1
Cơ quan quản lý
: Bộ y tế - viện dinh dỡng
Cơ quan thực hiện: Trờng đại học y dợc- Đại học thái nguyên
ZY
báo cáo tổng kết đề tài
Nghiên cứu tập quán dinh dỡng
một số dân tộc thiểu số miền núi phía bắc
tác động đến tình trạng dinh dỡng
trẻ em dới 5 tuổi
Chủ nhiệm đề tài: pgs.ts Hoàng khải lập
7105
16/02/2009
Thái Nguyên, 2008
2
Cơ quan quản lý
: Bộ y tế - viện dinh dỡng
Cơ quan thực hiện: Trờng đại học y dợc- Đại học thái nguyên
ZY
báo cáo tổng kết đề tài
Nghiên cứu tập quán dinh dỡng
một số dân tộc thiểu số miền núi phía bắc
tác động đến tình trạng dinh dỡng
trẻ em dới 5 tuổi
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Hoàng Khải Lập
th ký đề tài: Ths. Nguyễn Minh Tuấn
Thái Nguyên, 2008
3
danh sách những ngời tham gia
1. PGS.TS Hoàng Khải Lập Bộ môn Dịch tễ học
2. Ths Nguyễn Minh Tuấn Bộ môn Dịch tễ học
3. Ths Nguyễn Văn Thái Bộ môn Y học cộng đồng
4. BS Lơng Thị Thu Hà Bộ môn Y học cộng đồng
5. BS Đào Ngọc Sơn Phòng Y tế Phú Lơng - Thái Nguyên
6. Ths Nguyễn Hải Sơn
Trung tâm Y tế dự phòng Sa Pa - Lào Cai
7. SV Trần Ngọc Anh Sinh viên Y6 - K36A
Cơ quan phối hợp nghiên cứu
1. Hội Dinh dỡng Việt Nam
2. Phòng Y tế huyện Phú Lơng - Thái Nguyên
3. Trung tâm Y tế dự phòng Sa Pa - Lào Cai
4
Lời cảm ƠN
Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Viện Dinh dỡng, Hội dinh
dỡng Việt Nam đã hỗ trợ về kỹ thuật và kinh phí để chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của Ban Giám hiệu
Trờng Đại học Y Dợc Thái Nguyên, Phòng Quản lý khoa học, cảm ơn sự
phối hợp của các bộ môn Y học cộng đồng, Nhi, Dịch tễ trong quá trình triển
khai nghiên cứu.
Chúng tôi xin cảm ơn Phòng Y tế huyện Phú Lơng - Thái Nguyên, Trung
tâm Y tế dự phòng Sa Pa - Lào Cai và các xã nghiên cứu đã đã tạo điều kiện
thuận lợi, giúp đỡ chúng tôi thu thập số liệu để hoàn thành đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 11 năm 2008
Chủ nhiệm đề tài
PGS.TS Hoàng Khải Lập
5
Mục lục
Nội dung Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục hình
Đặt vấn đề
1
Chơng 1- Tổng quan
3
1.1. Một số nghiên cứu về SDD trẻ em dới 5 tuổi ở Việt Nam và trên thế
giới
3
1.1.1. Một số nghiên cứu về tình trạng SDD trẻ em các nớc trên thế giới 3
1.1.2. Tình hình SDD trẻ em dới 5 tuổi ở Việt Nam 6
1.1.3. Tình trạng SDD trẻ em dới 5 tuổi khu vực miền núi 9
1.2. Một số nghiên cứu về yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dỡng ở trẻ em
dới 5 tuổi ở Việt Nam
15
Chơng 2- Đối tợng và phơng pháp nghiên cứu
20
2.1. Đối tợng nghiên cứu 20
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 20
2.3. Phơng pháp nghiên cứu 20
2.3.1. Nghiên cứu định tính 20
2.3.2. Nghiên cứu định lợng 21
2.3.3. Chỉ tiêu nghiên cứu 23
2.4. Phơng pháp thu thập số liệu 24
2.5. Phơng pháp phân tích và xử lý số liệu 24
Chơng 3- Kết quả nghiên cứu
25
3.1. Tập quán dinh dỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở miền núi
phía Bắc Việt Nam
25
3.2. Tình trạng dinh dỡng trẻ em dới 5 tuổi dân tộc Sán Chay và Kinh tại Thái
Nguyên
31
3.3. Mối liên quan giữa tập quán dinh dỡng và tình trạng dinh dỡng trẻ em
dới 5 tuổi
33
Chơng 4 - Bàn luận
42
4.1. Tập quán dinh dỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở miền núi
phía Bắc Việt Nam
42
4.2. Tình trạng dinh d
ỡng trẻ em dới 5 tuổi dân tộc Sán Chay tại Thái Nguyên 47
4.3. Yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em dới 5 tuổi 50
Kết luận
55
khuyến nghị
56
Danh mục sản phẩm khoa học của đề tài
57
Tài liệu tham khảo
58
Phụ lục
64
6
Danh mục Các chữ viết tắt
ABS
ăn bổ sung
KTXH Kinh tế xã hội
NCHS
Trung tâm quốc gia về thống kê sức khoẻ của Hoa Kỳ
(National Center for Health Statistics)
NKHH Nhiễm khuẩn hô hấp
SDD Suy dinh dỡng
THPT Trung học phổ thông
TTDD Tình trạng dinh dỡng
UNICEF
Qũi Nhi đồng Liên hiệp quốc
(United Nation Children's Fund)
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
(World Health Organization)
7
Danh Mục bảng
Bảng Tên bảng Trang
1.1 Dự báo tỷ lệ SDD đến năm 2020 ở các nớc đang phát triển 6
1.2 Tỷ lệ SDD trẻ em dới 5 tuổi tại Việt Nam từ năm 1985 - 2007 7
1.3 Tỷ lệ SDD trẻ em dới 5 tuổi ở Việt Nam phân bố theo khu vực
năm 2007
8
1.4 Tỷ lệ SDD (cân nặng / tuổi) theo khu vực năm 2007 9
1.5 So sánh tỷ lệ SDD trẻ em dới 5 tuổi ngời dân tộc thiểu số và dân tộc
Kinh năm 2004
12
3.1 Tỷ lệ SDD giữa dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số 31
3.2 Tỷ lệ SDD nhẹ cân theo nhóm tuổi và dân tộc 31
3.3 Mức độ SDD nhẹ cân theo dân tộc 32
3.4 Mối liên quan giữa kinh tế gia đình và SDD nhẹ cân của trẻ 33
