nét chữ của ông “đẹp lắm, vuông lắm”. Bóng dáng nét chữ Huấn Cao xuất hiện ngay từ
đầu tác phẩm, trong câu nói trầm trồ thán phục của viên quản ngục: “Huấn Cao? Hay là cái người mà
vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?”. Nét chữ ấy sáng lên trên nền
âm u ảm đạm của một đêm nhà ngục: “những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành
của một đời con người” . Vẻ đẹp cao quý thanh tao của nét chữ Huấn Cao hiện lên qua cả những chi tiết
mô tả gián tiếp: phiến lụa trắng và thoi mực thơm. Rất nhiều lần Nguyễn Tuân mô tả phiến lụa trắng ấy,
khi là “tấm lụa bạch”, khi là “phiến lụa óng”, khi là “tấm lụa trắng tinh”, khi là “bức lụa trắng”. Trên
nền lụa trắng được đặc tả ấy, sáng lên nét chữ Huấn Cao, không chỉ “vuông tươi tắn” mà còn “nói lên
cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Nó không chỉ là kết quả của một bàn tay tài hoa, nó
còn là kết quả của tâm hồn phóng khoáng người nghệ sĩ. Nó đẹp không chỉ ở đường nét, nó còn đẹp
hơn ở thần thái linh hồn. Nó là khát vọng một đời người nghệ sĩ.
Huấn Cao là một bậc anh hùng “chọc trời khuấy nước”. Nhưng cái chất anh hùng ấy lại được
sáng lên qua nét chữ, nhờ nét chữ. Cái uy nghi lẫm liệt của Huấn Cao, cái “khinh bạc đến điều” của
Huấn Cao, chẳng phải nhờ cái cung kính tôn thờ nét chữ của viên quản ngục mà càng trở nên cao sang
đó sao? Cái đêm cuối cùng của cuộc đời một anh hùng trước khi lên đoạn đầu đài chẳng phải nhờ sự ra

đời của những dòng thư pháp mà trở nên thiêng liêng đó sao? Và cái hoài bão tung hoành, cái chí khí
của một đấng anh hào, chẳng phải nhờ kết tinh trong nét chữ cuối cùng mà được thăng hoa và bất tử đó
sao?
Huấn Cao là một người có thiên lương trong sáng. Người nghệ sĩ “nhất sinh không vì vàng ngọc
hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ” đã cho chữ viên quản ngục – kẻ ở trận tuyến đối đầu với
mình – vì đã nhận ra cái “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”. Nhưng cái thiên lương ấy,
lại cũng từ cái tài hoa mà sinh thành, nhờ cái tài hoa mà vút lên trong sáng. Cái “tấm lòng biệt nhỡn liên
tài” của viên quản ngục nhất định phải nảy sinh từ sự ngưỡng mộ hai chữ “tài hoa” ở Huấn Cao chứ
không phải từ bất cứ một điều gì khác. Những phẩm chất khác ở Huấn Cao, chỉ là làm cho cái sự biệt
nhỡn ấy càng thêm rõ nét mà thôi. Không phải sao, khi suốt cuộc đời làm viên quan coi ngục, nắm trong
tay bao nhiêu kẻ tử tù, trong đó có bao nhiêu kẻ chọc trời khuấy nước, ấy thế mà, lần đầu tiên, viên quản
ngục lại dám liều mình làm điều trái ngược với mọi quy định về bổn phận. Huấn Cao nhận ra tấm lòng
của viên quản ngục, trước hết bằng khát khao tìm kẻ tri âm của một người nghệ sĩ, nhận ra đằng sau một
thân phận quản ngục kia, là một nhân cách và một tâm hồn biết “cúi đầu bái lạy hoa mai”. Giữa chốn
ngục tù, điều ấy với người nghệ sĩ tài hoa, chẳng phải quý giá và lớn lao vô cùng đó sao? Cũng giống
như Bá Nha giữa chốn thâm sơn cùng cốc tìm ra một Chung Tử Kỳ, Huấn Cao giữa chốn đề lao đầy rẫy
những xấu xa và tàn bạo, đã tìm ra một kẻ tri âm vậy. Để lọc ra “giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn
loạn xô bồ” một “thanh âm trong trẻo”, chẳng phải rất cần đến một phẩm chất nghệ sĩ sao?
Với Nguyễn Tuân, dẫu là ai, một viên quản ngục, hay một ông đồ già, đều phải được nhìn ở tư
cách nghệ sĩ. Nhưng phải đến Chữ người tử tù, với nhân vật Huấn Cao, lý tưởng thẩm mỹ ấy mới đạt
đến độ kết tinh và thăng hoa. Huấn Cao là hiện thân cho lý tưởng về con người của Nguyễn Tuân, bởi
vậy, vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao là vẻ đẹp từ khát vọng, ước mơ của nhà văn nên được đẩy lên đến
mức gần như huyền thoại. Huyền thoại lan truyền khắp tỉnh Sơn để vọng vào nhà tù. Và đêm cho chữ là
huyền thoại đẹp nhất. Tất cả dệt nên một huyền thoại Huấn Cao.
2. Chi tiết nghệ thuật của Chữ người tử tù – vẻ đẹp của một cảm hứng lãng mạn bay bổng.
Nếu như chủ nghĩa cổ điển có tính mực thước, khuôn mẫu, chủ nghĩa hiện thực phê phán chú
trọng đến sự chân thực của chi tiết thì chủ nghĩa lãng mạn lại phá bỏ các giáo điều, đề cao sức tưởng
tượng, phát huy cao độ cái tôi giàu cảm xúc. Chi tiết trong văn học lãng mạn bao giờ cũng là sản phẩm
của trí tưởng tượng phong phú, một cảm hứng lãng mạn bay bổng nhằm xây dựng nên những tính cách
phi thường, những vẻ đẹp phi thường. Vì vậy, các chi tiết của Chữ người tử tù phải được nhìn từ góc độ