3.5 Mối liên quan giữa trình độ văn hoá của mẹ và SDD nhẹ cân 33
3.6 Mối liên quan giữa dân tộc của mẹ và SDD nhẹ cân của trẻ 34
3.7 Mối liên quan giữa tuổi của mẹ khi mang thai và SDD nhẹ cân 34
3.8 Mối liên quan giữa số con trong gia đình với SDD nhẹ cân của trẻ
3.9 Mô hình hồi qui các yếu tố KTXH và gia đình với SDD nhẹ cân 35
3.10 Mối liên quan giữa bú mẹ sớm sau đẻ với SDD nhẹ cân của trẻ 36
3.11 Mối liên quan giữa thời điểm ABS với SDD nhẹ cân của trẻ 36
3.12 Mối liên quan giữa thành phần thức ABS với SDD nhẹ cân 37
3.13 Mối liên quan giữa thời gian cai sữa với SDD nhẹ cân của trẻ 37
3.14 Mô hình hồi qui về các yếu tố chăm sóc và tình trạng SDD 38
3.15 Mối liên quan giữa cân nặng lúc đẻ của trẻ với SDD nhẹ cân 39
3.16 Mối liên quan giữa tiêu chảy trong 2 tuần qua với SDD nhẹ cân 39
3.17 Mối liên quan giữa NKHH trong 2 tuần qua với SDD nhẹ cân 40
3.18 Mô hình hồi qui về các yếu tố cá nhân và tình trạng SDD 40
3.19 Mô hình hồi qui các yếu tố nguy cơ của SDD thể nhẹ cân 41
Danh Mục hình
Hình Tên hình Trang
1.3 Diễn biến SDD trong 5 năm 2001-2005 tại địa bàn nghiên cứu 32
8
Tóm tắt kết quả nghiên cứu
đề tài hợp tác khoa học và công nghệ
1. Thông tin chung
Tên đề tài: Nghiên cứu tập quán dinh dỡng một số dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc tác động đến tình trạng dinh dỡng trẻ em dới 5 tuổi
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Hoàng Khải Lập
Điện thoại: 0913 075 464 Email:
Cơ quan chủ trì: Trờng Đại học Y dợc - Đại học Thái Nguyên
Cơ quan chủ quản: Viện Dinh dỡng
Thời gian: Từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2007
2. Mục tiêu
- Tìm hiểu tập quán dinh dỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở miền
núi phía Bắc Việt Nam.
- Đánh giá tình trạng dinh dỡng trẻ em dới 5 tuổi dân tộc Sán Chay tại Thái
Nguyên.
- Phân tích mối liên quan giữa tập quán dinh dỡng và tình trạng dinh dỡng
trẻ em dới 5 tuổi dân tộc Sán Chay.
3. Nội dung chính
Sử dụng phơng pháp PRA với các kỹ thuật thu thập số liệu định tính,
nghiên cứu đã xác định đợc một số tập quán dinh dỡng của dân tộc Tày, Sán
Chay tại Thái Nguyên và dân tộc Mông, Dao tại Lào Cai. 458 trẻ em dới 5
tuổi dân tộc Sán Chay và 387 trẻ em dân tộc Kinh đợc cân đo để đánh giá
mức độ SDD. Trên cơ sở đó 1 nghiên cứu bệnh chứng đợc tiến hành trên 299
ngời mẹ và trẻ dới 5 tuổi ở mỗi nhóm và phân tích hồi qui logistic để xác
định các yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em tại khu vực nghiên cứu.
9
4. Kết quả đạt đợc
4.1. Tập quán dinh dỡng của một số dân tộc thiểu số khu vực nghiên cứu
Dân tộc Sán Chay, Tày, Mông, Dao ở khu vực miền núi phía Bắc có chế
độ ăn thiên về thực vật với nhiều cách chế biến phong phú, sử dụng nhiều gia vị
và các chất tạo màu từ thiên nhiên. Trẻ em đợc nuôi bằng sữa mẹ kéo dài và
u tiên trong ăn uống. Song còn nhiều tập quán kiêng kỵ liên quan đến tín
ngỡng đặc biệt là trong thời gian mang thai và khi trẻ mắc bệnh.
4.2. Tình trạng dinh dỡng của trẻ em dân tộc Sán Chay tại Thái Nguyên
- Tỷ lệ SDD trẻ em dân tộc Sán Chay ở mức rất cao đối với thể nhẹ cân
(40,8%) và thấp còi (43,7%), SDD thể gầy còm ở mức độ trung bình (9,8%).
- Tỷ lệ SDD nhẹ cân ở trẻ em dân tộc Sán Chay cao hơn trẻ em dân tộc Kinh
cùng khu vực (28,9%) với p<0,001. Không có sự khác biệt về SDD thấp còi và
gầy còm giữa 2 dân tộc.
4.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em dới 5 tuổi
Các yếu tố liên quan đến tập quán chăm sóc, nuôi dỡng có ảnh hởng
lớn đến tình trạng SDD trẻ em dới 5 tuổi nh ABS sớm (OR=1,85), chất lợng
thức ABS không đảm bảo (OR= 2,07), thời gian cai sữa không hợp lý (OR=
2,55).
TTDD của trẻ còn chịu ảnh hởng của điều kiện kinh tế gia đình
(OR=1,69), tình trạng NKHH cấp (OR=1,67) và cân nặng lúc đẻ (OR=2,58)
5. Sản phẩm khoa học của đề tài
- 01 đề tài đạt giải Nhì giải thởng Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam - VIFOTEX
năm 2007.
- 01 giải thởng Sinh viên nghiên cứu khoa học của Bộ Giáo dục và Đào tạo
năm 2007.
- 01 đề tài đạt giải Nhì Hội nghị KHCN tuổi trẻ các trờng Đại học Y Dợc
Việt Nam lần thứ 14 năm 2008.
- Tập quán dinh dỡng một số dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, Chuyên đề
về nguy cơ sức khoẻ và một số bệnh đặc thù ở khu vực miền núi, Nxb Y học,
Hà Nội, tr. 125 - 139.
10
Đặt vấn đề
Hiện nay, SDD vẫn bệnh thờng gặp ở trẻ em dới 5 tuổi. Tỷ lệ mắc
bệnh biểu hiện ở nhiều khu vực có khác nhau. Tình trạng SDD không chỉ ảnh
hởng tới phát triển thể chất, tâm thần và vận động của trẻ, mà còn ảnh hởng
đến nòi giống và sức lao động sau này.