đó mới lý giải được bản chất và ý nghĩa của nó.
Đêm trước khi nhận “sáu tên tù án chém” trong đó có Huấn Cao đã được Nguyễn Tuân mô tả: “
Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó sủa ma. Trong
khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm
nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành
phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất
tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”. Có thể nhận thấy, những chi tiết trong đoạn
văn trên không được chú trọng ở tính xác thực của nó mà là được chú trọng ở ý nghĩa biểu tượng. Hình
ảnh khung cửa sổ có nhiều con song kẻ là để nhằm làm nổi bật một nền trời bên ngoài với những vì tinh
tú và một ngôi sao chính vị. Một bên là không gian của giam hãm thân phận, một bên là không gian của
cái đẹp đang đi vào cõi bất tử. Hình ảnh ngôi sao Hôm nhấp nháy ở đây rõ ràng là sản phẩm từ trí tưởng
tượng và cảm xúc của nhà văn, hiện thân cho cái đẹp trong niềm ngưỡng mộ và nuối tiếc của viên quản
ngục.
Thống nhất trong hệ thống hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng, chi tiết bó đuốc xuất hiện cuối tác
phẩm cũng mang tính chất đó. Đêm cuối trước khi lên kinh chịu án, Huấn Cao đã cho chữ viên quản
ngục: “Trong một không khí như khói tỏa đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi
lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn ngyên vẹn lần hồ”. Khó có thể coi đây là
một chi tiết xác thực. Xét về logic của sự thật, việc viên quản ngục xin chữ trong đề lao, lại xin chữ tên
tử tù là điều trái với bổn phận và quy định, có thể ảnh hưởng đến sự an toàn tính mạng. Bởi vậy, việc xin
chữ làm sao có thể diễn ra trong một không khí như khói tỏa của đám cháy nhà thế kia? Nhưng nếu
không có cái bó đuốc cháy sáng rừng rực ấy, sao cái đẹp có thể được thăng hoa, được tôn vinh, sao có
thể tạo nên một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”, sao có thể tạo nên dáng vóc lồng lộng phi thường
của Huấn Cao? Vậy là, hình ảnh bó đuốc và không khí đặc biệt rực rỡ ấy chỉ có thể là hình ảnh của trí
tưởng tượng của nhà văn, trong một cảm hứng ngợi ca đặc biệt. Nó, vì vậy, mang vẻ đẹp ở ý nghĩa biểu
tượng chứ không phải ở ý nghĩa tả thực.
Cái tôi tài hoa của Nguyễn Tuân đã hòa hợp với phương pháp sáng tác của chủ nghĩa lãng mạn
để tạo nên những chi tiết độc đáo, những tính cách phi thường và trên hết, một tác phẩm xuất sắc. Vì
vậy, phải từ những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn để tìm hiểu Chữ người tử tù, mới có thể lý
giải, cắt nghĩa các yếu tố của văn bản hợp lý hơn, sâu sắc hơn.
Vấn đề văn bản của truyện ngắn ‘Chữ người tử tù’

Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tao Đàn số 29 năm
1939, với tên gọi “Giòng chữ cuối cùng”. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 hiện nay sử dụng văn bản trích từ
tập “Vang bóng một thời”, xuất bản năm 1940. Giữa hai bản in này, có sự khác biệt khá lớn.
Rất tiếc, sách giáo viên và các sách tham khảo khác chưa chú ý đúng mức đến sự khác biệt này. Chúng
tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu Chữ người tử tù túc góc độ văn bản học. Vì công việc này sẽ cấp thêm
cho bạn độc một hướng thưởng thức văn tài cùng sự kì khu của Nguyễn Tuân. Đúng hơn chúng tôi sẽ kê
ra nhiều căn cứ chứng tỏ Nguyễn Tuân không chỉ bổ sung hoặc sửa đổi một số câu chữ, mà thực chất tác
giả đã viết lại tác phẩm Giòng chữ cuối cùng của mình [1].
So sánh hai văn bản, chúng tôi nhận thấy có mấy sự khác biệt sau đây:
1. Về tên truyện
Tên gọi Chữ người tử tù xuất hiện lần đâu tiên năm 1940, do chính Nguyễn Tuân đặt. Năm 1982 tuyển
tập Nguyễn Tuân ra đời, tên gọi Chữ người tử tù vẫn được giữ nguyên. Vậy sự khác biệt giữa nhan đề
của bản in đầu tiên với các bản in sau đó đã trở thành sự thực không thể phủ nhận được. Vấn đề còn lại
ở chỗ: chúng khác nhau ra sao và có ý nghĩa gì?
Tôi thấy, sự khác biệt giữa Giòng chữ cuối cùng với Chữ người tử tù không chỉ giản đơn về mặt câu
chữ, mà chủ yếu ở cách thể hiện.
Nhan đề đầu tiên đậm tính báo chí và nghiêng về thông tin. Nhan đề thứ hai thiên về bộc lộ quan niệm.
Nhan đề thứ nhất dồn trọng tâm vào “chữ”, “chữ” trở thành sự kiện; nhan đề thứ hai chú ý đến quan hệ
giữa chữ và người, giữa chữ và cảnh. Đặt nhan đề thứ nhất, Nguyễn Tuân nhấn mạnh vào tính chất của
sự kiện, đặt nhan đề thứ hai, Nguyễn Tuận tô đậm yếu tố hoàn cảnh. Mỗi nhan đề có một vẻ đẹp riêng,
xét trên phương diện nghĩa.
2. Về cốt truyện
Khi so sánh hai văn bản vừa nêu, chúng tôi thấy ở văn bản Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã lược đi rất
nhiều tình tiết, sự kiện.
Chẳng hạn, ở văn bản Giòng chữ cuối cùng có đoạn “Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả
màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt khổ sở, bây giờ đã biến đi đâu. Ở đấy, bây giờ chỉ là mặt
nước ao xuân. Bình lặng, kín đáo và êm nhẹ. Ở đấy, trong giây lát lại lập loè chút ánh sáng của con tâm
còn thơm sạch. Người ta phải lấy làm lạ hỏi tại sao ngục quan lại không có một cái đầu trâu, một cái trán
dơi và một cái mặt khỉ. Trong thế giới Khuyển Ưng, Khuyển Phệ, cái bộ mặt quắc thước, nhẹ nhõm kia
thực là một sự lạ lùng. Sự lạ lùng đó, trong bọn quan lại, người bề trên không chịu được và kẻ ty tiểu