Ngày nay, không chỉ riêng nớc ta mà còn nhiều nớc trên thế giới vẫn
đang phải tiếp tục đơng đầu với thách thức của tình trạng SDD ở trẻ em dới 5
tuổi. Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ớc tính có khoảng 500 triệu trẻ em bị
SDD trên toàn cầu, trong đó Châu á có 150 triệu trẻ em, chiếm 44% tổng số
trẻ em dới 5 tuổi [68]
Tại Việt Nam, trong những năm vừa qua đã đạt đợc nhiều thành tựu
trong công tác phòng chống SDD trẻ em với mức giảm SDD trung bình hàng
năm khoảng 2%. Tuy nhiên tỷ lệ SDD trẻ em nớc ta vẫn ở mức rất cao so với
ngỡng phân loại của Tổ chức Y tế thế giới (năm 2005: 25,2%) [45]. Qua khảo
sát thực tế đã cho thấy, công tác phòng chống SDD mới chỉ thực hiện tốt ở khu
vực thành thị, còn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỷ lệ SDD
trẻ em vẫn rất cao. Trong năm 2007 các tác giả Nguyễn Minh Tuấn và cộng sự
nghiên cứu tại một số xã miền núi Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ SDD là 35,7%;
SDD thể thấp còi là 41,2%; SDD thể gầy còm là 10,2% [40]. Nghiên cứu tại
một số tỉnh miền núi phía Bắc năm 2004, tác giả Hoàng Khải Lập cũng cho
thấy SDD là vấn đề sức khoẻ cộng đồng ở khu vực miền núi với tỷ lệ SDD là
37,8% [24] v.v.
Trớc tính trầm trọng của vấn đề, nên từ năm 1994 việc phòng chống SDD
đã đợc đa thành chơng trình mục tiêu quốc gia và đã có rất nhiều nghiên
cứu nhằm tìm kiếm giải pháp hạ thấp tỷ lệ SDD trẻ em. Song theo đánh giá của
chơng trình mục tiêu quốc gia về dinh dỡng, các hoạt động đó cha thực sự
có hiệu quả và bền vững vì ch
a thực hiện dựa vào cộng đồng và gia đình. Sự
tham gia, nhận thức của cộng đồng về vấn đề này còn rất hạn chế, tại nhiều
11
khu vực miền núi còn tồn tại nhiều nguy cơ dẫn đến SDD trẻ em cha đợc đề
cập đến. Các nghiên cứu này đều đa ra khuyến nghị: Cần nghiên cứu thêm các
giải pháp riêng biệt cho từng vùng sinh thái vì mức độ tác động của các yếu tố
nguy cơ ở các vùng là khác nhau. Trong các nguy cơ nói trên cần đợc đề cập
đến các tập quán dinh dỡng của đồng bào, trong đó đặc biệt là đồng bào các
dân tộc thiểu số miền núi. Chính vì vậy, nghiên cứu tập quán đinh dỡng của
đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm xác định đúng giá trị của nó trong chiến
lợc phòng chống SDD ở nớc ta là rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Từ
đó tác động đến nhận thức của ngời dân nhằm bổ sung, phát huy những tập
quán có lợi và thay đổi những tập quán bất lợi, hớng tới dinh dỡng hợp lý
cho toàn dân nh mục tiêu chiến lợc quốc gia về dinh dỡng giai đoạn 2001 -
2010 đã đề ra [4]. Nghiên cứu đợc tiến hành với mục tiêu sau:
1. Tìm hiểu tập quán dinh dỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở
miền núi phía Bắc Việt Nam.
2. Đánh giá tình trạng dinh dỡng trẻ em dới 5 tuổi dân tộc Sán Chay tại
Thái Nguyên.
3. Phân tích mối liên quan giữa tập quán dinh dỡng và tình trạng dinh
dỡng trẻ em dới 5 tuổi dân tộc Sán Chay.
12
Chơng 1
Tổng quan
1.1. Một số nghiên cứu về SDD trẻ em dới 5 tuổi ở Việt Nam và trên
thế giới
1.1.1. Một số nghiên cứu về tình trạng SDD trẻ em các nớc trên thế giới
Tình trạng dinh dỡng trẻ em dới 5 tuổi tại các nớc phát triển và đang
phát triển có sự khác biệt rất lớn. ở các nớc đang phát triển, hàng năm có
khoảng 12 triệu trẻ em dới 5 tuổi chết, nguyên nhân chủ yếu do các bệnh
nhiễm trùng, ỉa chảy, sởi, sốt rét và SDD [38].
Một số nghiên cứu ở Agaro - Tây Ethiopia năm 1996 cho thấy tỷ lệ SDD
chung cho trẻ là 54,6% còn ở trẻ gái là 43,5%. SDD thể còi cọc chung cho cả
hai giới là 18,6% [57].
Các nghiên cứu ở vùng Niamey - Nigeria (1995) ở trẻ em dới 5 tuổi
cho thấy tỷ lệ SDD cấp tính của trẻ dới 6 tháng tuổi là 17,7% và SDD mạn
tính là 28,7% [51].
Một số tác giả ở trung tâm Aganwadi phối hợp với chơng trình phát triển
trẻ em (ICDS) ở Luknow ( Bắc ấn Độ, 1997) điều tra trên 1.061 trẻ tuổi từ 1,5
đến 3,5 tuổi kết quả cho thấy tỷ lệ SDD cân nặng thấp là 67,6%. Tỷ lệ SDD
chiều cao theo tuổi 62,% còn SDD cân nặng theo chiều cao là 26,5% [50].
Năm 1995 ở Tây Kalimantan (Indonsia), một số nghiên cứu đã cho thấy
48,1% trẻ dới 5 tuổi đợc điều tra tại đây là thể SDD thể thiếu cân, 49,3% trẻ
SDD thể còi cọc. Kết quả điều tra tại Cebu - Philipin (1997) cũng cho thấy 69%
trẻ dới 24 tháng tuổi ở nông thôn và 60% ở thành thị là SDD thể còi cọc [48].
Tại Lào qua cuộc điều tra đầu tiên năm 1996 về tình trạng SDD của trẻ
em cho thấy 48% trẻ SDD thiếu protêin năng lợng (62%).
13
Theo báo cáo về dinh dỡng của UNICEF công bố ngày 2/5/2006 cho
biết trẻ em dới 5 tuổi ở các nớc đang phát triển vẫn đang bị đe doạ về tình
trạng dinh dỡng không đầy đủ. Thiếu dinh dỡng vẫn là đại dịch toàn cầu dẫn
đến một nửa số ca tử vong là trẻ em, khoảng 5,6 triệu trẻ em mỗi năm [33][65].
Các nghiên cứu của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy tỷ lệ SDD có sự
chênh lệch rõ rệt giữa vùng nông thôn và thành thị. Kết quả cuộc khảo sát về
tình hình kinh tế xã hội quốc gia ở Inđonesia năm 2003 cho thấy tỷ lệ SDD trẻ
em dới 5 tuổi ở vùng thành thị là 25%, trong khi đó ở vùng nông thôn là 30%
[60]. Tại Kenya, theo báo cáo chung năm 2003, tỷ lệ SDD ở thành thị là 13%
còn ở nông thôn là 21% [54]. Theo báo cáo của HAS năm 2003 tại vùng thành
thị của Ai Cập, tỷ lệ trẻ em bị SDD là 7%, vùng nông thôn tỷ lệ đó là 10%. Báo
cáo của UNICEF năm 2000 cũng cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em dới 5 tuổi tại Iraq
giữa vùng thành thị và nông thôn cũng có sự khác biệt, ở vùng thành thị là
15%, nông thôn 18% [62].
Mặc dù tình hình SDD trẻ em ở các nớc đang phát triển còn ở mức khá
cao. Tuy vậy, với sự nỗ lực của Chính phủ các quốc gia trong lĩnh vực phòng
chống SDD trẻ em, trong khoảng vài năm gần đây, tình hình SDD trẻ em tại
các nớc trong khu vực này đã đợc cải thiện đáng kể ở một số quốc gia.
Tỷ lệ trẻ em dới 5 tuổi bị SDD trong cộng đồng trên toàn cầu theo các
nghiên cứu mới đây cho thấy có xu thế chung là giảm, từ 34,3%(1985) xuống
còn 30,7% (1990) và năm 1995 là 29,3% [19],[20]. Tuy nhiên, sự giảm tỷ lệ
SDD trẻ em tại các nớc không nh nhau: Tại Thái Lan, tỷ lệ SDD trẻ em là
36,0% (1982), đến năm 1990 chỉ còn 13,0%. Tại Philipin tỷ lệ SDD trẻ em
dới 5 tuổi là 33,5% (1990) và giảm xuống còn 29,6% vào năm 1993 [19].
Sự giảm thể loại SDD cũng khác nhau. Tại vùng nông thôn Valencia,
một số tác giả đã tiến hành điều tra sức khoẻ cộng đồng ở trẻ dới 5 tuổi ng
ời
Châu Phi và so sánh với quần thể tham khảo NCHS cho thấy thể cân nặng thấp
so với tuổi đã giảm từ 28% xuống 19%, chiều cao theo tuổi giảm từ 33%
xuống 17%, cân nặng thấp theo chiều cao giảm từ 5% xuống còn 1% (1995).
14
Các tác giả cho rằng sự thành công này là một phần của chơng trình chăm sóc
sức khoẻ ban đầu [52].
Theo báo cáo của UNICEF cho biết chỉ có hai khu vực trên thế giới hoạt
động phòng chống SDD đang đi đúng hớng và đáp ứng đợc mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ- giảm đợc tỷ lệ trẻ em thiếu cân: Châu Mỹ La Tinh, vùng
Caribe và Đông á và Thái Bình Dơng, với tỷ lệ thiếu cân tơng ứng là 7% và
15%. Điều đáng quan tâm là Trung Quốc đạt đợc thành tích đáng khích lệ
trong việc giảm đợc trẻ em thiếu cân trung bình là 6,7% mỗi năm kể từ năm
1990. Những quốc gia khác trong khu vực nh ở Nam á, Bănglađét, ấn Độ
và Pkixitan đã không đạt đợc kết quả mong muốn tơng tự nh các nớc
khác [67].
Trên thế giới, mặc dù đã có một số quốc gia trong lĩnh vực phòng chống
SDD trẻ em, nhng trong 15 năm vừa qua các quốc gia đang phát triển trung
bình mới chỉ giảm đợc 1,5% trẻ em thiếu cân. Hiện nay, còn 27% trẻ em ở
các nớc đang phát triển bị thiếu cân. Gần 3/4 trẻ em thiếu cân trên toàn thế
giới đang sống ở 10 quốc gia và hơn một nửa trong số đó sống ở 3 nớc:
Băngladet, Ân Độ, Pakixtan. Năm 2004, tỷ lệ trẻ từ 0 - 59 tháng tuổi bị thiếu
cân ở Bănglađét là 48% [55], ấn Độ là 47% [61] và ở Pakixtan là 38% [66].
Trên cơ sở phân tích và tổng hợp các yếu tố, các khu vực, Viện nghiên
cứu chiến lợc và Chính sách dinh dỡng Quốc tế (IFPRI) đã đa ra một dự
báo tỷ lệ SDD đến năm 2020 ở các nớc đang phát triển nh sau [58].
Bảng 1.1. Dự báo tỷ lệ SDD đến năm 2020 ở các n
ớc đang phát triển (%)
Khu vực 1995 2020
Bi quan
2020
Trung bình
20020
Lạc quan
Nam á
49,3 40,3 37,4 34,5
Cận sa mạc Châu Phi 31,1 32,4 28,8 25,7
Khu vực Đông Nam á
22,9 13,1 12,8 12,6
15
Đông và Nam Phi 14,6 7,4 5,0 3,7
Mỹ La Tinh/ Caribê 9,5 4,0 1,9 -
Chung các nớc đang
phát triển
31,0 21,8 18,4 15,1
1.1.2. Tình hình SDD trẻ em dới 5 tuổi ở Việt Nam
SDD trẻ em ở Việt Nam trong những năm qua và hiện nay vẫn đang là
vấn đề phổ biến. Các kết quả nghiên cứu của Viện Dinh Dỡng từ năm 1985
đến 2007 cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em trong cộng đồng đều đã giảm đáng kể, tuy
nhiên vẫn ở mức cao hoặc rất cao so với tiêu chuẩn phân loại SDD cộng đồng ở
cả 3 thể cân nặng theo chiều cao tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo
chiều cao . Tỷ lệ SDD trẻ em dới 5 tuổi năm 1985 là 51,5%, năm 1995 là
44,9%, năm 2005 là 25,5% và tỷ lệ này là 21% vào năm 2007 [44],[45],
[46],[47]. Tuy nhiên, nếu xét theo từng vùng sinh thái khác nhau thì sự phân bố
tỷ lệ này có thể khác nhau rất nhiều, tỷ lệ SDD cao nhất hiện nay nh các vùng
miền núi Tây Nguyên, vùng miền núi Đông Bắc, tại các vùng này có nơi tỷ lệ
trẻ em SDD có thể tới 45%. Đặc biệt tại các tỉnh miền núi phía Bắc, nghiên cứu
của Hoàng Khải Lập và cộng sự năm 1996 cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em dới 5
tuổi của các dân tộc Thái (Sơn La): 45,83%; dân tộc Giáy (Lai Châu): 48,58%
và dân tộc Mờng (Hoà Bình): 44,76% [23].