cũng không chịu được”. Nhưng đến bản Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân chỉ giữ lại ba câu: “ Người ngồi
đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến
mất. Ở đấy chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng kín đáo và êm nhẹ”. Rõ ràng, Nguyễn Tuân đã bỏ
hai tình tiết: dao động nội tâm và đối thoại tư tưởng để làm nổi bật ngoại hình cùng tâm trạng hiện thời
của ngục quan.
Văn bản Giòng chữ cuối cùng khai thác thái độ của người bề trên và kẻ ty tiểutrước vẻ mặt lạ lùng của
viên quản ngục. Còn văn bản Chữ người tử tù thì không xét tới những phương diện đó.
Thêm ví dụ nữa. Ở văn bản Giòng chữ cuối cùng, sau khi ngục quan hỏi Huấn Cao: “Ngài muốn gì xin
cho biết”, người kể chuyện liền bình giá để giải thích hành động trả lời của ông Huấn. Qua sự bình giá
của người kể chuyện, ta thấy Huấn Cao có khẩu khí của nhân vật Từ Hải, và giọng văn Nguyễn Tuân
gần với giọng Truyện Kiều: “Ông Huấn Cao là người không chịu giam mình trong lề thói hiện tại của
một triều chính; chí ông là muốn vẫy vùng, muốn rạch sơn hà ra làm hai nửa và dựng riêng bờ cõi mình
ở một góc trời…. Dưới mắt ông Huấn, còn có ai là đáng kể nữa”. Đến Chữ người tử tù thì đoạn bình giá
ấy không còn. Tôi xem việc sửa văn của Nguyễn Tuân lần này rất hợp lí. Vì khi bỏ đoạn văn có tính chất
sáo mòn kiểu đó đi, mạch văn sẽ đỡ lộ, mà nội dung cuộc đối thoại cũng nổi bật hơn.
Cùng với việc lược đi một số sự kiện, ở văn bản Chữ người tử tù chúng tôi còn thấy Nguyễn Tuân đã
thêm rất nhiều tình tiết mới. Ví dụ, ở Giòng chữ cuối cùngtác giả viết: “để mai ta dò ý tứ hắn xem sao”,
nhưng đến Chữ người tử tù thì lại thành “để mai ta dò ý tứ lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”. Tôi nghĩ chỗ
này Nguyễn Tuân đã chúng tỏ được sự tinh tế. Bởi vì qua sự lặp lại của sự kiện, Nguyễn Tuân đã làm
nổi bật đức tính kiên nhẫn cùng tấm lòng thiết tha của ngục quan.
Giòng chữ cuối cùng viết: “…từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước
nữa…”. Chữ người tử tù giữa nguyên đoạn ấy nhưng bổ sung thêm một chi tiết nữa: “… từ hôm ấy, cơm
rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước, duy chỉ có y là không để chân vào buồng giam
ông Huấn”. Đọc nhanh thì thấy sự bổ sung này không mấy quan trọng. Nhưng nếu ngẫm kĩ, sẽ vỡ lẽ
người kể rất quan tâm tới thái độ và hành ứng xử của ngục quan trước lời lẽ khinh bạc đến điều của ông
Huấn. Người kể tái hiện kết quả tác động của câu nói đượm vẻ ngang tàng kia cũng để cụ thể hoá cái uy
riêng ở nhân vật Huấn Cao vậy.
Đoạn khác, Giòng chữ cuối cùng ghi: “Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng vẫn dài như
nghìn năm ở ngoài”. Văn bản Chữ người tử tù thêm: “Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối
cùng, đúng như lời thơ xưa, vẫn đằng đẵng như nghìn năm ở ngoài”. Chi tiết “thơ xưa” góp phần tạo

nên không khí cổ kính, vang bóng cho truyện. Còn từ “đằng đẵng” thì lại gánh vác nhiệm vụ thời gian
hoá tâm trạng nhân vật.
Chúng tôi thấy văn bản Chữ người tử tù tô đậm vẻ đẹp và giá trị của chữ Huấn Cao. Hơn nữa lại chú ý tả
bức tranh chữ đó trong tương quan với tính cách của nhân vật. Đoạn in nghiêng sau thể hiện rõ điều đó:
“Biết đọc vỡ sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một
ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp
lắm, vuông lắm. Tính ông Huấn Cao vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông
Huấn mà treo là có một vật báu trên đời.Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong
tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ…”
Giòng chữ cuối cùng không lí tưởng hoá nhân vật bằng cách trên, mà chỉ tập trung tả sở nguyện và tâm
trạng của viên quản ngục. Thử đọc lại đoạn văn ban đầu: “ Biết đọc vỡ sách thánh hiền, từ những ngày
nào, cái sở nguyện của viên quản ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu
đối do tay ông Huấn Cao viết. Y khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình mà
không biết làm thế nào mà xin được chữ”. Qua đây ta thấy, Nguyễn Tuân ngày càng chăm chút cho nhân
vật chính. Ông đã làm đẹp nhân vật của mình bằng cách ghi lại ấn tượng về nét chữ và bằng thủ pháp có
phần cường điệu. Tôi xem cái điệu đà hay cái duyên riêng của Nguyễn Tuân phần nào đã toát lên từ văn
cách luôn đẩy mọi sự vật, sự việc đến giới hạn tột cùng của nó.
Ban đầu Nguyễn Tuân viết:
“Ở đây lẫn lộn, Ta khuyên thầy Quản nên thay nghề đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa
trắng trẻo với những nét chữ rõ ràng như thế. Thoi mực, kiếm được ở đâu mà tốt thế. Thầy có thấy mùi
thơm ở chậu mực bốc lên không? Ta khuyên thầy Quản nên tìm về nhà quê mà chơi chữ. Ở đây, khó giữ
thiên liên cho lành mạnh.
Ngục quan cảm động, vái tên tù một vái và nói một câu mà giòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho
nghẹn ngào:
- Xin bái lĩnh
Viên quản ngục nhìn mặt chữ khô lần lần. Y sung sướng vì giữ được giòng chữ quý.
Y tự nhủ: “Tất cả nghề nghiệp ta, và có lẽ cả đời ta nữa, lãi chỉ ở chỗ xin được chút kỉ niệm này”.
Nhưng, một tình buồn mênh mông đã lẻn vào lòng sung sướng của quản ngục…
…Ít hôm nữa…pháp trường trong Kinh…”
(Giòng chữ cuối cùng) [2]