Bảng 1.2. Tỷ lệ SDD trẻ em dới 5 tuổi tại Việt Nam từ năm 1985 2007
Thể SDD
Năm
Cân nặng theo tuổi
(%)
Chiều cao theo tuổi
(%)
Cân nặng theo chiều cao
(%)
1985 51,5 59,7 7,0
1990 44,9 56,5 9,3
16
1995 40,7 46,9 11,6
2000 33,8 36,5 8,6
2005 22,5 29,6 6,9
2007 21,2 33,9 7,1
* Nguồn Viện Dinh dỡng 1985 2007
Nghiên cứu của Trơng Thị Sơng và cộng sự năm (1999) qua khám lu
động cho 5.084 trẻ em, trong đó có 1.906 trẻ em dới 5 tuổi tại 18 xã thuộc 19
huyện của tỉnh Quảng Nam cho thấy tỷ lệ SDD là 42,47%, trong đó SDD nặng
và rất nặng chiếm 11,38%. Nhóm tuổi có tỷ lệ SDD thấp nhất từ 0- 12 tháng,
có tỷ lệ SDD cao nhất là từ 24-36 tháng (56,0%) [31].
Kết quả điều tra của Đinh Văn Thức và cộng sự tại hai xã Đặng Cơng
và Quốc Tuấn, huyện An Hải, Hải Phòng năm 2000 cho thấy tỷ lệ SDD thể còi
cọc chiếm 42,32%, thể gầy mòn là 4,41% và thể phối hợp còi cọc và gầy mòn
là 2,8%. Tỷ lệ suy đinh dỡng cao nhất ở nhóm tuổi 13 - 24 tháng (42,76%),
thấp nhất ở nhóm 0 - 12 tháng tuổi ( 23,42%) [37].
Sự khác nhau về tỷ lệ các thể SDD trẻ em dới 5 tuổi cũng đợc nhận
thấy ở các nghiên cứu của tác giả Lê Danh Tuyên năm 2005 khi nghiên cứu
đặc điểm dịch tễ học và một số yếu tố nguy cơ SDD thể thấp còi ở trẻ em dới
5 tuổi ở một số vùng sinh thái khác nhau ở nớc ta hiện nay, nghiên cứu đã cho
thấy trong cả 8 vùng sinh thái thì có 3 vùng có tỷ lệ SDD thấp còi xếp vào mức
trung bình là Đông Nam Bộ: 22%; đồng bằng Sông Hồng: 26,4% và đồng bằng
sông Cửu Long: 28,2%; 5 vùng có tỷ lệ SDD thấp còi xếp vào mức cao là Nam
Trung Bộ: 32% ; Đông Bắc: 36,4%; Bắc Trung Bộ: 37% ; Tây Bắc: 37,2% và
Tây Nguyên 39,2%. Không còn vùng nào có tỷ lệ SDD thấp còi ở mức rất cao
theo phân loại của WHO [41].
Các nghiên cứu tiến hành trên các trẻ em ngời dân tộc thiểu số ở khu
vực miền núi phía Bắc nh Ôn Lơng - Thái Nguyên của các tác giả Hoàng
Khải Lập và Nguyễn Minh Tuấn năm 2003 đã cho thấy: Tỷ lệ SDD trẻ em dới
17
5 tuổi ngời dân tộc Tày là 41,9%, cao hơn rất nhiều so với trẻ em ngời dân
tộc Kinh sống cùng khu vực. Tỷ lệ SDD chung tại khu vực này là 39,1%, SDD
thể thấp còi là 45,3%; SDD thể gầy còm là 9,4% [39]. Cũng các tác giả này khi
nghiên cứu tình trạng dinh dỡng và sức khoẻ bệnh tật bà mẹ và trẻ em ở tỉnh
Hà Giang năm 2004 đã cho thấy tỷ lệ suy dỡng trẻ em các dân tộc ở đây là
41,6% [24].
Bảng 1.3. Tỷ lệ SDD trẻ em dới 5 tuổi ở Việt Nam phân bố theo khu vực
năm 2007 [47]
Thể SDD
Tên vùng
Cân nặng/ tuổi Chiều cao/ tuổi Cân nặng/
Chiều cao
Toàn quốc 21,2 33,9 7,1
Đồng bằng sông Hồng 18,3 29,8 6,7
Tây Bắc 27,2 37,6 7,6
Đông Bắc 23,8 36,0 7,6
Bắc Miền Trung 25,0 36,2 7,6
Năm Trung Bộ 20,7 33,2 7,6
Tây Nguyên 31,0 42,3 7,8
Đông Nam Bộ 17,94 28,1 6,6
Đồng bằng sông Cửu Long 20,7 30,8 7,5
Nh vậy, qua các nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy trong khoảng 10
năm trở lại đây tình hình bệnh SDD em dới 5 tuổi đã có phần cải thiện. Tuy
nhiên ở các tỉnh miền núi phía Bắc, các chỉ số về tình trạng bệnh tật, SDD tại
cộng đồng hiện vẫn còn cao hơn các chỉ số chung của toàn quốc.
Nhiều yếu tố nguy cơ của bệnh cũng đã đợc đề cập đến bởi nhiều tác
giả nh yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội, còn một số yếu tố nh tập quán dinh
dỡng của các bà mẹ dân tộc ít ngời còn ít đợc đề cập đến và cần có các
nghiên cứu sâu về vấn đề này để có cơ sở góp phần làm sáng tỏ thêm về
18
nguyên nhân SDD trẻ em dân tộc thiểu số miền núi và làm cơ sở xây dựng các
giải pháp cải thiện tình trạng sức khoẻ trẻ em khu vực miền núi.
1.1.3. Tình trạng SDD trẻ em dới 5 tuổi khu vực miền núi
Trong những năm gần đây, SDD trẻ em dới 5 tuổi ở Việt Nam đang có
xu hớng giảm dần, song vẫn ở mức cao so với phân loại SDD cộng đồng của
WHO ( 20,0% - 29,0% ). Theo kết quả điều tra theo rõi tỷ lệ SDD trẻ em các
tỉnh năm 2007 của Viện Dinh Dỡng và Tổng cục thống kê thì tỷ lệ SDD trẻ
em Việt Nam hiện nay là 21,2% [47]. Trong đó cao nhất là khu vực Tây
Nguyên 31,0%, tiếp đến là khu vực miền núi Tây Bắc: 27,2% và ở vùng Đông
Bắc là 23,8%.
Bảng 1.4. Tỷ lệ SDD (cân nặng / tuổi) theo khu vực năm 2007 [47]
Số TT Khu vực Tỷ lệ SDD ( % )
1 Tây Nguyên 31,0
2 Tây Bắc 27,2
3 Bắc Trung Bộ 25,0
4 Đông Bắc 23,8
5 Nam Trung Bộ 20,7
6 Đồng bằng sông Cửu Long 20,7
7 Đồng bằng sông Hồng 18,3
8 Đông Nam Bộ 17,9
9 Toàn quốc 21,2
Kết quả bảng trên cho thấy có sự khác nhau khá lớn về tỷ lệ SDD trẻ em ở
các vùng sinh thái nớc ta. Tỷ lệ SDD ở các vùng miền núi luôn cao hơn vùng
đồng bằng, vùng nông thôn cao hơn thành thị Trong khi một số tỉnh vùng
đồng bằng tỷ lệ suy dỡng trẻ em đã giảm xuống ở mức thấp nh thành phố Hồ
Chí Minh ( 7,8% ) và Hà Nội ( 9,7% ), thì nhiều tỉnh khu vực miền núi tỷ lệ
SDD vẫn ở mức rất cao nh Đắc Nông (31,9%), KonTum (31,5%), Đắc Lắc (
30,4% ), Quảng Bình ( 30,6% ), Lai Châu ( 30,0% ) [47]. Sự chênh lệch về tỷ
lệ SDD nói trên giữa miền núi và miền xuôi cho thấy mức độ trầm trọng của
SDD trẻ em khu vực miền núi.
19
Một số nghiên cứu về tình trạng SDD trẻ em khu vực miền núi trong
những năm qua cũng cho thấy trẻ em ngời dân tộc thiểu số có nguy cơ SDD
cao hơn trẻ em ngời Kinh cùng khu vực :
Điều tra có bản sinh thái môi trờng và cơ cấu bệnh tật của nhân dân
một số vùng dân tộc vùng miền núi phía Bắc Việt Nam năm 1996 của trờng
Đại học Y khoa Bắc Thái cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em dới 5 tuổi của các dân tộc
nh sau [23]:
Dân tộc Sán Dìu ( Thái Nguyên ) : 61,63%
Dân tộc Mông ( Hà Giang ) : 54,04%
Dân tộc Thái ( Sơn La ): 45,83%
Dân tộc Tày ( Lạng Sơn ): 46,82%
Dân tộc Giáy ( Lai Châu ) : 48,58%
Dân tộc Mờng ( Hoà Binh ): 44,76%
Dân tộc Kinh : 37,54%
So với tỷ lệ SDD chung toàn quốc cùng thời điểm năm 1996 là 38,78%,
cho thấy rõ ràng tỷ lệ SDD trẻ em dân tộc ít ngời trong điều tra này cao hơn
rất nhiều.
Năm 1999, một nghiên cứu mô tả của Đàm Thị Tuyết thực hiện tại 2 xã
miền núi vùng cao : Khang Ninh và Nghiêm Loan huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn
và một xã miền núi vùng thấp : xã Nam Hoà huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên
cho thấy tỷ lệ SDD thể nhẹ cân ở khu vực này là 42,3%, thấp còi 55,8% và gầy
còm là 6,6% cao hơn số liệu chung của toàn quốc cùng thời điểm [42], Khi
phân tích theo dân tộc, tác giả này này đã cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em ngời dân
tộc thiểu số cao hơn hẳn so với nhóm trẻ dân tộc kinh tại thời điểm nghiên cứu
với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p < 0,001, cụ thể :
Dân tộc kinh: 15,8%
Dân tộc Sán Dìu: 64,6%
Dân tộc Tày : 55,6%
Dân tộc Nùng : 54,5%
20
Dân tộc Dao : 51,7%
Nh vậy, trong cùng một môi trờng sinh thái và điều kiện kinh tế xã hội
nh nhau, trẻ em các dân tộc thiểu số SDD cao gấp đôi so với trẻ em dân tộc
kinh, theo nhận định của tác giả này, sự khác nhau về tỷ lệ SDD giữa các dân
tộc là do ảnh hởng của tập quán dinh dỡng, kiến thức và cách chăm sóc trẻ
khác nhau của mỗi dân tộc.
Các nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Ngọc Diệp, Nguyễn Thị Hơng
Nga, Hạc Văn Vinh và Đàm Khải Hoàn về thực trạng SDD trẻ em dới 5 tuổi
ở một số khu vực miền núi phía Bắc [7] cũng nh nghiên cứu của Bế Văn
Cẩm, Lê Thị Nga và Nguyễn Đình Học về thực trạng bệnh tật trẻ em dân tộc
ở một số tỉnh miền núi phía Bắc [3] này đều đa đến kết luận rằng, trẻ em
khu vực miền núi chịu nhiều thiệt thòi trong chăm sóc dinh dỡng và khả năng
tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, do đó tỷ lệ SDD cao hơn với các vùng
miền khác trong cả nớc và ngay cả từng địa phơng thì tỷ lệ suy đinh dỡng
trẻ em dân tộc thiểu số cũng thờng cao hơn trẻ em dân tộc Kinh cùng khu vực.
Đánh giá tình trạng SDD dựa trên chỉ tiêu cân nặng theo tuổi, tác giả
Nguyễn Ngọc Diệp và cộng sự tiến hành nghiên cứu trên 4000 trẻ em dới 5
tuổi ở 40 xã thuộc 5 tỉnh : Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Phú Thọ và
huyện Sóc Sơn Hà Nội. Kết quả cho thấy, trẻ em ngời dân tộc thiểu số có
nguy cơ bị SDD cao gấp 1,68 lần so với trẻ em ngời kinh, tỷ lệ SDD trẻ em
ngời dân tộc thiểu số chiếm 39,6%, trong khi đó tỷ lệ này ở trẻ em ngời kinh
là 28,05% [7]. Nghiên cứu về tình trạng bệnh tật trẻ em ngời dân tộc thiểu số
tại Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu, Lạng Sơn và Thái Nguyên tác giả Bế Văn Cẩm
và cộng sự cho thấy SDD là bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất trong mô hình bệnh tật
của trẻ dới 5 tuổi với tỷ lệ chung là 44,65%, trong đó dân tộc Sán Dìu
(52,2%), dân tộc Thái (45,54%), Tày (43,01%), dân tộc Mờng (42,19% ), và
dân tộc Giáy (40,59%) [3].