Về sau ông sửa chữa khá nhiều chi tiết. Xin lấy ví dụ:
“Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi treo một bức lụa
trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con
người. Thoi mực, thầy mua ở đâu màtốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơ ở chậu mực bốc lên không?
…Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy
nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất
cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo.
Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau
Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm
cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”
(Chữ người tử tù) [3]
Tôi cho Nguyễn Tuân cao tay khi quyết định sửa chữ “nghề” thành “chốn ở”. Vì rằng chữ sau được ông
lựa chọn hay hơn, thú vị hơn chữ trước. Nói cách khác, chữ trước kém tính khái quát hơn chữ sau, hàm ý
cũng nông hơn chữ sau. Chẳng hạn, chữ “nghề” mang ý nghĩa cụ thể, nhưng chữ “chốn ở” đặt trong văn
cảnh Chữ người tử tù, lại có tính chất biểu trưng rõ rệt. Trường hợp từ “kiếm được” và “mua được”, hay
giữa từ “tốt thế” với “tốt và thơm quá” cũng vậy. Chúng khác nhau về ý tứ, lẫn nhạc âm.
Ở trên chúng tôi đã chỉ ra: khi sửa chữa Giòng chữ cuối cùng Nguyễn Tuân ưa tả nét chữ, và đậm tô giá
trị của chữ. Đến đây chúng tôi xin nói thêm, Nguyễn Tuân còn quan tâm đến nội dung tư tưởng của bức
tranh chữ. Ở Giòng chữ cuối cùng, sau khi để Huấn Cao khuyên quản ngục, người kể chuyện không còn
tả cảnh xung quanh nữa. Trái lại, khi viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân lại tả cảnh lửa cháy, và “cảnh
vô ngôn” giữa ba nhân vật. Chữ người tử tù kết thúc khi ngục quan ngừng lời. Giòng chữ cuối cùng thì
tiếp tục miêu thuật tâm trạng và suy tư của nhân vật ấy.
3. Về tâm trạng, tính cách nhân vật
Truyện Chữ người tử tù phục chế không khí cổ kính của một thời còn vang bóng bằng kỹ thuật hiện đại.
Kỹ thuật ấy biểu hiện rõ nhất ở sự phân tích tâm lý nhân vật. Về mặt này, tôi xin lưu ý thêm, nếu theo
dõi tâm trạng và tính cách của từng nhân vật trong truyện thì chắc chắn chúng ta sẽ có thêm một căn cứ
nữa để hiểu rằng Nguyễn Tuân đã viết lại về cơ bản một số đoạn trong Giòng chữ cuối cùng.
Ngoài những đoạn văn thể hiện tính cách nhân vật đã dẫn ở trên. Dưới đây chúng tôi sẽ bàn thêm một số
ví dụ khác.

Thứ nhất: về tính cách viên quan coi ngục
Giòng chữ cuối cùng viết: “tôi nghĩ mà thêm tội nghiệp”. Chữ người tử tù sửa khác đi một chút: “tôi
nghĩ mà thấy tiêng tiếc”. Hoặc “Ngục quan ngồi bóp thái dương một cách băn khoăn” được sửa thành
“Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”. Không cần phải phân tích nhiều cũng đủ thấy Nguyễn
Tuân đã thay đổi cấu trúc câu văn, mà vì thế nên ý nghĩa của nó cũng biến đổi. Tôi nghĩ câu văn sau vừa
chắc, gọn vừa rõ ý hơn câu văn trước.
Chữ người tử tù chỉ viết: “Những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn”.
Nhưng Giòng chữ cuối cùng đã tả khác và có phần kỹ hơn: “Những đường nhăn nheo của một bộ
mặt khổ sở, bây giờ đã biến đi đâu. Ở đây, trong giây lát lại lập loè chút ánh sáng của con tâm còn
thơm sạch”.
Ở Giòng chữ cuối cùng quản ngục nói với Huấn Cao bằng giọng điệu vừa nhã nhặn, kiêng nể, vừa ủng
hộ e dè: “Miễn là ngài đừng làm quá. Sợ đến tai lính tráng họ biết, thì phiền luỵ riêng cho tôi. Vậy ngài
muốn gì xin cho biết. Tôi sẽ liệu”. Còn ở Chữ người tử tù, ngục quan đã biết suy nghĩ và nói năng cẩn
thận hơn: “Miễn là ngài giữ kín cho. Sợ đến tai lính tráng họ biết, thì phiền luỵ riêng cho tôi nhiều lắm.
Vậy ngài muốn gì xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”.
Chữ người tử tù quan tâm trau chuốt lời nói, điệu nói của ngục quan, nên cân nhắc chọn chữ chính xác,
ngắn gọn, chẳng hạn: “khi nghe xong câu trả lời, y chỉ lễ phéplui ra với một câu: xin lĩnh ý”. Giòng chữ
cuối cùng thì đã chọn cách diễn đạt khác để diễn cái thái độ ứng xử hạ mình của viên quan coi ngục: “…
y chỉ nhã nhặn lui ra với một câu: tôi xin lĩnh ý”. Hai chữ “lễ phép” làm nổi bật thái độ kính trọng, còn
hai chữ “nhã nhặn” làm sáng tỏ thái độ tôn trọng. “Lễ phép” nghiêng về phạm trù đạo đức. “Nhã nhặn”
chủ yếu thể hiện thái độ ứng xử của cá nhân.
Trong Chữ người tử tù, ngục quan “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô vuông” mỗi khi
người tù viết xong một chữ; còn ở Giòng chữ cuối cùng, ngục quan “lại im lặng cất những đồng tiền”
đó. Ở Chữ người tử tù, sau khi nghe lời dặn dò của ông Huấn, ngục quan chỉ chắp tay vái và nói một câu
nghẹn ngào. Còn ởGiòng chữ cuối cùng viên quản ngục đã chăm chú xem mặt chữ. Y cảm thấy sung
sướng vì thấy mình đã xin được chút kỷ niệm.
Thứ hai: về tính cách nhân vật thầy thơ lại
Nhân vật thầy thơ lại ở Giòng chữ cuối cùng được kể bằng giọng văn chân chất đến vụng về: nghe xong
chuyện cảm động của ngục quan, thầy thơ lại nói “Dạ bẩm ngài cứ yên tâm đã có tôi” rồi ù té chạy
xuống phía trại giam ông Huấn. Thầy đấm cửa thùm thùm, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng

viên quản ngục và báo tin buồn luôn thể cho ông Huấn Cao biết việc về kinh chịu án tử hình”. Đến Chữ
người tử tù, thầy thơ lại đã rút được bài học quan trọng về đi đứng, nói năng: “Thầy thơ lại cảm động,
nghe xong chuyện nói: Dạ bẩm, ngài cứ yêu tâm, đã có tôi” rồi chạy ngay xuống phía trại giam ông
Huấn, đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng viên quản ngục và ngập ngừng
báo luôn cho ông Huấn biết việc về kinh chịu án tử hình”.
Xem ra, không phải ngay từ đầu Nguyễn Tuân đã có những câu văn hay!
Thứ ba: về tính cách Huấn Cao
Giòng chữ cuối cùng tả thế này: “Huấn Cao lãnh đạm, không chấp, đã chúc mũi gông nặng xuống thềm
đá tảng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống đấy đánh thuỳnh một cái”. Chữ người tử tù đã
chọn cách diễn đạt khác để thể hiện khí phách của nhân vật này: “ Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông
nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Mặc dù sắc thái
ý nghĩa của hai chữ “lãnh đạm” và “lạnh lùng” khác nhau, nhưng việc Nguyễn Tuân dùng từ “lạnh lùng”
để diễn tả thái độ của Huấn Cao chưa chắc đã hay hơn từ “lãnh đạm”. Bởi vì chữ “lạnh lùng” thường
dùng để chỉ ai đó thiếu tình cảm trong quan hệ tiếp xúc với người, hoặc việc. Nhưng từ “lãnh đạm” thì
thiên về ý nghĩa chỉ người nào đó “tỏ ra không muốn quan tâm, không thân mật, không ân cần, hoặc
không có biểu hiện tình cảm nào cả”.
Huấn Cao trong Giòng chữ cuối cùng ăn nói rất đời thường: “Ông Huấn vẫn thản nhiên nhận rượu
thịt, coi như mình có quyền hưởng những thứ thực phẩm đó… Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà
ngươi đừng quấy rầy ta nữa”. Huấn Cao trongChữ người tử tù có khẩu khí ngang tàng hơn: “Ông Huấn
Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị
giam cầm… Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng đặt chân vào đây nữa”.
Huấn Cao trong Giòng chữ cuối cùng chủ động, quyết đoán: “nghe xong, mỉm cười”. Huấn Cao
trong Chữ người tử tù thì thận trọng, và điềm đạm: “ Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”.
Huấn Cao ở Giòng chữ cuối cùng nói năng có đôi phần chân phác: “Ta cảm cái tấm lòng thành kính của
các ngươi. Nhưng Huấn Cao ở Chữ người tử tù thì thích nói chữ: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài
của các ngươi”.
Thứ tư: về thái độ của người kể chuyện
Thái độ của người kể chuyện trong văn bản Giòng chữ cuối cùng có đôi chút khác so với thái độ của
người kể chuyện ở văn bản Chữ người từ tù. Điều này bộc lộ rõ ở cách gọi tên nhân vật. Ví dụ, thay vì
gọi Huấn Cao bằng “tên tù”, người kể ở Chữ người tử tù gọi bằng “người tù”.

Thứ năm: về thái độ của nhân vật đám đông
Giòng chữ cuối cùng kể: “Mấy tên lính, khi nói chữ “để tâm” có ý nhắc viên quan coi ngục nên tàn nhẫn
đi, chứ còn đợi gì nữa. Hình như kẻ dưới lại còn giục người trên mau mau làm điều ác. Ngục quan
chỉ điềm đạm…Bọn lính thất vọng. Sáu tên tử tù hơi ngạc nhiên về thái độ quản ngục”. Chữ người tử
tù sửa thành: “Mấy tên lính, khi nói đến tiếng “để tâm” có ý nhắc viên quan coi ngục còn chờ đợi gì
mà không giở những mánh khoé hành hạ thường lệ ra. Ngục quanung dung… Bọn lính dãn cả ra, nhìn
nhau và không hiểu. Sáu tên tử tù cứ ngạc nhiên về thái độ quản ngục”.
4. Về kết truyện
Kết truyện ở văn bản Giòng chữ cuối cùng vừa khép lại một tuyến sự kiện, vừa mở ra nhiều câu chuyện
về lối ứng xử của nhiều nhân vật, chẳng hạn: chuyện Huấn Cao lĩnh án tử hình; chuyện ngục quan đổi
chỗ ở để giữ thiên lương lành vững; chuyện thầy thơ lại có nhân cách cứng cỏi, sáng trong nhưng lạc
lõng giữa chốn tù ngục. Tôi xem cách kết thúc mở ở Giòng chữ cuối cùng vừa có khả năng thanh lọc
tâm hồn, vừa gợi cảm xúc xót thương, tiếc nuối.
Cách kết truyện ở văn bản Chữ người tử tù thiên về cuộc gặp gỡ của Huấn Cao, ngục quan và thầy thơ
lại. Họ từ chỗ xa cách, dẫn đến nghi ngờ và thường phải dò ý nhau, đã tiến dần đến chỗ hiểu nhau, rồi
quý trọng nhau và trở thành tri âm tri kỉ của nhau. Đoạn “Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau”
cho ta thấy rõ điều đó.
5. Về địa danh và lời đề từ
Văn bản Giòng chữ cuối cùng miêu tả trại giam tỉnh Đoài và thuật lời đồn của người dân tỉnh Đoài về
Huấn Cao. Trong khi văn bản Chữ người tử tù lại tả “trại giam tỉnh Sơn” và lời đồn của người dân tỉnh
này về ông Huấn.
Văn bản Giòng chữ cuối cùng có lời đề từ trích dẫn từ Truyện cổ nước Nam: “Ngày xưa, có một tên tử
tù viết chữ đại tự rất tốt…”. Lời đề từ ấy kết hợp với những đoạn giai thoại đã tạo nên một không khí
huyền thoại ngay từ mở truyện. Thế nhưng khi viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã bỏ lời đề từ đó.
Năm phương diện mà chúng tôi xem xét ở trên cùng với nhiều đoạn tác giả đặt bút sửa chữa câu chữ, đã
chứng minh được một điều rằng: cụ Nguyễn đã viết lại truyện ngắn Chữ người tử tù. Vậy nên, nếu nói
“tác phẩm Chữ người từ tù in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó được tuyển in trong tập Vang bóng
một thời” [4] thì cần phải thêm chú thích, hoặc giải thích rõ hơn nữa trên tinh thần của văn bản học để
tránh những sự ngộ nhận đáng tiếc nào đó.
Chúng tôi thấy, Nguyễn Tuân nổi tiếng hay chữ. Song không phải lúc nào hoặc ngay từ khi chấp bút ông