Năm 2003, tác giả Nguyễn Minh Tuấn và Hoàng Khải Lập tiến hành
nghiên cứu toàn bộ trẻ em dới 5 tuổi tại xã Việt Lâm huyện Vị Xuyên, tỉnh
21
Hà Giang. Kết quả cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em ngời dân tộc thiểu số là 40,0%
cao hơn so với trẻ em ngời Kinh với tỷ lệ 26,2% [39].
Nghiên cứu tình trạng sức khoẻ, bệnh tật và dinh dỡng của phụ nữ và
trẻ em miền núi phía Bắc Việt Nam năm 2004, tác giả Hoàng Khải Lập cũng
nhận thấy có sự khác biệt về tỷ lệ SDD giữa trẻ em ngời dân tộc Kinh và trẻ
em ngời dân tộc thiểu số ở cả 3 thể : nhẹ cân, thấp còi và gầy còm.
Bảng 1.5. So sánh tỷ lệ SDD trẻ em dới 5 tuổi ngời dân tộc thiểu số và
dân tộc Kinh năm 2004 [24]
Tỷ lệ SDD (%)
Thể SDD
Dân tộc Kinh Dân tộc thiểu số
p
SDD thể nhẹ cân 27,5 40,7 < 0,05
SDD thể thấp còi 36,7 45,2 < 0,05
SDD thể gầy còm 4,6 11,6 < 0,05
Một nghiên cứu khác trong năm 2004 của tác giả Hoàng Văn Gia tiến
hành trên 603 trẻ em các dân tộc Dao, Tày, Nùng, Cao Lan và dân tộc Kinh tại
một xã xã vùng cao huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái [8] đã đa ra nhận định
tơng tự: tỷ lệ trẻ em dân tộc Kinh SDD là thấp nhất (29,0%), cao nhất là trẻ
em dân tộc Dao (36,8%), tiếp đến là dân tộc Cao Lan (33,3%).
Tại Lào Cai (2005) , Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Anh, Lê
Thị Hợp và cộng sự cho thấy tỷ lệ suy đinh dỡng trẻ em dới 5 tuổi các dân
tộc ở đây rất cao: thể nhẹ cân là 35,7%, thể thấp còi 44,3% và thể gầy còm
9,4% [1]. Khi phân tích khu vực thành thị và khu vực miền núi cao của tỉnh,
các tác giả nhận thấy ở khu vực 3 nơi chủ yếu là đồng bào dân tộc Dao và
Mông sinh sống thì tỷ lệ SDD cao hơn khu vực 1 nơi ngời Kinh sinh sống là
chính. Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân khu vực 3 là 50,0% , thấp còi 67,7% và gầy còm
14,9%, trong khi đó khu vực 1 tỷ lệ này là 13,7%; 14,5% và 5,9% tơng ứng.
22
Nh vậy, sở dĩ tỷ lệ SDD các tỉnh miền núi còn cao một phần có thể là do sự
chi phối của các thành phần dân tộc trong tỉnh.
Năm 2006, Nguyễn Thị Thuỷ đánh giá tình trạng dinh dỡng của 1035
trẻ em dới 5 tuổi tại 15 xã của huyện Võ Nhai - một huyện vùng cao, vùng
dân tộc thiểu số của tỉnh Thái Nguyên [36], nghiên cứu cho thấy tỷ lệ SDD trẻ
em dân tộc Tày là 44,9%, dân tộc Dao là 43,9% cao hơn so với trẻ em dân tộc
Kinh 28,7% và gần gấp 2 lần so với tỷ lệ chung toàn quốc năm 2006 (23,4%).
Trong cùng thời điểm trên, một nghiên cứu tại huyện Ba Bể , tỉnh Bắc
Kạn của tác giả Phou Sophal, Trần Chí Liêm, Phạm Văn Phú và Phạm Duy
Tờng cho thấy tỷ lệ SDD thể nhẹ cân ở mức rất cao (35,3%), SDD thấp còi ở
mức cao (35,3%) và SDD gầy còm ở mức trung bình (6,9%) so với ngỡng
phân loại của tổ chức Y tế thế giới [28].
ở khu vực miền núi Tây Bắc, Cao Thị Hồng Hà và cộng sự (2002)
nghiên cứu tình trạng dinh dỡng trẻ em dới 5 tuổi ở Sơn La cho thấy tỷ lệ
SDD ở vùng 3 là 42,1%, trẻ em dân tộc Mông bị SDD thể thiếu cân 53,7%, thể
thấp còi 63,1%; trẻ em dân tộc Dao bị SDD thể thiếu cân là 46,0%, thể thấp
còi 56,7% và thể gầy còm 15,6% [10]. Tại Lai Châu (2007), tác giả Phạm
Mạnh Hùng đã sử dụng phơng pháp nghiên cứu mô tả với cách chọn mẫu
chùm để đánh giá tình trạng SDD nhẹ cân của 2250 trẻ dới 5 tuổi các dân tộc
tại 10 xã thuộc 5 huyện tỉnh Lai Châu, kết quả cho thấy tỷ lệ trẻ thiếu cân cân
là 32,8%, trong đó chỉ có 20,9% SDD là trẻ em dân tộc kinh còn các dân tộc
khác tỷ lệ SDD rất cao: Dân tộc Mông (40,4%), Dao (37,9%), Hà Nhì (38,0%)
[16]
Qua tổng hợp về tình trạng SDD khu vực miền núi, vùng dân tộc thiểu số
đã cho thấy đặc điểm phân bố SDD ở khu vực miền núi cao hơn khu vực đồng
bằng, trẻ em dân tộc thiểu số SDD cao hơn trẻ em dân tộc kinh. Hầu hết các
nghiên cứu này mới chỉ quan tâm đến SDD cân nặng theo tuổi nh một chỉ số
chung về tình trạng dinh dỡng của trẻ, SDD thể thấp còi cha đợc quan tâm
đúng mức và đánh giá một cách đầy đủ. Mặt khác, số liệu hàng năm của Viện
23
dinh dỡng và Tổng cục thống kê cũng mới chỉ công bố tỷ lệ SDD theo các
vùng sinh thái để ớc tính tỷ lệ dinh dỡng trẻ em ngời dân tộc thiểu số, cha
có số liệu chính thức về tỷ lệ SDD cho từng dân tộc. Các nghiên cứu về tình
trạng SDD trẻ em ngời dân tộc thiểu số tuy không nhiều và cha thực sự đầy
đủ nhng cũng đã mô tả một cách khá rõ nét thực trạng SDD ở khu vực miền
núi và khẳng định ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng của SDD trẻ em dới 5 tuổi. Để
phản ảnh đợc tình trạng SDD cho từng dân tộc cần tiếp tục có những nghiên
cứu sâu hơn về vấn đề này trong thời gian tới.
24
1.2. Một số nghiên cứu về yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dỡng ở
trẻ em dới 5 tuổi ở Việt Nam
Các yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em có thể gián tiếp thông
qua tình trạng dinh dỡng của ngời mẹ, hoặc trực tiếp tác động đến cá thể trẻ
em. Đã có nhiều nghiên cứu khẳng định về có sự liên quan chặt chẽ giũa yếu tố
kinh tế gia đình với tình trạng SDD trẻ em. Tình trạng thu nhập thấp, thiếu ăn
trong gia đình đã ảnh hởng rất rõ rệt tới tình trạng sức khoẻ các bà mẹ, đặc
biệt là các bà mẹ đang nuôi con nhỏ. ở các khu vực miền núi, gánh nặng kinh
tế gia đình là một gánh nặng mà hầu hết phụ nữ phải gánh chịu. Bên cạnh trách
nhiệm về kinh tế gia đình, ngời phụ nữ phải có trách nhiệm nuôi dỡng và
chăm sóc con cái và phần lớn công việc khác dồn vào vai trò ngời phụ nữ. Khi
điều kiện kinh tế càng khó khăn thì ngời phụ nữ càng chịu nhiều thiệt thòi
hơn và càng chịu ảnh hởng về tình trạng dinh dỡng [38]. Kết quả nghiên cứu
tại Kiến Xơng - Thái Bình và Cai Lậy - Tiền Giang (Đặng Phơng Kiệt,
1993), Gia Lơng- Hà Bắc (Đỗ Kim Liên, 1994) và tại Công ty cao su Đồng
Phú - Sông Bé (Lê Hùng Lâm, 1995 ) cho thấy tình trạng kinh tế đói nghèo,
mức thu nhập bình quân thấp tạo nên tình trạng mẹ thiếu ăn, cơ cấu khẩu phần
mất cân đối, năng lợng các bà mẹ ăn vào không đủ so với mức năng lợng
tiêu hao trong quá trình lao động. Cũng do nghèo đói, các bà mẹ phải tăng
cờng lao động tạo thu nhập cho gia đình, trong khi đó không có điều kiện tự
chăm sóc sức khoẻ cho bản thân. Do đó càng ảnh hởng tới sức khoẻ bà mẹ,
đồng thời ngời mẹ thiếu ăn sẽ ảnh hởng đến tình trạng dinh dỡng của trẻ
[4],[29].
Một số tác giả khác nh
Phan Lê Thu Hằng và Lê Thanh Sơn (2004) bằng
kết quả nghiên cứu của mình đã cho thấy khẩu phần ăn của trẻ phụ thuộc vào
khẩu phần ăn gia đình, ở những vùng có tỷ lệ SDD trên dới 60% thì thờng có
trên 50% hộ gia đình thiếu ăn và nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDD trẻ em là
đói nghèo [12].
25
Gần đây, nghiên cứu của tác giả Lê Danh Tuyên (2005) cho thấy tỷ lệ
SDD thể thấp còi ở nhóm hộ giàu nhất là 13,1%; nhóm khá 24,1%; nhóm trung
bình 30,2% và nhóm nghèo 44,2% [41]. Các kết quả trên đã cho thấy rõ yếu tố
kinh tế gia đình có mối liên quan mật thiết với tình trạng dinh dỡng trẻ em.
Trình độ văn hoá của các bà mẹ có ảnh hởng lớn tới tình trạng dinh
dỡng của trẻ em. Mù chữ hoặc trình độ văn hoá thấp đã giới hạn khả năng của
ngời phụ nữ nâng cao chất lợng cuộc sống cũng nh thực hiện các hành vi
chăm sóc sức khoẻ cho gia đình, cho chính bản thân họ và cho con cái họ.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ tử vong và bệnh tật ở trẻ sơ sinh của những
ngời mẹ có trình độ văn hoá cao bao giờ cũng thấp hơn những ngời mẹ mù
chữ [38]. Kết quả nghiên cứu của Ninh Thị Nhung (1999) về một số yếu tố
nguy cơ liên quan tới tình trạng SDD ở trẻ em 3 xã thuộc đồng bằng Bắc Bộ và
miền núi và miền núi phía Bắc đã cho thấy có sự liên quan của yếu tố văn hoá
ngời mẹ với tình trạng dinh dỡng của trẻ em. Trình độ văn hoá thấp dẫn tới bà
mẹ thiếu kiến thức và kỹ năng nuôi con dẫn tới trẻ em nguy cơ bị SDD [26].
Do trình độ văn hoá thấp kém dẫn tới sinh đẻ nhiều đã làm giảm khả
năng chăm sóc trẻ dẫn tới nguy cơ tăng khả năng SDD ở trẻ em [29],[38]. Nhận
định này cũng đợc khẳng định trong kết quả nghiên cứu của các tác giả Đặng
Phơng Kiệt và Lê Hùng Lâm. Các tác giả này cho thấy trình độ văn hoá các
bà mẹ thấp, các bà mẹ sẽ không nhận thức đợc các kiến thức về chăm sóc sức
khoẻ cho bản thân nh các kiến thức về thai nghén, về kế hoạch hoá gia đình,
kiến thức về dinh dỡng và phòng chống bệnh tật, từ đó làm tăng khả năng mắc
bệnh của các bà mẹ mà hàng đầu là bệnh về dinh dỡng và làm tăng nguy cơ
SDD ở trẻ em [22].
Các nghiên cứu tại các tỉnh miền núi nh Thái Nguyên và Bắc Kạn của
Đàm Thị Tuyết và cộng sự 1999 cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa SDD
trẻ em dới 5 tuổi với trình độ học vấn của ngời mẹ cũng nh tình trạng kinh
tế, số con trong gia đình [42].