đã đặt được những câu hay, từ đắt. Tất nhiên, nếu không trải qua một quá trình lao động chữ nghiêm túc,
liên tục và bền bỉ, chắc hẳn Nguyễn Tuân không thể có được một văn bản thú vị đến thế.
Cảnh Huấn Cao cho chữ viên quan ngục ở cuối tác phẩm Chữ người tử
tù của Nguyễn Tuân là sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của cái
đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục nhơ bẩn; của tinh thần bất khuất
trước thái độ cam chịu nô lệ.
I/ Mở bài:
- Có thể nói chủ đề của truyện ngắn Chữ người tử tù và vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã được bộc lộ
sáng ngời trong cảnh Huấn Cao cho chữ viên quan ngục .
- Đây không đơn thuần là cảnh cho chữ , mà “đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của
cái đẹp , cái cao thượng đối với sự phàm tục nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô
lệ”
II/Thân bài:
1/ Sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối:
- Mở đầu cảnh cho chữ , Nguyễn Tuân đã viết đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.Vì :
Bình thường sẽ không có cảnh cho chữ đẹp và trang nghiêm trong chốn tù ngục tăm tối và dơ
bẩn.Nhưng ở đây lại có, vì sự chiến thắng của “thiên lương”con người .Với nghệ thuật đặc tả tài tình,
với thủ pháp đối lập sắc sảo, nhà văn đã dựng lên những cảnh tượng đối lập để nêu bật ý nghĩa sâu xa và
thâm thúy của sự chiến thắng đó.
- Cảnh cho chữ diễn ra vào lúc đêm khuya trong nhà ngục.Nhà ngục đã tối tăm, lại vào lúc đêm khuya
khoăt, càng dày đặc bóng tối.“Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của
một bó đuốc ” à ánh sáng của bó đuốc đã như xua tan,đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng
giam.Miêu tả ánh sáng của bó đuốc chính là dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Tuân, bởi lẽ :
+ Ở đây, không chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật lý, mà sâu xa
hơn , khái quát hơn, đây chính là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh của con người : đó là ánh sáng
của lương tri, của thiên lương – còn bóng tối , đó là bạo tàn và tội ác.
+ Ánh sáng của thiên lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tối của bạo tàn chính tại tù ngục này.Ánh
sáng ấy đã khai tâm, đã cảm hóa con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện.
2/ Sự chiến thắng của cái đẹp,cái cao thương đối với cái phàm tục, nhơ bẩn.
- Cái phàm tục, nhơ bẩn ở đây được hiện lên với “buồng giam chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng

nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”.
- Còn cái đẹp, cái cao thượng được nói đến sâu sắc trong hai chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng, đó
là : màu trắng tinh của phiến lụa óng và mùi thơm ở chậu mực bốc lên.Phải chăng, màu trắng của phiến
lụa tượng trưng cho sự tinh khiết, còn mùi thơm của thoi mực là hương thơm của tình người, tình
đời.
à Sự đối lập trên đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục và
nhơ bẩn .
3/Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ:
- Trong cảnh cho chữ, ta thấy giữa người cho chữ và người nhận chữ có sự thay bậc, đổi ngôi :
+ Người tử tù trở thành người chủ ( đường hòang, hiên ngang,ung dung,thanh thản ) sản sinh cái đẹp và
ban phát cái đẹp.
+ Còn bọn quản lý nhà ngục lại khúm núm, sợ sệt , sợ hãi và xúc động trước những lời khuyên dạy của
tù nhân.
III/ Kết bài:
Tóm lại, sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm
tục nhơ bẩn; của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô được khắc họa đậm nét.Cảnh cho
chữ vì thế mà như một buổi thọ giáo của những người sống đẹp và muốn sống đẹp.Lời khuyên của
Huấn Cao chẳng khác nào là lời di huấn thiêng liêng cho người lầm đường về một cách sống, một cách
thưởng thức nghệ thuật CHƠI CHỮ ĐẸP.
- Đọan văn cho chữ cuối tác phẩm góp phần thể hiện ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo sâu sắc của
tác phẩm. .
Phân tích truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân là cây bút văn xuôi trong thời kỳ cuối cùng của văn
học lãng mạn. Tác phẩm của ông thể hiện lòng yêu quý những truyền thống văn hóa dân tộc. (Vang
bóng một thời), đồn thời thể hiện nỗi u uất của cuộc đời tù đọng (Rượu bệnh).
Sau cách mạng, Nguyễn Tuân hòa mình vào cuộc kháng chiến chống Pháp, viết Đường vui, Tình chiến
dịch, Tùy bút kháng chiến và trong thời kỳ chống Mĩ ông viết Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi.
Vang bóng một thời gồm 11 truyện ngắn viết về một thời đã xa, nay chỉ còn vang bóng. Qua tập truyện,
Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự bất hòa sâu sắc đối với xã hội buổi giao thời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
ở nước ta và ca ngợi những nhà nho tài hoa không chịu vứt bỏ lương tâm, chạy theo danh lợi, vẫn giữ

thiên lương cao đẹp, Chữ người tử tù là một truyện ngắn đặc sắc trong Vang bóng một thời.
Bố cục của truyện gồm ba phần:
- Nhận được phiến trát…lần nữa xem sao rồi sẽ liệu: nỗi lo nghĩ, trăn trở của viên quản ngục khi biết
Huấn Cao sẽ bị giải đến.
- Sớm hôm sau…thì ân hận suốt đời mất: thái độ, tâm trạng của Huấn Cao và viên quản ngục.
- Buổi chiều lạnh…kể mê muội này xin bái lĩnh: nhận lời viên quản ngục, Huấn Cao cho chữ.
1. Nhân vật viên quản ngục:
Bằng một thứ văn xuôi điêu luyện, gợi được không khí của một thời đã qua, Nguyễn Tuân đã khắc họa
nét tính cách nổi bật của nhân vật viên quản ngục.
Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc. Tính cách dịu dàng và lòng biết
đánh giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục này là một âm thanh trong trẻo chen vào giữa
một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ.
Một số chi tiết khác cho thấy nhân vật quản ngục tiêu biểu cho những người, tuy không sáng tạo được
cái đẹp, nhưng biết trân trọng, thực lòng yêu quý cái đẹp, cái tài hoa.
Khi bị ông Huấn Cao xua đuổi, viên quản ngục lễ phép lui ra với một cau nói Xin lĩnh ý, cam chịu với
nỗi khổ tâm là không biết làm cách nào để xin được chữ của ông Huấn, một báu vật trên đời.
Sau khi được Huấn Cao cho chữ và khuyên bảo, viên quản ngục nức nở, nghẹn ngào, chắp tay: Kẻ mê
muội này xin bái lĩnh. Lần này là một lời hứa, một câu thề cảm động. Người đọc tin rằng ông sẽ làm
theo, về nhà quê mà ở, để không làm cái nghề cai ngục với bao nhiêu tàn nhẫn, lừa lọc hàng ngày.
2. Nhân vật Huấn Cao:
(1) Một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất.
Tự trọng, không ham quyền và ham lợi: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết
câu đối bao giờ.
Hiên ngang bất khuất:…những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng
biết có ai nữa…
(2) chí lớn không thành, coi thường gian khổ, kể cả cái chết kề bên.
Chống lại triều đình, bị bắt giam tử ngục, vẫn coi thường: Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ
nữa…
Có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng: ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt của viên
quản ngục, coi như đó là một việc cần làm trong cái hứng bình sinh, dù đang bị giam cầm.

(3) Khinh bỉ những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị
Dưới mắt ông, chủng chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở giữa cảnh
tàn nhẫn, lừa lọc, giữa một đống cặn bã.
Thái độ và ngôn ngữ nhân vật cực kì khinh bạc. Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi Huấn Cao có cần
gì nữa không, ông trả lời như tát nước vào mặt đối phương: Ngươi hỏi ta muốn gì? Tả chỉ muốn một
điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.
Khí phách đó, tư thế đó luôn luôn hiên ngang, lồng lộng giữa cái nền xám xịt của ngục tù.
(4) Con người rất mực tài hoa.
Thư pháp (phép viết chữ, nghệ thuật viết chữ Hán) vốn là thú tao nhã cảu người xưa bên cạnh cầm, kì,
thi, họa. Ông Huấn có tài viết chữ đẹp. Tính Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp (…) Chữ
ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm.
(5) Có lòng cảm thông với người biết yêu quý cái đẹp.
Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỉ: đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung
đường cho ba người bạn của ta mà thôi. Và lần này như một ngoại lệ, ông cho chữ viên quản ngục, vì ta
cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người.
Tóm lại, hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù tượng trưng cho cái đẹp khí phách, tài
hoa hòa hợp với cái đẹp của tâm hồn.
Huấn Cao xúc động thực sự khi biết được những mong ước, khát vọng sở thích cao quý của viên quản
ngục.
Cũng như nhân vật chính diện khác trong Vang bóng một thời, nhân vật Huấn Cao nhất thiết phải là một
con người tài hoa. Song ở Huấn Cao, bên cạnh cái tài hoa, còn có vẻ đẹp khí phách của một con người
có trách nhiệm đối với thời cuộc. Đó cũng là nét độc đáo của nhân vật, như một cách giãi bày niềm khao
khát theo đuổi một lí tưởng cao cả của người thanh niên Nguyễn Tuân khi bước chân vào đời (Trường
Trinh)
3. Cảnh cho chữ giữa lòng ngục tối được miêu tả bằng nghệ thuật đối lập
Cái cao đẹp (viết chữ vốn là nghệ thuật thanh cao, long trọng với lụa trắng, mực thơm, nét chữ tươi tắn)
đối lập với cái dơ bẩn (cảnh buồng nhà ngục tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa
bãi phân chuột, phân gián).
Hình ảnh kì vĩ của người tù mang gông xiềng đang đậm tô từng nét chữ đối lập với hình ảnh co ro của
thầy thơ lại run run bưng chậu mực và của viên quản ngục khùm lúm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu

ô chữ rồi sau đó vái người tử tù một cái. Hình ảnh này đã gây cho người đọc một ấn tượng kì lạ, thật là
một cảnh tượng xưa nay chưa từng có của việc cho chữ.
Cuối cùng là lời ông Huấn Cao khuyên bảo ngục quan:…thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy
nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững…đã toát lên một ý nghĩa đặc biệt.
Đó là cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị, nhưng cái đẹp không thể sống chung với tội ác. Con
người chỉ có thể xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi giữ được tâm hồn trong sáng, thanh cao.
Qua nghệ thuật viết truyện ngắn vừa cổ điển, vừa mang tính hiện đại, phân tích tinh tế về tâm lí nhân
vật, dựng cảnh sống động, kết cấu hấp dẫn. Chữ người tử tù xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu cho
phong cách hào hoa của nhà văn Nguyễn Tuân, môt cây bút có vị trí đặc biệt trong nền văn xuôi hiện
đại.
Ánh sáng và bóng tối trong "Chữ người tử tù" &"Hai đứa trẻ"
Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn tồn tại bên cạnh nhau,
bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để khắc họa
con người và sự vật trong cuộc sống.
Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình
huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật
nòng cốt "biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút
độc giả"(1) của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi
người có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những thế giới nghệ
thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách cá nhân của tác giả.
Miệt mài trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ
người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử dụng không chỉ như một nguyên tắc tạo tình
huống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng về cái đẹp trong cuộc đời. Nguyễn Tuân viết Chữ
người tử tù từ cảm hứng về một thú chơi tao nhã của người xưa, trong một tình huống đặc biệt mà người
viết chữ và người chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai nhân vật này xuất hiện trong tác
phẩm như một kiểu song trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, như ánh
sáng và bóng tối, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính vì là đối cực như ánh
sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đã hàm chứa một sự tương liên, bổ sung cho
nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như một quy luật tất yếu.

“Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, một “nghệ thuật thể hiện chữ viết và là phương
tiện để biểu lộ tâm thức của con người Thư pháp gắn với tính cách, tâm tư, tình cảm, quan niệm triết
học, nhân sinh quan của người viết”(2). Từ nét chữ, người ta có thể đọc được tính tình, nhân cách, khí
phách người viết, nó thể hiện thế giới nội tâm của người viết chữ. Vì vậy người xưa coi việc chơi chữ
như một cách di dưỡng tính tình, hun đúc tinh thần. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu nhân
cách, khí phách, tài hoa của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ thế giới nội tâm của con người này.
Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên không gian nhà tù - một
"trại giam tối om", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, "quạnh quẽ" và "tối mịt", tất cả đều nhuốm vẻ
âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìn giữ, nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại
như khắc họa rõ hơn số phận những con người quanh năm trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng
lại bị cầm tù về nhân cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi
nhân sinh mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa bóng tối
mịt mù và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một "ngôi sao chính vị muốn
từ biệt vũ trụ". Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự
tương phản có vẻ không cân đối ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất
kỳ hoàn cảnh nào, dù le lói nhưng không bao giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như
niềm tin của con người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đó là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót lại
trong tâm hồn ngục quan. Con người đang tồn tại ở một nơi mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn
kế cận nhau, ánh sáng luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối.
Trong thế giới tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng cô độc trong thế giới riêng của mình: một ngọn đèn
leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó
sủa vào những bóng ma mơ hồ huyền bí cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút Những sợi dây, những
vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là
"đang băn khoăn ngồi bóp thái dương", với một ngoại hình mòn mỏi, cô đơn "tóc hoa râm, râu đã ngả
màu"(3). Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là một đời sống tâm hồn như "một thanh âm trong
trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ(4). Nguyễn Tuân đã rất thành công khi
tạo lập bối cảnh và không khí để xây dựng tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đãi
Huấn Cao của quản ngục được đặt trong một không gian nền đầy bóng tối - nơi chỉ có vài đốm sáng
nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành
giữa hai thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến thắng, dẫn đến một thái độ ứng

xử đẹp.
Cuộc gặp gỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng lại hòa hợp vô cùng ở kết thúc của
truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, khinh thế ngạo vật bao nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn,
lễ phép, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự tác động của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một nhân cách,
vì quý trọng một tài năng, xót xa một báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng lên
từ hai phía đối lập của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ ứng xử, hai mặt của cuộc sống. Chính
công việc, môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã, con người này
hàng ngày là công cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa một nỗi cô đơn không kẻ tỏ
bày, không người tri âm tri kỷ. Một con người mà mới thoạt trông bên ngoài tưởng như là một khối
bóng tối khổng lồ nhưng rồi cái tài hoa của Nguyễn Tuân là đã biết chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi
nhất để chút ánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có cơ hội bừng sáng lên. Không những thế tác giả
còn dựng tình huống cho phút giây bừng sáng đó thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết - ở sự chiến thắng
của ánh sáng với bóng tối, trong "cảnh cho chữ", “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có".
Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi cốt truyện". Đó là
điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong cách riêng trong nghệ thuật viết
truyện của Thạch Lam.
Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng
truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và bóng tối được tác giả sử dụng trong cách xây
dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong các chi tiết nhỏ nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm.
Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian nghệ thuật đặc trưng xuất
hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đan xen giữa làng quê và thành thị.
Thời gian là một buổi chiều “êm ả như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt
đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời"(5). Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không khí buồn
buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên.
Số phận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối
cảnh phố huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời điểm khác nhau: lúc hoàng
hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lét trên chõng hàng chị Tý, trên
bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện
lên như những cái bóng vật vờ không số phận, không tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban
ngày ra, tối đến họ tập trung ở đây như để bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng là để

hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời buồn tẻ, quẩn
quanh, tù hãm của cái "ao đời bằng phẳng" hàng ngày họ nếm trải.
Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc đáo, gây nhiều ám ảnh.
Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian phố huyện ngập tràn bóng tối tăng thêm độ
mênh mông tối tăm, không khí buồn lặng của khung cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai
đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu khi chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó
càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụ bao la như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn
điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi buồn không còn
nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội, một thứ "siêu cảm giác" bởi cô
đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác với thời hiện tại Liên đang sống -
"một vùng sáng rực và lấp lánh"(6).
Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những con người nơi
đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh
sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ khi đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận
độ dày của bóng tối từ chiều đến đêm khuya mới thấy rõ giá trị của nó, thấy được độ "khát thèm được
chiếu sáng và được đổi thay"(7) của hai đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và giá trị
tư tưởng của tác phẩm vì vậy được nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở
thành một trong những truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam.
Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ vừa có
điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối
lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và
bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng.
Nhân vật viên quản ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh
chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa tượng
trưng. Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng
liêng, sang trọng đã ổn định và có giá trị như một bảo vật văn hóa của dân tộc, như một kiểu chơi đẹp,
thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp, một nhân cách đẹp Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người
tử tù của Nguyễn Tuân là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên tác phẩm cũng
được kết thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với cái xấu
cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u - là nét giống với bóng tối

trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản
chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn quanh nơi phố huyện
vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi bật ba loại ánh sáng: a) Ánh sáng nơi phố huyện -
những quầng sáng giới hạn, nhỏ nhoi, leo lét, những hột sáng tượng trưng cho số phận mòn mỏi của
những con ngưòi nơi đây; b) Ánh sáng đô thị - vừa là quá khứ, vừa là tương lai, là miền mơ ước của hai
đứa trẻ; c) Ánh sáng con tàu - ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại (ánh sáng
phố huyện) về quá khứ (ánh sáng đô thị), rồi hướng tới tương lai (ánh sáng đô thị). Từ đây ánh sáng,
bóng tối không còn mang nghĩa thực nữa mà mang nghĩa biểu tượng, biểu tượng của ước mơ, của khát
khao hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cái cao cả, bi hùng
hoặc mô tả những nhân cách lớn nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt,
ánh sámg và bóng tối cũng được sử dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến
bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết
thúc của sự chiến thắng giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái
bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông không
có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ.
Chính từ tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn chương nó đã vừa kế tục vừa
phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho xây dựng tình huống truyện, được sử dụng
như một tình tiết nghệ thuật đặc sắc. So sánh hai tác phẩm để thấy sự giống nhau và khác nhau trong
nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó từ quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa của tác giả để
thấy tài năng của nhà văn và giá trị nghệ thuật to lớn của tác phẩm. Từ đó có thể khắc họa rõ hơn diện
mạo của tác giả, tác phẩm, xác lập một cách thức tiếp cận văn bản không phải chỉ từ chính nó mà bằng
liên văn bản. Điều này không nằm ngoài mục đích khám phá các vẻ đẹp tiềm ẩn của tác phẩm văn
chương khiến nó luôn mới mẻ, lấp lánh nhiều giá trị!

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×